Chương 9. Chỉ được quên đi

Chương 9. Chỉ được quên đi

Price:

Read more

Osho - Đạo: Đường vô lộ (Tập 1)
Chương 9. Chỉ được quên đi


Ai đó hỏi Liệt Tử
"Tại sao thầy coi trống rỗng là có giá trị?"
"Trong trống rỗng không có đánh giá trị."
Liệt Tử nói
"Giá trị không phải là cái tên cho nó.
Tốt nhất là tĩnh lặng, tốt nhất là trống rỗng.
Trong tĩnh lặng và trống rỗng,
Chúng ta thấy nơi trú ngụ;
Lấy và cho,
Chúng ta mất chỗ đó."
Chân lí là một - không thể khác được bởi vì sự tồn tại là một vũ trụ, nó không phải là 'đa vũ trụ'. Nó là một. Nó được dính lại với nhau. Nó là tính cùng nhau. Nó là hài hoà. Cái giữ cho vũ trụ gắn với nhau là điều chúng ta gọi là chân lí, hay Đạo, hay Thượng đế. Đạo không phải là người, không là thượng đế người, nhưng là sự hài hoà chạy qua mọi thứ, như sợi chỉ chạy qua vòng hoa. Vũ trụ không phải là một đống các thứ, tách rời, cá nhân, như hòn đảo.
Không, vũ trụ là một, cùng nhau, và thỉnh thoảng giữ nó cùng nhau... nó không rời ra. Cái mà giữ nó gắn cùng nhau là Thượng đế, Đạo. Nhưng con người có thể tiếp cận qua hai cách tới chân lí này. Hai cách này phải được hiểu. Chân lí là một nhưng con đường là hai. Con đường thứ nhất là qua khẳng định, con đường khẳng định, con đường của 'người nói có'. Con đường của người sùng kính. Jesus, Mohammed, Krishnahọ đã theo con đường của khẳng định. Con đường của khẳng định dường như là con đường của nỗ lực, nỗ lực lớn lao: người ta cố gắng đạt tới Thượng đế, người ta phải làm mọi nỗ lực có thể, người ta phải làm nỗ lực tối đa, người ta phải đưa bản thân mình vào lâm nguy. Trong thời hiện đại, Gurdjieff, Ramakrishna - họ đã theo con đường của khẳng định, qua khẳng định.
Con đường kia là qua phủ định, qua phủ nhận, qua cái 'không'. Lão Tử, Phật, Nagarjuna - họ đã theo con đường của phủ định. Trong thời hiện đại, Ramana Maharshi, J. Krishnamurti - họ theo con đường của cái 'không'. Hai con đường này phải được hiểu rõ ràng nhất có thể được bởi vì nhiều điều sẽ phụ thuộc vào nó; bạn sẽ phải chọn ngày này hay ngày khác. Chúng đi theo các chiều hướng khác nhau; chúng đạt tới cùng đích, nhưng chúng đi theo các hướng khác nhau. Con đường khẳng định là cách tiếp cận khẳng định tới Thượng đế, việc đạt tới Thượng đế, việc tìm kiếm, cuộc truy hỏi. Con đường phủ định là chờ đợi Thượng đế, không tìm kiếm. Con đường phủ định chỉ giữ cửa để mở, không đi, không tìm; không truy hỏi, chỉ cảm nhận, như bụng mẹ. Con đường thứ nhất là dương, con đường thứ hai là âm.
Con đường thứ nhất là con đường hướng nam tính, con đường thứ hai là con đường hướng nữ tính. Người ta chỉ phải trong buông bỏ ở con đường thứ hai: không ý chí, nhưng buông xuôi. Người ta chỉ phải cho phép Thượng đế hiện hữu; không đạt tới ngài, để ngài đạt tới bạn. Đơn giản im lặng, trống rỗng. Cho không gian để cho nếu ngài tới bạn sẵn có; bạn vẫn còn sẵn có. Trên con đường của ý chí bạn có nhiều điều để làm; trên con đường của buông xuôi bạn không có gì làm cả, đích xác không cái gì để làm, chỉ không cái gì làm. Những con đường này có thể được đặt tên theo cách khác nữa. Con đường thứ nhất có thể được nói là con đường của khổ hạnh. Từ 'ascetic-khổ hạnh' bắt nguồn từ gốc Hi Lạp ascesis có nghĩa là tập luyện. Nhiều phương pháp, nhiều tập luyện, Yoga, phương pháp luận, kĩ thuật, là có thể. Con đường thứ hai có thể được gọi là con đường của huyền môn: không luyện tập, không phương pháp, không công nghệ.
Trên con đường thứ nhất thời gian là phải có. Bạn không thể ngay lập tức chứng ngộ được - phương pháp cần thời gian, luyện tập cần thời gian, chuẩn bị cần thời gian, và bạn sẽ phải đợi trong nhiều kiếp. Chứng ngộ sẽ là dần dần, nó không thể bất thần được. Trên con đường phủ định nó có thể tuyệt đối bất thần, nó có thể xảy ra chính khoảnh khắc này. Thời gian không được cần bởi vì luyện tập không được cần. Bạn không đi đâu cả; bạn chỉ ngồi im lặng, bạn chỉ ở trong buông bỏ. Người ta không cần chờ đợi.
Con đường của huyền môn là huyền bí - không thể được giải thích. Con đường của khổ hạnh là giải thích được: nó rất khoa học, rất logic. Từng bước một nó có thể được giải thích; nó có thể được phân tích, phân chia thành các bước dễ dàng. Các bước có thể được làm nhỏ tới mức mọi người có thể lấy chúng, ngay cả đứa trẻ nhỏ; do đó, các mức độ là có thể. Nhưng con đường của huyền môn là rất huyền bí, do đó nó được gọi là con đường huyền môn. Không mức độ nào là có thể, không bước nhỏ nào - nhưng bước nhảy lượng tử, nhảy vào cái không biết, đột nhiên, như sét. Một cách tự nhiên nó không thể được giải thích một cách logic. Tâm trí logic sẽ bị lúng túng. Nó cần hiểu biết lớn, không dựa trên logic mà dựa trên trực giác, không dựa trên trí tuệ mà dựa trên trực giác. Nó cần tâm trí phi logic, phiêu lưu: người có thể đi trước mọi bước, người sẵn sàng đi vào trong cái không biết, người đủ dũng cảm lấy cú nhảy.
Trên con đường thứ nhất bạn đi từng bước một, đi lên. Trên con đường thứ hai bạn đơn giản lấy cú nhảy vào vực thẳm. Nó là vực thẳm không đáy, nó là trống rỗng, nó là tính không tuyệt đối. Bạn biến mất. Hai con đường này là những con đường duy nhất, và mọi người đều phải quyết định trong cốt lõi bên trong nhất của bản thể mình cái gì hấp dẫn người đó. Khó mà quyết định nhưng nó phải được quyết định, bằng không bạn có thể cứ làm những điều mà sẽ không chứng tỏ nghĩa nào cả.
Nếu bạn có thể lấy cú nhảy thế thì không có nhu cầu huấn luyện bản thân bạn theo Yoga. Nếu bạn không thể lấy cú nhảy, thế thì chẳng ích gì mà ngồi và đợi. Trên con đường thứ nhất, nguy hiểm lớn nhất là của bản ngã bởi vì bạn phải làm nhiều, và nếu bạn quá bản ngã, bạn sẽ trở thành người làm và thế thì bản ngã sẽ trở thành rào chắn của bạn. Người ta phải làm, vậy mà không làm mạnh cho bản ngã. Trên con đường thứ hai, lờ phờ là vấn đề. Bạn không định làm cái gì; người ta có thể trở thành lờ phờ, người ta có thể trở nên đờ đẫn và chết. Đó là nguy hiểm - rất tự nhiên: ngồi im lặng, không làm gì, dần dần bạn lại rơi vào đờ đẫn, trong một loại không thông minh; bạn mất sắc bén, bạn mất tính sống động, bạn trở nên xuẩn ngốc. Điều đó là có thể; người ta phải rất tỉnh táo về điều này.
Trên con đường thứ nhất, người ta phải quan sát rằng bản ngã không nảy sinh. Trên con đường thứ hai, người ta phải quan sát rằng lờ phờ không lắng đọng. Nếu hai cạm bẫy này được tránh, thế thì bạn có thể đạt tới từ hoặc khẳng định hoặc phủ định. Mọi người đã đạt tới từ cả hai con đường. Cho nên không có vấn đề về đạt tới, câu hỏi là cái gì sẽ dễ dàng hơn, trong hoà điệu hơn với bản tính tự nhiên của bạn - chọn cái đó.
Vài điều phải được hiểu về con đường của cái không, bởi vì Liệt Tử là tín đồ của con đường đó - con đường của qua phủ định, con đường huyền môn. Trên con đường huyền môn bạn phải một mình - không có khả năng 'ở cùng nhau'. Nó là bất hoạt sâu sắc, sâu tới mức chính ý tưởng về hành động phải bị vứt bỏ và từ bỏ. Không ham muốn, không hành động; người ta chỉ phải có đó. Tính một mình phải được kinh nghiệm. Việc ở một mình phải được kinh nghiệm.
Trên con đường của khẳng định, Thượng đế bao giờ cũng cùng bạn, bạn không bao giờ một mình. Bạn bao giờ cũng có thể nói với Thượng đế, bao giờ cũng cầu nguyện Thượng đế, bạn bao giờ cũng có thể hi vọng rằng ngài đang cùng bạn. Ngài bao quanh bạn, ngài cầm tay bạn. Và ngài là rất nhiều trên con đường của khẳng định. Tay ngài gần như trong tay bạn. Điều đó không chỉ là tưởng tượng - nhớ điều đó, nó không phải là ảo giác; nó là vậy. Khi bạn đã làm mọi điều bạn có thể làm đột nhiên ngài trở thành sẵn có. Nhiều hơn bạn không thể làm được: bạn đã không ngăn cản, bạn đã làm mọi điều bạn có thể làm, bạn đã đưa bản thân bạn một cách toàn bộ vào trong công việc, bạn đã đi tới tối đa của bạn - từ khoảnh khắc đó ngài tiếp quản. Nhưng người ta phải là điều tối đa, kém hơn điều đó sẽ không có tác dụng. Người ta phải sôi lên một trăm độ, thế rồi đột nhiên - việc bay hơi.
Trên con đường của khổ hạnh Thượng đế là cùng với bạn; bạn chưa bao giờ một mình, bạn bao giờ cũng có thể cầu nguyện. Nhưng trên con đường phủ định lời cầu nguyện là không thể được, lời cầu nguyện là không được phép - lời cầu nguyện là cản trở. Nhớ điều này nữa: một điều có thể là giúp đỡ cho người trên con đường này và có thể trở thành cản trở trên con đường khác. Lời cầu nguyện là cản trở. Nếu bạn hỏi tín đồ của con đường phủ định người đó sẽ nói: Lời cầu nguyện nghĩa là bạn vẫn không có khả năng ở một mình; bạn vẫn bị gắn bó với người khác.
Bạn có thể đã vứt bỏ gắn bó của bạn với vợ, với chồng, với con, với bạn bè, với xã hội, nhưng bây giờ bạn đã phóng chiếu một Thượng đế và bây giờ bạn giữ đồng hành với ngài; nhưng bạn không thể một mình được. Lời cầu nguyện nghĩa là bạn vẫn sợ một mình, cho nên bạn tạo ra cây cầu với người khác, bạn tìm kiếm người khác. Lời cầu nguyện đơn giản nghĩa là bất kì khi nào bạn một mình, bạn không một mình mà cô đơn: bạn thiếu người khác. Trên con đường của phủ định, một mình đơn giản là niềm huy hoàng vĩ đại nhất có đó.
Nếu bạn hỏi nhà huyền môn ông ấy sẽ nói: Cô đơn chỉ là tạm nghỉ. Một mình là điều kiện tối thượng. Cô đơn hay cùng nhau là ngẫu nhiên. Một mình là bản chất. Cô đơn ngụ ý sự tiến hoá hay liên tục của kinh nghiệm, trong khi một mình nghĩa là thay đổi triệt để, toàn bộ, một trăm tám mươi độ, sự chuyển hoá, một metanoia - thay đổi căn bản.
Cô đơn là cách quay về phía người khác: bất kì khi nào bạn cảm thấy cô đơn bạn đều tìm kiếm người khác dưới dạng này hay dạng khác. Cô đơn là cách quay về với người khác. Một mình là cách quay về với bản thân người ta. Điều này phải được nhớ. Đó là lí do tại sao trên con đường phủ định, thiền là có nhiều ý nghĩa hơn lời cầu nguyện. Thiền là sự giúp đỡ, lời cầu nguyện là cản trở.
Trên con đường của khẳng định, lời cầu nguyện là sự giúp đỡ, thiền không được nói tới chút nào. Đó là lí do tại sao trong Ki tô giáo, trong Hồi giáo, trong Do Thái giáo, trong Hindu giáo, thiền đã không được phát triển. Thiền đã được phát triển hoàn toàn bởi Phật tử và Đạo nhân - đó là chìa khoá bí mật của họ. Bạn có thể chia mọi tôn giáo thành hai: Hindu giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo, Ki tô giáo - tất cả đều trên con đường của qua khẳng định. Phật giáo và Đạo - họ về căn bản là phủ định, trên con đường qua phủ định. Hindu giáo và Hồi giáo đã nở hoa điều tối đa của họ trong Sufi giáo.  Đó là gặp gỡ của tính Hindu và tính Mô ha mét giáo và đoá hoa thực sự đẹp đã tới từ sự gặp gỡ này - nó là lai - Sufi giáo. Nó là cao hơn bất kì cái gì có trong Hindu giáo và cao hơn bất kì cái gì có trong Mô ha mét giáo; nó là cao hơn cả hai, nó đã siêu việt lên trên cả bố mẹ. Đứa con là đẹp hơn mẹ và bố - phải vậy, bởi vì cả mẹ và bố đã tan biến vào trong nó. Cho nên Sufi giáo là đỉnh cao của khẳng định. Và Phật giáo và Đạo giáo gặp gỡ và đã cho sinh ra Zen (Thiền): đó là điều tốt nhất trên con đường của thiền. Lại đẹp hơn Phật giáo và Đạo giáo, tốt hơn cả hai bố mẹ: lại là việc lai.
Gặp gỡ của Hồi giáo và Hindu giáo đã xảy ra ở Ấn Độ. Hồi giáo tới Ấn Độ, gặp gỡ với Hindu giáo và đứa con đẹp được sinh ra. Gặp gỡ của Đạo giáo và Phật giáo đã xảy ra ở Trung Quốc. Phật giáo đi tới Trung Quốc, gặp gỡ với Đạo giáo và đứa con đẹp, Zen, được sinh ra. Nếu mọi thứ biến mất khỏi thế giới và chỉ hai điều có thể được duy trì, Sufi giáo và Zen-Thiền, không cái gì sẽ bị mất. Chúng là cao trào cao nhất, nhưng của hai con đường khác nhau.
Sufi giáo không là gì ngoài lời cầu nguyện thuần tuý, zikr, việc nhớ tới Thượng đế, và Zen không là gì ngoài thiền. Từ zen bắt nguồn từ gốc tiếng Phạn dhyana. Đầu tiên từ dhyana trở thành jhana, bởi vì Phật thường nó trong tiếng Pali - dhyana là jhana trong tiếng Pali. Thế rồi từ jhana nó trở thành ch'an trong tiếng Trung Quốc. Thế rồi nó trở thành zen khi nó đạt tới Nhật Bản. Nhưng nó là dhyana, nó là dhyana bản chất: chỉ là một mình, tuyệt đối một mình, thậm chí không một ý nghĩ về bầu bạn. Trong tính một mình đó mọi thứ biến mất. Người ta chỉ là tính thoáng đãng, người ta chỉ là không gian, thuần khiết, trong suốt. Trong thuần khiết đó người ta đạt tới, Thượng đế tới. Khi bạn đã sẵn sàng là trống rỗng thế, Thượng đế vào. Người Sufi tìm kiếm Thượng đế. Đệ tử Thiền chờ đợi, Thượng đế tới.
Bây giờ đến chuyện ngụ ngôn hay này:
Ai đó hỏi Liệt Tử
"Tại sao thầy coi trống rỗng là có giá trị?"
"Trong trống rỗng không có đánh giá trị."
Một cách tự nhiên, trống rỗng có thể có giá trị gì? Nó bị kết án trên khắp thế giới. Ngoại trừ Đạo nhân và Phật tử, không ai hiểu trống rỗng là gì - nó bị kết án. Ở phương Tây bạn nói 'Tâm trí trống rỗng là xưởng thợ của quỉ.' Bây giờ còn kết án nào hơn có thể có? Xưởng thợ của quỉ sao? - tâm trí trống rỗng sao? Và Đạo nhân và Phật tử nói rằng tâm trí trống rỗng là mục đích.
Khi bạn trống rỗng toàn bộ, Thượng đế tới. Quỉ chỉ có thể tồn tại với tâm trí hoạt động, chưa bao giờ với tâm trí bất hoạt. Quỉ có thể tồn tại chỉ với tâm trí bận rộn, không với tâm trí không bận rộn. Quỉ có thể cưỡi lên các ý nghĩ, nó có thể dùng ý nghĩ và ham muốn. Làm sao nó có thể dùng trống rỗng được? Và họ dường như đúng. Hitler là không trống rỗng, Genghis Khan không trống rỗng, Tamburlaine không trống rỗng; họ là những người rất hoạt động. Quỉ đã đi qua họ để vào thế giới. Bồ đề đạt ma là trống rỗng, Liệt Tử là trống rỗng, Nagarjuna là trống rỗng - quỉ thậm chí đã không tới gần họ. Không gì sai đã từng đi ra từ những người trống rỗng này, chỉ cái tốt; và chỉ cái tốt đã nở hoa. Hương thơm của họ là lớn lao. Hàng thế kỉ đã trôi qua, nhưng hương thơm của họ vẫn tươi mát như bao giờ.
Bình thường, trống rỗng chưa bao giờ được coi là có giá trị, cho nên người hỏi này dường như đúng. Người đó nói `Tại sao thầy coi trống rỗng là có giá trị'? `Trong trống rỗng không có đánh giá trị.' Giá trị kiểu gì? Bạn có thể làm gì với trống rỗng? Giá trị tới với việc dùng. Cố hiểu điều đó: giá trị tới khi cái gì đó là hữu dụng. Làm sao bạn có thể coi cái gì mà không có là có giá trị? Không chỉ nó không hữu dụng, nó là không có - làm sao bạn có thể đánh giá trị nó được? Nhưng đó là cách tiếp cận của phủ định.
Lão Tử nói: Phòng có giá trị không phải vì tường, mà vì cái trống rỗng bên trong. Bạn dùng phòng chứ không dùng tường. Tất nhiên, khi bạn làm nhà bạn làm tường, không làm cái trống rỗng; không ai có thể làm cái trống rỗng được. Trống rỗng là vĩnh hằng, nó là từ Thượng đế; nó không do con người làm. Nhà được người làm, không trống rỗng. Nhưng bạn dùng cái gì? Bạn dùng tường hay bạn dùng không gian bên trong? Từ 'phòng' là tốt: 'phòng' nghĩa là không gian. Bạn dùng phòng, không gian, 'chỗ rộng rãi'. Trong tường, bạn đi qua cái gì, đi vào và đi ra?
Cửa. Cửa là trống rỗng. 'Cửa' nghĩa là cái trống rỗng, cái không có - do đó bạn có thể đi vào đi ra. Bạn dùng cửa, bạn không dùng tường. Và bạn dùng phòng, bạn không dùng tường. Bạn dùng gì khi bạn dùng bình đất nung? Vỏ đất nung hay cái trống rỗng bên trong? Khi bạn đi tới giếng để lấy nước và bạn đem nước về nhà, bạn dùng gì? Cái trống rỗng của bình đất. Cái trống rỗng đó là có giá trị và cái trống rỗng đó không được bạn tạo ra. Đạo nhân nói: Cái không do con người tạo ra là có giá trị. Cái được tạo ra có thể có giá trị tương đối, giá trị thị trường, nhưng thực sự nó không giá trị: nó không có giá trị nào. Thứ con người làm ra là hàng hoá. Tất nhiên nếu bạn đi vào trong bãi chợ và bạn bắt đầu bán cái trống rỗng, chẳng ai sẽ mua nó. Không có giá trị trong nó và mọi người sẽ cười.
Lão Tử đi qua một khu rừng, và khu rừng đang bị chặt. Hàng nghìn thợ mộc đang chặt cây. Thế rồi ông ấy tới gần một cây lớn - một cây rất lớn, một nghìn xe bò kéo có thể nghỉ ngơi dưới nó - và nó xanh và đẹp thế. Ông ấy phái đệ tử tới hỏi các thợ mộc tại sao cây này đã không bị chặt. Và họ nói 'Nó là vô dụng. Ông không thể làm được cái gì từ nó: đồ đạc không thể được làm, nó không thể được dùng như chất đốt - nó cho quá nhiều khói. Nó là vô dụng, đó là lí do tại sao chúng tôi đã không chặt nó.' Và Lão Tử nói với các đệ tử của ông ấy 'Học từ cây này đi. Trở thành vô dụng như cây này thế thì không ai sẽ chặt ông.' Vô dụng có giá trị lớn. Ông ấy nói: Trông đấy, và quan sát cây này. Học cái gì đó từ cây này. Cây này lớn. Nhìn đấy, mọi cây đều đã mất tiêu. Chúng hữu dụng, do đó chúng bị mất tiêu. Cây nào đó rất thẳng, đó là lí do tại sao nó bị mất đi. Nó phải đã rất bản ngã, thẳng, tự hào là ai đó - nó tiêu rồi. Cây này không thẳng, không một cành nào thẳng cả. Nó không tự hào chút nào, do đó nó tồn tại.
Lão Tử nói với đệ tử của ông ấy: Nếu các ông muốn sống lâu, trở nên vô dụng đi. Nhưng nhớ, nghĩa của ông ấy về từ 'vô dụng' là: không trở thành hàng hoá, không trở thành đồ vật. Nếu bạn trở thành đồ vật bạn sẽ bị bán và mua ở chợ, và bạn sẽ trở thành nô lệ. Nếu bạn không phải là đồ vật, ai có thể mua bạn và ai có thể bán bạn? Vẫn còn là sáng tạo của Thượng đế đi. Đừng trở thành hàng hoá con người và không ai sẽ có khả năng dùng bạn. Và nếu không ai có khả năng dùng bạn, bạn sẽ có cuộc sống đẹp của riêng bạn, độc lập, tự do, vui vẻ. Nếu không ai có thể dùng bạn, không ai có thể qui giản bạn thành phương tiện. Bạn sẽ không bao giờ bị xúc phạm, bởi vì trong cuộc sống này không có xúc phạm nào lớn hơn là trở thành phương tiện: ai đó hay người khác sẽ dùng bạn - thân thể bạn, tâm trí bạn, con người bạn.
Lão Tử nói: Trở thành vô thực thể để cho không ai nhìn vào ông và ông có thể sống cuộc sống của ông như ông muốn sống nó. Không ai tới để can thiệp vào bạn. Chuyện xảy ra là đệ tử của Lão Tử, Trang Tử, trở nên rất nổi tiếng và Hoàng đế phái thượng thư của ông ấy tới mời Trang Tử ra làm thừa tướng. Lão Tử giận lắm. Ông ấy nói 'Ông phải đã làm cái gì đó sai rồi, bằng không sao Hoàng đế trở nên quan tâm tới ông? Ông phải đã chứng tỏ bản thân ông có cái dụng nào đó. Ông phải đã bỏ lỡ giáo huấn của ta, bằng không làm sao có chuyện Hoàng đế đã trở nên quan tâm tới ông? Bây giờ ông sẽ không bao giờ được thanh thản đâu.'
Và vô thực thể để không ai thậm chí nghĩ rằng bạn có thể có cái dụng nào. Có cái vô dụng mà cực kì hữu dụng. Lão Tử gọi nó là 'cái dụng của vô dụng'. Nhưng chắc chắn không có giá trị trong nó, ít nhất không giá trị thị trường. Thông thường, bạn muốn trở thành giá trị nào đó - bác sĩ, kĩ sư, hoạ sĩ, nhà thơ, mahatma - bạn muốn trở thành ai đó người có giá trị, người trở thành không thể thiếu được cho thế giới. Bạn cảm thấy rất hạnh phúc nếu mọi người tới và nói 'Khi ông đi chúng tôi sẽ không bao giờ có khả năng thay thế được ông.' Bạn cảm thấy cực kì hạnh phúc, nhưng họ đang nói gì? Họ đang nói 'Ông là thứ chúng tôi đang dùng.' Bạn càng trở nên không thể thiếu được, bạn càng bị qui giản thành một vật, tự do của bạn càng bị mất đi. Nếu bạn có thể chết cứ dường như không cái gì đã xảy ra, nếu bạn biến mất khỏi thế giới và thậm chí không một dấu vết được bỏ lại, thế thì....
Chuyện xảy ra là một Đạo nhân chết và Liệt Tử tới để bày tỏ kính trọng của ông ấy, nhưng đã có hàng nghìn người tụ tập rồi. Ông ấy phân vân, và không chú ý tới kính trọng của ông ấy với người chết và xác chết của ông này, ông ấy quay về. Vài người theo ông ấy và họ nói 'Sao vậy? Ông đã tới để bày tỏ kính trọng - sao ông quay về?' Ông ấy nói 'Người này không thể đã là con người của Đạo được. Nhiều người thế kêu và khóc, bằng cách nào đó ông ấy phải đã trở thành không thể thiếu được cho cuộc sống của họ. Ông ấy phải đã chứng tỏ có hữu dụng nào đó, bằng không tại sao những người này kêu khóc cứ dường như bố họ đã chết hay mẹ họ đã chết hay con họ đã chết? Tại sao những người này kêu khóc vậy? Ông ấy phải đã không hoàn toàn vô dụng. Hữu dụng nào đó phải đã có đó - đó là lí do tại sao ta quay về. Ông ấy đã không theo Thầy một cách đúng đắn.'
Cách tiếp cận của họ là ở chỗ có giá trị, giá trị tối thượng, trong việc là không ai cả, trong việc là trống rỗng, trong việc không hữu dụng. Khi bạn không hữu dụng cho nhân loại, bạn trở thành cực kì hữu dụng cho Thượng đế. Thế thì ngài bắt đầu tuôn chảy qua bạn: thế thì bạn trở thành phương tiện - bởi vì bạn trống rỗng thế ngài có thể chảy qua bạn. Bạn trở thành cây trúc hổng, ngài có thể hát bài ca của ngài qua bạn. Khi bạn cho phép môi con người hát bài ca qua bạn, Thượng đối bị phủ nhận. 'Trong trống rỗng không có đánh giá trị' người này nói, 'Tại sao thầy coi trống rỗng là có giá trị?' Liệt Tử nói 'Giá trị không phải là cái tên cho nó.' Nó giá trị tới mức bạn chỉ có thể gọi nó là vô giá trị. Giá trị không phải là cái tên cho nó: giá trị nghĩa là hàng hoá, giá trị nghĩa là cái có thể được xác định dưới dạng sử dụng con người, cái có thể trở thành phương tiện và không phải là mục đích. Mục đích không thể có giá trị theo nghĩa thường của thuật ngữ này. Chẳng hạn, nếu ai đó hỏi bạn 'Bạn yêu, nhưng giá trị của yêu là gì?' bạn sẽ nói gì? Bạn sẽ nói 'Giá trị không phải là cái tên cho nó.' Yêu không phải là giá trị theo cùng nghĩa mà xe có giá trị, nhà có giá trị. Tiền có giá trị, sức khoẻ có giá trị, nhưng yêu sao? Yêu là điều tối thượng, mục đích. Bạn yêu chỉ vì yêu thôi. Nó không phải là phương tiện cho bất kì cái gì khác, nó là mục đích riêng của nó. Giá trị của nó là bản chất, giá trị của nó là trong bản thân nó; nó không phải là đi ra ngoài.
Nếu ai đó hỏi 'Giá trị của sống là gì?' Chắc chắn bạn sẽ nói 'Giá trị không phải là tên cho nó.' 'Tại sao bạn sống?' Bạn sẽ nói 'Vì tôi tận hưởng việc sống.' 'Nhưng giá trị của nó là gì?' 'Giá trị... làm gì có.' Tất cả những cái đó là vô giá trị theo nghĩa bình thường của từ này, nhưng bởi vì điều tối thượng, mọi thứ khác đều có giá trị. Cho nên giá trị không phải là cái tên cho nó, mặc dầu mọi giá trị đều tồn tại bởi nó. Bạn đi tới văn phòng, bạn làm việc, điều đó có giá trị: bạn sẽ được một nghìn ru pi mỗi tháng. Và thế rồi bạn về và đưa một nghìn ru pi cho vợ bạn vì bạn yêu người đàn bà này. Bạn làm việc cho cô ấy, bạn làm việc cho con bạn - bạn yêu họ. Tình yêu không có giá trị. Công việc của bạn có giá trị, nhưng chung cuộc mọi thứ có giá trị đều tới dưới chân của cái vô giá trị, hay vô giá.
Nhớ lấy, mục đích không thể có giá trị nào. Đó là lí do tại sao Đạo nhân nói rằng cuộc sống không có chủ định. Điều đó làm mọi người choáng. Một hôm một người tới tôi và người đó nói 'Chủ định của cuộc sống là gì'? Và tôi nói 'Không có chủ định. Cuộc sống đơn giản hiện hữu.' Người đó không thoả mãn. Người đó nói 'Tôi đã tới từ rất xa.' Người đó đã tới từ Nepal, và người đó nói 'Tôi là một người già, một giáo sư về hưu. Đừng để tôi đi với hai bàn tay trắng. Tôi đã tới để hỏi chỉ một điều: Chủ định của cuộc sống là gì?' Và tôi nói 'Nếu tôi có thể để ông đi với hai bàn tay trắng thế thì cuộc hành trình của ông đã là có chủ định rồi, bởi vì tay trắng là mục đích.' Người đó nói 'Đừng nói điều thách đố. Cứ bảo tôi, trong ngôn ngữ rõ ràng, chủ định của cuộc sống là gì?'
Bây giờ người này không thể hiểu được rằng người đó đang hỏi câu hỏi ngớ ngẩn. Cuộc sống không thể có bất kì chủ định nào, bởi vì nếu cuộc sống có bất kì chủ định nào thế thì cái gì đó sẽ trở thành có giá trị hơn cuộc sống, và lần nữa câu hỏi sẽ nảy sinh: Chủ định của điều đó là gì? Nếu chúng ta nói: Cuộc sống là để đạt tới chân lí, thế thì chân lí trở thành chủ định thực. Nhưng thế thì chủ định của chân lí là gì? Nếu chúng ta nói: Cuộc sống là để tìm kiếm Thượng đế, thế thì câu hỏi nảy sinh: 'Chủ định của Thượng đế là gì'? Hay về việc đạt tới Thượng đế? Hay về việc nhận ra Thượng đế? Đến cuối cùng bạn phải vứt bỏ từ 'chủ định', chung cuộc bạn phải vứt bỏ nó.
Vâng, giá trị không phải là cái tên cho nó, chủ định không phải là cái tên cho nó; và nếu bạn hiểu sáng suốt này, ánh sáng lớn lao sẽ nảy sinh trong bạn. Cuộc sống không có chủ định và không có giá trị. Yêu không có chủ định và không có giá trị. Thượng đế không có chủ định và không có giá trị. Chân lí không có chủ định và không có giá trị. Điều đó nghĩa là Thượng đế, cuộc sống, chân lí, tình yêu, đều chỉ là bốn cái tên cho cùng một điều. Chúng là không khác, bởi vì chỉ có thể có một điều mà không có chủ định nào - mọi thứ khác đều có chủ định bởi vì nó. Nó là cao nhất, chính đỉnh cao.
Mới đêm hôm nọ, một phụ nữ đã nói 'Rất khó cho tôi hiểu điều thầy ngụ ý khi thầy nói "Thượng đế" bởi vì tôi không tin vào Thượng đế. Tôi chưa bao giờ tin vào Thượng đế. Tôi muốn hiểu, nhưng khoảnh khắc tôi dùng từ "Thượng đế" cái gì đó đi sai trong đầu tôi - tôi trở nên bị đóng.' Tôi nói với cô ấy 'Bạn làm một điều đơn giản: bất kì khi nào tôi nói "Thượng đế", đọc nó là "cuộc sống" - điều đó sẽ có tác dụng. Bất kì khi nào tôi nói "Thượng đế", nghe nó là "cuộc sống" - lập tức dịch nó thành "cuộc sống". Cô ấy rất sung sướng.
Chúng ta bị cố định vào lời làm sao! Nếu tôi nói 'Thượng đế' điều đó tạo ra sự phủ định trong ai đó, nếu tôi nói 'cuộc sống' nó sẽ tạo ra sự phủ định trong ai đó khác. Và tôi đang chỉ đổi tên... và, 'hoa hồng là hoa hồng là hoa hồng' bởi bất kì cái tên nào nó được gọi. Bạn có thể gọi nó là 'hoa nhài' - hoa hồng vẫn còn là hoa hồng. Chỉ có một cái là điều tối thượng. Những người khác nhau có những cái tên khác nhau cho nó. Cái một đó là vô giá trị bởi vì nó là giá trị tối thượng. Bên ngoài nó không cái gì tồn tại, cho nên nó không thể có giá trị cho cái gì đó khác. Bạn không thể dùng được nó như bàn đạp vì không có gì bên ngoài nó; nó là cõi bên kia.
Liệt Tử nói
"Giá trị không phải là cái tên cho nó.
Tốt nhất là tĩnh lặng, tốt nhất là trống rỗng.
Trong tĩnh lặng và trống rỗng,
Chúng ta thấy nơi trú ngụ;
Lấy và cho,
Chúng ta mất chỗ đó."
"Tốt nhất là tĩnh lặng..."
Bây giờ, thay vì trả lời giá trị là gì hay tại sao trống rỗng có giá trị, nhấn mạnh của Liệt Tử là vào kinh nghiệm. Cách tiếp cận của Đạo nhân về căn bản mang tính tồn tại. Họ không tin vào suy đoán và khái niệm trừu tượng. Họ nói: Ông có thể kinh nghiệm nó, cho nên tại sao vay mượn tri thức gián tiếp? Thực ra, Thượng đế không bao giờ có thể là gián tiếp; ngài phải là trực tiếp. Bạn không thể vay mượn Thượng đế của tôi - Thượng đế của tôi là Thượng đế của tôi. Bạn sẽ phải đi về Thượng đế riêng của bạn. Tất nhiên khi bạn đã về, bạn sẽ thấy rằng Thượng đế của tôi và Thượng đế của bạn là như nhau, nhưng bạn sẽ phải về tới nó theo cách riêng của bạn; nó phải nở hoa trong bản thể riêng của bạn.
Có câu chuyện Đạo:
Vương tử Hoảng, ngồi phía trên trong phòng của mình đang đọc sách, và người sửa xe Bình đang làm bánh xe phía dưới phòng. Để búa và đục sang bên, Bình đi lên và nói 'Tôi cả gan hỏi điện hạ, điện hạ đang đọc lời gì ạ?' Vương tử nói 'Lời của hiền nhân.' 'Những hiền nhân đó còn sống không?' Bình tiếp tục. 'Họ chết cả rồi' là lời đáp. 'Thế thì' Bình nói 'điều điện hạ, người cai trị, đang đọc chỉ là cặn và bã của những người già đó.' Vương tử nói 'Làm sao ngươi, kẻ làm bánh xe, có gì mà nói về sách ta đang đọc? Nếu ngươi có thể tự giải thích cho ngươi, rất tốt; nếu ngươi không thể giải thích được, ngươi sẽ phải chết. Ta sẽ giết ngươi.' Ông ta rất bực. Điều này là quá thể! Người làm bánh xe đi tới hoàng tử và nói 'Bất kì điều gì điện hạ đang đọc cũng không là gì ngoài cặn và bã của những người già đã chết đó!' Người làm bánh xe nói 'Người hầu của bệ hạ sẽ nhìn vào sự việc từ quan điểm của nghệ thuật riêng của anh ta.
Trong khi làm bánh xe, nếu tôi bắt đầu một cách mềm yếu, điều đó là đủ hài lòng nhưng tay nghề không mạnh; nếu tôi bắt đầu mạnh bạo, điều đó là cực nhọc và chỗ nối không khớp. Nếu chuyển động của tay tôi không quá mềm yếu không quá mạnh bạo, ý tưởng trong tâm trí tôi được thực hiện. Nhưng tôi không thể nói được làm sao làm điều này bằng miệng.' Không quá mạnh bạo, không quá mềm yếu - chỉ ở giữa, được cân bằng...  Và người sửa xe nói ' Nhưng tôi không thể nói được làm sao làm điều này bằng miệng, làm sao đạt tới điểm giữa tuyệt đối này, giữa nỗ lực và vô nỗ lực, giữa làm và vô làm. Tôi không thể nói làm sao làm điều này bằng miệng; có mẹo cho nó, nhưng dầu vậy tôi không thể nói nó ra được. Tôi biết nó, dầu vậy tôi không thể nói ra được nó.
Tôi có thể dạy mẹo này cho con tôi, ngay cả với con tôi - con tôi không học được nó từ tôi. Không có cách nào để dạy nó và không có cách nào để học nó. Học và dạy, dạy và học, chỉ có thể của cái bên ngoài - nó là cảm giác bên trong. Do vậy vấn đề là tôi đang ở độ tuổi bẩy mươi, và vẫn làm bánh xe trong tuổi già của tôi. Nhưng những người cổ đại này, và cái điều không thể được cho họ truyền đạt, là đã chết và qua rồi. Cho nên điều điện hạ, người cai trị, đang đọc chỉ là cặn và bã của họ thôi!' Ông ấy đang nói 'Tôi còn sống, tôi biết mẹo về nó, dầu vậy tôi không thể truyền đạt được nó, tôi không thể truyền được tri thức của tôi. Và tôi đang sống và tôi biết, và tôi yêu con tôi và tôi muốn.... Và tôi già thế, trong độ tuổi bẩy mươi rồi, và dầu vậy tôi vẫn phải làm việc. Nếu tôi có thể dạy được cho con tôi, tôi sẽ về hưu. Nhưng nếu trong khi tôi còn sống tôi không thể truyền đạt được nó, làm sao những hiền nhân già này những người đã chết truyền đạt được cái gì đó mà chỉ có thể được kinh nghiệm? Nó không thể được truyền đạt khi hiền nhân còn sống, vậy làm sao nó được truyền đạt khi hiền nhân này đã qua đời từ nhiều thế kỉ rồi? Điện hạ chỉ phí thời gian của mình, thưa điện hạ' ông ấy nói. 'Đây toàn là rác rưởi.' Ông già này là con người của Đạo. Đạo nhân có chuyện ngụ ngôn hay như thế này: một người thường, người nghèo, người làm bánh xe - không ai biết về người đó, nhưng người đó có sáng suốt. Toàn thể cách tiếp cận của Đạo giáo là ở chỗ chỉ kinh nghiệm mới có thể cho bạn manh mối. Câu hỏi có thể được hỏi, câu hỏi có thể được trả lời, nhưng chúng không có giá trị tối thượng. Bạn phải ăn để biết hương vị, bạn phải yêu để biết tình yêu là gì. Không có cách nào truyền đạt nó, đó là tại sao, thay vì trả lời, Liệt Tử nói 'Tốt nhất là tĩnh lặng...'.
Vâng, giá trị không phải là cái tên cho nó. Tĩnh lặng đi. Và ông ấy ngụ ý gì bởi "Tĩnh lặng đi"? Bạn liên tục vẩn vơ, bạn chưa bao giờ tĩnh lặng. Ngay cả khi bạn ngồi như tượng bạn vẫn đang vẩn vơ. Tâm trí bạn liên tục chạy theo mọi hướng, ngọn lửa bên trong của bạn chưa bao giờ không chập chờn. Nó liên tục đi sang bên này, bên kia; qua ham muốn này hay ham muốn khác, bạn đang bị kéo và đẩy. Khi không có ham muốn - thậm chí không muốn đạt tới Thượng đế, thế thì người ta tĩnh lặng. Khi mọi ham muốn bị phủ định, đó là nghĩa của qua phủ định. Khi tất cả ham muốn bị phủ định, đột nhiên bạn tĩnh lặng. Không đâu mà đi, không đâu mà chuyển. Không gió thổi. Ham muốn là gió cứ thổi bên trong bạn và giữ ngọn lửa bên trong bạn chập chờn, đó là lí do tại sao bạn không tĩnh lặng. Ngay cả trong giấc ngủ bạn cũng không tĩnh lặng. Ngay cả khi bạn ngồi trong thiền, im lặng đấy, bạn không tĩnh lặng.
Mới hôm nọ ai đó đã hỏi: 'Trong thiền ý nghĩ không dừng lại, chúng tiếp tục - thực ra, chúng tới nhiều hơn.' Khi bạn bị dính líu vào cuộc sống bình thường, thường ngày, chúng không tới nhiều thế - bạn bị dính líu, tham gia. Nhưng khi bạn ngồi, không làm gì, thế thì toàn thể năng lượng của bạn đi vào trong ý nghĩ. Thế thì cơn bão lớn nảy sinh trong bản thể bạn: ý nghĩ và ý nghĩ, và thỉnh thoảng bạn thậm chí không thể tin được cái kiểu ý nghĩ gì! Kí ức của quá khứ: ba mươi năm trước cái gì đó đã xảy ra, đột nhiên nó bật ra. Hay ý nghĩ về tương lai: vợ bạn có thể thậm chí không mang thai và bạn bắt đầu nghĩ 'Khi nào con được sinh ra, chúng ta cho nó tới đại học nào?' Những điều không thể được cứ kéo bạn, đẩy bạn, và bạn biết rằng điều này là vô nghĩa. Nhiều lần bạn nhận ra và muốn vứt bỏ nó, nhưng bạn đơn giản cảm thấy bất lực.
Ý nghĩ không thể bị dừng lại một cách trực tiếp - để điều đó được hiểu rất sâu sắc. Để điều đó chìm vào trong bản thể bạn: Ý nghĩ không thể được dừng lại một cách trực tiếp bởi vì ý nghĩ không là gì ngoài kẻ hầu của ham muốn. Khi ham muốn có đó, bạn không thể dừng được ý nghĩ. Người chủ có đó kẻ hầu nhất định phải theo sau. Bạn muốn dừng ý nghĩ này. Điều này là ngu xuẩn, đần độn: vợ bạn thậm chí không mang thai, và bạn đang nghĩ về đứa con đã trở nên lớn và sắp vào đại học - cho nó tới đại học nào - Cambridge hay Oxford? Và bạn phân vân thế - cho nó đi đâu? Trường nào sẽ là tốt nhất? Và đột nhiên bạn nhận ra: Vô nghĩa làm sao! Thật là đần độn. Thế thì sao nó nảy sinh?
Vấn đề không phải là bản thân ý nghĩ. Bạn có ham muốn, bạn có tham vọng; nhiều điều vẫn còn không được hoàn thành trong bạn - bạn muốn hoàn thành chúng qua con bạn. Đứa con không là gì ngoài việc nhân cách hoá cho tham vọng của bạn. Bạn muốn tới Oxford và bạn không thể đi được; bạn muốn đi dưới dạng của con bạn - đó là lí do tại sao ý tưởng này đã nảy sinh, ý nghĩ này đã nảy sinh. Ba mươi năm đã trôi qua và cái gì đó đột nhiên trồi lên bề mặt. Không cái gì đột nhiên cả, không cái gì là vô nguyên nhân trong tâm trí. Nếu nó nảy sinh, điều đó nghĩa là cái gì đó có đó trong nó; bạn không thể đơn giản gọi nó là ngu xuẩn và vứt nó đi được. Ba mươi năm trước ai đó đã xúc phạm bạn và nó vẫn còn xanh; vết thương vẫn còn đau. Ngồi im lặng, vết thương đi lên bề mặt. Bị bận bịu trong cả nghìn lẻ một thứ của thế giới bạn quên mất về nó. Nhưng khi bạn không bận, vết thương mở ra; vết thương bắt đầu cho bạn thông điệp: 'Làm cái gì đó về tôi đi. Tôi vẫn còn xanh đây. Tôi còn chưa được lành. Làm cái gì đó về tôi!' Bao nhiêu lần vết thương này đã tự lộ nó ra cho bạn, và bao nhiêu lần bạn đã quyết định báo thù hay làm cái gì đó? Và nó cứ tới lặp đi lặp lại, và dầu vậy bạn có ham muốn để báo thù kẻ thù đã xúc phạm bạn.
Vấn đề không phải là ý nghĩ, vấn đề là ham muốn. Cứ phân tích ý nghĩ của bạn và bạn bao giờ cũng thấy rằng ý nghĩ là kẻ hầu, và ẩn đâu đó là ông chủ, được bảo vệ bởi kẻ hầu. Giết chết ông chủ và kẻ hầu biến mất. Cứ giết kẻ hầu và chẳng cái gì sẽ xảy ra - ông chủ sẽ cứ đem kẻ hầu mới tới. Khi ông chủ còn sống, ông ta sẽ cứ đem kẻ hầu mới tới; bạn có thể cứ giết kẻ cũ, ông ta sẽ cung cấp kẻ mới. Ý nghĩ không bao giờ dừng theo cách riêng của nó. Chúng dừng lại chỉ khi tâm trí ham muốn biến mất. Đó là nghĩa của 'Tốt nhất là tĩnh lặng...'. Đó là cách nói của Đạo nhân: Vô ham muốn đi. Do đó họ nói: Ngay cả ham muốn biết Thượng đế, đạt tới Thượng đế, là rào chắn. Chỉ tĩnh lặng, không ham muốn, cứ dường như không cái gì phải được làm, cứ dường như không cái gì sẽ xảy ra. Tuyệt đối vô vọng, bởi vì hi vọng không là gì ngoài cái tên mới cho ham muốn. Hi vọng là cái tên đẹp cho ham muốn. Ham muốn như cái tên có chút ít xấu, ham muốn có chút ít trần truồng, loã lồ. Hi vọng là ham muốn được mặc quần áo.
Vô hi vọng đi. Chẳng cái gì sẽ xảy ra đâu. Chẳng cái gì đã bao giờ xảy ra. Không có tương lai, cho nên vứt mọi tham vọng. Chỉ khoảnh khắc này tồn tại, cho nên đừng chạy xô đi đây đó; điều đó là vô nghĩa, nó là thần kinh, nó là điên khùng. Chỉ thảnh thơi trong khoảnh khắc này, chỉ hiện hữu. Đó là nghĩa của 'Tốt nhất là tĩnh lặng...'. Và khác biệt này phải được hiểu. Nếu bạn đi tới thầy Yoga ông ấy sẽ bảo bạn cách tĩnh lặng. Ông ấy sẽ bảo bạn tư thế nào sẽ giúp bạn tĩnh lặng, cách thở, theo nhịp điệu nào tĩnh lặng sẽ dễ dàng hơn, liệu nhắm mắt hoàn toàn hay chỉ nhìn vào chỏm mũi bạn. Ông ấy sẽ cho bạn chỉ dẫn, hướng dẫn, ông ấy sẽ cung cấp cho bạn bản đồ. Đạo nhân không có bản đồ nào. Họ nói: Nếu ông thử tư thế đặc thù và ông nhìn vào mũi ông và ông thở theo cách nào đó, ông sẽ áp đặt tĩnh lặng nào đó mà không thực. Nó được luyện tập, nó là thứ được thực hành, nó là giả.
Tĩnh lặng thực chẳng liên quan gì tới bất kì thực hành nào. Tĩnh lặng thực không tới từ bài tập. Tĩnh lặng thực tới từ hiểu biết rằng ham muốn là vô tích sự. Cố hiểu điều này. Trong Đạo không có bài tập. Họ không có gì giống như Yoga sutras của Patanjali Họ không có 'tám bờ của Yoga'. Họ không bảo bạn tư thế nào, kỉ luật nào, kiểu đạo đức nào... ăn gì, không ăn gì, khi nào đi ngủ và thức dậy buổi sáng. Họ không bảo bạn cái gì, bởi vì họ nói tất cả những điều này có thể cho bạn kinh nghiệm sai về tĩnh lặng; chúng có thể áp đặt nó. Và điều này phải được hiểu. Khi bạn ngồi theo tư thế nào đó bạn có thể giúp cho tâm trí trở nên tĩnh lặng thêm chút ít. Nếu thân thể là hoàn toàn tĩnh lặng, tâm trí trở nên tĩnh lặng chút ít bởi vì tâm trí và thân thể không phải là hai thứ; phân chia là không rõ ràng. Tâm trí và thân thể được nối với nhau. Thay vì nói bạn là tâm trí và thân thể, bạn là tâm-thân: một từ thôi. Từ 'và' là không đúng - bỏ nó đi: 'tâm-thân', 'tâm thân'. Tâm trí là thân thể bên trong nhất của bạn và thân thể là tâm trí bên ngoài nhất của bạn. Cho nên khi thân thể tĩnh lặng, một cách tự nhiên rung động nào đó của tĩnh lặng đạt tới tâm trí bên trong nhất: nó tạo ra cơ sở vật lí và bạn cảm thấy tĩnh lặng chút ít.
Thử nó theo cách khác nào đó. Khi bạn giận bạn làm gì? Bạn nghiến răng, bạn siết chặt nắm đấm. Tại sao? Bạn không thể chỉ giận mà không nghiến răng và siết nắm đấm sao? Một hôm này đó thử: cứ giận mà không siết nắm đấm, không nghiến răng. Vẫn còn được thảnh thơi trong thân thể và thử giận xem, và bạn sẽ thấy điều đó là không thể được. Làm sao bạn có thể giận được nếu bạn không có sự giúp đỡ của thân thể? Và thế rồi một ngày nào đó bạn thử: không giận gì, siết nắm đấm và nghiến răng - chỉ biểu lộ cử chỉ của giận, và đột nhiên bạn sẽ thấy một loại giận dữ nào đó nảy sinh trong bạn. Bạn có thể trở nên giận dữ chỉ bởi việc tạo ra - đó là điều diễn viên làm. Diễn viên phải hành động trong khoảnh khắc khi người đó có thể không cảm thấy giận dữ và người đó phải giận dữ. Người đó được giả định làm gì? Người đó sẽ làm phần thân thể, và phần tâm trí nấn ná với nó. Người đó không cảm thấy hạnh phúc, nhưng người đó phải làm về phần thân thể; người đó biểu lộ hạnh phúc, và một loại hạnh phúc đi theo sau lưng nó.
Thân thể và tâm trí đi cùng nhau. Đạo nhân nói điều này phải được hiểu, bằng không bạn sẽ tạo ra tĩnh lặng giả. Tĩnh lặng được tạo ra bởi tư thế thân thể không phải là tĩnh lặng thực; nó là thủ đoạn. Nó gần như hoá chất như khi bạn uống thuốc an thần; nó là thuốc. Nếu bạn cứ nhịn ăn bạn sẽ cảm thấy rất yên tĩnh bởi vì hoá chất của thân thể thay đổi: thân thể có ít việc phải làm, được nhiều thảnh thơi hơn; dạ dầy không có gì để làm, được nhiều thảnh thơi hơn. Và khi dạ dầy không có gì để làm, nhiều năng lượng hơn được thoát ra từ dạ dầy hướng tới đầu. Điều đó bạn biết. Khi bạn ăn quá nhiều, đột nhiên bạn bắt đầu cảm thấy buồn ngủ bởi vì dạ dầy lấy mọi năng lượng có thể để tiêu hoá thức ăn. Cái đầu không rất quan trọng - nó là thứ xa hoa - cho nên khi dạ dầy cần năng lượng, năng lượng đi tới dạ dầy và lập tức phải rời khỏi đầu. Đó là lí do tại sao bạn bắt đầu cảm thấy buồn ngủ và mắt bắt đầu nhắm lại và bạn bắt đầu ngáp: điều đó đơn giản nói rằng năng lượng đã bị lấy khỏi đầu tới dạ dầy. Bạn rơi vào giấc ngủ. Bạn có quan sát không? Khi bạn không ăn ngon, ngủ tới khó, bởi vì khi dạ dầy không có gì để làm, năng lượng được thoát ra. Lập tức năng lượng đi lên đầu và ở đó nó bắt đầu làm việc và tưởng tượng và suy nghĩ.
Cho nên khi một người nhịn ăn, sau ba, bốn ngày người đó cảm thấy rất yên tĩnh. Nhưng đây là thay đổi hoá học, nó không phải là yên tĩnh thực. Cho người đó thức ăn và nó sẽ biến mất. Cho nên đây là kiểu thay đổi gì vậy? Nếu một người cứ nhịn ăn trong nhiều ngày người đó sẽ cảm thấy không dâm dục nào đó nổi lên trong người đó, brahmacharya. Cái đó là giả bởi vì thức ăn phải cung cấp năng lượng dục. Nếu thức ăn không được cho thân thể, năng lượng dục không được tạo ra, năng lượng dục biến mất. Sau ba tuần nhịn ăn, đàn ông sẽ không quan tâm tới đàn bà và đàn bà sẽ không quan tâm tới đàn ông. Đó là điều đã lừa nhiều người tôn giáo. Thế thì họ nghĩ họ đã đạt tới brahmacharya. Đây không phải là brahmacharya - nó là một loại bất lực. Họ đã mất khí lực, họ đã mất sinh khí.
Và khi họ trở nên sợ thức ăn, thế thì họ không thể ăn tốt, bởi vì khoảnh khắc họ ăn tốt, lập tức năng lượng được cung cấp cho cơ quan dục và dâm dục lại nảy sinh. Đạo là cách tiếp cận khác toàn bộ. Nó không nói trau dồi, nó nói hiểu biết. ' Tốt nhất là tĩnh lặng...' Qua hiểu biết. Qua nhận biết. '…Tốt nhất là trống rỗng. Trong tĩnh lặng và trống rỗng, Chúng ta thấy nơi trú ngụ...' Trong trống rỗng và tĩnh lặng.... Trống rỗng là gì? Trống rỗng nghĩa là bạn không có. Bình thường ý tưởng rằng bạn không là gì ngoài tích luỹ của mọi hành động của bạn. Bạn đã làm điều này, bạn đã làm điều kia, bạn đã được giải thưởng, bạn đã trở nên thành công trong kinh doanh, bạn có số dư ngân hàng lớn, bạn nổi tiếng, bạn là tác giả của nhiều sách; bạn đã làm nhiều thứ. Những thứ đó gắn cùng nhau làm cho bạn thành ai đó. Trống rỗng nghĩa là: Vứt bỏ mọi cái bạn đã làm, quên mọi cái bạn đã làm. Quên quá khứ, chính bởi vì quá khứ mà bạn cảm thấy rằng bạn là ai đó. Nghĩ mà xem. Nếu quá khứ của bạn có thể đơn giản bị tẩy đi chính khoảnh khắc này, bạn sẽ là ai? Nếu chính khoảnh khắc này, bằng phép màu nào đó, quá khứ của bạn có thể bị bỏ đi, bạn sẽ là ai? Bạn sẽ không biết bạn là ai. Cho nên bất kì cái gì là bạn, đều là quá khứ của bạn. Và bởi trống rỗng Đạo nhân ngụ ý: vứt bỏ quá khứ. Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi cho bạn tính chất sannyas.
Bạn hỏi tôi 'Tính chất sannyas là gì?' Nó có cả nghìn lẻ một nghĩa. Một trong các nghĩa quan trọng nhất là vứt bỏ quá khứ, thoát ra khỏi quá khứ riêng của bạn như con rắn tuồn ra khỏi bộ da cũ. Quên quá khứ, bắt đầu mới, được tái sinh - do đó có cái tên mới, bởi vì với cái tên cũ quá khứ được liên kết; do đó có mầu sắc mới, vì với quần áo cũ quá khứ được liên kết. Bạn đã không quan sát sao? Khi bạn mặc quần áo theo cách nào đó, bạn cư xử theo cách nào đó; khi bạn mặc quần áo nào đó bạn bước đi theo cách nào đó.
Không nước nào đã cho phép quân lính của mình được dùng quần áo chùng bởi vì mặc quần áo chùng và đánh nhau là mâu thuẫn. Chỉ các sannyasins, fakirs, đã dùng quần áo chùng vì họ không đánh nhau. Người lính phải mặc quần áo chật, chật tới mức anh ta muốn nhảy ra khỏi nó, chật tới mức anh tra trở nên giận tới mức anh ta sẽ muốn nghiền nát đầu ai đó; chật tới mức anh ta không thể thoải mái - bất ổn. Điều đó tạo ra bạo hành. Bạn có thể thấy, bạn có thể đi - Poona là doanh trại quân sự - bạn có thể đi. Họ không cho phép lính tráng của họ tới đây; họ có lệnh: Không bao giờ tới gặp Đạo tràng Rajneesh. Vài người tới - họ tới như kẻ trộm. Và tôi hiểu. Họ là đúng, bởi vì nếu bạn tới đây bạn sẽ không là lính, bạn sẽ trở thành sannyasin và đây là mâu thuẫn. Họ là đúng, những người đã ra lệnh từ Delhi là đúng, bởi vì đây là thế giới khác toàn bộ. Tôi đang dạy bạn chùng lỏng và họ đang dạy bạn phải chặt. Bạn càng bồn chồn căng thẳng, bạn càng sẽ là người lính tốt hơn - nguy hiểm hơn, tất nhiên, bởi vì bạn sẵn sàng bùng nổ bất kì lúc nào. Bạn có thể tới doanh trại quân sự, bạn có thể thấy họ ăn vận trong quần áo không thoải mái thế nào. Điều đó là cần thiết. Nếu họ mà thoải mái họ sẽ thảnh thơi và đi ngủ. Họ phải bị giữ trong dồn nén, và dồn nén bên trong của họ đưa tới trạng thái rối loạn mà họ sẽ muốn ném nó lên bất kì ai.
Đổi quần áo của bạn, đổi tên của bạn, chỉ là một cử chỉ: rằng bạn bị ngắt ra khỏi quá khứ của bạn. Một khi bạn được ngắt ra khỏi quá khứ của bạn, bạn là trống rỗng. Thế thì bạn không biết bạn là ai, bởi vì mọi ý tưởng rằng bạn có bản thân bạn tới từ quá khứ, do quá khứ tạo ra. Thiền về sự kiện này đi. Nếu quá khứ không có đó, bạn là ai? Shree Ramana hay bảo đệ tử của ông ấy thiền chỉ một điều: Tôi là ai? Nếu bạn cứ thiền về câu mật chú đơn giản này: Tôi là ai? sớm hay muộn bạn sẽ hiểu rằng bạn không là thân thể. Bạn không là thân thể, bạn không là tâm trí; không phải là con ai đó, không là bố ai đó; không giầu, không nghèo. Bạn là không ai cả. Ngày bạn trở thành cái không bạn đã đi tới biết bạn là ai. Bạn là cái không đó. '... tốt nhất là trống rỗng. Trong tĩnh lặng và trống rỗng, Chúng ta thấy nơi trú ngụ; Trong trống rỗng là nhà bạn. Bạn trở thành ngôi đền, điện thờ. Trong trống rỗng đó bùng cháy ngọn lửa của tâm thức bạn, và ngọn lửa đó là của Thượng đế, của Đạo. Đây là qua phủ định. Lấy và cho, Chúng ta mất chỗ đó.'
Khoảnh khắc bạn bắt đầu nghĩ tới lấy và cho - làm cái này, không làm cái nọ, quan hệ, kết nối, với mọi người - bạn làm mất chỗ của bạn, bạn làm mất ngọn lửa bên trong của bạn, bạn làm mất tiếp xúc bên trong của bạn. Điều này chỉ là vậy lúc ban đầu. Liệt Tử đang nói tới người hỏi mới vì người đó nói điều này. Ban đầu điều đó sẽ xảy ra. Bất kì khi nào bạn một mình, tĩnh lặng, im lặng, đột nhiên bạn sẽ được định tâm, tiếp đất; bạn sẽ cảm thấy vui vẻ vô cùng của việc không hiện hữu, của việc là không ai cả. Cái không của bạn sẽ chói sáng, nó sẽ đầy ánh sáng, hương thơm, phúc lành và cái đẹp. Nhưng lúc ban đầu nó sẽ xảy ra lặp đi lặp lại rằng khoảnh khắc bạn có quan hệ với ai đó nó sẽ bị mất; bạn sẽ làm mất không gian bên trong của bạn. Nguy hiểm là ở chỗ bạn có thể trở nên sợ đặt quan hệ. Lúc ban đầu sợ là đúng, nhưng nếu nó trở thành thói quen và sợ trở nên ăn sâu, thế thì nó là nguy hiểm. Nguy hiểm đó xảy ra trong quá khứ ở phương Đông. Nhiều người trở nên sợ quan hệ: Phật tử trốn khỏi cuộc sống, Đạo nhân trốn lên Himalayas hay lên núi để cho không ở trong tiếp xúc bởi vì, Lấy và cho, Chúng ta mất chỗ đó.'
Nhưng điều đó không phải là nghĩa của Liệt Tử. Ông ấy nói: Vâng, lấy và cho, khi chúng ta đi tới bãi chợ, thiền bị mất. Thế thì, đầu tiên đạt tới thiền, thế rồi đi lại nữa và trở nên ngày một tỉnh táo hơn, để cho bạn có thể có khả năng một ngày nào đó có quan hệ và vẫn còn một mình cùng nhau; ở trong bãi chợ và vậy mà không ở đó; ở trong đám đông và vậy mà vẫn một mình. Điều đó là cao nhất. Điều đó không thể được nói cho đệ tử. Điều đó xảy ra chỉ khi người ta đã trở thành Thầy.
Với đệ tử này, Liệt Tử nói: Thế thì ông sẽ biết ông là ai, và thế thì đột nhiên ông sẽ thấy rằng cứ lấy và cho ông mất đi mất lại. Ông được, thế rồi khoảnh khắc đó ông kết nối, quan hệ - trong mối quan hệ với vợ, với chồng, với con, chợ, khách hàng, ông chủ - bạn làm mất nó. Điều đó lặp đi lặp lại; bất kì khi nào bạn thấy có thời gian, lại nối bản thân bạn với bản thân bạn. Dần dần, dần dần... chậm rãi, một ngày nào đó bạn sẽ thấy bạn có thể đứng ở bãi chợ và bạn vẫn còn một mình và im lặng như ở bất kì chỗ nào khác. Thế thì bạn đã trở thành hoa sen: bạn ở trong nước và nước không chạm vào bạn.
Đầu tiên phát triển, tiến hoá sunya - số không, cái trống rỗng và thế rồi đem nó vào thế giới. Bạn sẽ mất đi mất lại nó, điều đó đúng, nhưng bởi vì điều đó đừng cố chạy trốn khỏi thế giới, đừng trở thành kẻ trốn chạy. Điều đó là thách thức. Và đỉnh cao nhất được đạt tới chỉ khi không ai có thể quấy rầy không gian bên trong của bạn - không người nào, không tình huống nào, có thể quấy rối nó. Thế thì lần đầu tiên bạn đã trở thành người sở hữu nó. Thế thì bạn là người sở hữu và bạn bị nó sở hữu. Thế thì nó là của bạn, thực sự của bạn. Nhưng nếu cái gì đó có thể lấy nó đi, thế thì nó vẫn không là của bạn một cách toàn bộ. Bạn đã chạm tới nó, nhưng bạn còn chưa là người sở hữu. Tôi muốn kể cho bạn một giai thoại:
Ở một nước xa, có một nhà phát minh tài tình sống, người đã hơi gàn gàn chuyên sửa vụng ti vi. Trong quá trình thực nghiệm của mình anh ta đã làm ra một loại gương tâm trí, mà anh ta gọi là kính tâm lí, qua đó một người có thể nhìn thấy cái ta tâm trí của mình rõ ràng như người đó có thể thấy thân thể vật lí của mình nhìn trong gương. Sau khi công cụ này được làm hoàn hảo, một công ti đã tổ chức chế tạo nó, và cả nước tràn ngập với quảng cáo về nó. Nhà máy này sớm bị ngập với đơn đặt hàng. Vợ mua chúng về cho chồng họ - xin nhớ cho, vợ mua chúng cho chồng họ, và chồng mua chúng cho vợ họ và bố mẹ vợ chồng. Bố mẹ mua chúng cho con cái họ, và ngay cả trẻ con cũng mua chúng cho bố mẹ chúng. Người chủ đặt chúng với số lượng lớn cho nhân viên của họ. Người ta biết, hay có thể đấy chỉ là tin đồn, rằng duy nhất một cá nhân rất chu đáo trong cả nước, chuyện nói là vậy, đã thú nhận mua một chiếc cho việc dùng riêng của ông ấy. Nhà phát minh hãnh diện thấy bản thân mình có nhiều; hàng triệu thiết bị này đã được bán.
Thế rồi, với sự đột nhiên tương đương, số bán sụt xuống, và hiện tại rớt xuống số không. Các nhà nghiên cứu được phái đi để sục sạo cả nước đã báo cáo rằng các hiệu cầm đồ bị tràn ngập với kính tâm lí, trong khi hàng nghìn chiếc bị vỡ, hay được tìm thấy một cách huyền bí trong các thùng rác. Trong tuyệt vọng nhà phát minh tự đặt cho mình một nhiệm vụ mới. Ông ta đảo ngược nguyên lí của thiết bị này theo cách nó sẽ lí tưởng hoá cái ta được phản xạ. Trong nó cá nhân thấy bản thân người đó không như người đó vậy, nà như người đó muốn dường như lỗi của người đó được mạ vàng và nhuộm màu hoa hồng, và cái xấu của họ được đánh bóng bằng hồn nhiên. Đến cuối năm, người ta nói vậy, công ti tuyên bố tiền lãi năm mươi phần trăm.
Phần lớn trong chúng ta không muốn thấy bản thân mình như chúng ta vậy, không muốn lấy cái nhìn thứ hai vào trong gương tâm trí. Nhưng người sẽ xác nhận cho chúng ta trong ảo tưởng yêu thích chúng ta ấp ủ trong bản thân mình, có thể có bất kì cái gì chúng ta có. Nhớ lấy, là trống rỗng là đi vào trong không gian nơi bạn sẽ thấy bản thân mình như bạn vậy. Đó là lí do tại sao mọi người sợ: họ không muốn đi vào trong không gian bên trong đó. Họ có hình ảnh lí tưởng của họ, tự nhận thức về bản thân của họ, cái đẹp, được trang điểm. Họ sợ rằng nếu họ đi vào, những hình ảnh đó sẽ rơi mất - chúng nhất định rơi và biến mất bởi vì chúng là giả và chúng không thể là thực tại được. Do đó không ai đi vào trong. Mọi Thầy của thế gian, dù trên con đường của qua khẳng định hay trên con đường của qua phủ định, mọi Thầy đều nhấn mạnh vào một điều: rằng bạn phải đi tới thực tại của bạn như bạn vậy. Nhưng không ai nghe theo họ. Ngay cả khi mọi người muốn biết họ là ai, họ thực sự hi vọng rằng họ sẽ là cùng cái ta đó mà họ phóng chiếu. Một khi họ bắt đầu làm việc điều đó trở thành khó - cái xấu nảy sinh; cái bẩn thỉu, giận dữ kinh khủng, hận thù, ghen tị, được cảm thấy. Toàn thể địa ngục phá vỡ mở ra và người ta trở nên sợ và người ta xô ra và lại níu bám vào cái ta lí tưởng. Điều đó là rẻ.
Nhớ lấy, người ta phải biết bản thân mình như cái một vậy. Vứt mọi lí tưởng của bạn đi. Chúng là đẹp, nhưng chúng độc hại; chúng là ảo tưởng. Chừng nào bạn còn chưa bỏ các lí tưởng của bạn về bản thân bạn, những hình ảnh bạn đã tạo ra từ sự bất lực của bạn để che giấu, để đeo mặt nạ, cho thực tại của bạn.... Vứt những mặt nạ đó đi, tĩnh lặng, trống rỗng, và nhìn vào trong bản thể của bạn - dù nó là bất kì cái gì. Lúc ban đầu nó sẽ gần như là một kinh nghiệm về địa ngục, nhưng điều đó là cái giá chúng ta phải trả. Nếu bạn đủ dũng cảm và nếu bạn có thể gìn giữ, chẳng mấy chốc địa ngục biến mất, mây qua đi, và ánh mặt trời chiếu sáng trên trời không mây. Thế thì bạn đã đi tới thiên đường bên trong của bạn.
Địa ngục và cõi trời cả hai đều ở bên trong. Địa ngục là chu vi của bạn, cõi trời là chính trung tâm của bạn. Bạn là trung tâm của cơn xoáy lốc. Đạo nói rằng không cái gì thực sự phải được làm. Người ta chỉ phải xuyên thấu vào bản thể riêng của người ta. Tôi đã bắt gặp một chuyện ngụ ngôn rất hay. Chuyện ngụ ngôn này là của Ken Reed. Lắng nghe nó rất chăm chú và thiền về nó.
Ngày xưa có một hiền nhân rất đáng tôn kính và trí huệ. Từ đầu này của đất nước tới đầu kia, những người có học bắt đầu nghe nói về hiền nhân già này và chẳng mấy chốc nhiều người tìm tới xem nét mặt của trí huệ của ông ấy. Nhưng im lặng vẫn còn với hiền nhân đó dù mọi người tới với những câu hỏi. Thay vì thế, với chiếc quyền trượng trúc ông ấy vẽ ra trên đất những lời này: 'Người có mãn nguyện trong tim thấy điều tốt ở mọi nơi và mọi lúc.' Hay thỉnh thoảng ông ấy viết: 'Nơi bất mãn tồn tại, mọi nỗ lực là rỗng tuếch.'  Hay đôi khi: 'Im lặng, tĩnh lặng và ông sẽ biết.'
Nhưng những người tới thăm dường như không được thoả mãn bởi những câu trả lời này. Chúng quá khó hiểu và không hướng dẫn nào được cho - không bản đồ nào được chuyển giao. Và họ không thể nào hiểu nổi tại sao hiền nhân này từ chối trả lời họ một cách trực tiếp. Và tại sao? Chắc chắn ông ấy biết câu trả lời, nhưng tại sao ông ấy đã chọn việc vạch lên cát những tiếng bi bô như thế? Các hiền nhân khác cho lời khuyên và con đường được định sẵn, và nói về khổ hạnh cần được gìn giữ, tại sao người này không thế? Buổi thuyết giảng ông ấy không thể nghe được bằng tai, hay thấy được bằng mắt.
Ông ấy là nhà huyền môn thực sự. Ông ấy không phải là nhà khổ hạnh, ông ấy không có bài tập cho bạn, nhưng duy nhất hiểu biết - hiểu biết im lặng, việc truyền trao bên ngoài kinh sách. Vậy mà nó được viết ra như trong bữa tiệc của Christ, một thanh niên xuất hiện. Anh ta không mang cây quyền trượng nào, không cuộn giấy trí huệ nào, không câu hỏi nào trên lưỡi anh ta. Duy nhất, trong mắt anh ta có chủ định và đam mê lớn lao. Anh ta bước thẳng tới hiền nhân này. Không ngồi, dừng lại, không phủ phục bản thân mình như những người khác đã làm, anh ta nhìn chằm chằm vào khuôn mặt cổ đại và lặng lẽ không một lời. Và ngay lúc đó, trước sự ngỡ ngàng của những người khác anh ta lấy chiếc quyền trượng từ tay của hiền nhân và vẽ lên đất bụi những lời này: 'Làm sao sự sáng ngời của ông xua tan đi bóng tối?'
Một cách kiên nhẫn hiền nhân này lấy lại chiếc quyền trượng và vạch dưới câu hỏi của anh thanh niên: 'Bóng tối nào? Ông có bị lạc trong bóng tối không?' Với điều đó người hành hương trẻ phản đối lại: 'Bị lạc, lạc đường sao? Bị lạc thực sự là bị lạc sao?' Hiền nhân im lặng suy tư về khuôn mặt của người hành hương trẻ một lúc và rồi ông ta vẽ ra trên đất những lời này: 'Chỉ bị quên mất.' Tiếng cười ầm ĩ lan ra từ những người đã tụ tập, và hiền nhân này xoá đi điều ông ấy đã viết và viết lại: 'Ham muốn nào đem anh tới đây?' Những con mắt háo hức quan sát những bàn tay trao đổi quyền trượng: 'Ham muốn...? Tôi không có.' Quan sát người hành hương kĩ lưỡng, hiền nhân lấy chiếc quyền trượng, dướn chân lên, duỗi thẳng chân phải ra, gõ vào nó ba lần, rồi trở nên tĩnh lặng như tiếng thì thào của những người xem. Và rồi thì vị khách thăm trẻ phá vỡ im lặng của mình và hỏi 'Sao ông làm điều đó?' Hiền nhân nhanh chóng vạch ra: 'Tò mò là một dạng của ham muốn.' Chiếc quyền trượng được trao đi đổi lại liên tục cho tới khi người hành hương thất vọng kêu lên với đầu nhọn của cây quyền trượng: 'Người ta nói rằng có câu mật chú thiêng mà người ta có thể đọc sẽ nối người đó với vũ trụ thành một.' Hiền nhân nhanh chóng lại vạch ra: 'Anh đã bao giờ ở ngoài vũ trụ chưa?' Và với điều đó, hiền nhân già nhanh chóng nâng chiếc quyền trượng lên và thọc xuống đầu người tìm kiếm, đưa anh ta vào cơn mê phúc lạc sâu. Nhiều ngày trôi qua. Và vào thời đó người hành hương trẻ thực sự bắt đầu thưởng thức vị ngọt ngào của hiền nhân vĩ đại, khi anh ta buông xuôi trước ông ấy. Không một lần nào anh ta hỏi trong sự hiện diện này, và tình yêu không thể dò được đã lớn lên giữa họ. Nhưng vào ngày thứ ba, hiền nhân phá vỡ nhiều năm im lặng của ông ấy. 'Vậy là ông cuối cùng đã tới!' giọng nói khàn khàn vang lên.
Anh thanh niên không đáp lại, nhưng nhìn sâu vào trong mắt hiền nhân một lúc, rồi lần nữa lại lấy cây quyền trượng khỏi bàn tay xương xẩu già lão, viết: 'Chỉ được nhớ.' Không cái gì khác có đó để được làm. Bạn đã quên bạn là ai. Điều duy nhất phải được làm là ở chỗ bạn phải nhớ bạn là ai. Quên lãng là thế giới, nhớ lại là Thượng đế. Quên là bị lạc. Nhớ là trở về nhà.
Xem Chương 10 Quay về Mục lục

Ads Belove Post