Chương 13. Sùng đạo: Kinh nghiệm về niềm vui mênh mông

Chương 13. Sùng đạo: Kinh nghiệm về niềm vui mênh mông

Price:

Read more

Thiền: Thú vị, Sức sống, Phấn khởi và Sinh động - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 13. Sùng đạo: Kinh nghiệm về niềm vui mênh mông

Câu hỏi thứ nhất
Osho ơi,
Tại sao tôi muốn mọi người ngưỡng mộ tôi? Tại sao tôi muốn thầy nói với tôi rằng chỉ những người rất nhạy cảm và thông minh mới có thể hỏi một câu hỏi như thế? Tại sao tôi muốn thầy nói với tôi rằng thầy chỉ chờ đợi tôi để cứu thế giới? Và lối ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này của ngưỡng mộ và bác bỏ là cái chết tiệt gì? Thực sự là khó cười và nhảy múa tự do và không có mục đích nào cùng với khao khát này đã được khắc sâu vào trong tâm trí tôi.
Alfred,
Người ta muốn được ngưỡng mộ bởi vì người ta không có sự kính trọng bản thân mình. Chúng ta được nuôi dưỡng lớn lên với cảm giác mặc cảm được bắt rễ sâu trong chúng ta. Từ chính lúc bắt đầu chúng ta bị kết án bởi bố mẹ, bởi thầy cô giáo, bởi các tu sĩ, bởi các chính khách, bởi toàn thể thể chế. Một nốt liên tục được lặp lại cho mọi đứa trẻ: rằng 'Bất kì cái gì con làm đều không đúng. Con đang làm điều đáng phải không được làm và con không làm điều đáng phải được làm.' Mọi đứa trẻ đều được cho ấn tượng trực tiếp hay gián tiếp rằng nó không thực sự được cần tới, rằng bố mẹ nó mệt mỏi, rằng nó bằng cách nào đó đang được dung thứ, rằng nó là mối phiền nhiễu.
Điều này tạo ra vết thương sâu trong mọi người, và việc bác bỏ bản thân người ta nảy sinh. Để che đậy vết thương đó chúng ta mong đợi sự ngưỡng mộ, ngưỡng mộ là cái bù lại. Nếu bạn kính trọng bản thân bạn điều đó còn nhiều hơn là đủ; nếu bạn yêu bản thân bạn không có nhu cầu về bất kì ngưỡng mộ nào, không có ham muốn chút nào, vì một khi bạn bắt đầu mong đợi ngưỡng mộ từ người khác bạn bắt đầu thoả hiệp với họ. Bạn phải đáp ứng cho mong đợi của họ, chỉ thế thì họ mới ngưỡng mộ bạn. Bạn phải làm tương ứng với mệnh lệnh của họ, bạn không thể sống cuộc sống của tự do được. Bạn trở nên què quặt và tê liệt, bạn trở nên trì trệ, bạn không trưởng thành. Bạn trở nên sợ cái ta riêng của bạn tới mức bạn thường xuyên cảnh giác, vì bạn biết nếu bạn cho phép bản thân bạn, bạn nhất định làm cái gì đó sai – vì mọi điều bạn đã từng làm đã được dán nhãn sai và giờ có run rẩy bên trong. Bạn không thể phụ thuộc vào bản thân bạn, bạn phải phụ thuộc vào người khác.
Đây là chính chiến lược tâm lí để tạo ra sự nô lệ. Kết án một người trong con mắt riêng của người đó và người đó sẽ vẫn còn phụ thuộc vào người khác. Các tu sĩ đã làm điều này trong nhiều thế kỉ: tạo ra mặc cảm và người đó sẽ không bao giờ có tính nổi dậy, người đó bao giờ cũng vâng lời vì người đó bao giờ cũng bị bắt rễ trong sợ. Người đó không thể thu đủ dũng cảm để nói không với cái gì đó tuyệt đối sai theo cách nhìn của người đó. Mặc cho bản thân mình, người đó sẽ liên tục chấp nhận người có thẩm quyền, người có quyền. Những người nắm quyền, những người có quyền lực, đồng thời trở thành đúng cho người đó.
Và khi thời gian trôi qua việc tự kết án này liên tục đi ngày càng sâu hơn; nó trở thành chính bản thể bạn. Bạn trở thành chỉ là vết thương trong khi bạn đáng ra có thể đã là hoa sen! Toàn thể năng lượng của bạn trở nên bị đầu độc.
Chính khách dùng cùng chiến lược này. Chính khách và tu sĩ bao giờ cũng trong mưu đồ sâu sắc, họ đã phân chia con người. Chính khách cai trị bên ngoài và tu sĩ cai trị bên trong: chính khách bên ngoài và tu sĩ bên trong. Họ được nối lại trong mưu đồ sâu sắc chống lại nhân loại – họ thậm chí không thể nhận biết về điều họ đang làm. Tôi không nghi ngờ ý định của họ; họ có thể tuyệt đối vô ý thức.
Mới hôm nọ tôi đã nhận được bức thư từ Mẹ Teresa. Tôi không có ý định nói cái gì chống lại sự chân thành của bà ấy; bất kì cái gì bà ấy viết trong bức thư đều chân thành, nhưng nó là vô ý thức. Bà ấy không nhận biết về điều bà ấy đang viết; nó là máy móc, nó là như robot. Bà ấy nói, 'Tôi mới nhận được đoạn cắt bài nói của ông. Tôi cảm thấy rất tiếc cho ông rằng ông đã có thể nói như ông đã làm. Tham khảo: Giải thưởng Nobel. Với các tính từ ông thêm vào tên tôi, tôi tha thứ cho ông với tình yêu lớn.'
Bà ấy đang cảm thấy rất tiếc cho tôi... Tôi thích thú bức thư này! Bà ấy thậm chí đã không hiểu các tính từ mà tôi đã dùng về bà ấy. Nhưng bà ấy không nhận biết, bằng không bà ấy chắc đã cảm thấy tiếc cho bản thân bà ấy.
Các tính từ tôi đã dùng – bà ấy đã gửi đoạn cắt cùng với bức thư – tính từ đầu tiên là 'kẻ lừa dối', thế rồi 'kẻ bịp bợm' và 'kẻ đạo đức giả'.
Kẻ lừa dối không chỉ là người đi lừa người khác, theo nghĩa nền tảng hơn nhiều, kẻ lừa dối là người lừa dối bản thân mình. Lừa dối bắt đầu ở đó. Nếu bạn muốn lừa người khác, trước hết bạn phải lừa bản thân bạn. Nhưng một khi bạn đã lừa bản thân bạn, bạn sẽ không bao giờ trở nên nhận biết về nó chừng nào bạn chưa bị choáng, bị rung chuyển, bị nện búa bởi ai đó từ bên ngoài; bạn sẽ không trở nên nhận biết rằng lừa dối đã đi rất sâu về cả hai phía. Nó là chiếc kiếm hai cạnh.
Bà ấy là kẻ lừa dối theo nghĩa kép này. Đầu tiên bà ấy đã tự lừa dối bản thân bà ấy, vì thiền chắc chắc có thể tạo ra cuộc sống của phục vụ, cuộc sống của từ bi, nhưng cuộc sống của phục vụ không thể tạo ra được cuộc sống của thiền. Mẹ Teresa không biết gì về thiền: đây là lừa dối nền tảng của bà ấy. Bà ấy đã từng phục vụ người nghèo, con côi, goá phụ, người già, và bà ấy đã từng phục vụ họ với ý định tốt, nhưng đường tới địa ngục là đầy những ý định tốt! Tôi không nói rằng ý định của bà ấy là xấu, nhưng kết quả không phụ thuộc vào ý định của bạn.
Bạn có thể gieo hạt mầm của cây nào đó với ý định trồng hoa đẹp, và chỉ gai có thể nhú ra vì hạt mầm này đã không phải là hạt mầm của hoa chút nào. Bạn đã làm nó với ý định tốt, bạn làm việc chăm chỉ, nhưng kết quả sẽ sinh ra từ hạt mầm, không từ ý định của bạn.
Bà ấy đã từng phục vụ người nghèo, nhưng người nghèo đã từng được phục vụ hàng thế kỉ rồi và nghèo đã không biến mất khỏi thế giới. Nghèo sẽ không biến mất khỏi thế giới bằng việc phục vụ người nghèo; thực ra, toàn thể xã hội này tồn tại qua việc phục vụ người nghèo. Người nghèo phải được phục vụ theo cách nào đó để cho họ không cảm thấy bị bác bỏ tuyệt đối, bằng không họ sẽ báo thù lớn, họ sẽ phát cuồng dại, họ sẽ trở thành kẻ giết người. Điều tốt là giữ họ được an ủi rằng xã hội này đang làm nhiều thế cho họ, cho con cái họ, cho những người già của họ, cho vợ goá của họ - đây là xã hội ‘tốt’.
Do đó cùng những người bóc lột người nghèo lại hiến tặng cho những sứ mệnh này. Sứ mệnh của Mẹ Teresa có tên là người Truyền giáo Từ thiện. Tất cả những tiền này từ đâu tới? Bà ấy nuôi bẩy nghìn người nghèo mọi ngày – tiền này từ đâu tới? Ai hiến tặng tiền này?
Năm 1974 Giáo hoàng đã tặng cho bà ấy một chiếc Cadillac và bà ấy lập tức bán chiếc xe. Chiếc xe được mua với giá lớn vì nó là từ Mẹ Teresa, và tiền đi sang người nghèo. Mọi người ca ngợi điều đó nhưng câu hỏi là: chiếc xe Cadillac bắt nguồn từ đâu ngay chỗ đầu tiên? Giáo hoàng đã không vật chất hoá ra nó, ông ấy đã không làm bất kì phép màu nào! Nó phải đã tới từ ai đó có đủ tiền để cho chiếc Cadillac – và giáo hoàng có nhiều tiền hơn bất kì người nào trên thế giới. Tiền đó tới từ đâu? Và thế rồi thêm chút nữa – thậm chí không tới một phần trăm – đi sang người nghèo, qua những người làm từ thiện này.
Đây là các đại lí. Họ phục vụ cho nhà tư bản: họ phục vụ cho người giầu, không cho người nghèo. Trên bề mặt họ phục vụ cho người nghèo, rõ ràng họ phục vụ cho người nghèo, nhưng về nền tảng, về căn bản, theo cách gián tiếp họ phục vụ cho người giầu. Họ làm cho người nghèo cảm thấy rằng 'Đây là xã hội tốt, đây không phải là xã hội xấu. Chúng ta không nổi dậy chống lại nó.'
Những người truyền giáo này, những đầy tớ này của nhân dân, vận hành như bộ đệm trên tầu hoả hay như nhíp trong xe hơi. Khi bạn đi trên đường gồ ghề nhíp bảo vệ bạn khỏi sự gồ ghề của đường. Vật đệm giữa hai giá chuyển hướng của tầu hoả bảo vệ các giá khỏi đụng vào nhau – chúng bảo vệ. Những người truyền giáo này là bộ đệm. Những người truyền giáo này vận hành như cái nhíp xe. Cuộc sống vẫn còn chút ít suôn sẻ vì những cái nhíp này, và người nghèo liên tục cảm thấy rằng mọi sự sẽ tốt hơn lên; họ tiếp tục hi vọng.
Những người truyền giáo này đem hi vọng cho người nghèo. Nếu những người truyền giáo này không có đó, những người nghèo kia chắc đã trở thành vô hi vọng tới mức từ vô hi vọng đó sẽ có nổi dậy, cách mạng.
Bây giờ tôi đã phê bình bà ấy và nói rằng Giải thưởng Nobel không nên được trao cho bà ấy, và bà ấy cảm thấy bực mình bởi điều đó. Bà ấy nói trong bức thư của mình, 'Tham khảo: Giải thưởng Nobel.'
Ông Nobel này là một trong những kẻ tội phạm lớn nhất có thể có trên thế giới. Cuộc Thế chiến thứ nhất đã được đánh nhau bằng vũ khí của ông ấy; ông ấy là nhà chế tạo vũ khí lớn nhất. Ông ấy đã tích luỹ nhiều tiền thế từ cuộc Thế chiến thứ nhất. Hàng triệu người chết; ông ấy là nhà chế tạo của cái chết. Ông ấy kiếm được nhiều tiền tới mức bây giờ Giải thưởng Nobel được trao chỉ từ tiền lãi từ số tiền của Nobel. Một Giải thưởng Nobel bây giờ đem theo cùng nó là một trăm hai mươi vạn ru pi, và mỗi năm hàng tá Giải thưởng Nobel được trao. Người này đã để lại bao nhiêu tiền? Và tiền đó tới từ đâu? Bạn không thể tìm ra số tiền nào đẫm máu nhiều hơn tiền người ta kiếm được từ Giải thưởng Nobel.
Và bây giờ tiền Giải thưởng Nobel này đã đi sang những người Truyền giáo Từ thiện. Nó tới từ chiến tranh, nó tới từ máu, nó tới từ sát hại và chết chóc! Và bây giờ nó phục vụ cho vài trăm trẻ mồ côi, nuôi vài nghìn người – giết hàng triệu người và nuôi bẩy nghìn người, nuôi dưỡng vài trẻ mồ côi và làm ra hàng triệu trẻ mồ côi! Đây là thế giới kì lạ! Đây là loại số học gì vậy? Trước hết làm ra hàng triệu trẻ mồ côi và thế rồi chọn ra vài trăm trẻ và trao chúng cho những người Truyền giáo Từ thiện!
Mẹ Teresa không thể từ chối Giải thưởng Nobel. Cùng ham muốn được ngưỡng mộ, cùng ham muốn được kính trọng trên thế giới – và Giải thưởng Nobel đem bạn tới kính trọng lớn nhất. Bà ấy đã chấp nhận giải thưởng này.
Jean-Paul Sartre dường như là người tôn giáo hơn nhiều, mặc dầu ông ấy là người vô thượng đế. Ông ấy không tin vào Thượng đế, ông ấy không tin vào linh hồn, ông ấy không tin vào cõi bên kia, nhưng tôi nói với bạn ông ấy có tính tôn giáo hơn nhiều so với Mẹ Teresa vì ông ấy đã từ chối giải thưởng đó, ông ấy đã từ chối tiền đó, ông ấy đã từ chối sự kính trọng đó, bởi lẽ đơn giản rằng nó bắt nguồn từ nguồn sai – một điều. Thứ hai là, ông ấy nói, 'Tôi không thể chấp nhận được bất kì kính trọng nào từ xã hội mất trí này. Chấp nhận bất kì sự kính trọng nào từ xã hội mất trí này có nghĩa là kính trọng sự mất trí của nhân loại.' Người này dường như có tính tôn giáo hơn nhiều, tính tâm linh hơn nhiều, tính đích thực hơn nhiều so với Mẹ Teresa.
Đó là lí do tại sao tôi đã gọi những người như Mẹ Teresa là 'kẻ lừa dối'. Họ không phải là kẻ lừa dối một cách có chủ ý, chắc chắn, không có ý định, nhưng điều đó không thành vấn đề; kết quả, kết quả cuối cùng là rất rõ ràng. Chủ định của họ là để vận hành trong xã hội này như chất bôi trơn để cho các bánh xe của xã hội, các bánh xe của bóc lột, áp bức có thể liên tục chuyển động trơn tru. Những người này là chất bôi trơn! Họ đang lừa những người khác và họ đang lừa bản thân họ.
Và tôi gọi họ là 'bịp bợm' vì người tôn giáo thực sự, người như Jesus... Bạn có thể quan niệm về Jesus được Giải thưởng Nobel không? Không thể được! Bạn có thể quan niệm về Socrates được Giải thưởng Nobel hay Al-Hillaj Mansur được Giải thưởng Nobel không? Nếu Jesus không thể được Giải thưởng Nobel và Socrates không thể được Giải thưởng Nobel – và đây là những người tôn giáo thực, người đã thức tỉnh – thế thì Mẹ Teresa là ai?

Người tôn giáo thực có tính nổi dậy; xã hội kết án người đó. Jesus bị kết án là tội phạm và Mẹ Teresa được kính trọng như thánh nhân. Có cái gì đó cần được suy ngẫm kĩ: nếu Mẹ Teresa là đúng thế thì Jesus là tội phạm, và nếu Jesus là đúng thế thì Mẹ Teresa chỉ là bịp bợm và không gì khác. Kẻ bịp bợm bao giờ cũng được xã hội ca ngợi vì họ có ích – có ích cho xã hội này, cho nguyên trạng này.
Bất kì tính từ nào tôi đã dùng tôi đều đã dùng một cách rất có dụng ý. Tôi không bao giờ dùng một từ nào mà không cân nhắc. Và tôi đã dùng từ ‘đạo đức giả'. Những người này là đạo đức giả vì phong cách sống cơ bản của họ bị chia chẻ: trên bề mặt thứ này, bên trong cái gì đó khác.
Bà ấy viết: 'Gia đình Tin lành đã bị từ chối nhận đứa trẻ không phải bởi vì họ là người Tin lành mà bởi vì vào lúc đó chúng tôi đã không có đứa trẻ mà chúng tôi có thể cho họ.'
Bây giờ, Giải thưởng Nobel được trao cho bà ấy vì việc giúp đỡ hàng nghìn trẻ mồ côi và có hàng nghìn trẻ mồ côi trong các gia đình bà ấy quản lí. Đột nhiên bà ấy hết trẻ mồ côi sao? Và ở Ấn Độ bao giờ bạn có thể hết trẻ mồ côi? Ấn Độ liên tục tạo ra nhiều trẻ mồ côi như bạn muốn, thực ra nhiều hơn là bạn muốn!
Và gia đình Tin lành đã bị từ chối đó đã không bị từ chối ngay lập tức. Nếu không có trẻ mồ côi sẵn có, nếu mọi trẻ mồ côi đều được có gia đình, thế thì Mẹ Teresa làm gì với bẩy trăm xơ? Công việc của họ là gì? Bẩy trăm xơ... thế thì họ làm mẹ cho ai? Không một trẻ mồ côi nào – kì lạ! – và điều đó nữa ở Calcutta! Bạn có thể thấy trẻ mồ côi ở bất kì đâu trên đường – bạn thấy trẻ con ở trong thùng rác. Họ có thể đã nhìn ra ngoài chỗ họ và họ chắc đã tìm ra nhiều đứa trẻ. Bạn có thể chỉ đi ra ngoài đạo tràng và bạn có thể có được trẻ mồ côi. Tự bản thân chúng sẽ tới, bạn không cần tìm chúng!
Đột nhiên họ hết trẻ mồ côi… Và nếu gia đình này đã bị từ chối ngay lập tức điều đó chắc đã là vấn đề khác toàn bộ. Nhưng gia đình này đã không bị từ chối ngay lập tức; họ được bảo, 'Vâng, ông bà có thể nhận một trẻ mồ côi. Điền vào biểu mẫu này.' Thế là biểu mẫu được điền vào. Mãi cho tới khi họ đi tới điểm họ phải nói rõ tôn giáo của họ, mãi cho tới khoảnh khắc đó, đã có trẻ mồ côi, nhưng khi họ điền vào biểu mẫu và viết 'Chúng tôi thuộc về nhà thờ Tin lành,' lập tức họ hết trẻ mồ côi!
Và lí do này đã không được nói cho bản thân gia đình Tin lành. Bây giờ, đây là đạo đức giả! Điều này là lừa dối! Điều này là xấu! Lí do được nêu ra cho bản thân gia đình này là ở chỗ vì những đứa trẻ này... vì những đứa trẻ này có đó, cho nên làm sao bà ấy có thể nói, 'Chúng tôi không có trẻ mồ côi nào'? Chúng bao giờ cũng được trưng ra!
Bà ấy cũng đã mời tôi: 'Ông có thể tới bất kì lúc nào và ông được đón chào tới thăm chỗ chúng tôi và xem các trẻ mồ côi của chúng tôi và công việc của chúng tôi.' Chúng thường xuyên được trưng ra!
Thực ra, những người Tin lành kia đã chọn đứa trẻ mồ côi rồi, đứa trẻ mà họ muốn nhận nuôi, cho nên bà ấy không thể nói với những người đó, 'Đó là vì không còn trẻ mồ côi nữa. Chúng tôi lấy làm tiếc.'
Bà ấy nói với họ, 'Những trẻ mồ côi này được nuôi dưỡng theo Nhà thờ Cơ đốc giáo La mã và sẽ là tệ cho trưởng thành tâm lí của chúng vì nó sẽ là sự gián đoạn thế. Bây giờ, trao chúng cho các ông bà sẽ làm cho chúng bị rối loạn chút ít và sẽ không tốt cho chúng. Đó là lí do tại sao chúng tôi không thể trao đứa trẻ cho ông bà, vì ông bà là người Tin lành.'
Đích xác đó là lí do được đưa ra cho họ. Và họ không phải là người ngu. Người chồng là giáo sư ở một đại học châu Âu – ông ấy choáng, vợ choáng. Họ đã tới từ nơi xa xôi thế chỉ để nhận nuôi đứa trẻ, và họ bị từ chối vì họ là người Tin lành. Giá mà họ viết họ là người Cơ đốc giáo họ chắc đã được trao cho đứa trẻ ngay lập tức.
Và một điều cần được hiểu: những đứa trẻ này về cơ bản là người Hindu. Nếu Mẹ Teresa quan tâm thế về chăm sóc tâm lí cho chúng thế thì chúng nên được nuôi dưỡng tương ứng với tôn giáo Hindu, nhưng chúng được nuôi dưỡng tương ứng Nhà thờ Cơ đốc giáo. Và thế rồi trao chúng cho người Tin lành, người không khác chút nào với mọi người từ Cơ đốc giáo... Khác biệt gì giữa người Cơ đốc giáo và người Tin lành? Chỉ vài điều ngu xuẩn! Bằng không cả hai đều tin vào Jesus, cả hai đều tin vào Kinh thánh, cho nên vấn đề thực sự là gì? Tin lành hay Cơ đốc – chỉ nhãn hiệu thuốc lá khác nhau! Cùng thuốc lá được dùng, cùng giấy được dùng, nó thậm chí còn cùng nhà chế tạo. Chỉ cái tên là khác!
Không có khác biệt giữa Tin lành và Cơ đốc giáo nhưng chắc chắn có khác biệt lớn giữa người Hindu and và người Ki tô giáo. Trẻ em Hindu được nuôi dưỡng tương ứng theo Cơ đốc giáo và tâm lí của chúng không bị quấy rối sao? Bây giờ tâm lí của chúng sẽ bị quấy rối! Và nếu điều này là đúng thế thì Mẹ Teresa đừng bao giờ thử chuyển đổi bất kì người nào sang Cơ đốc giáo. Và đó là toàn thể công việc của họ: cải đạo.
Mới mấy ngày trước đã có một dự thảo luật ở Nghị viện Ấn Độ về Tự do Tôn giáo. Chủ định của dự luật này là ở chỗ không ai được phép cải đạo cho bất kì ai sang tôn giáo khác, chừng nào ai đó không chọn nó từ tự do riêng của người đó, không cải đạo nào là được phép. Và Mẹ Teresa là người đầu tiên phản đối nó. Trong cả đời mình bà ấy không bao giờ phản đối bất kì cái gì; đây là lần đầu tiên, và có thể là lần cuối cùng. Bà ấy đã phản đối nó. Bà ấy viết một bức thư cho Thủ tướng, và đã có tranh cãi nóng bỏng giữa bà ấy và Thủ tướng: 'Dự luật này phải không được thông qua vì nó đi ngược lại toàn thể công việc của chúng tôi. Chúng tôi quyết tâm cứu mọi người, và mọi người có thể được cứu chỉ nếu họ trở thành người Cơ đốc giáo La mã.' Họ đã tạo ra nhiều phản ứng khắp nước – và các chính khác bao giờ cũng quan tâm tới phiếu bầu, họ không thể mất phiếu bầu của người Ki tô giáo – cho nên dự luật này đã bị bỏ đi, đơn giản bị bỏ đi.
Nếu điều này là đúng rằng tâm lí của đứa trẻ sẽ bị quấy rối, thế thì người lớn thì sao? Khi bạn cải đạo một người bốn mươi hay năm mươi tuổi từ Hindu sang Cơ đốc giáo hay từ Mô ha mét giáo sang Cơ đốc giáo hay ngược lại, từ Cơ đốc giáo sang Hindu hay từ Cơ đốc giáo sang Mô ha mét giáo, điều gì xảy ra cho người đó? Nếu ngay cả tâm lí của một đứa trẻ nhỏ bị quấy rối thế thì cái gì xảy ra cho người đã sống năm mươi năm trong hình mẫu nào đó, với phong cách sống nào đó, với ý thức hệ nào đó? Người đó có chương trình lập sẵn bây giờ, người đó có toàn thể chương trình. Cải đạo người đó sang tôn giáo khác phải là thảm hoạ, nó phải là tội ác, nhưng với điều đó bà ấy sẵn sàng. Bà ấy rất nhiệt tình về cải đạo mọi người.
Nếu mọi người không được cải đạo thế thì ai sẽ là người Ki tô giáo trên thế giới? Ki tô giáo không phải là tôn giáo rất già. Chỉ có hai tôn giáo già, Hindu giáo và Do Thái giáo, và cả hai tôn giáo già này đều là không cải đạo, nhớ lấy. Cả người Hindu lẫn người Do Thái đều không quan tâm tới cải đạo. Ý tưởng của họ về tôn giáo là ở chỗ nó tới từ việc sinh; không có khả năng cho cải đạo. Đây là những tôn giáo cổ nhất và họ chống lại cải đạo, điều đó ở trong quyền lợi của họ, vì bất kì người nào được cải đạo sẽ được cải đạo từ toán của họ. Đây là chính trị tôn giáo! Nếu người Do Thái và người Hindu mà được phép cải đạo, điều đó sẽ đơn giản nghĩa là người Do Thái sẽ bị mất, người Hindu sẽ bị mất. Nếu không ai được phép cải đạo thì người Do Thái sẽ là người Do Thái, người Hindu sẽ là người Hindu; thế giới sẽ thuộc về chỉ hai tôn giáo.
Bây giờ, mọi tôn giáo mới – Jaina giáo, Phật giáo, Ki tô giáo, Hồi giáo, Sikh giáo – tất cả đều là tôn giáo cải đạo. Họ phải vậy, bằng không họ sẽ lấy thành viên từ đâu? Từ đâu? Người Do Thái phải được cải đạo, người Hindus phải được cải đạo. Việc cải đạo như vậy đi ngược lại người Do Thái và người Hindu, đi ngược lại chính trị của họ, nhưng nó được ưa chuộng với Phật tử, với người Jaina, với người Ki tô giáo, với người Mô ha mét giáo. Phương pháp cải đạo của họ khác nhau, nhưng khi có liên quan tới cải đạo, tất cả họ đều đồng ý. Bốn tôn giáo này tuyệt đối đồng ý rằng con người nên được phép được cải đạo, bằng không họ thậm chí không thể tồn tại được.
Người Do Thái đã chống lại Jesus vì ông ấy nói những điều không tương ứng với truyền thống của họ. Người Hindus đã chống lại Mahavira và Phật và Nanak vì họ nói những điều ngược lại truyền thống. Người Do Thái đã đóng đinh Jesus vì ông ấy được sinh ra là người Do Thái và đã cố tạo ra hệ thống tôn giáo mới. Người Hindus đã chống lại Phật vì ông ấy được sinh ra là người Hindu và đã bắt đầu cố gắng tạo ra một tôn giáo mới.
Ki tô giáo đã tồn tại chỉ được hai nghìn năm nhưng họ có số lượng lớn nhất trên thế giới. Những người này tới từ đâu? Tất cả đều từ cải đạo. Nhưng phương pháp cải đạo của họ là khác.
Phương pháp tốt nhất được các Phật tử dùng. Họ không ép buộc bạn về kinh tế, chính trị, sinh lí – họ không hối lộ bạn, họ không ép buộc bạn hay trở nên bạo hành theo bất kì cách nào, họ không đe doạ rằng họ sẽ giết bạn hay ném bạn vào địa ngục – họ đơn giản giải thích cho bạn cách nhìn của họ. Phật tử đã cải đạo mọi người theo cách tôn giáo nhất.
Cùng điều đó không thể được nói về người Ki tô giáo và người Mô ha mét giáo: họ đã thường xuyên gây chiến – những cuộc thập tự chinh lớn, các cuộc thánh chiến. Hàng triệu người đã chết vì những người Ki tô giáo và Mô ha mét giáo. Trong quá khứ họ đã tin vào lưỡi kiếm: bất kì ai mạnh đều đúng, cho nên bất kì ai thắng cuộc chiến tranh cũng thắng cuộc chiến vì chân lí.
Các Phật tử chỉ tranh luận, họ không đánh nhau. Họ không cố cải đạo bạn qua sức mạnh cơ bắp – họ là những người thông minh – họ đơn giản đề nghị triết lí của họ.
Nếu nó hấp dẫn bạn, tốt, nếu nó không hấp dẫn bạn, không có vấn đề bó buộc.
Nhưng trong quá khứ người Ki tô giáo và người Mô ha mét giáo đã đánh nhau và họ đã cải đạo mọi người sang tôn giáo của họ bằng bạo hành. Người Mô ha mét giáo đã tụt lại sau vì họ chưa có khả năng học các công nghệ mới. Bây giờ, người Ki tô giáo cập nhật nhiều hơn vì họ thuộc về thế giới phương Tây nơi cập nhật nhiều hơn về mọi thứ. Họ đã bỏ ý tưởng cũ về ép buộc bạn bằng kiếm; cái đó đã trở nên lỗi thời rồi. Bây giờ họ phục vụ bạn – họ cho bạn bánh mì và bơ và dịch vụ và giáo dục và bệnh viện và trường học và đại học. Họ hối lộ bạn! Bây giờ từ sức mạnh quân sự họ đã dịch chuyển sang sức mạnh kinh tế, nhưng cải đạo tiếp tục – và có những bằng chứng phong phú.
Người Ki tô giáo đã không có khả năng cải đạo người Hindu giầu. Làm sao bạn có thể cải đạo được người Hindu giầu? Bạn không thể hối lộ được người đó. Bạn chỉ có thể cải đạo người ăn xin nghèo vì họ có thể bị hối lộ rất dễ dàng, họ có thể bị mua rất dễ dàng.
Nếu Mẹ Teresa thực sự chân thành và tin rằng việc cải đạo một người quấy rối cấu trúc tâm lí người đó, thế thì bà ấy phải chống lại việc cải đạo trừ phi người này tự mình chọn nó.
Chẳng hạn, bạn phải tới tôi, tôi đã không đi tới bạn. Tôi thậm chí không đi ra ngoài cửa.
Ba hôm trước tôi đã đi gặp Vimalkirti – sau nhiều năm. Chỉ trong việc đi qua tôi đã thấy cửa hiệu của bạn lần đầu tiên, ngoài ra tôi chẳng có ý tưởng nào... Tôi nói với Vivek, 'Chỗ này đã thay đổi hoàn toàn! Toàn thể khung cảnh là khác!' Chính là từ ưu ái với Vimalkirti mà tôi đã trở nên quen với bộ mặt mới của đạo tràng, cửa hàng mới; mọi thứ dường như là tuyệt đối mới.
Tôi đã không đi tới bất kì người nào, bạn đã tới tôi. Và tôi cũng không cải đạo bạn sang bất kì tôn giáo nào. Tôi không tạo ra bất kì ý thức hệ nào ở đây, tôi không cho bạn bất kì giáo lí vấn đáp nào, bất kì học thuyết nào. Tôi đơn giản giúp bạn im lặng. Bây giờ, im lặng không có tính Ki tô giáo không có tính Hindu không có tính Mô ha mét giáo; im lặng là im lặng. Tôi dạy bạn việc yêu. Bây giờ, yêu không có tính Ki tô giáo không có tính Hindu không có tính Mô ha mét giáo. Tôi dạy bạn nhận biết. bây giờ, nhận biết đơn giản là nhận biết; nó không thuộc vào ai cả. Và tôi gọi điều này là tính tôn giáo đúng.
Với tôi Mẹ Teresa và những người như bà ấy là đạo đức giả: nói điều này nhưng làm cái gì đó khác đằng sau mẽ ngoài đẹp đẽ. Nó là toàn thể trò chơi chính trị - chính trị của con số.
Và bà ấy nói, 'Với các tính từ ông thêm vào tên tôi, tôi tha thứ cho ông với tình yêu lớn.' Trước hết, yêu không cần tha thứ vì ngay chỗ đầu tiên nó không bị tức giận. Để tha thứ cho ai đó trước hết bạn phải giận; đó là điều tiên quyết.
Tôi không tha thứ cho Mẹ Teresa chút nào, vì tôi không giận chút nào. Tại sao tôi phải tha thứ cho bà ấy? Bà ấy phải đã giận. Đây là lí do tại sao tôi muốn bạn bắt đầu thiền về những điều này.
Người ta nói rằng Phật không bao giờ tha thứ cho bất kì ai bởi lí do đơn giản là ông ấy không bao giờ giận. Làm sao bạn có thể tha thứ mà không giận? Điều đó là không thể được. Bà ấy phải đã giận rồi. Đây là điều tôi gọi là vô ý thức: bà ấy không nhận biết về điều bà ấy viết,... bà ấy không nhận biết về điều tôi định làm với bức thư của bà ấy!
Bà ấy nói, tôi tha thứ cho ông với tình yêu lớn' – dường như có tình yêu nhỏ và tình yêu lớn, và các thứ như thế. Yêu đơn giản là yêu; nó không thể lớn, nó không thể nhỏ. Bạn có nghĩ yêu là thứ định lượng không? – một ki lô yêu, hai ki lô yêu.
Bao nhiêu ki lô yêu làm cho nó thành lớn? hay nhiều tấn được cần?
Yêu không phải là số lượng chút nào, nó là phẩm chất. Và phẩm chất là không đo được: nó không nhỏ không lớn. Bất kì khi nào ai đó nói với bạn, 'Anh yêu em rất nhiều,' cảnh giác vào! Yêu chỉ là yêu; nó không thể ít hơn điều đó, nó không thể nhiều hơn điều đó. Không có vấn đề ít và nhiều.
Và tôi đã phạm phải tội gì mà bà ấy tha thứ cho tôi? Chỉ là sự ngu xuẩn Cơ đốc cũ – họ liên tục tha thứ! Tôi đã không thú bất kì tội nào, cho nên tại sao bà ấy phải tha thứ cho tôi?
Tôi dán vào mọi tính từ đó, và tôi sẽ thêm vài cái nữa: rằng bà ấy ngu xuẩn, tầm thường, ngốc nghếch! Và nếu bất kì ai cần được tha thứ đó là bà ấy, không phải tôi, vì bà ấy đang phạm phải tội lớn. Bà ấy nói trong thư này, 'Tôi tranh đấu với việc chấp nhận tội phá thai.' Phá thai không phải là tội; trong thế giới quá đông đúc này phá thai là đức hạnh. Và nếu phá thai là tội thế thì Giáo hoàng Polack và Mẹ Teresa và đồng bọn chịu trách nhiệm cho điều đó vì họ chống lại việc tránh thụ thai, họ chống lại các phương pháp kiểm soát sinh đẻ, họ chống lại thuốc ngừa thai. Đây là những người là nguyên nhân của mọi việc phá thai, họ chịu trách nhiệm. Với tôi họ là những kẻ tội phạm lớn!
Trong thế giới quá đông dân này nơi mọi người đói và chết đói việc chống lại thuốc ngừa thai là không thể dung thứ được! Thuốc ngừa thai là một trong những đóng góp ý nghĩa nhất của khoa học hiện đại cho nhân loại – nó có thể làm cho trái đất thành thiên đường. Nhưng chắc chắn trong thiên đường đó sẽ không có con côi, và thế thì cái gì sẽ xảy ra cho Mẹ Teresa và những người Truyền giáo Từ thiện? Và trong thiên đường đó ai sẽ nghe Giáo hoàng Polack? Mọi người sẽ hạnh phúc thế, ai sẽ bận tâm về những người này? Và ai sẽ nghĩ về thiên đường sau cái chết? Nếu thiên đường là ở đây bây giờ thế thì không có nhu cầu để bịa đặt, phóng chiếu, mơ mộng, tưởng tượng thiên đường bên ngoài.
Thiên đường bên ngoài đã từng là tưởng tượng vì chúng ta đã sống trong địa ngục trên thế gian. Và địa ngục này là rất hữu ích cho các tu sĩ, cho cái gọi là tôn giáo, cho các thánh nhân, cho các giáo hoàng, cho đủ mọi loại ayatollahs và shankarcharyas – mọi loại người bịp bợm. Tất cả họ đều chống lại thuốc ngừa thai. Nếu họ có cái gì đó chống lại thuốc viên, thế thì làm nó thành bột! Nếu chỉ viên thuốc là vấn đề, thế thì nghiền nó ra! Tìm ra cách khác nào đó. Đây là những người là chính lí do cho việc có trẻ mồ côi, phá thai – và thế rồi họ phục vụ chúng. Đó thực sự là việc làm đẹp họ đang làm!
Tôi đã nghe nói về hai anh em; họ thường làm kinh doanh. Kinh doanh của họ là: một người anh sẽ vào làng ban đêm và vẩy nhựa than lên cửa sổ, cửa ra vào của mọi người, và đến sáng anh ta sẽ bỏ đi. Người anh kia sẽ tới vào buổi sáng, rao trên đường làng, 'Ai lau nhựa than đê! Ai muốn cửa sổ sạch không, có tôi đây!' Và tất nhiên anh ta có công việc lớn – cả thị trấn đều cần anh ta! Đến lúc anh ta hoàn thành, người anh kia sẽ đi bôi bẩn cửa sổ, cửa ra vào của làng khác, thế rồi anh này sẽ lại tới. Họ làm nhiều việc và kiếm đủ tiền!
Đây là điều những người này làm. Chống lại thuốc viên, chống lại ngừa thai, chống lại triệt sản, chống lại mọi kĩ thuật kiểm soát sinh đẻ, và thế thì một cách tự nhiên sẽ có phá thai, thế thì sẽ có con côi và kẻ ăn xin. Thế rồi phục vụ họ và thu lấy đức hạnh lớn, vì không phục vụ bạn sẽ không bao giờ lên tới cõi trời. Những người nghèo này được cần tới như bậc đá cho bạn đi lên cõi trời.
Tôi muốn phá huỷ nghèo nàn, tôi không muốn phục vụ người nghèo. Thế là đủ rồi! Trong mười nghìn năm những kẻ ngu đã từng phục vụ người nghèo; điều đó đã không làm thay đổi bất kì cái gì. Nhưng bây giờ chúng ta có đủ công nghệ để phá huỷ nghèo nàn hoàn toàn.
Cho nên nếu bất kì người nào phải được tha thứ đó là những người này. Đó là giáo hoàng, Mẹ Teresa, vân vân, những người phải được tha thứ. Họ là tội phạm, nhưng tội của họ là tới mức bạn sẽ cần thông minh lớn để hiểu điều đó.
Và nhìn thái độ bản ngã “linh thiêng hơn ngươi'. 'Tôi tha thứ cho ông,' bà ấy nói. 'Tôi cảm thấy tiếc cho ông,' bà ấy nói. Và bà ấy cầu, 'Cầu phúc lành của Chúa cho ông và rót vào tim ông bằng tình yêu của ngài.' Chỉ chuyện nhảm nhí!
Tôi không tin vào bất kì Thượng đế nào như một người, cho nên không có Thượng đế như một người, người có thể ban phúc lành cho tôi hay bất kì ai khác. Thượng đế chỉ là việc nhận ra, Thượng đế không phải là ai đó để được đương đầu. Nó là tâm thức thuần khiết riêng của bạn. Và sao Thượng đế phải ban phúc lành cho tôi? Tôi có thể ban phúc lành cho tất cả các thượng đế của bạn! Sao tôi phải hỏi xin phúc lành của bất kì ai? Tôi là phúc lạc – không có nhu cầu! Và tôi không tin rằng có bất kì Thượng đế nào. Tôi đã nhìn mọi ngóc ngách và ngài không tồn tại! Chính là chỉ trong tâm trí của người dốt nát mà Thượng đế có sự tồn tại. Tôi không phải là người vô thần, nhớ lấy, nhưng tôi cũng không là người hữu thần.
Thượng đế không phải là người với tôi nhưng là sự hiện diện, và sự hiện diện được cảm thấy khi bạn đạt tới cực đỉnh của tính thiền của bạn. Bạn đột nhiên cảm thấy tính thượng đế tuôn tràn toàn thể sự tồn tại. Không có Thượng đế, nhưng có tính thượng đế.
Tôi thích phát biểu của H. G. Wells về Phật Gautam. Ông ấy đã nói rằng Phật Gautam là người phi thượng đế nhất vậy mà có tính thượng đế nhất nữa. Bạn có thể nói cùng điều này về tôi: Tôi là người phi thượng đế nhất bạn có thể tìm thấy, nhưng tôi biết tính thượng đế.
Tính thượng đế giống như hương thơm, một kinh nghiệm về niềm vui mênh mông, về tự do hoàn toàn. Bạn không thể cầu nguyện với tính thượng đế, bạn không thể làm ảnh của tính thượng đế, bạn không thể nói, 'Cầu phúc lành của Thượng đế cho ông' – và điều đó nữa là với điều kiện: 'Cầu phúc lành của Thượng đế cho ông trong năm 1981.' Keo kiệt thế! Và 1982 thì sao? Dũng cảm lớn! Chia sẻ lớn! Hào phóng thế!
'... và rót vào tim ông bằng tình yêu của ngài.' Tim tôi đầy tình yêu rồi! Không có chỗ cho tình yêu của bất kì ai vào trong nó. Và sao tim tôi phải được rót đầy bằng tình yêu của ai đó khác? Tình yêu vay mượn không phải là yêu chút nào. Tim có hương thơm riêng của nó.
Nhưng kiểu vô nghĩa này được coi là rất tôn giáo. Bà ấy đang viết với ham muốn rằng tôi sẽ thấy bà ấy có tính tôn giáo thế nào, và mọi điều tôi có thể thấy đơn giản là ở chỗ bà ấy là người bình thường, người ngu, cũng hệt như bạn có thể thấy ở bất kì chỗ nào trong số những người tầm thường.
Tôi đã gọi bà ấy là Mẹ Teresa, nhưng tôi nghĩ tôi nên thôi gọi bà ấy là Mẹ Teresa vì tôi không phải quí ông lắm đâu nhưng tôi phải đáp lại cho thích hợp. Bà ấy gọi tôi là ông Rajneesh thân mến, cho nên từ giờ trở đi tôi sẽ gọi bà ấy là cô Teresa thân mến – chỉ để cho lịch sự, xã giao!
Bản ngã có thể vào từ cửa sau. Alfred, đừng cố ném nó ra.
Bạn hỏi: Và lối ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này của ngưỡng mộ và bác bỏ là cái chết tiệt gì?
Không có lối ra nào cả. Bạn phải nhìn bản ngã này là gì, và chỉ việc nhìn là đủ. Khi bạn phóng chiếu cái gì đó... chẳng hạn, bạn có thể phóng chiếu ra con rắn trên dây thừng trong đêm và hỏi. 'Cách gạt bỏ con rắn này là gì?' Tôi định nói với bạn cái gì? Tôi sẽ nói không có cách nào để gạt bỏ ‘con rắn’ này, vì ‘con rắn’ này không tồn tại chút nào. Chỉ đem đèn tới và thấy. Việc thấy là đủ, vì bạn sẽ thấy chỉ có dây thừng không có rắn ngay chỗ đầu tiên. Và thấy rằng chỉ có dây thừng bạn được kết thúc với dây thừng; thế thì câu hỏi này không nảy sinh. Hay, Alfred, bạn sẽ hỏi tôi, 'Thôi được, tôi đã thấy đây là dây thừng – bây giờ phải làm gì với con rắn?' Thế thì bạn không thể hỏi câu hỏi đó chút nào.
Nhưng đó là điều đã từng xảy ra. Suốt nhiều thời đại cái gọi là các thánh nhân đã từng cố gắng gạt bỏ bản ngã, trở nên khiêm tốn, vì họ đã nghe thấy những người như Jesus nói 'Được phúc lành là người nhu mì vì vương quốc của họ là vương quốc của Thượng đế.' Bây giờ, mọi người đều muốn ở trong vương quốc của Thượng đế, mọi người đều tham về nó, và mọi người thậm chí sẵn sàng trở thành nhu mì, khiêm tốn: 'Nếu đây là cái giá phải trả, được, chúng tôi sẽ khiêm tốn, chúng tôi sẽ nhu mì, nhưng dẫu sao đi chăng nữa chúng tôi phải chinh phục vương quốc của Thượng đế.' Bây giờ toàn thể ý tưởng về chinh phục vương quốc của Thượng đế là mang tính bản ngã.
Điều Jesus ngụ ý là khác toàn bộ - nghe lại phát biểu của ông ấy lần nữa. Ông ấy nói, 'Được phúc lành là người nhu mì vì vương quốc của họ là vương quốc của Thượng đê.' Ông ấy không nói rằng nếu bạn muốn vương quốc của Thượng đế, thì phải nhu mì. Điều ông ấy nói là ở chỗ nếu bạn nhu mì, vương quốc của Thượng đế chỉ là sản phẩm phụ, là hậu quả của nó. Điều đó xảy ra theo cách riêng của nó; bạn không cần lo nghĩ về nó.
Nếu bạn cố gạt bỏ bản ngã – ham muốn này để được ngưỡng mộ - thế thì ham muốn này sẽ tới từ cửa sau. Nó rất tinh ranh, nó có thể ẩn nấp theo mọi cách có thể.
Một người nhỏ bé yếu đuối khám phá ra rằng vợ mình ở nhà với một người đàn ông khác. Đầy giận dữ anh ta chạy xô về nhà và đi vào phòng ngủ thấy vợ mình đang nằm lười biếng trên giường.
'Nó đâu rồi, mày là đồ chó đẻ? Thằng đó đâu rồi?'
Anh chồng bắt đầu điên cuồng nhìn dưới gầm giường, trong phòng tắm, ra ngoài cửa sổ. Cuối cùng anh ta mở tủ ra và thấy một người rất đẹp trai, cao to, lực lưỡng, kiểu ông Mĩ đang nhìn thẳng vào anh ta.
Sững sờ và chết điếng, anh ta quay sang vợ mình và nói bằng giọng sầu thảm, 'Này, cưng, có một người ở đó, nhưng đó không phải là nó!'
Bản ngã thủ đoạn thế! Bạn không thể thoát được bản ngã rất dễ dàng đâu. Nếu bạn thử lừa nó, nó sẽ lừa bạn. Bạn phải hiểu nó – lừa dối sẽ không ích gì.
Một kẻ làm tiền giả bậc thầy sống ở New York. Các tờ mười và hai mươi đô la của anh ta làm giống tới mức anh ta đã trở thành triệu phú. Chán với nhiệm vụ lặp lại của việc sản xuất ra những tờ bạc giả này, một hôm anh ta quyết định làm tờ mười tám đô la mà sẽ thực tới mức nó sẽ được chấp nhận không hỏi han gì. Đó là kiệt tác của anh ta, nhưng vì thận trọng cũng như khôn ngoan, anh ta quyết định thử nó trước hết ở một làng nhỏ trước khi chuyển nó vào thành phố.
Anh ta lái xe về phía bắc New York và dừng ở một làng nhỏ bên ngoài một cửa hàng mang biển 'Bách hoá Murphy'.
Kẻ làm tiền giả bước một cách tự tin vào trong cửa hàng, chỉ vào chỗ trưng bày xì gà và nói, 'Này, anh nông dân, tôi thích một trong những xì gà năm mươi xu ngon lành kia, nhưng mọi thứ tôi có là tờ mười tám đô la này. Tôi hi vọng ông có thể đổi nó hộ tôi.
Murphy cầm tờ tiền, lật đi lật lại vài lần, rồi nói 'Chắc chắn tôi có thể đổi được, thưa ông. Ông thích loại nào – hai tờ chín đô hay ba tờ sáu đô?'
Không có nhu cầu láu lỉnh và tinh ranh với bản ngã, bạn chỉ phải tỉnh táo, nhận biết, quan sát. Cứ nhìn vào nó để xem nó là gì – liệu nó tồn tại hay không. Những người đã nhìn vào nó đều đã thấy mà không có ngoại lệ nào rằng nó không có đó. Nó có đó chỉ nếu bạn không nhìn vào nó; khoảnh khắc bạn nhìn nó, nó không có đó.
Và thế thì vấn đề thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này không nảy sinh.
Và đừng hỏi các tu sĩ, các triết gia, các nhà phân tâm, bởi vì nếu bạn bắt đầu hỏi làm sao gạt bỏ cái vòng luẩn quẩn này, có những kẻ ngu khắp xung quanh sẽ cho bạn công thức đẹp. Cảnh giác về tất cả những người khôn ngoan lớn đó mà thế giới có nhan nhản! Họ là nguyên nhân của khổ lớn trên thế giới. Họ sẽ cho bạn các kĩ thuật để gạt bỏ rắn mà không tồn tại chút nào. Bây giờ rắn được chấp nhận và bạn sẽ trong rắc rối nhiều hơn, vì bây giờ bạn sẽ cố gạt bỏ nó – cái gì đó mà không có đó. Nếu bạn bắt đầu đánh nhau với nó bạn sẽ là người thất bại.
Alfred đi tới bác sĩ và giải thích rằng anh ta không thể nào ngủ được vì có cá sấu dưới giường anh ta.
Đó là Alfred khác nào đó!
Bác sĩ gật đầu một cách khôn ngoan và kê đơn vài viên thuốc ngủ cho anh ta.
Vài tuần sau Alfred quay lại, và khi bác sĩ hỏi thế nào anh ta đáp, 'Dạ, bây giờ tôi ngủ được rồi, nhưng cá sấu vẫn có đó.'
Bác sĩ lắc đầu trong sự thông cảm giả. 'Được, Alfred, giờ tăng liều thuốc ngủ lên gấp đôi và uống các thuốc an thần này và anh sẽ sớm không bị bận tâm tới cá sấu nữa. Quay lại sau một tuần.'
Nhiều tuần trôi qua và Alfred không quay lại. Bác sĩ quyết định gọi điện tới nhà anh ta. 'Alfred thế nào rồi?' ông ấy hỏi.
'Ồ, bác sĩ,' vợ Alfred nói, 'ông không nghe thấy rằng cá sấu đã ăn anh ấy rồi sao?'
Đừng đánh nhau với bản ngã, bằng không bản ngã sẽ ăn bạn đấy! Chính việc đánh nhau sẽ phá huỷ bạn. Đánh nhau với bất kì cái gì không tồn tại là điều nguy hiểm nhất trên thế giới. Nó giống như đánh nhau với bóng tối; nếu bạn bắt đầu đánh nhau với bóng tối, vật lộn, cho dù bạn là một Mohammed Ali bạn sẽ không thắng. Bạn sẽ sớm mệt mỏi, kiệt sức, và bạn sẽ ngã sóng xoài trên đất, cứ tưởng rằng bóng tối dường như rất mạnh. Bóng tối không mạnh, bóng tối không yếu, vì bóng tối không tồn tại chút nào. Mọi điều bạn cần chỉ là chiếc nến nhỏ và bóng tối sẽ mất đi.
Tôi gọi chiếc nến nhỏ đó là thiền, và từ điều đó hàng nghìn ánh sáng nhỏ đó của hoa nở bên trong tâm bạn: yêu nở hoa, tự do nở hoa, chân lí nở hoa, tính thượng đế nở hoa, vân vân và vân vân. Không có tận cùng cho nó – nó là khu vườn vĩnh hằng. Hoa và hoa... toàn thể bản thể bạn trở thành hương thơm.
Đừng đánh nhau với bản ngã. Nhìn nó ở đâu, nó là gì, bằng không nó sẽ tới dưới dạng khác nào đó. Bạn sẽ đẩy nó sang bên này, nó sẽ tới từ bên kia. Bạn sẽ kìm nén mặt này, nó sẽ tới qua mặt khác.
Câu hỏi cuối cùng
Osho ơi,
Tôi cần xưng tội khủng khiếp. Tôi là người Do Thái chính gốc và tôi sắp đi ngày mai. Có cơ hội nào về chuyện cười không?
David,
Tôi cảm thấy sự đồng cảm sâu sắc với người Do Thái. Trong nhiều kiếp của mình tôi đã từng là người Do Thái, cho nên không phải chỉ một mà là ba chuyện cười cho bạn.
Một chàng thanh niên có nhiệm vụ phải là thành viên tại một câu lạc bộ rất chọn lọc nơi người Do Thái không được đón chào. Vì tên anh ta là Baker, anh ta nghĩ họ có thể không hình dung ra được danh tính thực của anh ta.
Vào ngày phỏng vấn với uỷ ban thành viên, chàng thanh niên dồn tâm trí lớn và ăn mặc cẩn thận và tạo ra dáng vẻ thanh lịch. Một thành viên uỷ ban hỏi, 'Bố mẹ anh có tới từ Nga không?'
Lời đáp của anh ta đơn giản là không.
Vì họ không có nền tảng thực nào để đặt hoài nghi nên ban giám đốc chấp nhận Baker, nhưng nhiều tuần sau một nhân viên điều tra đưa cho uỷ ban các sự kiện.
Được triệu đến trước uỷ ban lần nữa Baker được hỏi 'Tại sao anh nói dối chúng tôi? Chúng tôi hỏi anh bố mẹ anh có tới từ Nga không và anh nói không.'
'Vâng, họ không tới đâu,' Baker trả lời. 'Họ vẫn còn ở đó mà!'
Trong một bệnh viện ở Phía Đông Thấp của New York hai người đàn bà vừa mới sinh con.
Lại trở về phòng riêng của họ một người đàn bà nói với người kia, 'Mazel tov, bà Teitlebaum ơi. Bà đặt tên con trai bà là gì?'
Người đàn bà này đáp, 'Qadaffi!'
'Bà có trẻ con không đấy?' quí bà thứ nhất kêu lên.
'Chắc chắn không!' người kia khẳng định. 'Tôi không bao giờ nghiêm chỉnh hơn trong đời tôi!'
'Vâng, tôi gợi ý bà có thể đặt tên con bà là bất kì cái gì bà cảm thấy thích. Nhưng, bà Teitlebaum ơi, bà có chắc đó là cái tên bà muốn không?'
'Có chứ, tôi chắc!' người đàn bà này nói một cách lạnh lùng. 'Và nhân tiện, tôi không phải là bà Teitlebaum, tôi là Cô Teitlebaum! '
Bạn đã bỏ lỡ nó! Điều đó cần một người Do Thái để hiểu nó. Bây giờ chuyện này sẽ khó hơn một chút...
Bé Bernie được ngồi cùng thầy dạy kèm khi học Kinh sách Linh thiêng. Họ đi tới phần mà Sách Thiện kể lại chi tiết rằng Dinah, con gái của Jacob, đã bị tấn công tình dục bởi các con trai của Schechen. Bernie hỏi để làm rõ ràng.
Giáo sĩ nói, 'Được, chúng ta hãy nhìn vào lời của nhà bình luận vĩ đại Rashi.'
Văn bản nói, 'Và họ nằm cùng cô ấy và họ làm đau cô ấy.'
'Vâng ' Bernie nói, 'nhưng điều đó nghĩa là gì?'
Giáo sĩ trả lời, 'Này, người bình luận nói, "Và họ nằm cùng cô ấy" – điều đó nghĩa là, theo cách thông thường; "và họ làm đau cô ấy" – điều đó nghĩa là, theo cách phi thường.'
'Vâng,' Bernie nói, 'và “cách phi thường” nghĩa là gì?'
Và thế rồi giáo sĩ vả cho Bernie một cú đánh mạnh vào mồm và nói, 'và cách thức thông thường con đã biết chưa?'

0 Đánh giá

Ads Belove Post