Chương 2. Bí mật của Coca-Cola

Chương 2. Bí mật của Coca-Cola

Price:

Read more

Một hạt mầm làm cả trái đất xanh - Osho

Bài nói về Thiền

Chương 2. Bí mật của Coca-Cola



Powered by RedCircle


Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Tam Thánh, một đệ tử của Lâm Tế, một lần nói với Tuyết Phong, "Cá vàng thoát khỏi lưới! Lấy gì làm thức ăn?"

Tuyết Phong nói, "Đợi ông ra khỏi lưới, sẽ nói với ông."

Tam Thánh nói, "Là thiện tri thức của một nghìn năm trăm người, mà thoại đầu cũng chẳng biết."

Tuyết Phong nói, "Lão tăng trụ trì nhiều việc."

Một dịp khác, một thời gian sau, Tam Thánh nói với một sư, "Ông vừa mới từ đâu tới?"

Sư nói, "Quái!"

Tam Thánh nói, "Quái!"

Sư lại nói, "Quái!"

Tam Thánh nói, "Quái!"

Sư nói, "Nếu ông đánh bừa tôi, tôi sẽ nói 'Quái!'"

Tam Thánh nhặt cây thiền trượng lên, và sư này tự sẵn sàng nhận cú đánh. Tam Thánh nói, "Khi ông đi xuống dốc, không có vui thú chừng nào ông chưa chạy xuống nó," vừa đó ông ấy đánh sư.

Sư nói, "Ông đồ ăn cướp!" và đi mất.

Một sư khác có mặt trong cảnh này hỏi, "Sư vừa bây giờ - làm sao ông ấy có thể đi vào?"

Tam Thánh bình, "Cha đó đã đi gặp thầy giáo trước đây."

Các bạn, tôi đã nghe nói về một biên tập viên bị chó điên cắn. Khi ông ấy tới bệnh viện bác sĩ nói, "Muộn quá rồi, ông sắp bị dại."

Biên tập viên nói ngay, "Đem cho tôi giấy và bút máy ngay lập tức."

Bác sĩ nói, "Không có vội gì làm di chúc."

Ông ấy nói, "Ai làm di chúc? Tôi muốn viết ra tên của những người tôi sẽ cắn khi tôi trở nên dại!"

Tôi đã đi tìm biên tập viên này, và tôi đã tìm thấy anh ta. Anh ta làm việc ở đây trong thành phố có văn hoá tự phong này, trong tờ nhật báo, Prabhat. Anh ta đã từng viết trong các bài xã luận điều tuyệt đối vô nghĩa về tôi.

Trước khi tôi trả lời anh ta, tôi muốn cám ơn anh ta, vì bất kì người nào viết bất kì điều vô nghĩa nào về tôi đơn giản cho tôi một cơ hội, một cơ may phơi bày ra tính tôn giáo tự phong này, cái gọi là tôn giáo này, hoàn toàn mục ruỗng. Trước khi tôi trả lời anh ta, tôi sẽ nói cho bạn một điều nữa.

Biên tập viên này đã không chết. Ngược lại, con chó đã cắn anh ta đã chết. Có vài người độc tới mức nếu rắn cắn họ, rắn chết.

Anh ta cố theo đủ mọi cách để cắn tôi, nhưng tôi không sẵn có thế, cho nên anh chàng đáng thương liên tục viết xã luận. Tôi muốn anh ta tiếp tục. Tôi tuyệt đối biết ơn anh ta, bởi lẽ đơn giản rằng anh ta cho tôi cơ hội để phơi bầy xã hội mục ruỗng này và tôn giáo của nó và văn hoá của nó.

Anh ta đã viết về tôi rằng tôi là một "giáo sư dâm đãng làm ô nhiễm bầu khí hậu xã hội và văn hoá." Được...

Biên tập viên này nên nhớ rằng tôi đã không làm các bức tượng ở Khajuraho; chúng đã một nghìn năm tuổi. Tôi đã không làm những bức tượng hoàn toàn khiêu dâm, dâm dục ở Puri hay Konarak. Những bức tượng này về đàn bà trần truồng trong các tư thế truỵ lạc theo con số hàng nghìn... chắc phải đã mất hàng trăm năm cho các nhà điêu khắc làm ra những ngôi đền này. Và những bức tượng này không chỉ là công trình nghệ thuật thuần tuý, chúng là một phần của tôn giáo; bằng không tại sao đặt chúng vào trong đền?

Ấn Độ đã biết người dâm đãng đầu tiên tên là Vatsyayana. Ba nghìn năm trước Sigmund Freud và Havelock Ellis, ông ấy đã viết cuốn sách đầu tiên trên thế giới về tình dục học, Kamasutra, cách ngôn về dục. Người Hindu đã gọi ông ấy là maharishi, người thấy vĩ đại. Kinh của ông ấy là xấu và khiêu dâm thế. Ông ấy cũng có vài bức phác hoạ về các tư thế dục. Những bức phác hoạ đó là dâm đãng thế, xấu thế, phi tự nhiên thế - và bạn sẽ không tin rằng ông ấy mô tả tám mươi tư tư thế làm tình. Bạn chỉ biết một tư thế: đó là tư thế truyền giáo.

Người này không bị gọi là dâm đãng, ông ấy được gọi là người thấy vĩ đại. Và người này trong ba nghìn năm đã không bao giờ bị phê phán bởi bất kì người nào; họ đã tôn thờ người này. Và anh chàng biên tập viên đáng thương này gọi tôi là dâm đãng...

Mọi kinh sách của người Hindu đầy dâm đãng, đầy những thứ nhục dục khiêu dâm. Tôi sẽ mô tả những cột mốc này.

Người thứ hai là một brahmin Kashmiri, người đã viết cuốn Kok-Shastra. Koka là tên ông ấy, bác học Koka. Phác hoạ của ông ấy còn xấu hơn nhiều so với Kamasutra của Vatsyayana, và ông ấy thường có chuyện tình với một người đàn bà đẳng cấp thấp nhất, Kolas; họ là người thổ dân.

Đôi khi tôi tự hỏi... Việc nối `koka' và `kola', có lẽ bí mật của Coca-Cola là ở đó! Đó là lí do tại sao các nhà chế tạo Coca-Cola không cho phép bí mật này được bất kì người nào biết.

Và anh chàng đáng thương này gọi tôi là dâm đãng, và Koka được gọi là học giả lớn, nhà nghiên cứu lớn trong tình dục học!

Trong một trong những kinh sách Hindu bạn sẽ thấy toàn thể khung cảnh này, điều được ngụ ý là dâm đãng.

Bạn đã thấy shivalingas trên khắp Ấn Độ. Có lẽ có nhiều shivalingas hơn tượng của bất kì người nào khác - shivalinga đơn giản ngụ ý bộ máy dục của Shiva, và nó dựa trên yoni của Parvati, vợ ông ấy - và một cách công khai, ở các góc phó, trong bãi chợ. Shivalinga thậm chí không cần đền, không cần. Ngay cả người nghèo nhất cũng có thể đảm đương được nó. Cứ tìm một mảnh đá cẩm thạch có vẻ giống biểu tượng dương vật và làm cho nó vào trong miếng đá cẩm thạch âm đạo của đàn bà. Đặt biểu tượng dương vật trong âm đạo và bạn đã có mahadeva của người Hindu, Thượng đế vĩ đại.

Làm sao xảy ra chuyện không Thượng đế nào khác có biểu tượng như vậy? Tôi muốn kể cho bạn câu chuyện để giải thích từ `dâm đãng'.

Cũng như người Ki tô giáo có ba ngôi, người Hindu có ba ngôi - ba mặt của Thượng đế. Mặt thứ nhất là Brahma, người đã tạo ra thế giới. Ông ấy chỉ có một ngôi đền trong toàn thể Ấn Độ, vì ai chăm lo về ông ấy? - ông ấy đã làm xong việc của mình rồi, và không ai biết ông ấy đã đi đâu.

Mặt thứ hai của Thượng đế là Vishnu, người có hàng nghìn ngôi đền, vì công việc của ông ấy là duy trì cái mà Brahma đã tạo ra. Tất nhiên, nếu bạn có thể thuyết phục được ông ấy bằng lời cầu nguyện và nghi lễ, đó sẽ là phúc lành lớn cho bạn. Ông ấy thường xuyên duy trì vũ trụ cho tới khoảnh khắc mà Shiva phá huỷ nó. Shiva là Thượng đế phá huỷ.

Làm sao xảy ra chuyện Shiva đã có biểu tượng dương vật để đại diện cho ông ấy?

Một sáng, Brahma và Vishnu đã tranh cãi về cái gì đó, và họ không thể đi tới kết luận được, cho nên họ nghĩ, "Tốt hơn cả là đi tới Shiva. Có lẽ ông ấy có thể giúp chúng ta đi tới kết luận." Thế là họ đi tới Shiva lúc sáng sớm.

Người Mĩ không nên nghĩ rằng chỉ họ làm tình vào buổi sáng. Hàng triệu năm trước đó, Shiva đã làm tình với Parvati vào buổi sáng - với cửa mở.

Brahma và Vishnu không bao giờ nghĩ rằng đây là lúc làm tình - nhưng Shiva là Thượng đế rất kì lạ, Thượng đế hyppi. Ông ấy dùng cần sa, ông ấy dùng thuốc phiện, ông ấy uống rượu. Không có một thứ ma tuý nào mà ông ấy không nghiện. Một cách tự nhiên, ông ấy không có cảm giác về thời gian, liệu lúc đó là đêm hay ngày, hay liệu cửa là mở hay đóng.

Cho nên Brahma và Vishnu bước vào và họ không thể tin được vào mắt mình. Tôi gọi những anh chàng này là dâm đãng. Nếu như họ có bất kì tính quân tử nào họ nên đi ra khỏi nhà này, nhưng họ vẫn còn ở đó trong sáu giờ, vì việc nghiện ma tuý đó, Shiva, cứ tiếp diễn mãi, không biết khi nào dừng lại. Ông ấy không bận tâm rằng hai anh chàng này đang đi quanh, xem điều ông ấy đang làm. Đây là các thần dâm đãng của người Hindu!

Và khi sau sáu giờ ông ấy trở về nhận biết và nhận ra hai anh chàng này, họ nguyền rủa ông ấy. Họ đáng phải tự nguyền rủa bản thân họ chứ, vì họ đã đi vào sự riêng tư của ai đó. Thấy rằng ông ấy đang làm tình, họ đáng ra phải đi ra và đợi bên ngoài. Nhưng họ đã đi vòng quanh, xem và thích thú: đây là dâm đãng. Bạn sẽ không tìm thấy ví dụ khác về dâm đãng thiêng liêng như vậy.

Họ đáng phải tự nguyền rủa bản thân họ, những thay vì nguyền rủa bản thân mình, họ nguyền rủa Shiva - "vì chúng tôi đã đứng đây trong sáu giờ, và ông đã không chú ý gì tới chúng tôi, và ông cứ liên tục làm tình. Điều đó là vô văn hoá tới mức chúng tôi nguyền rủa ông, rằng ông sẽ được biết tới trên thế giời chỉ bởi bộ phận sinh dục của ông." Đó là lí do cho shivalinga đó bạn thấy khắp nước này.

Bây giờ, tôi muốn ông biên tập viên của Prabhat trả lời tôi: Ai dâm đãng? Các thượng đế của ông...?

Và thế rồi tôi đi tới cha của dân tộc này, Mahatma Gandhi.

Trong khi vợ ông ấy, Kasturba, còn sống... Mồ của bà ấy ở ngay bên ngoài con sông ở cung điện Aga Khan; bà ấy chết ở đây trong sự giam cầm của Vương quốc Anh. Mahatma Gandhi cũng ở dưới ngôi nhà bị bắt trong cung điện Aga Khan.

Kasturba rất ghen với Gandhi, vì ông ấy trộn lẫn với nhiều người thế, đàn ông và đàn bà. Bà ấy giữ cảnh giác thường xuyên.

Một lần một nhà thơ lớn của Ấn Độ, Rabindranath Tagore, đã ở trong đạo tràng của Gandhi, và Gandhi muốn thảo luận nhiều điều với ông ấy, cho nên ông ta nói, "Sẽ là tốt nếu chúng ta ngủ trong cùng một phòng." Kasturba tá hoả. Bà ấy không cho phép họ ở trong một phòng.

Cho nên khi Kasturba còn sống, Gandhi đã nói về brahmacharya, vô dục. Thực ra, mọi người đều muốn là vô dục khi có liên quan tới vợ người đó. Ông ấy đã viết cuốn sách nói rằng vô dục là cuộc sống thực, nhưng đó chỉ là nỗi sợ về Kasturba và không gì khác.

Khi Kasturba chết, ông ấy bắt đầu ngủ với đàn bà trần truồng. Mọi người đi theo ông ấy đã từng cố che giấu sự kiện này, vì họ lo nghĩ rằng hình ảnh của ông ấy về người cha dân tộc sẽ sụp đổ trong bùn. Và không may ba người đã thường xuyên quấy rầy ông ấy không cho làm điều này tất cả đều từ Maharashtra.

Một người là Kaka Kalelkar, người bạn lâu dài, cả đời của Mahatma Gandhi. Người thứ hai là Vinoba Bhave, một trong những người đi theo thân thiết nhất của Mahatma Gandhi. Và người thứ ba là Dada Dharmadhikari, người đã từng thử triết lí hoá các phát biểu bình thường của Mahatma Gandhi. Cả ba người đều thuộc về Maharashtra, xã hội tôn giáo và có văn hoá tự phong.

Nhưng Mahatma Gandhi đã không nghe bất kì ai.

Vì đè nén thường xuyên của ông ấy là ông ấy đã gọi là vô dục... ngay cả sau khi làm bố của năm người con trai, ông ấy đã đè nén dục tính của mình, thú nhục dục, và chỉ những người đè nén trở thành dâm đãng.

Một khi vợ ông ấy chết, ông ấy quên tất cả về brahmacharya, vô dục, và bắt đầu trong tuổi già của mình, vào độ tuổi bẩy mươi, có những giấc mơ dục. Và ông ấy được gọi là mahatma, hồn vĩ đại - và ông ấy bắt đầu ở độ tuổi bẩy mươi ngủ cùng gái trẻ khoả thân, và toàn thể những người đi theo ông ấy đã cố gắng che giấu sự kiện này.

Nhưng họ không thể che giấu được nó bởi lẽ đơn giản. Thư kí của Mahatma Gandhi, Pyarelal, đã là một trong những thư kí hiệu quả nhất người ta có thể có. Nhưng vì ông ấy rơi vào yêu với đàn bà, Gandhi đã đá ông ấy ra khỏi đạo tràng. Trong đạo tràng của Gandhi không ai có thể rơi vào yêu; đó là tội lỗi lớn nhất.

Pyarelal đã viết tiểu sử của Gandhi. Ông ấy biết mọi bí mật - việc ngủ của ông này với gái khoả thân - và bởi vì ông ấy đã bị đá ra khỏi đạo tràng, ông ấy có thể đã có việc trả thù nào đó cũng trong tâm trí ông ấy. "Người này nói về vô dục cho công chúng, và từ cửa sau ông ta ngủ với gái trẻ, và các cô gái này phải ở trần truồng."

Ông ấy đã viết cuốn tiểu sử, và nó là một tập lớn thế, với độ chính xác thế của bằng chứng - gần hai nghìn trang giấy, hai tập, cho nên nó ở ngoài tầm với của công chúng bình thường. Ai sẽ đọc hai nghìn trang? Và việc ngủ với gái truồng tới ở một trăm trang cuối cùng, với mọi chi tiết - những cô gái này là ai, mọi bức thư mà ông ấy đã nhận được từ Kaka Kalelkar, Vinoba Bhave, Dada Dharmadhikari, thuyết phục ông ấy dừng thực hành này: "Điều này có thể phá huỷ hình ảnh của ông."

Nhưng đó đã là thời kì cuối của đời ông ấy, và điều ông ấy đã đèn nén trong bốn mươi hay năm mươi năm đã trở thành núi lửa. Nó đã ở bên ngoài kiểm soát của ông ấy.

Và người này, hoàn toàn chưa chín chắn, dốt nát. Gọi tôi là dâm đãng!

Gọi Mahatma Gandhi là dâm đãng đi!

Gọi Brahma và Vishnu là dâm đãng đi. Gọi Shiva llà dâm đãng đi - kẻ hippy đầu tiên của thế giới!

Nhưng đây là tình huống với mọi tôn giáo. Hindu giáo không là ngoại lệ.

Năm trăm trang trong Cựu ước của Kinh Thánh là tuyệt đối khiêu dâm. Một người bạn của tôi đã rút ra tất cả năm trăng trang đó và làm ra cuốn sách mới, Kinh thánh linh thiêng qua đánh giá tia X. Bây giờ người Ki tô giáo đang theo ông ấy. Nhưng cuốn sách này đã đi trước - mặc dầu bị nhiều nước cấm, nó đã đạt tới thị trường ngầm.

Năm trăm trang sao? Và người Do Thái, người Ki tô giáo - vì cả hai đều tin vào Cựu ước - đã không bao giờ bác bỏ? Gọi những người này là dâm đãng đi. Và đây là những nhà tiên tri người đã từng viết ra mọi điều này.

Tôi quyết tâm phơi bày mọi thứ, không giữ lại bất kì cái gì. Cho nên điều hoàn toàn tốt là những người này phải tiếp tục viết chống lại tôi. Điều đó sẽ cho tôi tài liệu, chủ đề. Họ sẽ sớm nhận ra họ đang chặt đầu riêng của họ.

Tôi không phải là người có thể bị kìm nén bởi chỉ gọi tôi theo các cái tên. Chỉ trích điều tôi đang nói, nhìn vào mặt bạn trong gương, và tìm ra các đoạn trong kinh sách riêng của bạn đi. Bạn sẽ thấy nhiều nữa, vì tôi đang chỉ nêu các mẫu cho người của tôi.

Một biên tập viên tờ báo khác Marathi đã hỏi tôi rằng, "Làm sao hai hồn có thể sống trong một thân thể?" - dường như anh ta hiểu hồn là gì!

Hồn là ánh sáng thuần khiết, và trong phòng bạn có thể có một chiếc nến, bạn có thể có một nghìn chiếc nến, vì ánh sáng không chiếm không gian. Ánh sáng không là thứ chiếm không gian. Bạn có thể có một nghìn chiếc... Bạn có thể thấy quanh bạn cả nghìn bóng đèn và nghìn ánh sáng. Ánh sáng không tranh giành không gian, lãnh thổ. Ánh sáng không là thứ chiếm không gian - và hồn chỉ bao gồm ánh sáng thuần khiết, cái không cần bất kì nhiên liệu nào. Cho nên không có vấn đề...

Biên tập viên này đã hỏi liệu tôi có thể chứng minh được điều này không.

Nó đã là sự kiện được chứng minh; tôi không phải chứng minh nó.

Trên khắp thế giới mọi người đã biết điều đó rồi, rằng một người có thể bị sở hữu bởi các linh hồn - và không chỉ một. Số đếm cao nhất đã là mười sáu, mười sáu hồn sở hữu một thân thể của một người.

Và nếu bạn muốn thêm dữ liệu và nghiên cứu về chủ đề này, bạn nên tới Rajasthan, tới Jaipur, để có cái nhìn trong đại học Rajasthan - đó là đại học duy nhất ở Ấn Độ có khoa cận tâm lí. Họ đã thu thập mọi trường hợp bị sở hữu bởi linh hồn - để cho bạn sẽ biết rằng nó không phải là vấn đề không gian chút nào. Hai hồn có thể ở trong một thân thể mà không có khó khăn gì. Chúng không có bất kì xung đột lãnh thổ nào.

Cứ quan sát ánh sáng và bạn sẽ hiểu. Một chiếc nến hay một nghìn chiếc nến trong một phòng nhỏ - bạn nghĩ sẽ có hỗn độn nào không? Một nghìn chiếc nến? - chúng sẽ tìm ra không gian ở đâu?

Ánh sáng không cần không gian.

Tôi đang trả lời câu hỏi này, không vì bạn đâu, bạn biên tập viên, tôi đang trả lời câu hỏi này cho người của tôi hiểu rằng hồn là ánh sáng thuần khiết. Đó là lí do tại sao nó không có trọng lượng, nó không chiếm không gian. Nó không có giới hạn nào khi có liên quan tới thời gian.

Hàng trăm thực nghiệm đã được tiến hành trên khắp thế giới bởi các nhà khoa học. Trong một thực nghiệm ở Đức, họ để một người trên bờ vực chết trong một cái hòm được làm bằng kính tuyệt đối trong suốt, để cho họ có thể quan sát ông ấy khi ông ấy còn sống, từ bên ngoài. Cái hòm đã được dán xi kín mít. Họ muốn biết rằng, nếu linh hồn rời khỏi thân thể, làm sao nó có thể bỏ lại chiếc hòm? "Chúng ta sẽ bắt giữ hồn." Và nếu hồn rời khỏi thân thể, thân thể phải mất trọng lượng nào đó, cho nên họ đã cân thân thể chính xác nhất có thể được.

Nhưng người này đã chết, và chẳng cái gì rời bỏ hòm kính, vì với hồn, vật chất không là cản trở.

Bạn biết rằng tia X có thể đi vào thân thể bạn và thân thể không thể ngăn cản được chúng; bạn thậm chí không cảm thấy rằng tia X đang đi vào thân thể bạn khi được chụp ảnh tia X. Hồn là ánh sáng tối thượng, tinh tế hơn nhiều, cho nên khi nó rời khỏi thân thể bạn không thể thấy được nó. Nếu bạn đã không thấy nó bên trong bản thân bạn, bạn sẽ không bao giờ có khả năng thấy linh hồn của bất kì người nào rời khỏi người đó.

Thế rồi họ mở cái hòm ra, và họ đã không thể nào tìm thấy nó. Cho nên họ đã cân người chết lần nữa: ông ta có cùng trọng lượng. Với những người duy vật điều đó là đủ chứng minh rằng không có hồn, vì không cái gì đã rời bỏ cái hòm và trọng lượng thân thể chết của người đó là như khi người đó sống. Với những nhà khoa học duy vật điều đó là đủ để chứng minh rằng không có hồn.

Điều đó là không đủ với tôi.

Hồn không có trọng lượng.

Bạn có nghĩ ánh sáng có trọng lượng không? Thử xem... để chiếc nến lên máy cân, chưa thắp sáng. Cân nó, thế rồi cho ánh sáng lên chiếc nến và xem liệu nó có nặng thêm không. Không có nhu cầu đi tới chiều dài thế như đi tìm cái ra từ người chết; bạn có thể chỉ thử cân ánh sáng. Nó không có trọng lượng, nhưng điều đó không chứng minh được rằng không có ánh sáng. Nó đơn giản chứng minh rằng ánh sáng thuộc vào một phân loại khác. Nó không phải là vật, do đó nó không có trọng lượng.

Khi bạn thổi tắt chiếc nến bạn có thấy ngọn lửa đi đâu không, có đi tìm cửa ra phố không? Bạn không thấy bất kì cái gì. Ngọn lửa đơn giản biến mất trong vũ trụ, không để lại dấu vết gì đằng sau.

Cùng điều này là đúng cho hồn.

Và biên tập viên thứ nhất tiếp tục rằng tôi làm ô nhiễm bầu khí hậu xã hội và văn hoá."

Bạn đã có bầu khí hậu xã hội và văn hoá nào?

Chính một người đã từ bầu không khí xã hội và văn hoá này giết chết Mahatma Gandhi - kẻ sát nhân đầu tiên thuộc loại của nó trên đất nước này. Điều đó là hoàn toàn được ở Mĩ, nhưng không được ở Ấn Độ.

Ở Mĩ, hai mươi phần trăm tổng thống đã bị sát hại - đó là thường lệ - nhưng kẻ sát hại Mahatma Gandhi đã là người đầu tiên thuộc loại của nó trong nước này. Và người đã sát hại ông ấy thuộc vào xã hội văn hoá xã hội này. Người đó đã là công dân của thành phố này.

Một nỗ lực đã được thực hiện trong đời tôi ở thành phố này, bằng việc ném dao để giết tôi! Tôi đã được thông báo bởi tổng hành dinh cảnh sát, trước bài nói buổi sáng, rằng "Chúng tôi đã nhận được một cú điện thoại nặc danh rằng ai đó sẽ ném dao vào ông và giết ông, cho nên hãy cho phép hai mươi sĩ quan cảnh sát hạng cao tới."

Nhưng toàn thể sự việc là khác toàn bộ; chung cuộc sự việc đưa tới một kết luận rất khác. Hai mươi sĩ quan cảnh sát kia đã ngồi đằng sau người đã ném dao vào tôi. Họ lập tức bao vây anh ta, để bắt anh ta.

Không may cho người đáng thương này, anh ta không phải là cung thủ, hay người có thể xoay xở ném trúng mục tiêu. Chiếc dao rơi cách tôi gần hai mét. Một người vĩ đại làm sao họ đã tìm thấy để giết tôi! Nếu như họ bảo tôi, tôi chắc đã ngồi cách xa bản thân tôi gần hai mét!

Họ đã không cho phép người của tôi đưa ra vụ kiện. Mười nghìn sannyasins đã hiện diện ở đây, nhân chứng mắt thấy; bạn không thể tìm thấy nhiều nhân chứng thế cho bất kì kẻ giết người nào, hay bất kì kẻ sát hại có dự định nào ở bất kì chỗ nào khác. Nhưng sĩ quan cảnh sát đã nói, "Chúng tôi hiện diện, đích thân chúng tôi sẽ đem vụ kiện này ra toà. Đó là vụ kiện của cảnh sát. Ông không cần bận tâm chút nào." Đó là chiến lược.

Họ cũng lấy đi con dao, nói, "Chúng tôi phải trình nó cho quan toà." Con dao không bao giờ được trình ra, và quan toà đơn giản bác vụ kiện: "Không có vụ kiện. Bằng chứng đâu?" Và hai mươi sĩ quan cảnh sát đó vẫn còn im lặng.

Đó đã là âm mưu sâu giữa quan toà và các sĩ quan cảnh sát và công dân có văn hoá của thành phố này.

Làm sao tôi làm ô nhiễm bầu khí hậu xã hội và văn hoá này? Tôi không đi vào thành phố của bạn chút nào; nó quá bị ô nhiễm với tôi. Nó là thành phố bị ô nhiễm nhất trong toàn thể châu Á, và nó sẽ sớm là thành phố ô nhiễm nhất trên toàn thế giới.

Tôi nói chuyện cho người của tôi; tôi chưa bao giờ gặp các biên tập viên của tờ Prabhat, và các biên tập viên của tờ nhật báo Marathi khác, các báo hàng tuần, các tạp chí hàng tháng. Tôi không thấy mọi người từ thành phố này ở đây. Người của tôi thuộc vào toàn cầu, và vài người kia từ thành phố này đang ở đây, họ đã ở cùng tôi trong hai mươi năm. Họ bây giờ ở bên ngoài mọi chữa trị. Tôi đã làm biến chất họ nhiều tới mức bây giờ không có thuốc, không có việc giải chương trình nào có thể đem họ trở lại tình trạng điên rồ bình thường của thành phố này.

Chỉ nhân tiện, tôi muốn kể cho bạn một vụ kiện rất hay của một người truyền đạo lớn, người có hàng triệu thính giả trên radio, và người xem truyền hình.

Ở Mĩ, một hiện tượng mới đang tăng lên: người truyền đạo trên truyền hình. Nhu cầu là gì để đi tới mọi người? Bạn chỉ cho buổi giảng trong studio truyền hình và nó đạt tới hàng triệu gia đình.

Người này, người truyền đạo qua tivi Jim Bakker, đã lại quay về với truyền hình Mĩ American TV. Ông ấy đã đi đâu và tại sao? Ông ấy đã thú nhận có giao hợp dục với thư kí của ông ấy và quan hệ đồng dục với người thuyết giảng nam.

Điều này đã xảy ra vài tháng trước. Thế rồi ông ấy đi vào chỗ ẩn dật chỉ để tránh công chúng - vì ông ấy đã là người thuyết giảng lớn, và họ đã nghĩ rằng Thượng đế nói qua ông ấy. Nhưng khi họ thấy rằng ông ấy đã có giao hợp với thư kí của ông ấy, và không chỉ dị dục, ông ấy đã bị hư hỏng - ông ấy đã có quan hệ với người thuyết giảng nam... Và trên truyền hình ông ấy nói với mọi người về sự vĩ đại của vô dục.

Những người này là người thực sự phá huỷ nhân loại và sự tin cậy của nó.

Bây giờ ông ấy đang quay lại. Ông ấy đã tìm ra cái cớ gì? - cái cớ lớn, nhưng nó sẽ không có tác dụng khi có liên quan tới tôi.

Bây giờ ông ấy đang nói rằng quỉ đã làm cho ông ấy làm điều đó. Ông ấy đã là đại diện của Thượng đế, và Thượng đế thậm chí không quan tâm can thiệp. Và đó không chỉ là một lần, nhưng trong nhiều năm quỉ đã bảo ông ấy làm điều đó, làm tình với thư kí, có quan hệ đồng dục với người thuyết giảng, đó là quỉ.

Thượng đế đang làm gì? Nếu ngài không thể cứu được người thuyết giảng riêng của ngài, bạn nghĩ ngài sẽ cứu bạn sao? Quỉ dường như là mạnh hơn.

Ông ấy nói, "Quỉ ghen vì tôi đã thành lập một nhà thờ mới."

Nhưng về Thượng đế thì sao? Bạn đã làm nhà thờ mới cho Thượng đế... Thượng đế dường như là tuyệt đối bất lực; quỉ đã chỉ đạo bạn trong nhiều năm. Và bạn đã từng thuyết giảng về vô dục... Bạn không thể nói với mọi người, "Quỉ đã ép buộc tôi làm mọi điều mà tôi không muốn làm." Bạn đã bị bắt quả tang làm tình với thư kí, và không có quỉ nào hiện diện, kẻ đang ép buộc bạn, trên đầu nòng súng, phải làm tình. Bạn ít nhất có thể báo cho đồn cảnh sát.

Không phải là trùng hợp ngẫu nhiên mà việc tôn thờ quỉ đang tăng lên trên khắp thế giới, đặc biệt trong các nước Ki tô giáo. Ở Anh, bây giờ có hàng nghìn và hàng nghìn người tôn thờ quỉ. Ở Australia, hàng nghìn người tôn thờ quỉ. Và những người tôn thờ quỉ này là người Ki tô giáo người đã thấy rằng Thượng đế là bất lực; quỉ là kẻ mạnh hơn nhiều. Hiển nhiên, mọi người đều muốn ở bên phía thắng lợi.

Những người Ki tô giáo đang ném đá vào nhà thờ, ném đá vào những người thuyết giảng Ki tô giáo, nói "Ông đang dẫn sai đường cho mọi người. Ông đang bảo mọi người rằng Thượng đế sẽ cứu ông. Thượng đế không thể làm được bất kì cái gì! Quỉ là mạnh hơn."

Chính là Adam và Eve đã nghe theo quỉ, không nghe theo Thượng đế. Thượng đế cư xử như người Poona có văn hoá tự xưng. Thay vì thuyết phục họ, hay đi cùng họ, cách thức mà quỉ đã tranh cãi, Thượng đế đã bảo Adam và Eve rằng họ phải không ăn quả từ hai cây: một cây là cây trí huệ, và cây kia là cây sự sống vĩnh hằng.

Tôi không thể tìm theo bất kì cách nào... tôi đã thử theo cả nghìn cách để bằng cách nào đó thấy ra vấn đề. Người bố ngăn cản sáng tạo riêng của mình khỏi việc là trí huệ, khỏi việc có sự sống vĩnh hằng sao? Loại người bố gì vậy...? Ông ấy phải được tính như kẻ thù lớn nhất, kẻ thù không đội trời chung của nhân loại.

Chính quỉ đã tranh luận với Eve. Nó nói, "Bạn có hiểu tại sao Thượng đế đã ngăn cản bạn không cho ăn từ hai cây này không? Chính bởi vì ông ấy rất ghen ghét. Ông ấy sợ nếu bạn ăn từ hai cây này bản thân bạn sẽ là Thượng đế. Ông ấy không muốn bạn là Thượng đế, ông ấy muốn bạn sống trần trụi như con vật trong rừng." Và nó nói, "Nếu bạn không tin tôi, bạn cứ ăn đi và thấy."

Eve có thể thấy rõ ràng luận cứ này. Nếu bố yêu bạn, ông ấy chắc đã nài nỉ, "Ăn thêm cây trí huệ và cây sự sống vĩnh hằng đi, để cho con sẽ sớm trưởng thành, để cho con sẽ sớm nhận ra tính thượng đế của con." Điều đó chắc đã là từ bi, yêu thương. Điều này đơn giản là độc ác, bạo hành, xấu xa.

Quỉ đã là người bạn cách mạng đầu tiên của nhân loại. Và khi Eve ăn quả, mắt cô ấy mở ra. Cô ấy thấy một thế giới khác toàn bộ. Cô ấy chạy tới Adam và bảo anh ta ăn quả. Họ bị Thượng đế bắt quả tang. Thay vì cho bất kì luận cứ nào chống lại quỉ, ông ấy cư xử giống như kẻ ngốc. Ông ấy lái họ ra khỏi thiên đường.

Trong một trường nhỏ, cô giáo đang kể câu chuyện này, và cô hỏi, "Các con có thể nói cái gì đó về câu chuyện này được không?"

Một cậu bé, Albert, đứng dậy, và nó nói, "Cứ như con hiểu, ông ấy phải đã lái họ trong chiếc xe Ford cổ." Lái họ ra khỏi thiên đường... loại xe nào ông ấy đã dùng? Nó phải đã là xe Forrd Model-T, loại cổ nhất, cổ đại nhất.

Cô giáo thất kinh. Cô nói, "Cô chưa bao giờ nhắc tới xe hơi."

Albert nói, "Cô đã nói ông ấy lái họ ra..."

Đây là hành vi xấu về phần Thượng đế.

Bảo họ, "Chúng mày đã phạm tội lớn nhất..."

Trí huệ là tội sao? - thế thì dốt nát phải là đức hạnh. Tìm sự sống vĩnh hằng là tội sao? Thế thì tự tử phải là đức hạnh.

Adam và Eve không thể tới được cây kia. Kể từ đó con người đã từng tìm sự sống vĩnh hằng. Bạn đã bao giờ nhận ra bạn đang tìm cái gì chưa?

Bạn đang tìm trí huệ hơn - chứng ngộ. Bạn đang tìm sự sống vĩnh hằng - một lực không có bắt đầu và không có kết thúc.

Tôi không thể nói được bất kì cái gì chống lại những người tôn thờ quỉ. Họ đang làm điều đúng. Điều hoàn toàn tốt là nếu những người tôn thờ quỉ và người tôn thờ Thượng đế đánh nhau và triệt lẫn nhau. Đó sẽ là phúc lành lớn cho nhân loại. Bất kì ai còn ở ngoài điều đó sẽ có mọi niềm vui của hành tinh này, và mọi khả năng trưởng thành trong tiềm năng của mình tới trí huệ tối thượng và tới sự sống vĩnh hằng.

Hai cây kia phải được tìm ra! Nếu Thượng đế chen vào giữa, tống ông ấy đi. Adam và Eve đã là những người rất nghèo, trần trụi - chỉ có hai! Bây giờ nhân loại là đủ lớn. Thay vì bị lái đi bởi Thượng đế, nó có thể lái Thượng đế ra khỏi thiên đường. Ông ấy đã sống trong thiên đường đủ lâu rồi. Bây giờ xéo đi!

Kì lạ... bạn không đọc tôi - thành phố của văn hoá tự xưng - bạn không lắng nghe tôi. Chỉ sự hiện diện của tôi sao...?

Tôi không bao giờ đi ra ngoài, tôi không bao giờ đi vào trong đạo tràng nữa, ngoại trừ hai giờ này vào buổi tối. Sống trong phòng nhỏ của tôi gần như hai mươi bốn giờ một ngày, nếu sự hiện diện của tôi làm biến chất thành phố của bạn, thế thì nó cần được làm biến chất. Thế thì nó không đáng cứu.

Thành phố xấu xí này sẽ bị phá huỷ bởi thái độ bản ngã này, không phải bởi tôi; bởi những người đã từng thổi phồng quả bóng bản ngã rằng thành phố này là văn hoá, tôn giáo. Liên tục thổi phồng: quả bóng sẽ sớm nổ tung. Chính là bạn, bạn biên tập viên và những người lãnh đạo chính trị, và những người cuồng tín tôn giáo, người sẽ phá huỷ bất kì văn hoá nào bạn có. Tôi không biết liệu bạn có văn hoá nào hay không.

Khi có liên quan tới tôi, văn hoá chưa xảy ra trên thế giới. Và bạn đang cho mọi bằng chứng về việc là vô văn hoá. Làm đám diễu hành với hình nộm của tôi trên lưng lừa, bạn đang phơi ra mặt thật của bạn.

Không một tờ báo nào, không một công dân nào đã kết án đám diễu hành này, rằng nó đang làm ô nhiễm di sản văn hoá và tôn giáo. Không, đây là văn hoá của bạn.

Mang nhiều lừa nhất có thể được vào trong thành phố của bạn đi, và chúng sẽ làm thuần khiết thành phố của bạn. Ngày đó không xa xôi khi chỉ lừa sẽ sống trong thành phố này. Tất nhiên, lừa không làm biến chất văn hoá của bất kì người nào; chúng là những sinh vật im lặng, triết lí thế.

Tôi bao giờ cũng yêu chúng từ chính thời thơ ấu của tôi. Tôi bao giờ cũng tự hỏi tại sao những sinh vật đáng thương này bị kết án. Chúng có vẻ im lặng thế, đứng trong bóng râm của tường hay cây. Quan sát mặt chúng mà xem: chúng có vẻ giống Aristotle hay Kant hay Hegel hay Feuerbach - các triết gia lớn, suy nghĩ, suy nghĩ về những vấn đề lớn lao. Thỉnh thoảng chúng cho tiếng hét - đó là tiếng hét đánh thức các con lừa khác còn đang rơi vào ngủ.

Ngoại trừ tiếng hét đó, chúng không làm hại bất kì người nào. Chúng không làm đám diễu hành, chúng không hô to các khẩu hiệu. Chúng không lo nghĩ chút nào rằng ai đó sẽ làm biến chất văn hoá của chúng.

Nếu bạn có văn hoá, không ai có thể làm biến chất nó.

Nếu bạn có tôn giáo, không ai có thể phá huỷ được nó.

Vì bạn không có chúng - bạn chỉ có ảo tưởng, huyễn tưởng, tưởng tượng, niềm tin, nhưng không có thực tại - đó là lí do tại sao bạn sợ thế. Bất kì người nào cũng có thể phá huỷ hệ thống niềm tin giả của bạn. Đó là nỗi sợ, hoang tưởng.

Nhưng tôi sẽ đấu tranh mạnh mẽ với mọi cái bóng giả của bạn, để cho bạn có thể được khám phá trong mặt thực, đích thực, nguyên bản của bạn.

Lời kinh:

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Tam Thánh, một đệ tử của Lâm Tế, một lần nói với Tuyết Phong, "Cá vàng thoát khỏi lưới! Lấy gì làm thức ăn?"

Thiền bao giờ cũng có nhiều thách đố tương tự mà không thể được giải. Thách đố cổ đại nhất, từ đó nhiều thách đố như vậy đã nảy sinh, là ở chỗ một người nuôi lớn một con ngỗng trong cái bình. Khi con ngỗng còn nhỏ, mới ra từ trứng, ông ấy cho nó vào trong bình. Thế rồi ông ấy liên tục nuôi con ngỗng trong bình, cho tới khi toàn thể cái bình đầy ngỗng.

Bây giờ con ngỗng quá to, nó không thể được lấy ra từ miệng bình. Và các Thiền sư đã từng hỏi: Làm sao lấy được con ngỗng ra mà không làm vỡ bình, và không giết chết con ngỗng? Và mọi người đã từng suy ngẫm về điều này: làm sao lấy được con ngỗng ra mà không phá bình, hay làm chết ngỗng. Dường như không có giải pháp.

Những câu đố này, những thách đố này, không phải là để có giải pháp; chúng đem tới cuộc cách mạng khi bạn có được sáng suốt. Hàng trăm người đã trở nên chứng ngộ qua những thách đố nhỏ, ngớ ngẩn như vậy. Nhiều tháng và nhiều năm họ sẽ suy ngẫm, và họ sẽ không tìm ra bất kì cách nào. Không có cách... không có vấn đề về tìm ra bất kì cách nào. Nhưng bởi vì họ đã nghĩ chỉ về con ngỗng trong bình trong nhiều năm, toàn thể tâm trí bị bỏ đi, mọi suy nghĩ dừng lại. Mối quan tâm duy nhất của họ là làm sao mang con ngỗng ra khỏi bình.

Mọi logic thất bại, mọi suy luận thất bại, mọi suy nghĩ thất bại; tâm trí đã không giúp ích. Họ gạt tâm trí sang bên, và khi họ đi tới không gian của vô trí, họ đã cười. Họ chạy tới thầy, và thấy bộ mặt mỉm cười của họ, thầy sẽ nói, "Vậy, con ngỗng ở ngoài rồi sao?" Và đệ tử sẽ chạm chân thầy. Anh ta sẽ nói, "Vâng, nó bao giờ cũng ở ngoài. Cái bình là ảo vọng."

Bạn bao giờ cũng là phật; việc không là phật của bạn chỉ là ảo vọng. Cái bình là ảo vọng, bạn bao giờ cũng ở ngoài bình. Mọi nhà tù bao quanh bạn - nhà tù của tâm trí, của thân thể, của tiền bạc, của thế giới - là không liên quan. Khi có liên quan tới con người bên trong nhất của bạn, nó không bị động chạm bởi bất kì cái gì. Nó bao giờ cũng ở ngoài. Chỉ cần bạn nhìn thấy sự kiện này, và tự do từ mọi hướng kéo tới bạn.

Tuyết Phong nói, "Đợi ông ra khỏi lưới, ta sẽ nói với ông."

Tuyết Phong là một thầy lớn, cũng như Lâm Tế là thầy lớn. Tam Thánh chỉ là đệ tử.

Tuyết Phong nói với Tam Thánh, "Đợi ông ra khỏi lưới, ta sẽ nói với ông. Ngay bây giờ, ta không thấy vấn đề và chỉ làm phí thời gian của ta. Ông còn chưa ra, ông sẽ không hiểu. Cứ đi và suy ngẫm. Đầu tiên ra khỏi lưới, và thế rồi ta sẽ trả lời ông. Thực ra, thế thì chẳng cần trả lời."

Đây là cái hay của Thiền. Nó mang tâm thức riêng của bạn tới điểm mà không có câu hỏi, và không câu trả lời nào được cần. Bạn đơn giản đi ra ngoài câu hỏi và trả lời. Bạn có thể hát bài hát, bạn có thể vẽ bức tranh đẹp, bạn có thể chơi nhạc, bạn có thể múa, bạn có thể cười, nhưng bạn không thể nói bất kì cái gì về cái gì đã xảy ra cho bạn.

Tuyết Phong nói, "Đợi ông ra khỏi lưới, thế thì tới ta và ta sẽ nói cho ông."

Tam Thánh nói, "Là thiện tri thức của một nghìn năm trăm người, mà thoại đầu cũng chẳng biết."

Tuyết Phong có một thiền viện lớn một nghìn năm trăm đệ tử. Tam Thánh chế nhạo ông ấy, khích ông ấy:

Tam Thánh nói, "Là thiện tri thức của một nghìn năm trăm người, mà thoại đầu cũng chẳng biết."

Thực ra, không ai có thể nói một lời về tự do bên trong nhất. Hoặc bạn có nó hoặc bạn không có nó, nhưng không ai có thể nói bất kì cái gì về nó. Ngay cả khi bạn có nó, bạn sẽ không có khả năng nói một lời. Điều đó, Tam Thánh chưa hiểu.

Tuyết Phong nói, "Lão tăng trụ trì nhiều việc."

"Ông cứ đi đi. Trước hết thoát ra khỏi lưới và thế rồi tới. Ngay bây giờ, ta không có thời gian để phí hoài cùng ông."

Dường như đó là thái độ rất nghiệt ngã của Tuyết Phong, nhưng không phải vậy. Ông ấy bất lực, như mọi Phật đều bất lực; có những điều về nó không cái gì có thể được nói. Bạn phải tìm chúng theo cách riêng của bạn.

Nếu ai đó nói cái gì đó, người đó là kẻ thù của bạn không phải là người bạn, vì bất kì cái gì người đó nói sẽ trở thành khối chắn trong tìm kiếm của bạn. Bạn sẽ bắt đầu nghĩ bạn biết câu trả lời, cần gì tìm kiếm? Và câu trả lời là được vay mượn, nó không phải là của bạn.

Nếu tôi uống nước, cơn khát của tôi được dịu đi.

Nếu bạn uống nước, cơn khát của bạn được dịu đi.

Nước vĩnh hằng của sự sống cũng vậy. Uống từ chúng đi. Không ai có thể cho bạn lời giải thích - ngay cả không một lời - để chỉ ra hướng.

Tuyết Phong không phải là nghiệt ngã, ông ấy đơn giản bảo anh ta, "Ông còn quá trẻ con, ông không hiểu điều ông đang hỏi. Ông sẽ phải tự mình tìm nó. Trước hết, thoát ra khỏi lưới đi. Ngay bây giờ ta phải tham dự nhiều chuyện cho tăng đoàn. Ta là toà chủ."

Một dịp khác, một thời gian sau, Tam Thánh nói với một sư, "Ông vừa mới từ đâu tới?"

Sư nói, "Quái!"

Tam Thánh nói, "Quái!"

Sư lại nói, "Quái!"

Tam Thánh không thể hiểu được. Ông ấy nói, "Quái? Ông tới từ quái sao?"

Sư nói, "Nếu ông đánh bừa tôi, tôi sẽ nói 'Quái!'"

Dễ hiểu nếu bạn trong một khoảnh khắc chỉ nhìn vào lí thuyết khoa học về vũ trụ đã tới từ đâu. Nó đã là sự bùng nổ: Quái! - chỉ là vụ nổ vô cùng, hỗn độn, và từ hỗn độn dần dần mọi thứ bắt đầu đông đặc lại.

Từ `quái' không ngụ ý bất kì cái gì; nó đơn giản ngụ ý sự bùng nổ âm thanh. Đó là điều `Yaa-Hoo' của chúng ta ngụ ý.

Khi bạn kêu "Quái!" - quan sát nó đập vào bạn ở đâu. Nó đập ngay dưới rốn bạn. Đó là chỗ bạn đang tới. Trung tâm sự sống ở ngay dưới rốn bạn, khoảng 5-6 cm dưới rốn.

Do đó ở Nhật Bản - nơi họ đã tìm thấy đích xác trung tâm đúng từ đó sự sống đã nảy sinh trong thân thể bạn - khi họ muốn tự tử, họ không bắn bản thân họ vào đầu, họ không bắn bản thân họ vào tim, họ đâm vào bên dưới rốn, đích xác 6 cm bên dưới. Chỉ một con dao sắc, và không có bất kì âm thanh nào, không có bất kì hành hạ nào, người này đơn giản ngã chết. Một khi dao đi vào trung tâm con người bạn, sự sống của bạn lập tức rời khỏi thân thể này; thân thể này không còn sử dụng được nữa.

Điều đó được nói ở Nhật bản theo cách rất kính trọng, vì chừng nào một người chưa biết qua thiền điểm này đích xác ở đâu, người đó không thể tự tử bằng việc đâm vào điểm đó. Đâm vào điểm đó cũng giống như châm kim vào bánh xe. Không khí đi ra ngoài. Đánh vào trung tâm con người của bạn, sự hiện hữu đơn giản bay ra, đi tìm bụng mẹ khác nếu bạn còn chưa chứng ngộ. Nếu bạn đã chứng ngộ, nó biến mất trong trời xanh của điều tối thượng.

Nhưng "Quái!" là một âm thanh hay. Có rất ít âm thanh mà không có nghĩa, nhưng có ý nghĩa mênh mông.

Khi Tam Thánh lại nói, "Quái!"

Sư nói, "Nếu ông đánh bừa tôi, tôi sẽ nói 'Quái!'"

Tôi bao giờ cũng tới từ Quái, nếu ông đang tới từ Quái.

Điều đó có vẻ rất ngớ ngẩn cho người ngoài, nhưng không cho Thiền nhân. Thiền có môi trường đa chiều của riêng nó. Rất khó hiểu nước Nhật Bản nếu bạn không hiểu Thiền.

Ở đây trong nhóm trị liệu có một vấn đề. Nhiều người Nhật Bản thế đang tới - và nhiều người nữa sẽ trên đường...

Sigmund Freud, và Carl Gustav Jung, và Alfred Adler, và Assagioli, và Fritz Perls - toàn các nhà phân tâm của phương Tây chỉ biết tới Ki tô giáo và Do Thái giáo. Ki tô giáo chỉ là một nhánh của Do Thái giáo, không gì hơn. Họ không hiểu bất kì cái gì về phương Đông. Mọi phép trị liệu này đã được phát triển ở phương Tây.

Cho nên mọi nhà trị liệu đều nói với người tham gia của mình, "Sâu bên dưới ông phải ghét bố ông" - vì ý tưởng của Sigmund Freud là ở chỗ mọi con gái cạnh tranh với mẹ, cô ta ghét mẹ. Cô ta ghen vì mẹ đang độc quyền bố. Cô ta muốn có người bố. Cho nên mọi con gái đều ghét mẹ và yêu bố, và ngược lại: mọi con trai yêu mẹ và ghét bố. Mọi cách trị liệu này về căn bản được dựa trên sự cố định vào bố hay mẹ.

Nhưng các nhà trị liệu đã tới tôi nói, "Chúng tôi gặp khó khăn. Nếu thầy bảo một người Nhật Bản rằng anh ta ghét mẹ, hoặc anh ta sẽ tự giết mình hoặc anh ta sẽ giết thầy." Ở Nhật Bản, nói với ai đó rằng "Ghét mẹ bạn đi," bạn đã xúc phạm nhân phẩm người đó. Và khi nhân phẩm bị xúc phạm, bị làm nhục, chỉ có hai cách: hoặc anh ta giết bạn hoặc anh ta giết bản thân anh ta. Nhưng cả hai người không thể cùng tồn tại thêm nữa.

Cho nên các nhà trị liệu đã từng hỏi tôi, "Làm gì? Toàn thể trị liệu của chúng tôi là từ Do Thái giáo và Ki tô giáo, và với người Nhật Bản nó không áp dụng được chút nào." Họ đã được nuôi dưỡng lớn lên trong bầu khí hậu khác toàn bộ, nơi mẹ được kính trọng và yêu mến, nơi bố được kính trọng và yêu mến. Từ chính thời thơ ấu bố và mẹ thuyết phục đứa trẻ đi tới thiền viện để học thiền, đi tới Thiền sư để ngồi bên cạnh ông ấy chỉ để hấp thu hương vị của ông ấy, sự hiện diện của ông ấy, "vì chung cuộc con phải đạt tới việc nở hoa của Phật tính." Nó là xu hướng khác toàn bộ.

Làm sao con trai có thể ghét mẹ mình người đã từng bảo nó chỉ là bản thân nó? "Đi tới thiền viện đi. Học cách lấy bản thân mình làm trung tâm" - và chung cuộc cách làm tan biến trung tâm này nữa, chỉ là hư không và thuần khiết, hoàn toàn trống rỗng. Chỉ trong trống rỗng không bụi nào tụ lại; bằng không, mọi nơi bụi tụ lại.

Người bố thuyết phục đứa trẻ học từ các thầy, những thầy lớn. Ngay cả các hoàng đế cũng được bố họ gửi đi, "để học cái gì đó về con người bên trong nhất của con. Nếu con không biết bản thân con, con không xứng đáng là hoàng đế. Đầu tiên là hoàng đế của bản thân con."

Làm sao bạn có thể ghét bố bạn được, người đã làm cho bạn thành hoàng đế của bản thân bạn trước khi cho bạn kế tục vương quốc bên ngoài? Ông ấy đã cho bạn vương quốc bên trong.

Thiền chắc chắn đã tạo ra sự nổi dậy vô cùng chống lại mọi văn hoá, mọi văn minh.

Như tôi có thể thấy, Thiền sẽ lát đường cho con người mới tới, và cho nhân loại mới nổi lên. Đó là lí do tại sao tôi đang nói nhiều thế về Thiền. Nó không phải là không có chủ định. Tôi muốn bạn hiểu sâu sắc nhất có thể được.

Tam Thánh nhặt cây thiền trượng lên, và sư này tự sẵn sàng nhận cú đánh.

Bạn có thể thấy bất kì chỗ nào khác trên thế giới mà ai đó sẵn sàng, cúi mình, đưa đầu ra để bị đánh không? Không đâu trên thế giới. Hoặc, nếu bạn mạnh, bạn sẽ nhảy lên người này, người định đánh bạn; hoặc nếu bạn yếu, bạn sẽ trốn chạy đúng lúc trước khi người đó đánh bạn.

Nhưng đây là Thiền tuyệt đối. Sư này sẵn sàng, quì trên đầu gối, dường như cầu nguyện, cúi mình, đưa đầu ra - "Thầy đánh đi." Ông ấy đã không nói điều đó, nhưng sự sẵn sàng của ông ấy nói điều đó: "Nếu thầy đánh tôi... ngay cả cú đánh từ thầy cũng là món quà, món quà mà không có giá trị gì ở bãi chợ, nhưng có giá trị trong sự vĩnh hằng của thời gian."

Tam Thánh nói, "Khi ông đi xuống dốc... Khi ta đánh ông, ông đi xuống dốc núi. Không có vui thú chừng nào ông chưa chạy xuống nó. Và nhớ không đi chậm:

"không có vui thú chừng nào ông chưa chạy xuống" - với sự khẩn thiết vô cùng dường như ông đang đi đâu đó,

"Thế rồi làn gió mát, và tia nắng mặt trời đẹp, và việc chạy xuống của ông... Có lẽ ông có thể hiểu điều ông đã không hiểu khi ông đã ở cùng ta."

Tôi nhớ lại những ngày tìm kiếm của riêng tôi.

Tôi thường dậy sớm, ba giờ sáng, khi lúc đó còn tuyệt đối tối và vẫn còn ba hay bốn giờ nữa trước khi mặt trời mọc.

Tôi đã sống bên cạnh một công viên đẹp, và thường không có ai ở đó. Tôi thường chạy - đó là niềm vui vô cùng. Bạn lại là con hươu trong công viên, lại là con sử tử trong rừng. Cái gì đó tâm trạng vô cùng nảy sinh trong bạn.

Một ông Shinhi già có một quán trà nhỏ - đó là quán trà duy nhất, bên góc vườn - nơi mọi người tới thăm vườn ban ngày. Đó là cái vườn duy nhất, với cây cổ thụ và rất đẹp. Ông ấy kinh doanh tốt về bán trà. Ông ấy thường ngủ trong chỗ trú ngụ trong đêm.

Khi tôi thường chạy qua, nhiều lần ông ấy nói, "Tôi xin lỗi, thưa anh. Anh đánh thức tôi dậy. Tôi biết đó là anh, nhưng tôi ra khỏi giấc ngủ vã mồ hôi và run rẩy, vì vào giờ này không ai tới đây, và đôi khi anh là quá thể" - vì đôi khi tôi hay chạy giật lùi.

Có một sân khổng lồ đầy tre. Chúng đã làm ra bóng râm lớn tới mức trong đêm trăng tròn con đường được che phủ bằng bóng của tre. Cho nên khi tôi đi vào bóng râm, không ai có thể thấy được tôi, và khi tôi đi ra khỏi bóng râm bất thình lình, ông già Shidhi đó sẽ nhảy lên từ giường của ông ấy.

Ông ấy sẽ nói, "Lại nữa à? Bao nhiêu lần tôi đã tự thuyết phục bản thân mình rằng đây là cùng anh thanh niên, hoàn toàn dở hơi! Nhưng anh sẽ giết tôi một ngày nào đó, tim tôi đập mạnh thế. Bất thình lình từ bóng tối ai đó tới, và điều đó nữa, chạy giật lùi...!" Ở Ấn Độ, huyền thoại là ở chỗ ma chạy giật lùi, điều đó là rắc rối. "Làm sao phân biệt được rằng anh thực sự là anh, không phải là ma?"

Một hôm chuyện xảy ra - lúc đó là ba giờ sáng - một người đưa sữa phải đã dậy sớm. Anh ta thường tới quãng năm hay sáu giờ, nhưng có lẽ anh ta đã không ngủ ngon, có lẽ đã có quá nhiều muỗi, cái gì đó có thể đã có... Anh ta đã tới sớm, và anh ta mang hai xô đầy sữa.

Khi tôi ló ra từ bóng tối, nhảy múa giật lùi, anh ta quăng cả hai xô và chạy. Và cứ tưởng rằng anh ta đã hiểu lầm, tôi đã đuổi theo anh ta! Tôi càng chạy, anh ta càng chạy nhanh hơn. Tôi nói, "Thật kì lạ..."

Ông già Sindhi đã quan sát toàn thể khung cảnh. Ông ấy nói, "Anh sẽ giết chết anh ta! Sao anh đuổi theo anh ta?"

Tôi nói, "Tôi đơn giản muốn bảo anh ta rằng tôi không phải là ma."

Ông già Sindhi nói, "Không ai tin điều đó đâu. Ma bao giờ cũng nói điều đó! Anh cứ đưa tôi hai xô kia. Đến sáng anh chàng kia sẽ tới, và tôi sẽ đưa trả anh ta các cái xô và giải thích tình huống này."

Trong mấy năm tôi đã hỏi ông già Sindhi liệu người này có tới không. Ông ấy nói, "Không, hai cái xô kia vẫn đấy."

Tôi nói, "Ông có ý tưởng nào anh ta đã đi đâu không?"

Ông ấy nói, "Chẳng có ý tưởng nào. Tôi hay nghĩ anh đã làm chết anh ta. Anh ta có thể đã không sống được với kinh nghiệm kì lạ về ma đuổi theo anh ta."

Nhưng tôi đã làm mọi nỗ lực để tìm ra người này. Chung cuộc tôi đã tìm thấy anh ta; anh ta sống ở làng cạnh đó. Cho nên tôi đi tới đó với hai cái xô đó.

Khoảnh khắc anh ta thấy tôi, anh ta bắt đầu nhảy. Anh ta nói, "Không! Đừng tới đây!"

Tôi nói, "Tôi đã tới chỉ để trả lại anh cái xô của anh."

Anh ta nói, "Tôi không muốn bất kì cái gì!" - với mắt nhắm nghiền, để cho anh ta không thấy tôi.

Tôi nói, "Ít nhất thì cũng nhìn tôi đã, chỉ nhìn vào bàn chân tôi. Chúng không phải là cách chân ma chìa ra sau!"

Người này nhìn vào bàn chân tôi. Anh ta nói, "Vậy là anh không phải là ma à?"

Tôi nói, "Một ngày nào đó tôi sẽ trở thành ma, nhưng ngay bây giờ tôi không là ma."

Anh ta nói, "Trời! Tôi đã đi vòng gần hai dặm đường không cần thiết chỉ để tránh chỗ đó nơi anh chạy giật lùi! Đừng có làm điều đó. Bất kì người nào..."

Tôi nói, "Anh không biết cái đẹp của nó."

Anh ta nói, "Đẹp sao?"

Tôi nói, "Anh không biết phúc lành của nó."

Anh ta nói, "Đừng có thuyết phục tôi."

Tôi nói, "Chỉ một lần thôi, anh tới cùng tôi."

Anh ta nghĩ một chốc, và anh ta nói, "Tốt hơn cả tôi nên tới để cho nỗi sợ chỗ đó mất đi."

Thế là ngày hôm sau tôi đón anh ta tới từ làng này trong xe của tôi, và mang anh ta về nhà tôi, và cả hai chúng tôi chạy nhảy giật lùi.

Ông già Sindhi nhảy ra khỏi giường của mình. Ông ấy nói, "Trời! anh đã tìm ra con ma khác này ở đâu?"

Tôi nói, "Anh ấy không phải là ma."

Ông ấy nói, "Tôi đã bảo anh rồi, mọi ma đều nói điều đó!"

Tôi nói, "Đây là cùng người đã vứt bỏ xô sữa của mình."

Ông ấy nói, "Anh đã tìm thấy anh ta ở đâu? Anh đã đào anh ta lên từ mồ à?"

Tôi nói, "Ông đem đuốc ra và nhìn chân anh ta. Anh ta là người sống, anh ta đã không chết. Và nhìn vào cái xô: ông biết cái xô này, chúng đã nằm đây với ông trong nhiều năm."

Ông ấy nói, "Tốt hơn cả là tôi phải đổi chỗ này; nó trở thành quá nặng nề. Ngày mai anh có thể đem tới người thứ ba - và trong bóng tối rất khó phân biệt. Anh không thể dừng trò chạy giật lùi này được sao?"

Tôi nói, "Nó hay thế... nó cực lạc thế."

Ông ấy nói, "Cái gì?"

Tôi nói, "Chừng nào ông chưa nếm trải nó..." Tôi nói, "Hỏi người đưa sữa xem."

Người đưa sữa nói, "Điều đó là đúng, nó làm cho ông cảm thấy tự do thế."

Ông già nói, "Thế thì tôi sẽ thử ngày mai."

Vợ ông ấy nói, "Không! Ông đừng tham gia với những người này. Họ điên, và họ đang thuyết phục ông."

Tôi nói, "Để ông ấy có nếm trải đi. Đừng lo nghĩ, không cái gì sẽ xảy ra đâu. Tôi nhận trách nhiệm. Và một ngày nào đó bà sẽ tham gia cùng chúng tôi."

Bà ấy nói, "Anh nghĩ tôi sẽ tham gia cùng anh sao? Thế thì tốt hơn cả là cả hai chúng tôi cùng tham gia. Nếu cái gì đó xảy ra, nó xảy ra cho cả hai chúng tôi. Tôi không muốn sống một mình mà không có chồng tôi." Thế là cả hai cùng tham gia.

Tôi thường sống cùng một người bạn, một người rất giầu. Ông ấy đã cho tôi một nửa cái nhà một tầng của ông ấy. Khi ông ấy thấy bốn người - ba đàn ông một đàn bà - ông ấy hoảng hồn!

Ông ấy nói, "Khi anh làm điều đó một mình là được. Tôi biết anh, nhưng tôi không biết những người này - liệu họ là đàn ông, đàn bà hay chỉ là ma. Và anh đã tìm ra người đàn bà này ở đâu? Hoặc là anh bỏ điều này hoặc anh nắm quyền sở hữu toàn thể cái nhà này. Tôi có nhà một tầng khác, tôi sẽ rời đi."

Tôi nói, "Điều đó sẽ là tốt đấy, vì thế thì tôi có thể vui chơi với các ma mới, thậm chí cho phép họ ngủ ở đây chỉ để cho họ dậy đúng giờ - ba giờ."

Thực tại ông ấy đã chuyển nhà.

Tam Thánh đang nói đúng,

"Khi ông đi xuống dốc, không có vui thú chừng nào ông chưa chạy xuống nó," vừa đó ông ấy đánh sư.

Sư nói, "Ông đồ ăn cướp!" và đi mất.

Đi xuống dốc.

Thiền tạo ra những giai thoại hay.

Điều ông ấy đang cố nói, tôi nói với bạn mọi ngày.

Đi vào trong - không chậm chạp, nhưng với toàn bộ ý thức, với sự khẩn thiết dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng, cũng như chiếc giáo, xuyên tới chứ không chạy tới, vì chỗ dốc xuống là rất nhỏ. Từ đầu bạn tới sự hiện diện của bạn, có một khoảng cách rất nhỏ. Chừng nào bạn chưa đi thực sự nhanh, phá tan mọi cây cầu, phá tan mọi chướng ngại, bạn sẽ không đạt tới sự hiện diện tối thượng của bạn.

Đó là điều Tam Thánh ngụ ý, và sư này đã hiểu khi ông ấy nói, "Ông đồ ăn cướp!" Đó là cách diễn đạt rất đáng yêu. Ông ấy đang nói, "Ông đã cướp của tôi hoàn toàn. Ông đã thuyết phục tôi hoàn toàn. Tim tôi là tim ông, con người tôi ở trong tay ông."

Một sư khác có mặt trong cảnh này hỏi, "Sư vừa bây giờ - làm sao ông ấy có thể đi vào?"

Ông ấy đã hiểu - ông ấy đã là người đi theo Tam Thánh - ông ấy đã hiểu điều Tam Thánh ngụ ý bởi chạy và không đi chậm.

Sư này đã hỏi, "Làm sao ông ấy có thể đi vào bằng việc chạy xuống dốc?"

Tam Thánh bình, "Cha đó đã đi gặp thầy giáo trước đây."

"Ông ấy đã chạy đi gặp thầy cũ của ông ấy. Thầy cũ đã không thể thuyết phục được ông ấy; ta đã xoay xở thuyết phục ông ấy. Thầy cũ đã nói cùng điều với ông ấy, nhưng ông ấy đã bỏ lỡ. Bây giờ ông ấy đã quay lại với thầy cũ mà nói, `Thầy đã đúng. Đấy chỉ là sự đặc kịt thông minh của tôi, da dầy của tôi, mà không cái gì đã xuyên thấu. Nhưng Tam Thánh đã làm việc này trong vòng một phút. Ông ấy đã cho tôi cú đánh thế vào đầu, và tôi chạy xuống toàn thể dốc núi.'"

Ông ấy là đúng. Đây là những lời biểu tượng.

Tam Thánh đang nói, "Ta đang đánh ông, và từ điểm đó có đường dốc từ đầu tới tim tới sự hiện hữu. Chạy đi, đừng dừng lại bất kì đâu, và đừng đi chậm. Không người nào biết về giây tiếp; giây này có thể là giây cuối cùng." Cho nên ông ấy đã đi để bày tỏ sự kính trọng của ông ấy với thầy cũ của mình.

Buson viết:

Biển đang thời xuân.

Cả ngày nó dâng lên đổ xuống,

vâng, dâng lên và đổ xuống.

Bạn phải quán tưởng lần nữa:

Biển đang thời xuân. Cả ngày nó dâng lên đổ xuống, vâng, dâng lên và đổ xuống.

Ông ấy đang nói, mà không nói điều đó, chân lí tối thượng của con người bạn: "Ông dâng lên nhưng ông không dâng tới đỉnh tối thượng từ đó không có đổ xuống. Ông dâng lên chút ít và lại đổ xuống. Lần nữa ông nghe thầy khác, ông dâng lên chút ít thêm và ông lại đổ xuống.

"Chừng nào ông chưa dâng lên tới đỉnh tối thượng, tới đỉnh núi mà từ đó không có việc quay lại, ông đã từng chỉ làm bài tập vô tích sự như sóng đại dương: dâng lên và đổ xuống, dâng lên và đổ xuống, từ vĩnh hằng. Khi nào ông sẽ dừng điều này? Khi nào ông sẽ dâng lên và dâng lên và dâng lên không có đổ xuống nữa?"

Điều này tôi gọi là Phật tính.

Điều này tôi gọi là người thức tỉnh.

Câu hỏi 1

Maneesha đã hỏi một câu hỏi:

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Chúng tôi có thực sự phải quay lại từ buông bỏ không? Đặc biệt là đêm qua, có cảm giác dường như thầy có thể đã nói cho chúng tôi vào trong chứng ngộ!

Maneesha, tôi có Nivedano sẵn sàng. Khoảnh khắc tôi thấy bạn sắp ra ngoài giới hạn từ đó bạn sẽ không có khả năng quay lại, tôi lập tức gọi Nivedano.

Bạn phải ở đây cùng tôi. Nhiều điều thế phải được làm cho nhân loại. Cho nên tôi đưa bạn tới điểm đó, nhưng không phải là điểm tối thượng. Tôi chỉ cho phép bạn có thoáng nhìn, và khoảnh khắc tôi thấy bạn đi lên trước, tôi lập tức gọi bạn quay lại.

Bạn phải ở đây trong khi tôi ở đây. Nhiều thứ thế vẫn còn chưa được làm. Toàn thể nhân loại, không biết điều đó, đang chờ đợi ai đó làm cho họ có ý thức, tỉnh táo, để giúp họ trở thành chư Phật. Họ có thể không biết, họ thậm chí có thể đánh bạn.

Điều đó thường xảy ra... Triết gia Đức quan trọng nhất, Immanuel Kant, không bao giờ lấy vợ - không phải ông ấy thiên về vô dục, nhưng vì ông ấy đã là nhà tư tưởng lớn.

Một người đàn bà đã hỏi ông ấy; ông ấy nói, "Tôi sẽ phải nghĩ về điều đó, nó là vấn đề lớn."

Ông ấy mất ba năm nghiên cứu sâu về mọi vấn đề ủng hộ hôn nhân và chống lại hôn nhâu. Chúng là tương đương.

Người phục vụ của ông ấy nói, "Đừng phí thời gian. Mặc dầu ông đã thấy ủng hộ và chống đối là tương đương, một điều nữa vẫn còn thiên về hôn nhân."

Ông ấy nói, "Cái đó là cái gì?"

Người phục vụ nói, "Kinh nghiệm. Không có hôn nhân ông sẽ không có bất kì kinh nghiệm nào. Với hôn nhân ông sẽ có kinh nghiệm nào đó - tôi không nói tốt hay xấu - nhưng kinh nghiệm nào đó chắc chắn có. Cái đó vẫn còn là một điểm ủng hộ thêm."

Nó đã thuyết phục tới mức ông ấy lập tức đi tới nhà người đàn bà này và gõ cửa. Người bố ra mở cửa, và Kant nói, "Tôi sẵn lòng cưới con gái ông."

Ông ấy nói, "Con ta, con quá chậm rồi. Nó đã lấy chồng, nó có hai con rồi. Con đã làm gì suốt thời gian này?"

Ông ấy nói, "Tôi đã nghiên cứu mọi điểm ủng hộ và chống đối."

Ông già nói, "Con đã tìm thấy nhiều điểm tán thành hơn sao?"

Ông ấy nói, "Không, đấy là người phục vụ của tôi đã nói cho tôi rằng có kinh nghiệm bao giờ cũng là tốt hơn là không có nó. Người ta không bao giờ biết được, cái gì đó tốt có thể bắt nguồn từ nó. Và cho dù nó biến thành cái gì đó xấu, nó làm cho người ta được trải nghiệm nhiều hơn."

Thế là ông ấy vẫn còn là người độc thân. Không đàn bà nào khác đã bao giờ hỏi ông ấy, và ông ấy không phải là người đi hỏi bất kì người nào.

Ông ấy đã phụ thuộc vào người phục vụ này. Người phục vụ này liên tục đòi thêm lương, và ông ấy phải cho điều đó, vì không người phục nào khác có khả năng ở lại cùng ông ấy. Ông ấy là một người rất kì lạ, và điều kì lạ nhất là ở chỗ ông ấy thường làm việc như chiếc đồng hồ treo tường.

Khi ông ấy đi tới đại học, mọi người sẽ chỉnh đồng hồ đeo tay của họ. Ông ấy đi là đủ; điều đó có nghĩa là đồng hồ của họ không đúng. Khi ông ấy quay về, mọi ngày vào cùng giờ... Ngay cả vào chủ nhật khi không có nhu cầu đi tới đại học, chỉ để giữ thường lệ ông ấy sẽ đi tới đại học, ngồi trong thư viện và quay về vào cùng thời gian như thường.

Vào ba giờ sáng ông ấy phải được đánh thức dậy, và vào chín giờ tối ông ấy phải bị buộc lên giường. Mọi điều đó phải được làm bởi người phục vụ. Ông ấy đã trả lương cho anh ta số tiền lương khủng, với điều kiện rằng khi đến chín giờ, "Bất kì cái gì xảy ra - tôi có thể đánh anh, hay tôi có việc khẩn cấp ngay lập tức phải làm - không nghe theo tôi. Anh phải buộc tôi vào giường. Cho dù anh phải đánh tôi, anh được phép. Nhưng nhớ, tôi sẽ cho anh trận đánh ra trò!"

Đó là một cảnh tượng kì lạ. Mọi tối vào chín giờ, mọi sáng lúc ba giờ - nó đã là sự hỗn độn tới mức toàn thể hàng xóm thức dậy. Người phục vụ sẽ kéo ông ấy ra, còn ông ấy sẽ quay trở lại dưới chăn. Ông ấy sẽ la hét, lăng mạ anh ta, còn người phục vụ sẽ đáng ông ấy, tát ông ấy.

Đây là tình huống của toàn thể nhân loại.

Maneesha, tất cả các bạn phải sống để đánh thức mọi người cho dù chống lại ý chí của họ, mặc họ. Đừng bận tâm nếu họ đánh bạn, nếu họ khóc, nếu họ la; bạn liên tục kéo họ. Họ phải được làm thành chư Phật!

Đó là lí do tại sao bạn không cho phép bạn đi ra ngoài giới hạn. Tôi đang quan sát mọi người một cách chặt chẽ.

Giờ là lúc dành cho Sardar Gurudayal Singh.

Hiram T. Horace III, nhà ngoại giao Mĩ ở Paris, được đứa con mình, Hiram Junior, chạy tới.

"Bố ơi," Hiram Nhỏ hỏi, "lạm phát nghĩa là gì?"

"Này, con trai," Hiram Lớn nói, "nó nghĩa là giá chung tăng lên."

"Thật à?" Hiram Nhỏ hỏi. "Và điều đó tạo ra khác biệt gì?"

"Này, con trai," Hiram T. Horace III giải thích, "Bố sẽ nói nó theo cách này: ở đây ở Paris, trước lạm phát, với bố cuộc sống là rượu, nhà hàng và đàn bà. Từ khi lạm phát, bây giờ nó là bia, ăn ở nhà và mẹ con!"

Ziggy Zoldoz, một công dân Tiệp Khắc, bị kết án tù mười lăm năm vì gọi chủ tịch đảng cộng sản là thằng ngốc.

Bernie Beanball, phóng viên nước ngoài cho tờ Thời đại mới, hỏi quan chức chính phủ tại sao bản án của Ziggy là nghiêm khắc thế. "Chắc chắn rồi," Bernie nói, "án tù cho xúc phạm cá nhân không bao giờ quá mười hai tháng?"

"Điều đó là đúng," người của đảng nạt nộ, "nhưng anh ta đã không bị kết án vì xúc phạm. Anh ta bị kết án vì làm lộ bí mật nhà nước!"

Anh nông dân Scrumpy quyết định trả tiền mời anh bạn cũ của mình, nông dân Zeke. Anh ta thấy Zeke đang nghiêng người trên hàng rào của chuồng lợn, đang hút tẩu thuốc và lầm rầm bài hát.

"Chào, Zeke," Scrumpy nói, vừa nhìn quanh nông trại. "Mọi sự thế nào với ông bạn thời gian gần đây?"

"À, hơi chịu được," Zeke đáp. "Tôi có một số cây cần chặt hạn, nhưng cơn xoáy lốc tới và đỡ tôi khỏi rắc rối này."

"Thực thế à?" Scrumpy hỏi.

"Vâng," Zeke nói. "Thế rồi các cành nằm đó và cần đốt đi, nhưng sét đánh lửa cháy chúng và đỡ tôi khỏi rắc rối này."

"Thực thế à?" Scrumpy hỏi. "Vậy anh sẽ làm gì bây giờ?"

"Thế này, chẳng gì mấy đâu," Zeke đáp, vừa hút tẩu. "Tôi hình dung tôi sẽ chỉ phải đợi ở đây cho tới khi khoai tây bị rung chuyển khỏi đất bởi động đất!"

Nivedano...

(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...

(tiếng trống)

Im lặng... Nhắm mắt lại, và cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn bị đông cứng.

Đây là khoảnh khắc đúng để nhìn vào trong. Nhưng chạy đi, với ý thức đầy đủ của bạn, toàn bộ sinh lực của bạn, và sự khẩn thiết rằng - người ta chẳng bao giờ biết - đây có thể là khoảnh khắc cuối cùng của đời bạn.

Bạn phải trở thành vị Phật. Đi xuyên qua thể tinh tú của bạn tới chính trung tâm con người bạn.

Khi bạn đi gần hơn, khi bạn đi sâu hơn, im lặng lớn giáng lên bạn. Thêm chút nữa... và an bình mà bạn chưa bao giờ biết trước đây bao quanh bạn. Thêm chút nữa... và bạn ở trung tâm của con người bạn. Khoảnh khắc này bạn là người được may mắn nhất trên trái đất.

Cực lạc lớn bắt đầu nở hoa trong chính trung tâm con người bạn, như hoa sen. Hương thơm là của thế giới khác.

Phẩm chất duy nhất bạn phải nhớ là: Chứng kiến mọi thứ, nhưng không bị đồng nhất với bất kì cái gì.

Bạn không là thân thể, bạn không là tâm trí, bạn không là thể tinh tú đầy ánh sáng. Bạn chỉ là nhân chứng, được định tâm, chỉ quan sát, phản xạ như gương. Trên gương này không bụi nào đã bao giờ tụ lại.

Để làm cho nó thành rõ ràng, Nivedano...

(tiếng trống)

Thảnh thơi, nhưng nhớ chứng kiến.

Chỉ là nhân chứng cho mọi thứ đang xảy ra.

Khoảnh khắc bạn chỉ là nhân chứng, bạn sẽ cảm thấy bạn đang tan chảy vào trong đại dương, cũng giống như băng tan ra.

Thính phòng Phật Gautama vào khoảnh khắc này đã trở thành đại dương tâm thức không gợn sóng nào. Các bạn đã hội nhập vào lẫn nhau. Đây là kinh nghiệm đầu tiên, thoáng nhìn đầu tiên.

Hạt mầm này sẽ lớn lên theo thời gian, và đột nhiên một ngày nào đó bạn sẽ thấy mùa xuân đã tới! Bạn là vị Phật, người đã thức tỉnh - việc tìm kiếm tối thượng của mọi người tìm kiếm chân lí.

Thu lấy thật nhiều cực lạc, thật nhiều phúc lạc, thật nhiều phúc lành... và thuyết phục vị Phật đi cùng bạn ra chu vi cuộc sống của bạn. Trong công việc mọi ngày của bạn, trong lời của bạn, trong cử chỉ của bạn, trong im lặng của bạn, ông ấy phải hiện diện.

Dần dần, dần dần bạn biến mất, và chỉ Phật còn lại. Từ điểm đó, khi duy nhất Phật còn lại, bạn có thể nhảy vào trong càn khôn, bước nhảy lượng tử, và biến mất không để lại bất kì dấu vết nào đằng sau.

Đây là mục đích tối thượng của sự tồn tại cho mọi sinh linh - đặc biệt cho con người, vì họ được tiến hoá cao nhất.

Trước khi Nivedano gọi các bạn trở lại, thuyết phục vị Phật. Đó không phải là ai đó khác, đó là chính con người bạn.

Nivedano...

(tiếng trống)

Quay lại...

Nhưng bây giờ quay lại như Phật, được rót đầy niềm vui, phúc lạc, duyên dáng, im lặng sâu sắc.

Ngồi vài khoảnh khắc chỉ để nhớ lại con đường này, con đường vàng mà bạn đã đi qua. Và chỉ hân hoan trong sự kiện rằng bạn đã có khả năng tan chảy và hội nhập, rằng bạn đã có khả năng đương đầu với cái ngã đích thực của bạn, vị Phật.

Và nhớ chia sẻ ngọn lửa của bạn, chia sẻ vàng của bạn với mọi người, bạn và thù, người quen và người lạ. Toàn thể nhân loại là của chúng ta - họ có thể không biết, nhưng chúng ta biết. Họ có thể vật lộn chống lại chúng ta, nhưng chúng ta chỉ có thể cảm thấy từ bi với họ.

Nhớ, một hạt mầm có thể làm cả trái đất xanh.

Được chứ, Maneesha?

Vâng, thưa Osho kính yêu.

Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục lục


..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post