Chương 2. Chỉ cái một tồn tại

Chương 2. Chỉ cái một tồn tại

Price:

Read more

Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã

Thiền – Con Đường Của Nghịch Lý – Osho

Bài nói về Thiền

Tập 3

Chương 2. Chỉ cái một tồn tại


Câu hỏi thứ nhất:

Tôn giáo có thực sự đơn giản tới mức ngay cả tôi cũng có thể hiểu được không?

Có chứ, Sheela - ngay cả bạn. Nhưng khi tôi nói tôn giáo là đơn giản, tôi không ngụ ý theo nghĩa của dễ dàng. Tôi ngụ ý theo nghĩa của không rắc rối. Sự sống là không rắc rối, sự sống là không phức tạp. Mọi phức tạp được mang vào nó bởi tâm trí. Suy nghĩ là phức tạp; làm sao vô suy nghĩ có thể là phức tạp? Khi không một ý nghĩ nào còn lại trong tâm trí, làm sao nó có thể khác hơn là đơn giản? Khi gương là tuyệt đối trống rỗng, rắc rối nào có thể có đó?

Tôn giáo là đơn giản, không theo nghĩa của dễ dàng nhưng theo nghĩa của không rắc rối. Triết học là phức tạp, rất phức tạp. Nhưng tôn giáo đi tới tim đơn giản; nó không phải là nỗ lực của tâm trí, nó không triết lí. Thực ra, triết gia thấy rất khó, gần như không thể được, để trở nên có tính tôn giáo. Bạn càng có tính trí tuệ, càng khó hơn. Nhưng khó khăn tới từ bạn. Bạn mang khó khăn vào. Bạn có tâm trí rất rất khó khăn, cho nên tâm trí bạn được phản xạ trong thực tại. Bạn mang bệnh vào.

Chim và cây và mặt trời và mặt trăng - mọi thứ là tuyệt đối đơn giản. Nếu bạn đơn giản, đột nhiên có gặp gỡ: cái đơn giản gặp cái đơn giản. Cái phức tạp không thể gặp cái đơn giản, cái phức tạp chỉ có thể gặp cái phức tạp. Cho nên nếu bạn là đơn giản, đột nhiên mọi thứ là đơn giản. Mọi thứ chỉ là bí mật để mở sẵn có cho mọi người.

Bạn hỏi: Tôn giáo có thực sự đơn giản tới mức ngay cả tôi cũng có thể hiểu được không?

Nhưng từ ‘hiểu’ là không đúng. Tôn giáo không thể được hiểu - đó là cách rắc rối bước vào. Tôn giáo có thể được sống nhưng không được hiểu. Đó là cách bạn mang tâm trí phức tạp vào. Nếu bạn bắt đầu cố hiểu, chính nỗ lực để hiểu sẽ làm cho nó thành không thể hiểu được.

Một con rết đang bước đi - một trăm chân - và một con thỏ con đang ẩn trong bụi cây. Và thỏ hỏi, "Bác ơi, cháu bao giờ cũng phân vân làm sao bác điều khiển được - những một trăm chân? - cái nào bước đầu tiên, cái nào bước thứ hai, cái nào bước thứ ba, vân vân và vân vân? Và bác thì chẳng bao giờ bị phân vân? Cháu muốn hiểu. Bác nói cho cháu cái gì đó về điều đó đi."

Và con rết đã không bao giờ cảm thấy bất kì phân vân nào trước đây. Nó đã từng bước đi và bước đi. Thực ra nó chẳng bao giờ nhìn xuống. Nó chẳng bao giờ đếm chân nó. Lần đầu tiên nó bắt đầu hiểu điều đó. Nó trở nên bị liệt, nó ngã nhào. Nó bắt đầu khóc và nó nói với thỏ, "Đồ ngu! Mày đã phá huỷ tính đơn giản của tao! Giờ sẽ chẳng bao giờ có khả năng cho tao bước đi đúng!"

Tâm trí đã bước vào rồi. Bước đi là đơn giản, nhưng bạn điều khiển thế nào? Thực ra bạn không điều khiển, Thượng đế điều khiển. Việc hiểu ngụ ý bạn bắt đầu cố điều khiển. Bạn thở thế nào? Bạn đã bao giờ quan sát nó chưa? Quên con rết đi - bạn thở thế nào? Bạn điều khiển thế nào? - quá trình phức tạp thế để lấy khí vào, thế rồi phân tích khí thành các yếu tố, thế rồi chỉ chọn ô xi tống ra các bô níc: thế rồi ô xi đi vào trong máu bạn, làm thuần khiết máu, lại quay lại phổi, đem mọi rác rưởi từ tuần hoàn máu, lại tống nó ra - bạn điều khiển thế nào? Và bạn điều khiển nó thậm chí khi bạn ngủ say.

Thượng đế điều khiển, cái toàn thể điều khiển. Bạn biến đổi bánh mì thành máu thế nào? Và bạn đã làm điều đó hoàn toàn tốt - ít nhất, mãi cho tới giờ bạn đã làm điều đó. Tôi không biết về ngày mai. Làm sao bạn có năng lực điều khiển điều bí ẩn như vậy?

Bạn đã đọc các phép màu của Jesus, rằng ông ấy đã biến đá thành bánh mì - điều đó không là gì cả. Bạn biến bánh mì thành máu mọi ngày. Biến đá thành bánh mì không khó thế; biến bánh mì chết thành máu sống còn khó hơn nhiều, phép màu lớn hơn nhiều. Và bạn làm nó mọi khoảnh khắc! Một khi bạn đã nuốt rồi bạn quên tất cả về điều đó; Thượng đế chăm nom về điều đó. Khi tôi nói "Thượng đế chăm nom về điều đó," tôi ngụ ý không ai chăm nom điều đó - cái toàn thể.

Cho nên nếu bạn mang từ ‘hiểu’ này vào thế thì sẽ có rắc rối. Bạn có thể sống, bạn có thể có tính tôn giáo - xin dừng việc hiểu!

Thiền nhân có một cách nói đặc biệt về cùng điều này. Họ nói: Con bò vàng hung đỏ đi qua cửa sổ. Đầu và sừng và bốn chân đi qua. Tại sao đuôi không qua nữa?

Đuôi bị mắc kẹt - điều đó dường như là rất kì lạ. Toàn thể con bò đã đi qua - đầu, sừng và bốn chân - mọi thứ đã đi qua; chỉ mỗi cái đuôi nhỏ bị mắc lại đâu đó và không thể đi qua được. Thiền nói bạn đang khổ từ cùng cái đuôi này.

Cái đuôi còn lại đằng sau này là cái gì?

Đạo Nguyên nói:

Trong thế gian này,

đuôi bò, cái đáng phải tới từ cửa sổ,

bao giờ cũng vẫn còn ở sau

chừng nào chúng ta chưa kéo nó ra như điên.

Đuôi bò là mọi thứ chúng ta không thể hiểu được, và vậy mà chúng ta cứ cố hiểu. Đuôi bò là nỗ lực để hiểu thấu cái không thể hiểu thấu được. Đuôi bò là nỗ lực để giải huyền bí cho sự tồn tại.

Đó là điều bạn ngụ ý khi bạn nói ‘hiểu’. Bạn ngụ ý gì bởi từ 'hiểu'? - giải huyền bí cho sự tồn tại, làm sự tồn tại thành thứ rõ ràng, việc suy luận. Và nó không phải là suy luận, nó là bài ca; bạn không thể thu nó thành suy luận. Nó không phải là bài toán số học, nó thậm chí không phải là câu đố - nó là công án. Không có lời giải cho nó. Nó là điều bí ẩn, nó không thể được giải.

Cái toàn thể là không thể hiểu thấu được. Khi bạn cố hiểu thấu nó, cái đuôi lớn lên, và thế thì bạn bị mắc kẹt. Nó là trí tuệ - cái đó là cái đuôi nhỏ. Bạn có thể đi vào trong Thượng đế rất dễ dàng, nhưng cái đuôi sẽ kẹt. Sừng, đầu, chân, mọi thứ sẽ đi vào trong Thượng đế rất dễ dàng, không có vấn đề về điều đó. Nhưng cái đuôi ở bên trong bạn, ngoe nguẩy trong đầu, cái đó sẽ vẫn còn bị kẹt lại đằng sau. Nó sẽ không cho phép bạn đi. Đó là lí do tại sao người quá nhiều cái đầu rất khó đi vào trong tôn giáo. Những người của tim dễ dàng đi vào trên con đường này.

Nó là ham muốn hiểu thấu cái không thể hiểu thấu được; nó là ham muốn giải huyền bí điều bí ẩn tối thượng.

Cái tối thượng thuộc về cái toàn thể, và một phần của nó - trí tuệ - muốn hiểu cái toàn thể. Cái toàn thể có thể được hiểu bởi cái toàn thể, không bởi cái bộ phận. Cái giống có thể được hiểu bởi cái giống. Trí tuệ là phần rất nhỏ, phần rất tí hon, nhưng giả vờ là kẻ độc đoán.

Trí tuệ đã trở thành rất độc đoán. Nói nói: "Trước hết, mình phải hiểu mọi thứ. Nếu mình không hiểu, thế thì nó không có. Nếu Thượng đế không được mình hiểu, thế thì Thượng đế không thể có được. Thượng đế có thể tồn tại chỉ nếu mình cho phép. Yêu là có thể chỉ nếu mình cho phép." Nếu cái gì đó là huyền bí, trí tuệ nói, "Không, nó không có." Thà nói "Nó không có" còn hơn là chấp nhận điều bí ẩn và làm mất điều khiển của mình và việc am hiểu độc đoán của mình về sự tồn tại. Trí tuệ là bản ngã - đây là đuôi, rất nhỏ, nhưng bị mắc kẹt.

Cho nên, Sheela, đừng làm lớn đuôi lên. Nếu bạn có đuôi, thế thì sẽ khó vào trong tôn giáo. Và tôi đã không thấy đuôi trong Sheela mãi cho tới giờ, trừ phi cô ấy giấu nó ở đâu đó.

Trí tuệ có thể giải mọi vấn đề, ngoại trừ vấn đề này. Trí tuệ có câu trả lời cho mọi thứ ngoại trừ cho Thượng đế, ngoại trừ cho sự sống, ngoại trừ cho cái toàn bộ. Ở đó nó đột nhiên mất; ở đó nó là bất lực. Trước cái toàn năng trí tuệ là bất lực.

Cho nên nếu bạn không muốn hiểu, không có vấn đề gì - bạn sẽ hiểu. Nếu bạn muốn hiểu, bạn sẽ bỏ lỡ. Để tôi nhắc lại nó: nếu bạn không muốn hiểu, bạn sẽ hiểu - nó là đơn giản. Nếu bạn muốn hiểu, nó rất phức tạp, bạn sẽ bỏ lỡ nó.

Câu hỏi thứ hai:

Tôi đang dò dẫm trong bóng tối. Osho ơi, thầy không thể đưa tôi ra khỏi nó được sao?

Tôi chẳng thấy bất kì tối nào ở bất kì đâu. Chỉ bạn đang giữ mắt nhắm; tối không tồn tại. Nó là bịa đặt của bạn. Mặt trời ở mọi nơi, ánh sáng ở mọi nơi, trời là tròn trưa. Nhưng bạn liên tục giữ mắt nhắm, bạn liên tục giữ mắt khép lại - do đó có tối. Bây giờ, không ai có thể ép bạn mở mắt ra. Có vài điều bạn sẽ phải làm cho bản thân bạn.

Nếu bạn muốn hắt hơi, bạn sẽ phải hắt hơi - tôi không thể làm điều đó hộ bạn được. Nếu bạn muốn xì mũi, bản thân bạn sẽ phải làm nó - tôi không thể làm điều đó cho bạn được. Có vài điều bạn sẽ phải làm cho bản thân bạn. Đây là một trong những điều nền tảng nhất trong sự sống, và điều tốt là bạn phải tự mình làm nó. Bằng không, ngay cả trong tự do của bạn, bạn sẽ là nô lệ. Nếu tôi mang bạn ra khỏi tối của bạn, hay bất kì người nào khác, sáng đó sẽ chẳng mấy là sáng. Bạn sẽ bị cầm tù trong sáng đó - bạn đã không tới theo ý chí riêng của bạn, bạn đã không nở hoa theo ý chí riêng của bạn.

Đôi khi bạn đã không quan sát sao? Trẻ nhỏ cố mở nụ hoa một cách cưỡng bức. Nụ có thể được mở, nhưng nó không phải là hoa. Ngay cả khi nó là mở nó vẫn không là hoa; cái gì đó bị thiếu; cái gì đó có ý nghĩa lớn bị thiếu. Hồn bị thiếu. Hoa có hồn khi nó nở hoa theo ý riêng của nó, thế thì nó có sự sống. Khi bạn ép buộc nó, bạn phá huỷ nó. Mọi cái là đẹp trong sự sống chỉ có thể xảy ra, nó không thể được làm.

Có một giai thoại rất hay về một Thiền sư, Triệu Châu:

Một hôm, Triệu Châu ngã trong tuyết và gọi với ra, "Đỡ ta dậy! Đỡ ta dậy!"

Một đệ tử của Triệu Châu chạy tới và nằm ra bên cạnh ông ấy.

Triệu Châu cười, đứng dậy và nói với đệ tử này, "Đúng! Hoàn toàn đúng! Đó là điều ta đang làm cho ông nữa."

Triệu Châu đã ngã vào trong tuyết, và ông ấy kêu lên, "Đỡ ta dậy! Đỡ ta dậy!" Bây giờ không có nhu cầu! Nếu ông đã ngã, ông có thể dậy; nếu ông có thể ngã, ông có thể dậy. Cùng năng lượng làm cho bạn ngã có thể làm cho bạn dậy. Người không thể dậy được, thậm chí không thể ngã được. Cùng năng lượng đưa bạn đi lạc lối có thể mang bạn về nhà. Người không thể về nhà được cũng không thể đi lạc lối được, vì năng lượng được cần.

Cùng năng lượng làm bạn thành tội nhân có thể làm bạn thành thánh nhân. Thực ra, là tội nhân là phức tạp hơn, khó hơn, gian nan hơn. Là thánh nhân là không phức tạp thế, không gian nan thế. Và có tính tôn giáo là không gian nan chút nào. Nó là cùng năng lượng! Bạn đang giữ mắt nhắm và bạn đang đầu tư nhiều năng lượng vào việc giữ chúng nhắm lại. Cùng năng lượng đang giữ chúng nhắm, sẽ giúp chúng mở.

Đệ tử này là đệ tử thực. Anh ta hiểu Triệu Châu hoàn toàn rõ. Anh ta biết rằng anh ta đã tạo ra tình huống, anh ta đã ngã một cách có chủ định. Có thể đệ tử này đã đi qua và Triệu Châu đã ngã - nó là tình huống - và ông ấy gọi, "Đỡ ta dậy! Đỡ ta dậy!" Và bản thân đệ tử này tới và nằm xuống bên cạnh ông ấy. Anh ta không giúp ông ấy chút nào. Anh ta đang làm gì?

Anh ta không cố giúp ông ấy chút nào, anh ta đơn giản thông cảm. Anh ta đang nó, "Cái gì có thể được làm? Được, tôi là đệ tử của thầy, tôi sẽ nằm bên cạnh thầy. Tôi có thể làm cái gì khác được?"

Thầy thông cảm với bạn, thầy có từ bi. Thầy có thể làm cái gì khác? Thầy không thể cầm tay bạn - Thầy thực sẽ không cầm tay - vì cầm tay bạn là giữ bạn bao giờ cũng phụ thuộc. Đem bạn ra một cách cưỡng bức là giữ bạn bên trong tĩnh lặng. Khoảnh khắc Thầy bỏ tay ra, bạn sẽ quay lại thế giới cũ của bạn, tâm trí cũ của bạn. Nó vẫn chưa được kết thúc, nó vẫn còn bám víu bên trong bạn.

Thầy thực giúp mà không giúp. Cố thấy ra vấn đề đi - Thầy thực giúp mà không giúp. Việc giúp của Thầy là rất gián tiếp, Thầy không bao giờ tới giúp bạn một cách trực tiếp. Thầy tới theo cách rất tinh tế. Thầy bao quanh bạn như làn gió thoảng rất nhẹ, không như cơn gió mạnh. Thầy bao quanh bạn như hào quang, vô hình. Thầy giúp bạn, chắc chắn, nhưng không bao giờ chống lại bạn. Thầy giúp bạn chỉ khi bạn sẵn sàng đi, không bao giờ đi hơn một bước. Thầy không bao giờ đẩy bạn một cách bạo hành, vì bất kì cái gì được làm một cách bạo hành sẽ bị mất đi sớm hay muộn.

Cái mà bạn đã không trưởng thành theo cách riêng của bạn, bạn sẽ làm mất. Bạn không thể sở hữu cái mà bạn đã không trưởng thành trong con người của bạn theo cách riêng của bạn. Bạn trở thành người sở hữu chỉ từ sự trưởng thành riêng của bạn. Cho dù tôi có thể cho bạn chân lí, và bạn sẽ vứt nó đi, vì bạn sẽ không nhận ra nó. Tôi có thể ép buộc bạn thức tỉnh, nhưng bạn sẽ rơi vào giấc ngủ khoảnh khắc tôi mất đi, và bạn sẽ nguyền rủa tôi và bạn sẽ giận tôi, vì bạn vẫn còn đang thích các giấc mơ của bạn. Bạn đang thích những giấc mơ ngọt ngào, và ở đây một người tới và lay bạn dậy.

Đôi khi bản thân bạn đã quan sát điều đó. Bạn phải đón chuyến tầu sớm - năm giờ hay bốn giờ sáng - và bạn bảo ai đó đánh thức bạn lúc bốn giờ, và người đó đánh thức. Và bạn bực mình! Và bạn không thích ý tưởng đó chút nào, và đó là ý tưởng của bạn. Và bạn cảm thấy dường như người đó là kẻ thù của bạn.

Tôi đã nghe nói về Immanuel Kant, một triết gia Đức, rằng ông ấy rất nghiện thời gian. Ông ấy vận động gần như chiếc kim đồng hồ, đích xác theo thời gian, mọi thứ - không một phút ở đây, không một phút ở kia. Sớm, năm giờ sáng, ông ấy thường thức dậy trong cả đời ông ấy. Ông ấy có một người hầu; người hầu phải lôi ông ấy ra khỏi giường, đôi khi thậm chí đánh ông ấy - ông ấy đã trao ngần ấy quyền lực cho người hầu này. Ông ấy bảo ông này, "Cho dù ông phải đánh tôi, ông cứ đánh đi! Và tôi sẽ cho ông đánh mạnh, nhưng ông phải đánh thức tôi dậy! Đừng nghe điều tôi nói vào sáng sớm. Tôi sẽ rầy la ông và mắng ông, và tôi sẽ đe doạ ông rằng tôi sẽ đuổi ông hôm nay, nhưng ông đừng bận tâm. Bất kì cái gì tôi nói, ông cứ nghe, nhưng ông phải lôi tôi ra."

Ông ấy đã trở nên phụ thuộc nhiều vào người hầu này, tới mức người hầu gần như trở thành người chủ và người chủ trở thành người hầu. Đôi khi người hầu sẽ bỏ ông ấy. Ông ấy đã cố tìm nhiều người hầu nhưng không ai phù hợp, vì làm sao đánh được người chủ của bạn sáng sớm lúc năm giờ sáng? Cho dù nói, "Đánh tôi đi!" người hầu sẽ sợ. Người hầu cũ phải được đem tới lặp đi lặp lại.

Nhưng nó xảy ra như thế nào? Bạn có thể thích thú giấc mơ ấm cúng, hay; trời thì lạnh, và nằm dưới chăn là ấm cúng và ấm áp thế. Vâng, bạn đã quyết định trước rằng bạn sẽ dậy, nhưng giờ thì sao...? Bạn cảm thấy thích trở mình và rơi vào giấc ngủ.

Không ai có thể được thức tỉnh trước thời điểm của người đó, và không nên được đánh thức.

Và không có vấn đề gì, chỉ cố hiểu tại sao bạn giữ mắt nhắm. Thay vì đề nghị tôi ép buộc chúng mở ra, cố hiểu tại sao bạn giữ chúng nhắm lại. Cố hiểu bạn vẫn phải mơ những giấc mơ nào. Bạn đã không mơ đủ sao? Bạn đã không thực sự mơ quá đủ rồi sao? Trong hàng triệu kiếp bạn đã từng mơ. Bạn đã chẳng đạt được cái gì từ mọi việc mơ đó. Bạn vẫn còn trống rỗng, hổng hoác. Dầu vậy bạn liên tục rót đầy bản thân bạn, chất vào bản thân bạn những mơ mới, những ham muốn mới, nhưng tham vọng mới. Có mọi khả năng rằng giờ bạn đang mơ về chứng ngộ, do đó bạn đã hỏi tôi câu hỏi này.

Bạn đã mơ nhiều giấc mơ. Bây giờ mơ mới đã nảy sinh trong tâm trí bạn - trở thành phật, đạt tới chứng ngộ. Đây lại là mơ! Nếu bạn thực sự đã kết thúc với mọi việc mơ của bạn, thế thì ai đang giữ cho bạn ngủ? Mở mắt ra đi! Thực ra, sẽ không có nhu cầu ngay cả mở mắt. Một khi bạn đã hiểu rằng bạn đã mơ mọi giấc mơ có thể, mắt sẽ mở! Sẽ không cần ngay cả việc mở chúng ra, vì sẽ không có người nào nhắm chúng lại.

Nhìn nắm tay của tôi đây: nếu tôi phải giữ nắm tay tôi là nắm tay, tôi phải giữ nó, siết nó lại. Khoảnh khắc tôi bỏ việc giữ, nó bắt đầu mở ra theo cách riêng của nó. Là mở là tự nhiên, là đóng là phi tự nhiên. Để vẫn còn là đóng bạn phải đặt nhiều năng lượng vào trong nó. Để mở, không năng lượng nào được cần.

Đây là cái gì đó rất kì lạ: để vẫn còn khổ bạn cần đặt nhiều năng lượng vào trong nó. Để vẫn còn hạnh phúc, bạn không cần bất kì năng lượng nào chút nào. Hạnh phúc là không mất tiền, không chi phí; khổ bạn cần kiếm được. Nếu bạn muốn là khổ, nhiều nỗ lực sẽ được cần để vẫn còn khổ. Nó là trạng thái phi tự nhiên thế. Bàn tay nắm là điều phi tự nhiên; bàn tay mở là điều tự nhiên. Bàn tay mở không cần năng lượng, bằng không bạn sẽ rất mệt - cả ngày bàn tay là mở, nhưng đến tối bạn sẽ cảm thấy mệt đến chết. Bạn sẽ nói, "Cả ngày tôi phải giữ bàn tay mở và tôi cảm thấy rất mệt." Một ngày nào đó giữ bàn tay nắm lại cả ngày, và đến tối bạn sẽ cảm thấy thực sự mệt. Bàn tay mở là tự nhiên.

Tim mở là hiện tượng tự nhiên; người mở chỉ là tự nhiên. Người đóng là điều rất phi tự nhiên, rất nhân tạo; bạn phải để mọi năng lượng của bạn vào trong nó. Đây là quan sát của tôi về hàng nghìn người: rằng họ dồn toàn thể năng lượng của họ để giữ bản thân họ khổ. Vẫn còn trong địa ngục là đầu tư lớn. Nó là không dễ dàng, nó là rất khó. Bạn cần rất mạnh mẽ để ở trong địa ngục rất ương ngạnh, rất rắn như kim cương. Từ này 'adamant' là hay; nó bắt nguồn từ 'diamond'. Bạn phải cứng rắn như kim cương, chỉ thế thì bạn có thể vẫn còn trong địa ngục. Bằng không thì không ai chắn đường của bạn. Bạn thảnh thơi và bạn đi vào trong cõi trời - thảnh thơi là cánh cửa.

Bạn nói: Tôi đang dò dẫm trong bóng tối. Thảnh thơi đi. Và khoảnh khắc bạn thảnh thơi, mắt bạn bắt đầu mở, hệt như chiếc nụ mở ra và trở thành hoa, cũng như bàn tay nắm không còn bị giữ khi bàn tay nắm bắt đầu mở ra và trở thành bàn tay mở.

Tôi không ở đây để ép buộc điều đó. Tôi ở đây để làm rõ ràng cho bạn về cách nó xảy ra. Tôi có thể nói về quá trình của nó, tôi không thể làm nó cho bạn. Được hiểu, nó sẽ xảy ra. Đừng hi vọng theo chiều hướng sai. Tôi không hứa hẹn với bạn bất kì cái gì. Tôi đơn giản hứa một điều: rằng bất kì cái gì đã xảy ra cho tôi, tôi sẽ làm nó thành hiển nhiên cho bạn. Thế thì bạn phải đi theo.

Phật đã nói: chư Phật chỉ chỉ ra con đường, nhưng bạn phải đi, bạn phải đi theo con đường.

Câu hỏi thứ ba:

Sau khi được chứng ngộ, thiền cần thiết thế nào?

Ai đã bảo bạn rằng sau khi được chứng ngộ thiền là cần thiết? Thiền vẫn còn lại, nhưng nó không phải là cần thiết - nó trở thành tự nhiên. Trước chứng ngộ nó là cần thiết, sau chứng ngộ nó chỉ giống như việc thở. Nó hiện hữu, ở đó. Nó là tự nhiên, nó là tự phát.

Chứng ngộ ngụ ý đích xác điều đó: khi thiền đã trở thành tự nhiên. Bạn có tính thiền - không phải là đôi khi bạn ngồi trong thiền, không phải là bạn có vài giờ thiền mọi ngày

- toàn thể thời gian của bạn đều có tính thiền. Bạn đi trong thiền, bạn bước trong thiền, bạn ngồi trong thiền, bạn ăn trong thiền, bạn yêu trong thiền, bạn làm kinh doanh trong thiền. Toàn thể cuộc sống của bạn trở nên được bao quanh bởi một loại năng lượng mới. Nó không phải là cần thiết, nó đơn giản là tự nhiên.

Parinirvana đã gửi cho tôi một giai thoại nhỏ - có liên quan tới câu hỏi này.

Có một người ngồi trên một hành tinh nhỏ. Mọi ngày vào sáu giờ sáng anh ta ra lệnh một cách ngây ngô cho mặt trời mọc và mặt trời đã mọc. Vào lúc sáu giờ chiều anh ta đã ra lệnh ‘lặn’ và mặt trời lặn. Sau một lúc, mặt trời biết bài học và từ đó trở đi người này chỉ ngồi đó và quan sát.

Không ai đã học bất kì bài học nào. Cho dù không ra lệnh mặt trời sẽ mọc lúc sáu giờ.

Nếu bạn đơn giản liên tục sống một cách im lặng, ngay cả thiền cũng không được cần tới; ngay cả trước chứng ngộ nó cũng không được cần tới. Nếu bạn liên tục sống cuộc sống mạnh khoẻ, toàn tâm - không lo nghĩ gì mấy về quá khứ và không ham muốn gì mấy về tương lai - nếu bạn chỉ liên tục sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc khi nó tới, ngay cả trước chứng ngộ thiền là không cần thiết. Thiền sẽ bắt đầu xảy ra. Cũng như mặt trời mọc buổi sáng, bạn không cần ra lệnh cho nó; và đến chiều tối mặt trời lặn, bạn không cần ra lệnh cho nó.

Người đã ra lệnh này mọi ngày vào sáu giờ sáng cho mặt trời mọc và mọi tối vào sáu giờ chiều cho mặt trời lặn. Và thế rồi sau vài ngày anh ta nghĩ, "Giờ mặt trời phải đã học được bài học." Cho nên anh ta ngồi im lặng, quan sát, và mặt trời đã mọc! và anh ta quan sát, và mặt trời đã lặn! Thế là người này rất hạnh phúc, công việc của anh ta được thực hiện - mặt trời đã học được bài học.

Mọi cách thiền đều giống điều đó. Bản thân sự sống liên tục chuyển tới thiền, không nỗ lực phụ nào được cần. Nỗ lực phụ được cần vì cuộc sống của bạn không di chuyển chút nào, vì bạn đã được dạy những khái niệm hoàn toàn vô nghĩa. Vì những khái niệm sai đó bạn đã tạo ra nhiều khối chắn trong bản thân bạn, và sự sống không còn tuôn chảy, bạn không còn là dòng sông - bạn đã trở thành chiếc ao bẩn, đóng kín. Do đó, thiền được cần tới.

Thiền được cần vì bạn đã trở thành phi tự nhiên. Nếu bạn sống cuộc sống tự nhiên... và bởi ‘tự nhiên’ tôi ngụ ý: sống khoảnh khắc như nó vậy - không cố đặt bất kì cái phải nào lên nó, không cố biến đổi nó thành bất kì cái gì khác. Chỉ chấp nhận khoảnh khắc như nó vậy. Khi giận, là giận và chấp nhận nó; và không tạo ra ý tưởng về không giận. Và khi giận đã trôi qua, không hối hận. Không có gì để hối hận - nó đã là vậy! Khi trong yêu, yêu đi, và không nghĩ yêu phải thế nào. Không tra cứu tài liệu yêu, cứ để yêu tuôn chảy một cách tự nhiên.

Tôi đã nghe nói về một chiến binh lớn ở Nhật Bản, một võ sĩ đạo, một kiếm thủ rất nổi tiếng:

Một đêm khi anh ta trở nên mệt mỏi sau tranh đấu cả ngày trên cánh đồng và anh ta chỉ vừa định rơi vào giường, anh ta thấy một con chuột. Và con chuột này nhìn anh ta một cách dữ tợn! Võ sĩ đạo cố giết con chuột bằng chiếc kiếm. Anh ta là một trong những kiếm thủ giỏi nhất được biết tới, nhưng bằng cách nào đó anh cứ chém trượt. Anh ta đã chém nhiều lần, anh ta làm gẫy kiếm, và anh ta đã không thể nào giết được con chuột. Anh ta thực sự trở nên sợ: "Con chuột này dường như là rất huyền bí. Đây không phải là chuột thường!" Anh ta bắt đầu vã mồ hôi - anh ta chưa bao giờ vã mồ hôi. Anh ta đã là một chiến sĩ cả đời mình và giờ một con chuột đã đánh bại anh ta.

Anh ta chạy ra ngoài, hỏi vợ xem phải làm gì. Vợ nói, "Anh ngu thế! Anh không cần giết chuột. Anh đã bao giờ nghe nói về bất kì người nào giết chuột bằng kiếm không? Anh cứ bắt một con mèo vào bên trong đi." Và mèo được mang vào bên trong. Nó không phải là mèo thường, nó là mèo chiến binh lớn. Nó cũng đã được huấn luyện trong nhiều thứ; nó là một trong những con bắt chuột nổi tiếng nhất.

Nó tới với mọi nghệ thuật của nó, mọi sự khéo léo của nó. Nó đã thử, nhưng con chuột nào thực sự phi thường. Nó nhảy đích xác vào mắt mèo! Và mèo ta thoát ngay ra. Nó chưa bao giờ thấy con chuột nào như thế - dám tấn công cả mèo?! Và nó cũng run như chiến binh kia vậy.

Chiến binh nói, "Thế này thì quá thể!"

Thế rồi mèo của nhà vua được mời tới. Nó là Thầy mèo, rất nổi tiếng khắp cả nước; tất nhiên, nó là mèo của nhà vua mà. Con mèo của nhà vua tới và nó cũng bị đánh bại bởi con chuột này. Nó đã đi vào, cố gắng vất vả, dùng mọi kĩ năng, nhưng con chuột này là quá giỏi.

Thế rồi con mèo của nhà vua gợi ý một con mèo mà nó biết, con này chẳng nổi tiếng chút nào. "Ông đã thử với những mèo nổi tiếng, giờ ông thử với mèo thường đi... chỉ mèo thường, đơn sơ."

Chiến binh này nói, "Nhưng con mèo thường, đơn sơ này có thể làm được gì?"

Mèo của nhà vua nói, "Ông cứ thử đi. Tôi biết con mèo này. Nó bình thường thế, nó không biết thứ gì. Cả ngày nó ngủ. Nhưng có một điều về nó: lũ mèo biết, mèo của cả nước biết rằng nó rất huyền bí. Điều huyền bí là ở chỗ nó chẳng biết gì về chuột, bắt chuột, nghệ thuật đó, kĩ thuật, phương pháp luận, triết lí - nó chẳng biết gì; nó chưa bao giờ ở bất kì trường học hay cao đẳng hay đại học nào. Nó là con mèo thường, đơn sơ, nhưng chuột sợ nó thế! Bất kì chỗ nào nó ngủ... không chuột nào đã bao giờ vào nhà đó! Chỉ sự hiện diện của nó là đủ. Và nó liên tục ngủ, và không ai biết khi nào nó giết và làm sao nó giết.

"Một lần tôi đi tới con mèo đó và tôi đã hỏi, 'Nghệ thuật của bạn là gì?' Nó đơn giản nhìn tôi, và nó chẳng có lời nào để nói, và nó nhắm mắt lại và đi ngủ. Và tôi đã đánh thức nó lần nữa và hỏi, 'Nghệ thuật của bạn là gì?'

Nói nói, 'Tôi không biết. Tôi là mèo, có vậy thôi. Mèo là mèo và được ngụ ý bắt chuột. Nghệ thuật gì? Bạn đang nói điều vô nghĩa gì vậy?"'

Con mèo này được mang tới, và võ sĩ đạo này không hi vọng gì mấy vì nó thực sự là rất bình thường, hệt như bất kì con mèo hoang nào.

Nó bước vào, và chẳng có bất kì kĩ năng nào nó đơn giản bước vào, bắt con chuột và đem chuột ra.

Mọi mèo tụ tập lại với nhau và hỏi nó, "Nghệ thuật của bạn là gì?"

Và nó nói, "Tôi không biết bất kì nghệ thuật nào. Tôi là mèo! Điều đó chẳng đủ sao?"

Đó là điều tôi ngụ ý bởi việc là tự nhiên. Thiền sẽ xảy ra nếu bạn là tự nhiên - thậm chí trước chứng ngộ. Thiền là việc nở hoa tự nhiên của bạn; thiền không là cái gì đó như nghệ thuật, kĩ năng, hiệu năng. Không, không chút nào. Bạn không cần đi tới bất kì trường nào để học nó. Nhưng bạn đã bị làm hư hỏng. Chuột đã ở quanh bạn quá nhiều, và bạn đã trở nên sợ chuột - không chỉ sợ, bạn đã bắt đầu học cách bắt những con chuột này. Bạn đã trở nên rất khéo léo, nhân tạo; bạn biết bí quyết và đó là rắc rối của bạn. Tri thức của bạn là rắc rối của bạn.

Bằng không thì không có nhu cầu! Kabir không bao giờ thiền - liên tục dệt những thứ của ông ấy và đã trở nên chứng ngộ. Cái gì đã xảy ra? Người tự nhiên, làm việc của mình với toàn tâm, bị cuốn hút trong khi làm việc của mình - đã đạt tới.

Cho nên nhớ, bạn phải học thiền vì bạn đã học vài thứ sai. Để phá huỷ việc học sai đó bạn sẽ cần học. Dường như bạn bị chiếc gai đâm vào chân và bạn cần chiếc gai khác để khều nó ra. Chiếc gai kia cũng là gai như chiếc thứ nhất, nhưng nó giúp đỡ. Thiền giống như gai, vì bạn đã trở thành

nhân tạo và tính nhân tạo đó đã đi sâu vào trong con người bạn. Thiền lấy nó ra; thiền là thuốc.

Bạn có biết không? - 'thuốc' và 'thiền' bắt nguồn từ cùng gốc. Nó là thuốc. Khi ai đó ốm chúng ta cho người đó thuốc. Bạn có cho rằng thuốc cho người đó mạnh khoẻ không? Thế thì bạn sai. Thuốc đơn giản phá huỷ ốm của người đó. Không thuốc nào đã được phát minh mà có thể cho bạn mạnh khoẻ. Mạnh khoẻ ở bên ngoài thuốc, và bên ngoài thiền nữa. Thuốc đơn giản tiêu diệt bệnh. Một khi bệnh bị tiêu diệt, một khi gai đã được lấy ra, mạnh khoẻ bên trong của bạn bắt đầu lại nở hoa.

Chỉ cái nhân tạo phải bị phá bỏ. Một cách tự nhiên, với cái nhân tạo, cái gì đó nhân tạo được cần. Để phá huỷ cái gì đó giả bạn sẽ cần cái khác cũng là giả. Bạn không thể phá huỷ cái giả bằng cái thật, chúng sẽ không gặp gỡ. Làm sao bạn có thể phá huỷ cái giả bằng cái thật? Cho nên mọi kĩ thuật thiền đều hư cấu như các hư cấu khác của bạn - toàn hư cấu! Chúng giúp đỡ, chúng chắc chắn giúp đỡ; chúng giúp bạn thoát khỏi hư cấu của bạn. Nhưng ngày bạn thoát khỏi hư cấu của bạn, đột nhiên bạn nhận ra, "Thiền thậm chí là không cần thiết trước khi mình trở nên chứng ngộ." Nó đã trở thành cần thiết vì xã hội, vì các ước định, vì quá nhiều việc dạy, vì bạn đã đánh mất bản tính của bạn, Đạo của bạn.

Cho nên không có vấn đề về "Sau chứng ngộ, làm sao thiền còn cần thiết?" Không chút nào. Người ta quên thiền là gì, vì người ta biết không khoảnh khắc nào không là thiền chút nào. Người ta sống trong thiền, sự sống của người ta là thiền.

Nhưng đôi khi điều đó đã xảy ra: bạn đôi khi sẽ thấy vị phật cũng ngồi nhắm mắt. Bạn đôi khi sẽ thấy một Meera vẫn tôn thờ Krishna. Cho nên vấn đề nảy sinh trong tâm trí: "Phật đang làm gì?"

Người ta biết về Christ rằng nhiều lần ông ấy sẽ nói với các đệ tử của ông ấy, "Ông đợi đây và ta sẽ đi vào núi để thiền." Jesus làm gì khi ông ấy nói ông ấy đi thiền? Ông ấy không thiền chút nào. Ông ấy muốn đi tới đó để làm gì? Ông ấy đơn giản muốn gạt bỏ đám đông. Việc thiền đó chỉ là thủ đoạn. Ông ấy đơn giản muốn là một mình. Mệt mỏi với kẻ thù và mệt mỏi vì bạn bè. Mệt mỏi với những người chống lại ông ấy và mệt mỏi với những người là người đi theo ông ấy. Mệt mỏi, đơn giản mệt mỏi.

Điều đó gần như bác sĩ đã từng làm việc cả ngày trong bệnh viện với người ốm, cả nghìn lẻ một loại ốm bệnh, và ông ấy muốn về nhà và nghỉ ngơi. Nó giống điều đó.

Một Jesus hay một Phật liên tục ở cùng người ốm, vì chỉ có người ốm còn lại trên thế giới. Ông ấy cũng cần chút ít nghỉ ngơi.

Phật phải thiền để làm gì? Nhưng đôi khi ông ấy ngồi với mắt nhắm dưới cây Bồ đề - tĩnh lặng, theo Phật tính. Chỉ muốn có vài khoảnh khắc thuần khiết cho bản thân ông ấy. Cái đẹp đó của tính một mình, phúc lành đó của tính một mình - trong vài giây ông ấy muốn quên mọi rắc rối của mọi loại người, có vậy thôi. Lần nữa ông ấy là tươi tắn, lần nữa năng lượng đang tuôn chảy, lần nữa ông ấy sẵn sàng - lần nữa lại giúp mọi người, lần nữa lại mời mọi người, lần nữa lại khích động mọi người.

Lâu trước đây ở Trung Quốc, Thiền sư Hoàng Bá, người đã đạt tới đỉnh cao nhất của thành tựu tâm linh, đã được người ta thấy thường xuyên tôn thờ Phật với sự sùng kính lớn lao.

Bị ấn tượng bởi hoài nghi, một đệ tử hỏi, "Thầy đang hỏi xin cái gì đó từ Phật, hay tìm cái gì đó liên quan tới chân lí sao?"

Thầy đáp, "Ta chẳng có gì để hỏi xin Phật hay để tìm kiếm về chân lí."

Đệ tử này lại hỏi, "Thế thì sao thầy tôn thờ?" Thầy nói, "Ta đơn giản tôn thờ."

Bây giờ đây là một phát biểu kì lạ. Ông ấy nói, "Ta đơn giản tôn thờ." Đó là lòng biết ơn thuần khiết. Nó chẳng liên quan gì tới thiền, lời cầu nguyện. Ông ấy không có đó để hỏi xin bất kì cái gì - mọi thứ đều đã được cho. Bây giờ, khi mọi thứ đã được cho, bạn cảm thấy cực kì biết ơn - biết ơn tới mức bạn không thể đáp lại bất kì cái gì; bạn không có bất kì cái gì. Bạn có thể phục vụ bố bạn trong tuổi già của ông ấy và theo cách nào đó bạn có thể đền đáp cho mọi điều ông ấy đã làm cho bạn khi bạn còn là đứa trẻ. Bạn có thể kính trọng mẹ bạn, chăm sóc bà ấy trong tuổi già của bà ấy, và đền đáp cho bà ấy theo cách nào đó. Nhưng bạn có thể làm gì cho Thầy? Vì mọi đồng tiền bạn biết là của thế giới này - Thầy đã cho bạn cái gì đó của thế giới kia, và bạn không có đồng tiền nào của thế giới kia. Bạn sẽ làm gì với Thầy? Hoàn toàn bất lực, bạn không thể biểu lộ được lòng biết ơn của bạn theo bất kì cách nào khác.

Hoàng Bá là đúng, ông ấy nói, "Ta đơn giản tôn thờ. Ta chẳng có gì để hỏi xin Phật bất kì cái gì thêm nữa. Ông ấy đã cho ta, nhưng làm sao ta có thể quên được ông ấy?"

Cảm giác riêng của tôi là ở chỗ Hoàng Bá, dù ông ấy ở bất kì chỗ nào, vẫn phải đang tôn thờ. Đó là lòng biết ơn vĩnh hằng.

Một đệ tử khác của Phật, Văn Thù, đã trở nên chứng ngộ. Khi ông ấy trở nên chứng ngộ, Phật nói với ông ấy, "Giờ ông đi xa khỏi ta. Giờ bản thân ông có lời. Thông điệp đã trở thành sống động trong ông. Đi và lan toả nó!"

Thế là Văn Thù phải đi, nhưng với nước mắt đầy trong mắt ông ấy. Ai đó hỏi, "Sao ông khóc? Bản thân ông đã trở nên chứng ngộ, cho nên việc bám vào Phật này là gì vậy?"

Ông ấy nói, "Ai bám Phật? Nhưng chỉ thấy ông ấy, chỉ ở gần ông ấy, và chỉ cúi lạy bất kì khi nào người ta đi qua ông ấy Tôi đã đi qua ông ấy gần cả nghìn lần một ngày, và mỗi

lần tôi đều cúi lạy. Tôi có thể làm gì khác được? Bây giờ tôi sẽ ở xa xôi."

Cho nên ai đó đã báo lại cho Phật rằng Văn Thù đã khóc. Phật gọi ông ấy tới và Phật nói, "Ông có thể cúi lạy từ bất kì chỗ nào." Và tương truyền Văn Thù đã sống trong hai mươi năm, nhưng mọi ngày - sáng, tối, trưa, bất kì khi nào ông ấy có thời gian, ông ấy đều cúi lạy theo hướng Phật đang đi. Dù Phật đi bất kì chỗ nào ông ấy đều sẽ cúi lạy.

Các đệ tử của ông ấy nói, "Giờ Thầy là Phật theo quyền riêng của Thầy! Sao Thầy liên tục làm điều này?"

Và ông ấy sẽ nói, "Làm sao ta có thể dừng làm điều đó được? Nó đã trở thành tự nhiên thế."

Đó là lòng biết ơn đơn giản, chẳng vì lí do nào cả. Có vài điều được làm chẳng vì lí do nào cả. Không phải mọi thứ đều được làm chỉ vì có lí do. Không thể cám ơn Thầy của bạn ngay cả khi bạn đã trở nên được chứng ngộ.

Một sư hỏi Bách Trượng Huệ Hải, một Thiền sư khác, "Biến cố huyền bí nhất trên thế gian là gì?"

Bách Trượng trả lời, "Ta ngồi đây tất cả bởi bản thân ta. Đây là biến cố huyền bí nhất trên thế gian. Ta ngồi đây tất cả bởi bản thân ta."

Nhưng đây là thiền! đây là lời cầu nguyện, đây là tôn thờ! Gọi nó là bất kì cái gì bạn muốn gọi nó, nhưng đây là điều duy nhất theo sau chứng ngộ: "Ta ngồi đây tất cả bởi bản thân ta."

Câu hỏi thứ năm:

Tại sao tôn giáo này không thể hiểu được cách tiếp cận tới thực tại của tôn giáo khác? Tại sao có nhiều xung đột và hiểu lầm thế?

Không có hiểu lầm giữa một Phật và một Christ, không có hiểu lầm giữa một Mahavir và một Krishna, không có hiểu lầm giữa một Zarathustra và một Mohammed. Đây là những người tôn giáo.

Có hiểu lầm giữa người Mô ha mét giáo và người Hindu và người Jain và người Ki tô giáo, nhưng đây không phải là những người tôn giáo. Đây chỉ là tính tôn giáo rởm; họ tin họ có tính tôn giáo nhưng họ không có tính tôn giáo. Làm sao có thể có hiểu lầm khi tôn giáo đã nảy sinh trong tim bạn? Tôn giáo làm cho bạn tự do thế khỏi mọi loại ý kiến. Làm sao có thể có bất kì hiểu lầm nào? Bạn có thể hiểu lầm khi bạn mang ý kiến trong tâm trí bạn. Khi mọi ý kiến đã bị bỏ đi và tâm trí đã đạt tới im lặng, làm sao có thể có bất kì xung đột, hiểu lầm nào?

Một Phật ngồi, và bên cạnh ông ấy một Christ ngồi, có thể có bất kì tranh cãi nào không? Không có khả năng nào. Làm sao hai im lặng có thể tranh cãi được? Vâng, nếu bạn đang ngồi bên cạnh vị phật có khả năng về mọi loại tranh cãi.

Nhưng Phật ngồi bên cạnh Christ, không có vấn đề về tranh cãi. Họ chẳng có gì để đề nghị, họ chẳng có gì để phát biểu. Họ sẽ nhìn vào mắt nhau và sẽ thấy cái vô hạn - hai tấm gương đối diện nhau sẽ phản xạ lẫn nhau theo hàng triệu cách, nhưng không cái gì khác sẽ nảy sinh.

Nhưng với những người nghĩ họ có tính tôn giáo và họ không vậy, có hiểu lầm; họ là có thể hiểu được. Nếu họ không có tính tôn giáo, điều đó sẽ là điều huyền bí, vì chúng ta nói trong các ngôn ngữ.

Hồi giáo có ngôn ngữ này, Ki tô giáo có ngôn ngữ khác, và việc hiểu lầm nhất định có đó vì những ngôn ngữ đó là rất khác nhau - các biểu dụ là khác, các biểu tượng là khác.

Chẳng hạn, không Phật tử nào dùng từ 'Thượng đế'. Người Ki tô giáo dùng từ 'Thượng đế'; đó là chính trung tâm của toàn thể tôn giáo của họ. Bây giờ, nhất định có hiểu lầm. Người Ki tô giáo nghĩ Phật tử là người vô thần, và Phật tử nghĩ người Ki tô giáo chỉ nhân tính hoá - nghĩ về Thượng đế trong hình ảnh của con người, chỉ các phóng chiếu. Nhưng điều này xảy ra trong cuộc sống hàng ngày nữa. Ngay cả khi bạn nói cùng ngôn ngữ, bạn vẫn bị hiểu lầm.

Ngôn ngữ không phải là phương tiện rất tốt cho liên lạc trao đổi. Nghe vài câu chuyện.

Vụ li dị đầu tiên ở Calcutta đã có một số thông tin phụ buồn cười. Ông luật sư cho người thưa kiện để khách hàng của mình vào chỗ làm chứng và hỏi anh ta, "Bây giờ, như tôi hiểu nó, mọi đêm khi ông trở về từ công việc, thay vì thấy vợ một mình và đợi ông, ông thấy một người đàn ông khác trốn trong buồng nhỏ?"

"Vâng, điều đó đúng."

"Và tất nhiên điều này làm cho ông buồn tủi và bất hạnh không thể nói ra được, phải không?"

"Tất nhiên nó vậy rồi," người bị tổn thương đáp lại. "Tôi chưa bao giờ có bất kì phòng nào để treo quần áo của tôi.”

Mọi người có cách hiểu riêng của họ. Lời có nghĩa riêng của chúng cho từng người. Mọi ngôn ngữ đều rất, rất có tính cá nhân.

Anh chồng đem về nhà một con khỉ và hai con thỏ vào phòng mà anh ta và vợ đang sống. Cô ấy có vẻ mất tinh thần. "Chúng nó sẽ ăn cái gì?"

"Cùng thức ăn như chúng ta ăn," anh chồng nói. "Chúng sẽ ngủ ở đâu?"

"Dưới chân giường."

"Về mùi hôi thì sao?" cô ấy phản đối.

"Chúng sẽ quen với điều đó," anh ta trả lời, "như anh đã quen."

Bạn quan sát nó, và bạn sẽ thấy những hiểu lầm này ở mọi nơi. Sáng tới tối, bạn quan sát, và bạn sẽ thấy cả nghìn lẻ một chỗ mà mọi người nói cùng ngôn ngữ và nói về thực tại bình thường, liên tục hiểu lầm lẫn nhau, liên tục làm lời ngụ ý cái gì đó rất cá nhân.

Người đàn bà trang trại lên xe bus với chín đứa trẻ và từ chối trả tiền xe cho bất kì đứa nào trong chúng.

"Ba đứa này bẩy tuổi," bà ấy nói, "ba đứa này năm tuổi, và ba đứa này hai tuổi."

Người lái xe bus kinh ngạc nhìn bà ấy. "Bà ngụ ý bảo tôi bà được ba đứa mọi lần sao?'

"Khiếp, không đâu. Đôi khi chúng tôi chẳng được đứa nào."

Ngôn ngữ truyền đạt và vậy mà không truyền đạt. Nói gì tới thực tại khác - điều không ai biết, và về điều những người biết giữ im lặng? Những người biết liên tục nói rằng không cái gì có thể được nói về nó. Nhưng với những người đã không biết, bản đồ nào đó phải được vẽ ra, lời nào đó phải được tạo ra, cấu trúc nào đó phải được làm ra, hướng dẫn nào đó phải được trao cho. Những hướng dẫn đó là điều Hindu giáo là gì, Hồi giáo là gì, Ki tô giáo là gì. Những người khác nhau đã kéo họ theo những cách khác nhau.

Chẳng hạn, nếu năm người được phái vào trong rừng để mô tả khu rừng và họ quay lại, bạn có nghĩ họ sẽ mang về cùng thông báo và cùng bức tranh từ cùng khu rừng không? Không, hoạ sĩ sẽ mang bức tranh, và nhà thơ sẽ mang bài thơ. Và nhà sinh học sẽ mang cái gì đó khác, nhà hoá học lại mang cái gì đó khác, và tiều phu lại mang cái gì đó khác. Và tất cả họ sẽ tới từ cùng một khu rừng, họ sẽ tới thăm cùng một chỗ, có thể cùng nhau. Nhưng dầu vậy, khi họ mang thông báo của họ, nó sẽ khác.

Phật và Mohammed và Christ đi vào trong cùng sự thuần khiết, trong cùng việc toả sáng, nhưng khi họ quay lại Phật nói theo cách của ông ấy - con vua có cách nói riêng của ông ấy. Christ nói theo cách của ông ấy - con của thợ mộc có cách nói riêng của ông ấy. Họ là khác nhau hoàn toàn. Con trai của thợ mộc phải nói ngôn ngữ của thợ mộc. Đó là lí do tại sao ngôn ngữ của Jesus là rất rất trần trục và rất có tác động.

Ngôn ngữ của Phật là rất trừu tượng; chỉ vài người có thể hiểu được ngôn ngữ của Phật - rất phức tạp, rất văn hoá, rất giáo dục. Jesus là vô giáo dục, chưa bao giờ tới bất kì trường nào, chỉ biết cách thức mọi người, những người bình thường nói trong cuộc sống bình thường. Nhưng đó là cái đẹp của ngôn ngữ của ông ấy - rất sinh động. Ngôn ngữ càng trở nên có tính văn hoá, nó càng xa khỏi cuộc sống. Nó có thể được hiểu chỉ bởi những học giả lớn. Nhưng ngôn ngữ của Jesus có thể được bất kì người nào hiểu - người lao động, nông dân, ngư dân. Do đó có hấp dẫn của Ki tô giáo trên khắp thế giới với mọi người nghèo.

Người giầu không trở nên quan tâm tới Ki tô giáo. Người giầu có thể có sự phức tạp riêng của họ. Với ai đó khác, Phật là đẹp.

Và bạn thấy đấy, phép màu đang xảy ra! Ở phương Đông nơi mọi người là nghèo, mọi người đang trở thành người Ki tô giáo. Ở phương Tây nơi mọi người đã trở nên giầu, họ đang trở thành Phật tử. Phật đang trở nên quan trọng hơn Christ ở Mĩ. Sớm hay muộn, Mĩ sẽ thuộc về Phật, không thuộc về Christ, vì bây giờ mọi người đã đi tới trạng thái có văn hoá nơi ngôn ngữ của Phật là hấp dẫn hơn.

Ở Ấn Độ Phật giáo đã biến mất! Ấn Độ đã mất tầng lớp đó; Ấn Độ trở nên nghèo. Khi Phật bước đi trên trái đất này, hai mươi nhăm thế kỉ trước, Ấn Độ đã là nước giầu có, sung túc nhất thế giới - con chim vàng. Nước này đã rất rất có văn hoá. Nhiều đại học đã vận hành, nhiều cao đẳng, nhiều trường học. Và nói về triết học đã là điều rất thông dụng.

Người ta nói rằng khi Shankara đi vào một thị trấn để có cuộc thảo luận với Mandan Mishra, ông ấy đã hỏi từ xa bên ngoài thị trấn, "Làm sao tôi biết nhà của Mandan Mishra ở đâu?" - triết gia mà ông ấy định thách thức tranh cãi.

Và các cô gái bên giếng cười khúc khích và cười to. Họ nói, "Ông đừng lo nghĩ, ông cứ đi đi - bất kì chỗ nào ông thấy vẹt trích đọc Upanishad ông sẽ biết đây là nhà của Mandan Mishra."

Và điều đó thực tại đã là hoàn cảnh. Ngay cả vẹt cũng trích đọc kinh từ Upanishads. Ngay cả người gác cổng cũng nói theo cách tinh tế tới mức Shankara hơi chút phân vân, trở nên hơi sợ. Và khi họ thảo luận, vợ của Mandan Mishra, Bharti, làn trọng tài cho cuộc thảo luận. Ngay cả đàn bà cũng đã có văn hoá, có giáo dục vô cùng. Vợ ông ấy làm trọng tài cho cuộc thảo luận của hai triết gia.

Mọi sự đã khác toàn bộ - thế thì Phật giáo đã nở hoa. Bây giờ mọi sự xuống thấp rất nhiều. Sự hấp dẫn của Phật giáo không thể rất sâu sắc ngày nay ở Ấn Độ. Ki tô giáo là hấp dẫn hơn. Christ nói ngôn ngữ của người vô sản.

Bạn đã không quan sát nhiều điều đang xảy ra trên thế giới sao? Chủ nghĩa cộng sản là sản phẩm phụ của Ki tô giáo. Không cái gì như chủ nghĩa cộng sản đã xảy ra ở Ấn Độ. Những tôn giáo lớn đã được sinh ra - Phật giáo, Jaina giáo, Hindu giáo - nhưng không cái gì như chủ nghĩa cộng sản đã xảy ra từ họ. Họ đã sống trên trời. Chủ nghĩa cộng sản đã xảy ra qua Ki tô giáo - nó là tôn giáo của người nghèo.

Nhưng ở Mĩ, Ki tô giáo đang mất đất. Khoảnh khắc bạn trở nên rất giầu, khoảnh khắc bạn bắt đầu cảm thấy những điều lớn lao và bắt đầu nghĩ những ý tưởng lớn, và âm nhạc lớn lôi cuốn bạn và điệu vũ lớn và nghệ thuật lớn, một cách tự nhiên Phật lại trở thành quan trọng. Do đó có lôi cuốn của Thiền.

Mọi người nói ngôn ngữ của họ và họ hiểu ngôn ngữ của họ. Các tôn giáo khác nhau nói các ngôn ngữ khác nhau trên những bình diện khác nhau. Họ nói về cái Một, họ nói về cùng một điều, nhưng người nói là khác. Và khi người nghe bắt lấy những lời đó từ Phật, Christ, Mahavir, họ không thể thấy được sự tương tự. Chúng không giống nhau - ngôn ngữ là khác tới mức họ không thể thấy được sự thống nhất trong nó. Đó là lí do tại sao có nhiều hiểu lầm thế. Không có cách nào tạo ra việc hiểu mà bản thân bạn không trở thành có tính tôn giáo.

Nếu bạn thiền, nếu bạn trở nên im lặng, nếu bạn đạt tới vài thoáng nhìn về vô trí, mọi việc hiểu lầm sẽ biến mất. Đột nhiên bạn sẽ thấy tất cả là một, chỉ một tồn tại - trong cả triệu hình tướng - nhưng duy nhất một tồn tại.

Câu hỏi thứ sáu:

Tôi chán vợ tôi. Thầy có gợi ý gì không? Tôi phải làm gì?

Ai không chán? Bạn nghĩ có một mình bạn sao? Và bạn nghĩ vợ bạn không chán bạn sao? Vợ chán chồng, chồng chán vợ. Nhưng cho dù bạn đổi vợ, chẳng cái gì sẽ thay đổi. Bạn sẽ trở nên chán đàn bà khác, có vậy thôi. Nếu bạn đổi chồng, chẳng cái gì sẽ thay đổi; bạn sẽ trở nên chán chồng khác. Vâng, trong vài ngày sẽ có xúc động, sẽ có xúc động mạnh về cái mới, về điều mới lạ. Nhưng cái mới chung cuộc trở thành cũ, và khoảnh khắc bất kì cái gì mới trở thành cũ bạn trở nên chán.

Cho nên có ba tầng của sự chán này: một, bạn trở nên chán vợ của bạn nhưng bạn không chán đàn bà. Tầng thứ hai: bạn trở nên chán nhiều vợ tới mức bạn trở nên chán đàn bà. Nhưng bạn vẫn không chán tâm trí, cái liên tục khao khát cái mới. Tầng thứ ba: bạn trở nên chán nhiều thay đổi nhiều lần sang cái mới và nó lại trở thành cũ tới mức bạn trở nên chán tâm trí. Và khi bạn trở nên chán tâm trí, thế thì khoảnh khắc của khám phá lớn đã tới.

Bằng không, bạn có thể thay đổi rất dễ dàng. Tại sao liên tục chán vợ? Bị chán với ai đó khác đi. Ngay cả thay đổi khổ cũng giúp được tí chút. Bạn sẽ trong khổ khác, nhưng ít nhất nó sẽ là mới, và trong vài ngày sẽ có hi vọng. Trong vài ngày bạn sẽ nghĩ, "Bây giờ mọi sự sẽ lại là tốt." Nhưng tuần trăng mật này sẽ kết thúc nhanh hơn tuần trăng mật đầu tiên, vì bây giờ bạn đã trở nên hiểu nhiều hơn. Nếu tuần trăng mật thứ nhất đã là ba tuần, tuần trăng mật thứ hai sẽ là hai tuần, và tuần trăng mật thứ ba sẽ là một tuần, và cứ thế mãi.

Cố thấy tâm trí đi. Tâm trí thường xuyên khao khát cái mới. Và nó không thể được thoả mãn vì mọi thứ mới đều tự động trở thành cũ. Cho nên dù bạn ở bất kì chỗ nào bạn bao giờ cũng sẽ không được thoả mãn. Tại sao không chán với bản thân tâm trí này?

Điều đó xảy ra theo nhiều cách nhưng chúng ta không quan sát nó. Mãi cho tới giờ trong lịch sử con người, mọi người đã bị ép phải sống cùng với một đàn bà, với một đàn ông. Họ chán chồng và họ chán vợ, nhưng họ không chán đàn bà và không chán đàn ông. Phật đã trở nên chán đàn bà vì ông ấy đã có nhiều đàn bà sẵn đấy - và toàn người đẹp nhất. Không có gì thêm nữa mà thay đổi. Ông ấy trở nên chán mọi đàn bà, ông ấy trở nên chán đàn bà đến thế.

Đó là điều đang xảy ra ở Mĩ ngày nay. Mọi người đang thay đổi như bất kì cái gì - nó là kiểu cách thời thượng. Cũng như bạn đổi mẫu xe mọi năm hay mọi sáu tháng, bạn đổi vợ bạn hay chồng bạn. Nhưng thế thì cái gì xảy ra, bạn biết không? Mọi người phát chán với bản thân đàn bà, với bản thân đàn ông. Và thế thì một điều rất kì lạ đang xảy ra: mọi người biến thành người đồng tính dục - đồng dục nam, đồng dục nữ.

Điều đó sẽ tiếp đất ở đâu? Khi đàn ông trở nên chán đàn bà như thế sẽ có hai khả năng. Nếu anh ta đi theo hướng đúng, anh ta sẽ trở nên chán tâm trí, và sẽ bắt đầu đi vào thiền, lời cầu nguyện, tôn giáo. Nếu anh ta đi theo hướng sai anh ta sẽ trở nên chán đàn bà và sẽ trở nên quan tâm tới đàn ông - sẽ trở thành đồng tính dục.

Đồng tính dục nam đang tăng lên ở phương Tây. Và thế rồi một ngày nào đó bạn sẽ trở nên chán cả đồng tính dục nữa. Thế rồi đi tới con vật - điều đó mọi người đã làm. Và thế rồi sao...? Thế rồi chỉ có một điều bị bỏ lại: tạo ra máy và làm tình với máy. Điều đó nữa mọi người đang làm và mọi người đã làm. Có đàn bà nhựa sẵn có ở Mĩ. Bạn có thể làm tình với đàn bà nhựa. Và khi bạn làm tình cô ấy cư xử gần như cô ấy là thực. Đầu vú cô ấy trở nên căng cứng - một thứ nhựa, nhưng được điều khiển một cách máy móc. Có thể bạn phải cắm điện cho nó.

Đây là đi theo hướng sai, từ cái sai này tới cái sai khác. Điểu này sẽ không dẫn tới đâu cả. Và kết thúc tối thượng là tự tử. Một ngày nào đó bạn trở nên chán mọi thứ tới mức bạn tự tử. Điều đó nữa đang xảy ra. Ngày nay nhiều người tự tử hơn trước đây. Và bạn sẽ ngạc nhiên: nhiều ở phương Tây, ít ở phương Đông. Nó đáng phải không như vậy - phương Đông là nghèo thế, khổ nhiều thế - nếu mọi người tự tử ở đây, điều đó có vẻ logic. Nhưng mọi người không tự tử ở đây; mọi người đang tự tử ở phương Tây nơi sung túc đã xảy ra, nơi mọi thứ là sẵn có.

Nhưng bởi vì mọi thứ là sẵn có, mọi người đã phát chán với mọi thứ! Khi mọi thứ là không sẵn có bạn có thể hi vọng. Khi mọi thứ là sẵn có, hi vọng biến mất. Bây giờ không có hi vọng. Bạn có xe hơi tốt nhất, du thuyền tốt nhất, đàn bà đẹp nhất, đàn ông đẹp nhất, nhà đẹp nhất - nhà nữa trên núi, nhà nữa ở bãi biển. Giờ làm gì? Đi đâu? Đột nhiên bạn cảm thấy chán toàn thể mọi thứ, chán toàn thể mọi thứ của cuộc sống. Tự tử đi cho rồi! Sống dường như vô nghĩa.

Đây là hướng sai. Và tình huống là tới mức bạn có thể đi đúng nữa. Nếu bạn đi đúng bạn trở thành sannyasin; nếu bạn đi sai, bạn trở thành người tự tử. Tính chất sannyas và tự tử cả hai đều bắt nguồn từ cùng một tình huống. Tính chất sannyas ngụ ý nhìn vào trong tâm trí này: rằng nó phát chán mọi thứ, cho nên tại sao không phát chán nó và bỏ nó? Tại sao không bỏ bản thân nguồn gốc này? Tại sao liên tục mang theo nguồn gốc này? Bỏ bản thân nguồn gốc này đi! Chặt rễ đi! Đó là điều thiền tất cả là gì.

Nhưng tôi không biết liệu bạn có thực sự muốn chặt rễ không, hay liệu bạn muốn đổi vợ. Nếu bạn muốn đổi vợ, tôi có gợi ý.

Tôi đã nghe nói về một công ti "Người phá gia đình trách nhiệm hữu hạn". Tôi đã thấy quảng cáo, tôi sẽ đọc nó cho bạn:

Bạn thân mến:

Dây chuyền này được bắt đầu trong hi vọng mang hạnh phúc tới mọi doanh nhân chán chường. Không như hầu hết các dây chuyền, nó không yêu cầu tiền. Đơn giản gửi bản sao thư này cho năm người bạn nam, thế rồi gói vợ bạn và gửi cô ấy tới anh chàng có tên đứng đầu danh sách. Khi tên bạn lên tới đầu danh sách, bạn sẽ nhận được 15,186 đàn bà và một số người sẽ là người gây sửng sốt. Có đức tin đi. Đừng phá vỡ dây chuyền này. Một người đàn ông đã phá vỡ nó và đã nhận lại vợ mình.

Nếu bạn thực sự quan tâm tới thay đổi cuộc sống của bạn vào chiều hướng khác của vui vẻ, của không chán, thế thì đổi vợ sẽ không giúp gì. Bạn sẽ lấy người đàn bà khác. Họ tới theo đủ hình dạng và kích cỡ - nhưng thực tại là cùng một! Họ có vẻ khác nhìn từ xa xa, và cũng thế với đàn ông, nhớ lấy. Họ có vẻ khác từ xa. Bạn càng tới gần, càng ít khác biệt. Càng gần hơn, khác biệt càng biến mất. Ngày người đàn bà là của bạn, đột nhiên bạn nói, "Cô ấy sau rốt là đàn bà," và "Anh ấy sau rốt là đàn ông."

Điều này bạn đã từng làm trong nhiều triệu kiếp rồi. Đây là điều chúng ta gọi ở Ấn Độ là bánh xe sinh tử - bánh xe ham muốn. Và bạn biết nó! Bạn đã biết nó theo nhiều cách. Bạn đã khao khát chiếc xe hơi và giờ chiếc xe đang ở hành lang nhà bạn, và ngày nó tới trong hành lang nhà bạn, đột nhiên mọi niềm vui mất đi. Làm gì bây giờ? Vâng, nó có đó. Một ngày, hai ngày, ba ngày, bạn tận hưởng niềm xúc động về cái mới, thế rồi nó trở thành cũ. Thế rồi đi tìm xe khác. Nhưng bạn không bao giờ tìm tâm trí, cái liên tục tạo ra rắc rối cho bạn - cội nguồn của mọi phiền não.

Tâm trí không bao giờ được thoả mãn với cái đang có. Đây là nguồn gốc của không hài lòng. Tâm trí bao giờ cũng tìm cái không có đó. Nhìn vào cái ngớ ngẩn này đi. Tâm trí bao giờ cũng tìm cái đang không có, và bao giờ cũng không được thoả mãn với cái đang có. Bây giờ, làm sao bạn có thể hạnh phúc với tâm trí này? Dù bạn ở bất kì chỗ nào bạn sẽ bất hạnh. Bất hạnh đi theo tâm trí như cái bóng.

Cho nên thay vì liên tục thay đổi mọi thứ, nhìn vào trong toàn thể hiện tượng về nó đi. Và nếu bạn thực sự muốn thay đổi, bỏ tâm trí này đi. Và với việc bỏ tâm trí, từng khoảnh khắc đều là niềm vui thế và mãn nguyện thế.

Vâng, sẽ rất khó cho bạn tin, nhưng để tôi nói điều đó, để nó được ghi lại: Nếu bạn bỏ tâm trí bạn sẽ đơn giản ngạc nhiên, bạn lại trong yêu - ngay cả với vợ riêng của bạn. Với tâm trí bị bỏ đi, người ta trở thành yêu. Vấn đề không phải là về vợ, chồng, thế này thế nọ. Người ta đơn giản là yêu, người ta tuôn chảy trong yêu. Cô ấy sẽ không còn là vợ bạn nữa, chắc chắn; bạn sẽ không còn là chồng cô ấy nữa. Những điều xấu xa này, những điều này sẽ không xảy ra trong một thế giới tốt hơn.

Với một tâm thức tốt hơn những điều này sẽ biến mất. Thu người đàn bà thành vợ là xấu! Đó là vô đạo đức! Thu người đàn ông thành chồng là xấu và vô đạo đức. Đây là việc giới hạn, đây là việc xác định. Đây là việc làm ra một hiện tượng rất giới hạn. Người đàn bà là điều bí ẩn, đàn ông cũng vậy. Đừng gọi cô ấy là vợ của bạn; cô ấy không phải là của bạn. Và cô ấy không phải là vợ. Vợ là một chức năng! Điều đó không phải là tính toàn bộ của cô ấy; cô ấy là nhiều thứ hơn. Cô ấy không bị kết thúc bởi việc là vợ. Cô ấy có thể là hoạ sĩ, cô ấy có thể là ca sĩ, cô ấy có thể là vũ công. Cô ấy có thể là cả nghìn lẻ một thứ! Tại sao gọi cô ấy chỉ là vợ? 'Vợ' chỉ là một chức năng.

Bạn cũng không chỉ là chồng. Bạn là nhiều thứ hơn. 'Chồng' chỉ là một chức năng, và là chính từ xấu. Bạn có thể gọi husband (chồng - người nông dân), việc làm nông trại của bạn, là làm ‘nghề nông’. Tại sao? 'Husband-người làm nghề nông' bắt nguồn từ 'husbandry-nghề nông'. Vào thời xưa mọi người thường nghĩ rằng đàn ông là nông dân và đàn bà là cánh đồng - những từ rất xấu. Cho nên đàn ông làm nghề nông trên cánh đồng của đàn bà.

Bạn không là nông dân, cô ấy không là cánh đồng; bằng không, nông dân trở thành người chủ và cánh đồng trở thành tài sản. Thế thì bạn có thể bán tài sản của bạn. Đó là điều mọi người đã làm suốt nhiều thời đại - đàn bà đã bị coi như tài sản. Đàn bà không là tài sản, và nếu bạn thu đàn bà thành tài sản, cô ấy sẽ trả thù. Và họ đã trả thù, và họ đã trả thù rất hoàn hảo! Nếu bạn thu đàn bà thành chỉ là tài sản, cô ấy sẽ thu bạn chỉ là người hầu bị xỏ mũi, thậm chí không là chồng. Đó là điều cô ấy đã làm. Cái gọi là người bạo dạn của bạn là bạo dạn chỉ bên ngoài; khi họ về nhà họ chỉ giống như con chuột nhắt!

Ai đó đã nói cho Mulla Nasruddin, "Sao anh sợ vợ thế?" vì anh ta rời khỏi đám tiệc sớm. Lúc đó cũng không là sớm, lúc đó là nửa đêm, nhưng những người khác vẫn ở lại và nhảy nhót và uống rượu và làm mọi thứ còn anh ta muốn ra về. Ai đó nói, "Sao anh muốn rời bỏ bữa tiệc sớm thế? Sao anh sợ vợ thế? Anh là người hay là chuột?"

Và Mulla nói, "Tôi là người - vì vợ tôi sợ chuột!"

Đó là cách mọi sự đã xảy ra. Họ đã lấy việc trả thù tinh vi. Tất nhiên, cách của họ là rất nữ tính; họ đã không trả thù một cách trực tiếp. Đàn bà vận hành theo cách rất tinh tế - gián tiếp. Họ gọi bạn là ông chủ - swami - họ chạm chân bạn, và bạn biết hoàn toàn rõ và mọi người đều biết ai là chủ và ai đang chạm chân.

Đây là trạng thái vấn đề xấu. Nếu bạn chán, điều đó là tự nhiên. Thoát ra khỏi điều đó đi. Nhưng tôi không nói rời bỏ vợ bạn. Bỏ ý tưởng rằng cô ấy là vợ bạn đi, và bỏ ý tưởng rằng bạn là chồng của cô ấy đi. Là bạn bè - điều đó là quá đủ! Và có tính thiền, bỏ tâm trí đi. Và đột nhiên bạn sẽ thấy cuộc sống đã bắt đầu lại tuôn chảy.

Câu hỏi thứ sáu:

Cả tôi và anh vợ tôi đều thích bài giảng hôm nay. Nhưng bản thân tôi thích bài giảng này với đầy tâm trí còn anh vợ tôi nói anh ấy thích bài giảng như nhân chứng. Tôi cảm thấy rằng anh ấy là kẻ ngu và rằng tôi khôn. Xin thầy vui lòng làm sáng tỏ.

Người nghĩ rằng mình là khôn chính là người ngu. Nhưng tôi không biết về anh vợ của bạn, điều anh ấy nghĩ. Đây là về bạn thôi. Anh ấy có thể nghĩ rằng bạn là ngu, thế thì cả hai bạn đều trong cùng một thuyền. Anh vợ cũng là ngu.

Đừng bao giờ nghĩ về người khác là người ngu. Điều đó chỉ ra thông minh, khi bạn không nghĩ về người khác là ngu. Không ai ngu cả. Có những cách diễn đạt khác biệt về thông minh, vâng; nhưng không ai là ngu. Có thể cách thông minh của người khác là khác với cách thông minh của bạn.

Ai đó rất thông minh trong toán học, và ai đó là rất thông minh trong thơ ca. Bây giờ, người là thông minh trong toán học, nghĩ nhà thơ là người ngu. Và theo cách nào đó ông ấy là đúng, vì trong toán học người này không phải là rất thông minh. Nhưng nhà thơ nghĩ nhà toán học là người ngu. Theo cách nào đó ông ấy cũng là đúng, vì nhà toán học không thể soạn được hai dòng thơ - vậy đây là loại thông minh gì vậy, chỉ tính toán, tính toán thôi sao? Sáng tạo ra cái gì đó đi! - cái đó mới biểu lộ thông minh.

Mọi người là thông minh theo những cách khác nhau, khác nhau. Tôi chưa bao giờ bắt gặp một người ngu. Và nếu bạn bắt gặp người ngu, cứ thử tìm xem: người đó phải có loại thông minh nào đó ở đâu đó mà bạn còn chưa biết tới. Đôi khi một người rất rất ngu có thông minh riêng của người đó.

Tôi thường biết, khi tôi còn là sinh viên trong đại học, một người sống bên ngoài khuôn viên đại học, và bị coi là rất ngu, đần - người ngốc hoàn hảo. Anh ta ngốc tới mức nếu bạn cho anh ta tờ mười ru pi và một đồng anna, anh ta sẽ lấy đồng anna và bác bỏ tờ tiền. Tôi đã trở thành bạn bè với anh ta, chỉ trong tìm kiếm, vì tôi muốn thấy - phải có thông minh nào đó trong người này nữa.

Khi tôi đã trở thành bạn bè, sau nhiều tháng tôi hỏi, "Sao vậy, anh không thể thấy rằng đây là tờ mười ru pi ai đó cho anh sao? Và anh chọn một đồng anna và anh bác bỏ tờ mười ru pi?"

Anh ta nói, "Tôi có là thằng ngu không? Nếu tôi nhận tờ mười ru pi thế thì không ai sẽ cho bao giờ! Bị kết thúc với tờ mười ru pi - và đây là kinh doanh của tôi! Mọi người cho tôi, và họ thích thú. Để họ thích thú đi! Tôi bao giờ cũng chọn đồng tiền nhỏ hơn. Tôi có là thằng ngu không?"

Và tôi đã hiểu. Anh ta đã là người rất thông minh. Bây giờ anh ta đang lừa toàn thể khu trường, ngay cả các giáo sư. Những người rất thông minh sẽ chỉ có chuyện cười: "Anh ta ngu làm sao!"

Thông minh có những cách khác nhau để khẳng định bản thân nó. Đừng bao giờ nghĩ dù một khoảnh khắc rằng bất kì người nào cũng có thể là người ngu - vì duy nhất Thượng đế tồn tại, cho nên làm sao bất kì người nào có thể là người ngu được? Và nếu bạn quá quan tâm tới bản thân từ này, thế thì chỉ nghĩ rằng bạn là ngu - điều đó sẽ dẫn bạn hướng tới khôn hơn.

Câu hỏi cuối cùng:

Tại sao thầy nói rằng chính trị và tôn giáo là đối lập đối xứng?

Vì chúng là vậy. Nó không phải là vấn đề về ý kiến của tôi - chúng là vậy, vì chính trị là hành trình bản ngã và tôn giáo là việc loại bỏ bản ngã. Chính khách không thể có tính tôn giáo, và người tôn giáo không thể là chính khách.

Điều đó tuyệt đối là vậy, nó dứt khoát là vậy. Chính khách bao giờ cũng cố có nhiều quyền lực hơn. Để làm gì? - để tôn cao bản ngã của ông ta, để chỉ ra cho thế giới rằng "Tôi là ai đó." Và người tôn giáo đã bỏ toàn thể câu chuyện ngu xuẩn đó. Người đó biết người đó là ai đó, cho nên phỏng có ích gì mà nói hay phô ra cho bất kì người nào? Người đó biết! Chính khách giả vờ; người tôn giáo biết. Người đó đã đi tới bên trong con người riêng của người đó, và người đó đã biết Vua của các vua - Thầy của các thầy ở đó. Cho nên vấn đề là gì bây giờ? Phấn đấu vì chiếc ghế lớn hơn và vị trí cao hơn - vấn đề là gì? Bạn không thể làm cho người đó cao hơn người đó đã biết bản thân mình bên trong.

Nếu bạn làm cho Phật thành tổng thống Ấn Độ, điều đó sẽ không giúp gì. Điều đó sẽ không làm tăng ông ấy lên, điều đó sẽ làm giảm ông ấy. Thế thì Phật sẽ không là Phật, ông ấy sẽ là người rất bình thường.

Người tôn giáo đã đi tới thấy kho báu vô hạn riêng của người đó, cho nên người đó không khao khát bất kì hành trình quyền lực nào. Nó có thể là hành trình tiền bạc hay hành trình quyền lực hay hành trình danh tiếng, nhưng chúng toàn là chính trị. Chỉ có hai hướng trong sự sống: tôn giáo và chính trị. Và hoặc bạn ở trong cái này hoặc bạn ở trong cái kia. Nếu bạn không là người tôn giáo thế thì bạn, bởi sự cần thiết, là chính khách. Bạn có thể thực tại không trong chính trị, nhưng bạn là chính khách. Và chính trị có thể tự nó khẳng định theo nhiều cách. Bạn có thể là chính khách với vợ bạn: bạn là kẻ chi phối và cô ấy là người bị chi phối. Hay bạn có thể là chính khách với con bạn: bạn là kẻ độc tài và chúng phải tuân theo mệnh lệnh của bạn, chúng phải vâng lời bạn. Hay bạn có thể là chính khách trong văn phòng của bạn: bạn là ông chủ và mọi người phải là nô lệ. Hay bạn có thể nghĩ tới việc thu lấy nhiều tiền để cho bạn đi tới đỉnh qua tiền, nhưng ý tưởng là cùng một. Hay bạn thậm chí có thể từ bỏ thế giới chỉ để nghĩ rằng bạn đi tới đỉnh của mọi mahatmas - bạn trở thành mahatma lớn nhất. Nhưng nó lại là cùng điều: bạn là chính khách.

Nếu bạn từ bỏ thế giới, nếu bạn trở thành trần trụi và đi trên phố với ý tưởng rằng "Bây giờ không thánh nhân nào có thể cạnh tranh được với mình. Bây giờ, mình đã lên tới đỉnh!" bạn là chính khách. Có thể một chính khách trần trụi, chính khách tôn giáo, nếu bạn muốn nó được nói theo cách đó, nhưng chính khách là chính khách!

Tôi đã nghe:

Nikita Khrushchev đi tới thợ may với một súc vải đắt tiền được dệt đặc biệt cho ông ấy. Ông ấy đề nghị thợ may làm bộ com lê ba mảnh. Sau khi đo cho sa hoàng Đỏ uống đầy vodka, béo tốt, ông thợ may nói ông ấy không có đủ vải để may áo vét.

Khrushchev gắt gỏng quyết định thôi không đặt bộ com lê và đem súc vải cùng mình tới Belgrade. Ở đó ông ấy thử với một thợ may Yugoslav người đo cho ông ấy và thấy mình có thể làm bộ com lê hợp thời trang kể cả áo vét. Khrushchev, phân vân, hỏi tại sao thợ may Nga không thể cắt được súc vải để làm áo vét.

"Ở Moscow ông là người to hơn ông ở đây," thợ may Belgrade đáp.

"Ở Moscow ông là người to hơn ông ở đây... ở Belgrade, ai bận tâm về ông?"

Tổng thống là người vĩ đại khi họ đang trong quyền lực. Khi họ không trong quyền lực, thì sao? Thủ tướng là người vĩ đại khi họ đang trong quyền lực. Khi họ không trong quyền lực, thì sao? Thế thì cùng con chó thường vẫy đuôi, bắt đầu sủa - cùng con chó, cùng mọi người.

Bạn có thể thấy điều đó: cùng con chó đã từng vẫy đuôi quanh Indira giờ sủa bà ấy. Chó vẫn là vậy. Chúng chỉ thay đổi một chút. Mm? - thay vì vẫy đuôi, chúng sủa. Bây giờ chúng vẫy đuôi với Morarji. Nhưng cảnh giác đi, Morarji, đây là cùng người! Sớm hay muộn chúng sẽ sủa bạn. Điều này tiếp diễn. Vở kịch này tiếp diễn.

Băng ghi âm của Richard Nixon đã làm lộ ra nhiều điều về một người chúng ta chưa bao giờ biết tới. Đây là đối thoại được cho là đã xảy ra với Bob Haldeman.

"Bob, tôi nhận ra rằng một ngày nào đó tôi sẽ qua đời," cựu tổng thống nới với người phụ tá. "Tôi muốn ông tìm một chỗ chôn đẹp cho tôi."

Hai tuần sau, Haldeman quay lại và nói, "Thưa tổng thống, tôi đã tìm thấy chỗ đó. Nó ở trên đồi nhìn xuống dòng suối đẹp. Và mặt trời chiếu vào nó trong ngày dường như ngài được chiếu sáng."

"Có vẻ được đấy," Nixon nói. "Bao nhiêu?" "Bốn trăm nghìn đô la."

"Cái gì? Bốn trăm nghìn đô là à!" Nixon kêu lên. "Tôi chỉ đi ở đó ba ngày thôi!"

Giống Jesus! Mọi chính khách, khi người đó đang trong quyền lực, nghĩ rằng ông ta là Thượng đế. Nixon nói, "Tôi chỉ đi ở đó ba ngày thôi! Và trong ba ngày, bốn trăm nghìn đô la sao? Ngu xuẩn! Điều này là quá nhiều."

Quyền lực cho bạn cảm giác rằng bạn là vĩ đại. Nhưng cảm giác này chỉ tới với những người không là vĩ đại. Quyền lực chỉ được cần bởi những người không vĩ đại. Nếu bạn thực sự là vĩ đại - và bởi thực sự vĩ đại tôi ngụ ý bạn đã về nhà bên trong bản thân bạn, nếu bạn đã đi tới hoà điệu với con người bạn - thế thì không cần thêm bất kì cái gì vào bạn. Bạn đã ở đó rồi. Và thế rồi, đột nhiên, không phải là bạn vĩ đại và người khác không vĩ đại. Khoảnh khắc bạn biết bạn là vĩ đại, toàn thể sự tồn tại trở thành vĩ đại - thế thì ngay cả chó cũng là một Thượng đế.

Phật tương truyền đã nói: "Khi ta trở nên chứng ngộ, toàn thể sự tồn tại trở nên chứng ngộ. Mọi thứ đã trở nên chứng ngộ cùng khoảnh khắc!" Đó là cái nhìn của người vĩ đại thực. Người vĩ đại thực chỉ thấy các nam Thượng đế và nữ Thượng đế xung quanh. Mọi nơi sự tồn tại là vĩ đại cho người đó.

Cho nên có hai kiểu tính vĩ đại: một kiểu, kiểu chính trị - bạn trở nên vĩ đại bằng việc làm cho người khác nhỏ đi. Điều này là một loại xấu, loại ốm, thần kinh. Thế rồi có loại tính vĩ đại khác: bạn trở nên vĩ đại, và đột nhiên toàn thể sự tồn tại trở thành vĩ đại. Cùng với bạn, mọi thứ trở thành thiêng liêng. Đó là tôn giáo. Và hai kiểu này không gặp gỡ, và chúng không thể gặp gỡ được.

Xem tiếp Chương 3Quay về Mục Lục Tập 3Quay về Mục Lục Toàn Tập

Ads Belove Post