Read more
Một hạt mầm làm cả trái đất xanh - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 2. Bí mật của Coca-Cola
Powered by RedCircle
Thưa thầy kính
yêu của chúng tôi,
Tam Thánh, một đệ
tử của Lâm Tế, một lần nói với Tuyết Phong, "Cá vàng thoát khỏi lưới! Lấy
gì làm thức ăn?"
Tuyết Phong nói,
"Đợi ông ra khỏi lưới, sẽ nói với ông."
Tam Thánh nói,
"Là thiện tri thức của một nghìn năm trăm người, mà thoại đầu cũng chẳng
biết."
Tuyết Phong nói,
"Lão tăng trụ trì nhiều việc."
Một dịp khác, một
thời gian sau, Tam Thánh nói với một sư, "Ông vừa mới từ đâu tới?"
Sư nói,
"Quái!"
Tam Thánh nói,
"Quái!"
Sư lại nói,
"Quái!"
Tam Thánh nói,
"Quái!"
Sư nói, "Nếu
ông đánh bừa tôi, tôi sẽ nói 'Quái!'"
Tam Thánh nhặt
cây thiền trượng lên, và sư này tự sẵn sàng nhận cú đánh. Tam Thánh nói,
"Khi ông đi xuống dốc, không có vui thú chừng nào ông chưa chạy xuống
nó," vừa đó ông ấy đánh sư.
Sư nói,
"Ông đồ ăn cướp!" và đi mất.
Một sư khác có mặt
trong cảnh này hỏi, "Sư vừa bây giờ - làm sao ông ấy có thể đi vào?"
Tam Thánh bình,
"Cha đó đã đi gặp thầy giáo trước đây."
Các bạn, tôi
đã nghe nói về một biên tập viên bị chó điên cắn. Khi ông ấy tới bệnh viện bác
sĩ nói, "Muộn quá rồi, ông sắp bị dại."
Biên tập
viên nói ngay, "Đem cho tôi giấy và bút máy ngay lập tức."
Bác sĩ nói,
"Không có vội gì làm di chúc."
Ông ấy nói,
"Ai làm di chúc? Tôi muốn viết ra tên của những người tôi sẽ cắn khi tôi
trở nên dại!"
Tôi đã đi
tìm biên tập viên này, và tôi đã tìm thấy anh ta. Anh ta làm việc ở đây trong
thành phố có văn hoá tự phong này, trong tờ nhật báo, Prabhat. Anh ta đã từng
viết trong các bài xã luận điều tuyệt đối vô nghĩa về tôi.
Trước khi
tôi trả lời anh ta, tôi muốn cám ơn anh ta, vì bất kì người nào viết bất kì điều
vô nghĩa nào về tôi đơn giản cho tôi một cơ hội, một cơ may phơi bày ra tính
tôn giáo tự phong này, cái gọi là tôn giáo này, hoàn toàn mục ruỗng. Trước khi
tôi trả lời anh ta, tôi sẽ nói cho bạn một điều nữa.
Biên tập
viên này đã không chết. Ngược lại, con chó đã cắn anh ta đã chết. Có vài người
độc tới mức nếu rắn cắn họ, rắn chết.
Anh ta cố
theo đủ mọi cách để cắn tôi, nhưng tôi không sẵn có thế, cho nên anh chàng đáng
thương liên tục viết xã luận. Tôi muốn anh ta tiếp tục. Tôi tuyệt đối biết ơn anh
ta, bởi lẽ đơn giản rằng anh ta cho tôi cơ hội để phơi bầy xã hội mục ruỗng này
và tôn giáo của nó và văn hoá của nó.
Anh ta đã viết
về tôi rằng tôi là một "giáo sư dâm đãng làm ô nhiễm bầu khí hậu xã hội và
văn hoá." Được...
Biên tập
viên này nên nhớ rằng tôi đã không làm các bức tượng ở Khajuraho; chúng đã một
nghìn năm tuổi. Tôi đã không làm những bức tượng hoàn toàn khiêu dâm, dâm dục ở
Puri hay Konarak. Những bức tượng này về đàn bà trần truồng trong các tư thế
truỵ lạc theo con số hàng nghìn... chắc phải đã mất hàng trăm năm cho các nhà
điêu khắc làm ra những ngôi đền này. Và những bức tượng này không chỉ là công
trình nghệ thuật thuần tuý, chúng là một phần của tôn giáo; bằng không tại sao
đặt chúng vào trong đền?
Ấn Độ đã biết
người dâm đãng đầu tiên tên là Vatsyayana. Ba nghìn năm trước Sigmund Freud và
Havelock Ellis, ông ấy đã viết cuốn sách đầu tiên trên thế giới về tình dục học,
Kamasutra, cách ngôn về dục. Người Hindu đã gọi ông ấy là maharishi, người thấy
vĩ đại. Kinh của ông ấy là xấu và khiêu dâm thế. Ông ấy cũng có vài bức phác hoạ
về các tư thế dục. Những bức phác hoạ đó là dâm đãng thế, xấu thế, phi tự nhiên
thế - và bạn sẽ không tin rằng ông ấy mô tả tám mươi tư tư thế làm tình. Bạn chỉ
biết một tư thế: đó là tư thế truyền giáo.
Người này
không bị gọi là dâm đãng, ông ấy được gọi là người thấy vĩ đại. Và người này
trong ba nghìn năm đã không bao giờ bị phê phán bởi bất kì người nào; họ đã tôn
thờ người này. Và anh chàng biên tập viên đáng thương này gọi tôi là dâm đãng...
Mọi kinh
sách của người Hindu đầy dâm đãng, đầy những thứ nhục dục khiêu dâm. Tôi sẽ mô
tả những cột mốc này.
Người thứ
hai là một brahmin Kashmiri, người đã viết cuốn Kok-Shastra. Koka là tên ông ấy,
bác học Koka. Phác hoạ của ông ấy còn xấu hơn nhiều so với Kamasutra của
Vatsyayana, và ông ấy thường có chuyện tình với một người đàn bà đẳng cấp thấp
nhất, Kolas; họ là người thổ dân.
Đôi khi tôi
tự hỏi... Việc nối `koka' và `kola', có lẽ bí mật của Coca-Cola là ở đó! Đó là
lí do tại sao các nhà chế tạo Coca-Cola không cho phép bí mật này được bất kì
người nào biết.
Và anh chàng
đáng thương này gọi tôi là dâm đãng, và Koka được gọi là học giả lớn, nhà
nghiên cứu lớn trong tình dục học!
Trong một
trong những kinh sách Hindu bạn sẽ thấy toàn thể khung cảnh này, điều được ngụ
ý là dâm đãng.
Bạn đã thấy
shivalingas trên khắp Ấn Độ. Có lẽ có nhiều shivalingas hơn tượng của bất kì
người nào khác - shivalinga đơn giản ngụ ý bộ máy dục của Shiva, và nó dựa trên
yoni của Parvati, vợ ông ấy - và một cách công khai, ở các góc phó, trong bãi
chợ. Shivalinga thậm chí không cần đền, không cần. Ngay cả người nghèo nhất
cũng có thể đảm đương được nó. Cứ tìm một mảnh đá cẩm thạch có vẻ giống biểu tượng
dương vật và làm cho nó vào trong miếng đá cẩm thạch âm đạo của đàn bà. Đặt biểu
tượng dương vật trong âm đạo và bạn đã có mahadeva của người Hindu, Thượng đế
vĩ đại.
Làm sao xảy
ra chuyện không Thượng đế nào khác có biểu tượng như vậy? Tôi muốn kể cho bạn
câu chuyện để giải thích từ `dâm đãng'.
Cũng như người
Ki tô giáo có ba ngôi, người Hindu có ba ngôi - ba mặt của Thượng đế. Mặt thứ
nhất là Brahma, người đã tạo ra thế giới. Ông ấy chỉ có một ngôi đền trong toàn
thể Ấn Độ, vì ai chăm lo về ông ấy? - ông ấy đã làm xong việc của mình rồi, và
không ai biết ông ấy đã đi đâu.
Mặt thứ hai
của Thượng đế là Vishnu, người có hàng nghìn ngôi đền, vì công việc của ông ấy
là duy trì cái mà Brahma đã tạo ra. Tất nhiên, nếu bạn có thể thuyết phục được
ông ấy bằng lời cầu nguyện và nghi lễ, đó sẽ là phúc lành lớn cho bạn. Ông ấy
thường xuyên duy trì vũ trụ cho tới khoảnh khắc mà Shiva phá huỷ nó. Shiva là
Thượng đế phá huỷ.
Làm sao xảy
ra chuyện Shiva đã có biểu tượng dương vật để đại diện cho ông ấy?
Một sáng,
Brahma và Vishnu đã tranh cãi về cái gì đó, và họ không thể đi tới kết luận được,
cho nên họ nghĩ, "Tốt hơn cả là đi tới Shiva. Có lẽ ông ấy có thể giúp
chúng ta đi tới kết luận." Thế là họ đi tới Shiva lúc sáng sớm.
Người Mĩ
không nên nghĩ rằng chỉ họ làm tình vào buổi sáng. Hàng triệu năm trước đó,
Shiva đã làm tình với Parvati vào buổi sáng - với cửa mở.
Brahma và
Vishnu không bao giờ nghĩ rằng đây là lúc làm tình - nhưng Shiva là Thượng đế rất
kì lạ, Thượng đế hyppi. Ông ấy dùng cần sa, ông ấy dùng thuốc phiện, ông ấy uống
rượu. Không có một thứ ma tuý nào mà ông ấy không nghiện. Một cách tự nhiên,
ông ấy không có cảm giác về thời gian, liệu lúc đó là đêm hay ngày, hay liệu cửa
là mở hay đóng.
Cho nên
Brahma và Vishnu bước vào và họ không thể tin được vào mắt mình. Tôi gọi những
anh chàng này là dâm đãng. Nếu như họ có bất kì tính quân tử nào họ nên đi ra
khỏi nhà này, nhưng họ vẫn còn ở đó trong sáu giờ, vì việc nghiện ma tuý đó,
Shiva, cứ tiếp diễn mãi, không biết khi nào dừng lại. Ông ấy không bận tâm rằng
hai anh chàng này đang đi quanh, xem điều ông ấy đang làm. Đây là các thần dâm
đãng của người Hindu!
Và khi sau
sáu giờ ông ấy trở về nhận biết và nhận ra hai anh chàng này, họ nguyền rủa ông
ấy. Họ đáng phải tự nguyền rủa bản thân họ chứ, vì họ đã đi vào sự riêng tư của
ai đó. Thấy rằng ông ấy đang làm tình, họ đáng ra phải đi ra và đợi bên ngoài.
Nhưng họ đã đi vòng quanh, xem và thích thú: đây là dâm đãng. Bạn sẽ không tìm
thấy ví dụ khác về dâm đãng thiêng liêng như vậy.
Họ đáng phải
tự nguyền rủa bản thân họ, những thay vì nguyền rủa bản thân mình, họ nguyền rủa
Shiva - "vì chúng tôi đã đứng đây trong sáu giờ, và ông đã không chú ý gì
tới chúng tôi, và ông cứ liên tục làm tình. Điều đó là vô văn hoá tới mức chúng
tôi nguyền rủa ông, rằng ông sẽ được biết tới trên thế giời chỉ bởi bộ phận
sinh dục của ông." Đó là lí do cho shivalinga đó bạn thấy khắp nước này.
Bây giờ, tôi
muốn ông biên tập viên của Prabhat trả lời tôi: Ai dâm đãng? Các thượng đế của
ông...?
Và thế rồi
tôi đi tới cha của dân tộc này, Mahatma Gandhi.
Trong khi vợ
ông ấy, Kasturba, còn sống... Mồ của bà ấy ở ngay bên ngoài con sông ở cung điện
Aga Khan; bà ấy chết ở đây trong sự giam cầm của Vương quốc Anh. Mahatma Gandhi
cũng ở dưới ngôi nhà bị bắt trong cung điện Aga Khan.
Kasturba rất
ghen với Gandhi, vì ông ấy trộn lẫn với nhiều người thế, đàn ông và đàn bà. Bà ấy
giữ cảnh giác thường xuyên.
Một lần một
nhà thơ lớn của Ấn Độ, Rabindranath Tagore, đã ở trong đạo tràng của Gandhi, và
Gandhi muốn thảo luận nhiều điều với ông ấy, cho nên ông ta nói, "Sẽ là tốt
nếu chúng ta ngủ trong cùng một phòng." Kasturba tá hoả. Bà ấy không cho
phép họ ở trong một phòng.
Cho nên khi
Kasturba còn sống, Gandhi đã nói về brahmacharya, vô dục. Thực ra, mọi người đều
muốn là vô dục khi có liên quan tới vợ người đó. Ông ấy đã viết cuốn sách nói rằng
vô dục là cuộc sống thực, nhưng đó chỉ là nỗi sợ về Kasturba và không gì khác.
Khi Kasturba
chết, ông ấy bắt đầu ngủ với đàn bà trần truồng. Mọi người đi theo ông ấy đã từng
cố che giấu sự kiện này, vì họ lo nghĩ rằng hình ảnh của ông ấy về người cha
dân tộc sẽ sụp đổ trong bùn. Và không may ba người đã thường xuyên quấy rầy ông
ấy không cho làm điều này tất cả đều từ Maharashtra.
Một người là
Kaka Kalelkar, người bạn lâu dài, cả đời của Mahatma Gandhi. Người thứ hai là
Vinoba Bhave, một trong những người đi theo thân thiết nhất của Mahatma Gandhi.
Và người thứ ba là Dada Dharmadhikari, người đã từng thử triết lí hoá các phát
biểu bình thường của Mahatma Gandhi. Cả ba người đều thuộc về Maharashtra, xã hội
tôn giáo và có văn hoá tự phong.
Nhưng
Mahatma Gandhi đã không nghe bất kì ai.
Vì đè nén
thường xuyên của ông ấy là ông ấy đã gọi là vô dục... ngay cả sau khi làm bố của
năm người con trai, ông ấy đã đè nén dục tính của mình, thú nhục dục, và chỉ những
người đè nén trở thành dâm đãng.
Một khi vợ
ông ấy chết, ông ấy quên tất cả về brahmacharya, vô dục, và bắt đầu trong tuổi
già của mình, vào độ tuổi bẩy mươi, có những giấc mơ dục. Và ông ấy được gọi là
mahatma, hồn vĩ đại - và ông ấy bắt đầu ở độ tuổi bẩy mươi ngủ cùng gái trẻ khoả
thân, và toàn thể những người đi theo ông ấy đã cố gắng che giấu sự kiện này.
Nhưng họ
không thể che giấu được nó bởi lẽ đơn giản. Thư kí của Mahatma Gandhi,
Pyarelal, đã là một trong những thư kí hiệu quả nhất người ta có thể có. Nhưng
vì ông ấy rơi vào yêu với đàn bà, Gandhi đã đá ông ấy ra khỏi đạo tràng. Trong
đạo tràng của Gandhi không ai có thể rơi vào yêu; đó là tội lỗi lớn nhất.
Pyarelal đã
viết tiểu sử của Gandhi. Ông ấy biết mọi bí mật - việc ngủ của ông này với gái
khoả thân - và bởi vì ông ấy đã bị đá ra khỏi đạo tràng, ông ấy có thể đã có việc
trả thù nào đó cũng trong tâm trí ông ấy. "Người này nói về vô dục cho
công chúng, và từ cửa sau ông ta ngủ với gái trẻ, và các cô gái này phải ở trần
truồng."
Ông ấy đã viết
cuốn tiểu sử, và nó là một tập lớn thế, với độ chính xác thế của bằng chứng - gần
hai nghìn trang giấy, hai tập, cho nên nó ở ngoài tầm với của công chúng bình
thường. Ai sẽ đọc hai nghìn trang? Và việc ngủ với gái truồng tới ở một trăm
trang cuối cùng, với mọi chi tiết - những cô gái này là ai, mọi bức thư mà ông ấy
đã nhận được từ Kaka Kalelkar, Vinoba Bhave, Dada Dharmadhikari, thuyết phục
ông ấy dừng thực hành này: "Điều này có thể phá huỷ hình ảnh của
ông."
Nhưng đó đã
là thời kì cuối của đời ông ấy, và điều ông ấy đã đèn nén trong bốn mươi hay
năm mươi năm đã trở thành núi lửa. Nó đã ở bên ngoài kiểm soát của ông ấy.
Và người
này, hoàn toàn chưa chín chắn, dốt nát. Gọi tôi là dâm đãng!
Gọi Mahatma
Gandhi là dâm đãng đi!
Gọi Brahma
và Vishnu là dâm đãng đi. Gọi Shiva llà dâm đãng đi - kẻ hippy đầu tiên của thế
giới!
Nhưng đây là
tình huống với mọi tôn giáo. Hindu giáo không là ngoại lệ.
Năm trăm
trang trong Cựu ước của Kinh Thánh là tuyệt đối khiêu dâm. Một người bạn của
tôi đã rút ra tất cả năm trăng trang đó và làm ra cuốn sách mới, Kinh thánh
linh thiêng qua đánh giá tia X. Bây giờ người Ki tô giáo đang theo ông ấy.
Nhưng cuốn sách này đã đi trước - mặc dầu bị nhiều nước cấm, nó đã đạt tới thị
trường ngầm.
Năm trăm
trang sao? Và người Do Thái, người Ki tô giáo - vì cả hai đều tin vào Cựu ước -
đã không bao giờ bác bỏ? Gọi những người này là dâm đãng đi. Và đây là những
nhà tiên tri người đã từng viết ra mọi điều này.
Tôi quyết
tâm phơi bày mọi thứ, không giữ lại bất kì cái gì. Cho nên điều hoàn toàn tốt
là những người này phải tiếp tục viết chống lại tôi. Điều đó sẽ cho tôi tài liệu,
chủ đề. Họ sẽ sớm nhận ra họ đang chặt đầu riêng của họ.
Tôi không phải
là người có thể bị kìm nén bởi chỉ gọi tôi theo các cái tên. Chỉ trích điều tôi
đang nói, nhìn vào mặt bạn trong gương, và tìm ra các đoạn trong kinh sách
riêng của bạn đi. Bạn sẽ thấy nhiều nữa, vì tôi đang chỉ nêu các mẫu cho người
của tôi.
Một biên tập
viên tờ báo khác Marathi đã hỏi tôi rằng, "Làm sao hai hồn có thể sống
trong một thân thể?" - dường như anh ta hiểu hồn là gì!
Hồn là ánh
sáng thuần khiết, và trong phòng bạn có thể có một chiếc nến, bạn có thể có một
nghìn chiếc nến, vì ánh sáng không chiếm không gian. Ánh sáng không là thứ chiếm
không gian. Bạn có thể có một nghìn chiếc... Bạn có thể thấy quanh bạn cả nghìn
bóng đèn và nghìn ánh sáng. Ánh sáng không tranh giành không gian, lãnh thổ.
Ánh sáng không là thứ chiếm không gian - và hồn chỉ bao gồm ánh sáng thuần khiết,
cái không cần bất kì nhiên liệu nào. Cho nên không có vấn đề...
Biên tập
viên này đã hỏi liệu tôi có thể chứng minh được điều này không.
Nó đã là sự
kiện được chứng minh; tôi không phải chứng minh nó.
Trên khắp thế
giới mọi người đã biết điều đó rồi, rằng một người có thể bị sở hữu bởi các
linh hồn - và không chỉ một. Số đếm cao nhất đã là mười sáu, mười sáu hồn sở hữu
một thân thể của một người.
Và nếu bạn
muốn thêm dữ liệu và nghiên cứu về chủ đề này, bạn nên tới Rajasthan, tới
Jaipur, để có cái nhìn trong đại học Rajasthan - đó là đại học duy nhất ở Ấn Độ
có khoa cận tâm lí. Họ đã thu thập mọi trường hợp bị sở hữu bởi linh hồn - để
cho bạn sẽ biết rằng nó không phải là vấn đề không gian chút nào. Hai hồn có thể
ở trong một thân thể mà không có khó khăn gì. Chúng không có bất kì xung đột
lãnh thổ nào.
Cứ quan sát
ánh sáng và bạn sẽ hiểu. Một chiếc nến hay một nghìn chiếc nến trong một phòng
nhỏ - bạn nghĩ sẽ có hỗn độn nào không? Một nghìn chiếc nến? - chúng sẽ tìm ra
không gian ở đâu?
Ánh sáng
không cần không gian.
Tôi đang trả
lời câu hỏi này, không vì bạn đâu, bạn biên tập viên, tôi đang trả lời câu hỏi
này cho người của tôi hiểu rằng hồn là ánh sáng thuần khiết. Đó là lí do tại
sao nó không có trọng lượng, nó không chiếm không gian. Nó không có giới hạn
nào khi có liên quan tới thời gian.
Hàng trăm thực
nghiệm đã được tiến hành trên khắp thế giới bởi các nhà khoa học. Trong một thực
nghiệm ở Đức, họ để một người trên bờ vực chết trong một cái hòm được làm bằng
kính tuyệt đối trong suốt, để cho họ có thể quan sát ông ấy khi ông ấy còn sống,
từ bên ngoài. Cái hòm đã được dán xi kín mít. Họ muốn biết rằng, nếu linh hồn rời
khỏi thân thể, làm sao nó có thể bỏ lại chiếc hòm? "Chúng ta sẽ bắt giữ hồn."
Và nếu hồn rời khỏi thân thể, thân thể phải mất trọng lượng nào đó, cho nên họ
đã cân thân thể chính xác nhất có thể được.
Nhưng người
này đã chết, và chẳng cái gì rời bỏ hòm kính, vì với hồn, vật chất không là cản
trở.
Bạn biết rằng
tia X có thể đi vào thân thể bạn và thân thể không thể ngăn cản được chúng; bạn
thậm chí không cảm thấy rằng tia X đang đi vào thân thể bạn khi được chụp ảnh
tia X. Hồn là ánh sáng tối thượng, tinh tế hơn nhiều, cho nên khi nó rời khỏi
thân thể bạn không thể thấy được nó. Nếu bạn đã không thấy nó bên trong bản
thân bạn, bạn sẽ không bao giờ có khả năng thấy linh hồn của bất kì người nào rời
khỏi người đó.
Thế rồi họ mở
cái hòm ra, và họ đã không thể nào tìm thấy nó. Cho nên họ đã cân người chết lần
nữa: ông ta có cùng trọng lượng. Với những người duy vật điều đó là đủ chứng
minh rằng không có hồn, vì không cái gì đã rời bỏ cái hòm và trọng lượng thân
thể chết của người đó là như khi người đó sống. Với những nhà khoa học duy vật
điều đó là đủ để chứng minh rằng không có hồn.
Điều đó là
không đủ với tôi.
Hồn không có
trọng lượng.
Bạn có nghĩ
ánh sáng có trọng lượng không? Thử xem... để chiếc nến lên máy cân, chưa thắp
sáng. Cân nó, thế rồi cho ánh sáng lên chiếc nến và xem liệu nó có nặng thêm
không. Không có nhu cầu đi tới chiều dài thế như đi tìm cái ra từ người chết; bạn
có thể chỉ thử cân ánh sáng. Nó không có trọng lượng, nhưng điều đó không chứng
minh được rằng không có ánh sáng. Nó đơn giản chứng minh rằng ánh sáng thuộc
vào một phân loại khác. Nó không phải là vật, do đó nó không có trọng lượng.
Khi bạn thổi
tắt chiếc nến bạn có thấy ngọn lửa đi đâu không, có đi tìm cửa ra phố không? Bạn
không thấy bất kì cái gì. Ngọn lửa đơn giản biến mất trong vũ trụ, không để lại
dấu vết gì đằng sau.
Cùng điều
này là đúng cho hồn.
Và biên tập
viên thứ nhất tiếp tục rằng tôi làm ô nhiễm bầu khí hậu xã hội và văn
hoá."
Bạn đã có bầu
khí hậu xã hội và văn hoá nào?
Chính một
người đã từ bầu không khí xã hội và văn hoá này giết chết Mahatma Gandhi - kẻ
sát nhân đầu tiên thuộc loại của nó trên đất nước này. Điều đó là hoàn toàn được
ở Mĩ, nhưng không được ở Ấn Độ.
Ở Mĩ, hai
mươi phần trăm tổng thống đã bị sát hại - đó là thường lệ - nhưng kẻ sát hại
Mahatma Gandhi đã là người đầu tiên thuộc loại của nó trong nước này. Và người
đã sát hại ông ấy thuộc vào xã hội văn hoá xã hội này. Người đó đã là công dân
của thành phố này.
Một nỗ lực
đã được thực hiện trong đời tôi ở thành phố này, bằng việc ném dao để giết tôi!
Tôi đã được thông báo bởi tổng hành dinh cảnh sát, trước bài nói buổi sáng, rằng
"Chúng tôi đã nhận được một cú điện thoại nặc danh rằng ai đó sẽ ném dao vào
ông và giết ông, cho nên hãy cho phép hai mươi sĩ quan cảnh sát hạng cao tới."
Nhưng toàn
thể sự việc là khác toàn bộ; chung cuộc sự việc đưa tới một kết luận rất khác.
Hai mươi sĩ quan cảnh sát kia đã ngồi đằng sau người đã ném dao vào tôi. Họ lập
tức bao vây anh ta, để bắt anh ta.
Không may
cho người đáng thương này, anh ta không phải là cung thủ, hay người có thể xoay
xở ném trúng mục tiêu. Chiếc dao rơi cách tôi gần hai mét. Một người vĩ đại làm
sao họ đã tìm thấy để giết tôi! Nếu như họ bảo tôi, tôi chắc đã ngồi cách xa bản
thân tôi gần hai mét!
Họ đã không
cho phép người của tôi đưa ra vụ kiện. Mười nghìn sannyasins đã hiện diện ở
đây, nhân chứng mắt thấy; bạn không thể tìm thấy nhiều nhân chứng thế cho bất
kì kẻ giết người nào, hay bất kì kẻ sát hại có dự định nào ở bất kì chỗ nào
khác. Nhưng sĩ quan cảnh sát đã nói, "Chúng tôi hiện diện, đích thân chúng
tôi sẽ đem vụ kiện này ra toà. Đó là vụ kiện của cảnh sát. Ông không cần bận
tâm chút nào." Đó là chiến lược.
Họ cũng lấy
đi con dao, nói, "Chúng tôi phải trình nó cho quan toà." Con dao
không bao giờ được trình ra, và quan toà đơn giản bác vụ kiện: "Không có vụ
kiện. Bằng chứng đâu?" Và hai mươi sĩ quan cảnh sát đó vẫn còn im lặng.
Đó đã là âm
mưu sâu giữa quan toà và các sĩ quan cảnh sát và công dân có văn hoá của thành
phố này.
Làm sao tôi
làm ô nhiễm bầu khí hậu xã hội và văn hoá này? Tôi không đi vào thành phố của bạn
chút nào; nó quá bị ô nhiễm với tôi. Nó là thành phố bị ô nhiễm nhất trong toàn
thể châu Á, và nó sẽ sớm là thành phố ô nhiễm nhất trên toàn thế giới.
Tôi nói chuyện
cho người của tôi; tôi chưa bao giờ gặp các biên tập viên của tờ Prabhat, và
các biên tập viên của tờ nhật báo Marathi khác, các báo hàng tuần, các tạp chí
hàng tháng. Tôi không thấy mọi người từ thành phố này ở đây. Người của tôi thuộc
vào toàn cầu, và vài người kia từ thành phố này đang ở đây, họ đã ở cùng tôi
trong hai mươi năm. Họ bây giờ ở bên ngoài mọi chữa trị. Tôi đã làm biến chất họ
nhiều tới mức bây giờ không có thuốc, không có việc giải chương trình nào có thể
đem họ trở lại tình trạng điên rồ bình thường của thành phố này.
Chỉ nhân tiện,
tôi muốn kể cho bạn một vụ kiện rất hay của một người truyền đạo lớn, người có
hàng triệu thính giả trên radio, và người xem truyền hình.
Ở Mĩ, một hiện
tượng mới đang tăng lên: người truyền đạo trên truyền hình. Nhu cầu là gì để đi
tới mọi người? Bạn chỉ cho buổi giảng trong studio truyền hình và nó đạt tới
hàng triệu gia đình.
Người này,
người truyền đạo qua tivi Jim Bakker, đã lại quay về với truyền hình Mĩ
American TV. Ông ấy đã đi đâu và tại sao? Ông ấy đã thú nhận có giao hợp dục với
thư kí của ông ấy và quan hệ đồng dục với người thuyết giảng nam.
Điều này đã
xảy ra vài tháng trước. Thế rồi ông ấy đi vào chỗ ẩn dật chỉ để tránh công
chúng - vì ông ấy đã là người thuyết giảng lớn, và họ đã nghĩ rằng Thượng đế
nói qua ông ấy. Nhưng khi họ thấy rằng ông ấy đã có giao hợp với thư kí của ông
ấy, và không chỉ dị dục, ông ấy đã bị hư hỏng - ông ấy đã có quan hệ với người
thuyết giảng nam... Và trên truyền hình ông ấy nói với mọi người về sự vĩ đại của
vô dục.
Những người
này là người thực sự phá huỷ nhân loại và sự tin cậy của nó.
Bây giờ ông ấy
đang quay lại. Ông ấy đã tìm ra cái cớ gì? - cái cớ lớn, nhưng nó sẽ không có
tác dụng khi có liên quan tới tôi.
Bây giờ ông ấy
đang nói rằng quỉ đã làm cho ông ấy làm điều đó. Ông ấy đã là đại diện của Thượng
đế, và Thượng đế thậm chí không quan tâm can thiệp. Và đó không chỉ là một lần,
nhưng trong nhiều năm quỉ đã bảo ông ấy làm điều đó, làm tình với thư kí, có
quan hệ đồng dục với người thuyết giảng, đó là quỉ.
Thượng đế
đang làm gì? Nếu ngài không thể cứu được người thuyết giảng riêng của ngài, bạn
nghĩ ngài sẽ cứu bạn sao? Quỉ dường như là mạnh hơn.
Ông ấy nói,
"Quỉ ghen vì tôi đã thành lập một nhà thờ mới."
Nhưng về Thượng
đế thì sao? Bạn đã làm nhà thờ mới cho Thượng đế... Thượng đế dường như là tuyệt
đối bất lực; quỉ đã chỉ đạo bạn trong nhiều năm. Và bạn đã từng thuyết giảng về
vô dục... Bạn không thể nói với mọi người, "Quỉ đã ép buộc tôi làm mọi điều
mà tôi không muốn làm." Bạn đã bị bắt quả tang làm tình với thư kí, và
không có quỉ nào hiện diện, kẻ đang ép buộc bạn, trên đầu nòng súng, phải làm
tình. Bạn ít nhất có thể báo cho đồn cảnh sát.
Không phải
là trùng hợp ngẫu nhiên mà việc tôn thờ quỉ đang tăng lên trên khắp thế giới, đặc
biệt trong các nước Ki tô giáo. Ở Anh, bây giờ có hàng nghìn và hàng nghìn người
tôn thờ quỉ. Ở Australia, hàng nghìn người tôn thờ quỉ. Và những người tôn thờ
quỉ này là người Ki tô giáo người đã thấy rằng Thượng đế là bất lực; quỉ là kẻ
mạnh hơn nhiều. Hiển nhiên, mọi người đều muốn ở bên phía thắng lợi.
Những người
Ki tô giáo đang ném đá vào nhà thờ, ném đá vào những người thuyết giảng Ki tô
giáo, nói "Ông đang dẫn sai đường cho mọi người. Ông đang bảo mọi người rằng
Thượng đế sẽ cứu ông. Thượng đế không thể làm được bất kì cái gì! Quỉ là mạnh
hơn."
Chính là
Adam và Eve đã nghe theo quỉ, không nghe theo Thượng đế. Thượng đế cư xử như
người Poona có văn hoá tự xưng. Thay vì thuyết phục họ, hay đi cùng họ, cách thức
mà quỉ đã tranh cãi, Thượng đế đã bảo Adam và Eve rằng họ phải không ăn quả từ
hai cây: một cây là cây trí huệ, và cây kia là cây sự sống vĩnh hằng.
Tôi không thể
tìm theo bất kì cách nào... tôi đã thử theo cả nghìn cách để bằng cách nào đó
thấy ra vấn đề. Người bố ngăn cản sáng tạo riêng của mình khỏi việc là trí huệ,
khỏi việc có sự sống vĩnh hằng sao? Loại người bố gì vậy...? Ông ấy phải được
tính như kẻ thù lớn nhất, kẻ thù không đội trời chung của nhân loại.
Chính quỉ đã
tranh luận với Eve. Nó nói, "Bạn có hiểu tại sao Thượng đế đã ngăn cản bạn
không cho ăn từ hai cây này không? Chính bởi vì ông ấy rất ghen ghét. Ông ấy sợ
nếu bạn ăn từ hai cây này bản thân bạn sẽ là Thượng đế. Ông ấy không muốn bạn
là Thượng đế, ông ấy muốn bạn sống trần trụi như con vật trong rừng." Và
nó nói, "Nếu bạn không tin tôi, bạn cứ ăn đi và thấy."
Eve có thể
thấy rõ ràng luận cứ này. Nếu bố yêu bạn, ông ấy chắc đã nài nỉ, "Ăn thêm
cây trí huệ và cây sự sống vĩnh hằng đi, để cho con sẽ sớm trưởng thành, để cho
con sẽ sớm nhận ra tính thượng đế của con." Điều đó chắc đã là từ bi, yêu
thương. Điều này đơn giản là độc ác, bạo hành, xấu xa.
Quỉ đã là
người bạn cách mạng đầu tiên của nhân loại. Và khi Eve ăn quả, mắt cô ấy mở ra.
Cô ấy thấy một thế giới khác toàn bộ. Cô ấy chạy tới Adam và bảo anh ta ăn quả.
Họ bị Thượng đế bắt quả tang. Thay vì cho bất kì luận cứ nào chống lại quỉ, ông
ấy cư xử giống như kẻ ngốc. Ông ấy lái họ ra khỏi thiên đường.
Trong một
trường nhỏ, cô giáo đang kể câu chuyện này, và cô hỏi, "Các con có thể nói
cái gì đó về câu chuyện này được không?"
Một cậu bé,
Albert, đứng dậy, và nó nói, "Cứ như con hiểu, ông ấy phải đã lái họ trong
chiếc xe Ford cổ." Lái họ ra khỏi thiên đường... loại xe nào ông ấy đã
dùng? Nó phải đã là xe Forrd Model-T, loại cổ nhất, cổ đại nhất.
Cô giáo thất
kinh. Cô nói, "Cô chưa bao giờ nhắc tới xe hơi."
Albert nói,
"Cô đã nói ông ấy lái họ ra..."
Đây là hành
vi xấu về phần Thượng đế.
Bảo họ,
"Chúng mày đã phạm tội lớn nhất..."
Trí huệ là tội
sao? - thế thì dốt nát phải là đức hạnh. Tìm sự sống vĩnh hằng là tội sao? Thế
thì tự tử phải là đức hạnh.
Adam và Eve
không thể tới được cây kia. Kể từ đó con người đã từng tìm sự sống vĩnh hằng. Bạn
đã bao giờ nhận ra bạn đang tìm cái gì chưa?
Bạn đang tìm
trí huệ hơn - chứng ngộ. Bạn đang tìm sự sống vĩnh hằng - một lực không có bắt
đầu và không có kết thúc.
Tôi không thể
nói được bất kì cái gì chống lại những người tôn thờ quỉ. Họ đang làm điều
đúng. Điều hoàn toàn tốt là nếu những người tôn thờ quỉ và người tôn thờ Thượng
đế đánh nhau và triệt lẫn nhau. Đó sẽ là phúc lành lớn cho nhân loại. Bất kì ai
còn ở ngoài điều đó sẽ có mọi niềm vui của hành tinh này, và mọi khả năng trưởng
thành trong tiềm năng của mình tới trí huệ tối thượng và tới sự sống vĩnh hằng.
Hai cây kia
phải được tìm ra! Nếu Thượng đế chen vào giữa, tống ông ấy đi. Adam và Eve đã
là những người rất nghèo, trần trụi - chỉ có hai! Bây giờ nhân loại là đủ lớn.
Thay vì bị lái đi bởi Thượng đế, nó có thể lái Thượng đế ra khỏi thiên đường. Ông
ấy đã sống trong thiên đường đủ lâu rồi. Bây giờ xéo đi!
Kì lạ... bạn
không đọc tôi - thành phố của văn hoá tự xưng - bạn không lắng nghe tôi. Chỉ sự
hiện diện của tôi sao...?
Tôi không
bao giờ đi ra ngoài, tôi không bao giờ đi vào trong đạo tràng nữa, ngoại trừ
hai giờ này vào buổi tối. Sống trong phòng nhỏ của tôi gần như hai mươi bốn giờ
một ngày, nếu sự hiện diện của tôi làm biến chất thành phố của bạn, thế thì nó
cần được làm biến chất. Thế thì nó không đáng cứu.
Thành phố xấu
xí này sẽ bị phá huỷ bởi thái độ bản ngã này, không phải bởi tôi; bởi những người
đã từng thổi phồng quả bóng bản ngã rằng thành phố này là văn hoá, tôn giáo.
Liên tục thổi phồng: quả bóng sẽ sớm nổ tung. Chính là bạn, bạn biên tập viên
và những người lãnh đạo chính trị, và những người cuồng tín tôn giáo, người sẽ
phá huỷ bất kì văn hoá nào bạn có. Tôi không biết liệu bạn có văn hoá nào hay
không.
Khi có liên
quan tới tôi, văn hoá chưa xảy ra trên thế giới. Và bạn đang cho mọi bằng chứng
về việc là vô văn hoá. Làm đám diễu hành với hình nộm của tôi trên lưng lừa, bạn
đang phơi ra mặt thật của bạn.
Không một tờ
báo nào, không một công dân nào đã kết án đám diễu hành này, rằng nó đang làm ô
nhiễm di sản văn hoá và tôn giáo. Không, đây là văn hoá của bạn.
Mang nhiều lừa
nhất có thể được vào trong thành phố của bạn đi, và chúng sẽ làm thuần khiết
thành phố của bạn. Ngày đó không xa xôi khi chỉ lừa sẽ sống trong thành phố
này. Tất nhiên, lừa không làm biến chất văn hoá của bất kì người nào; chúng là
những sinh vật im lặng, triết lí thế.
Tôi bao giờ
cũng yêu chúng từ chính thời thơ ấu của tôi. Tôi bao giờ cũng tự hỏi tại sao những
sinh vật đáng thương này bị kết án. Chúng có vẻ im lặng thế, đứng trong bóng
râm của tường hay cây. Quan sát mặt chúng mà xem: chúng có vẻ giống Aristotle hay
Kant hay Hegel hay Feuerbach - các triết gia lớn, suy nghĩ, suy nghĩ về những vấn
đề lớn lao. Thỉnh thoảng chúng cho tiếng hét - đó là tiếng hét đánh thức các
con lừa khác còn đang rơi vào ngủ.
Ngoại trừ tiếng
hét đó, chúng không làm hại bất kì người nào. Chúng không làm đám diễu hành,
chúng không hô to các khẩu hiệu. Chúng không lo nghĩ chút nào rằng ai đó sẽ làm
biến chất văn hoá của chúng.
Nếu bạn có
văn hoá, không ai có thể làm biến chất nó.
Nếu bạn có
tôn giáo, không ai có thể phá huỷ được nó.
Vì bạn không
có chúng - bạn chỉ có ảo tưởng, huyễn tưởng, tưởng tượng, niềm tin, nhưng không
có thực tại - đó là lí do tại sao bạn sợ thế. Bất kì người nào cũng có thể phá
huỷ hệ thống niềm tin giả của bạn. Đó là nỗi sợ, hoang tưởng.
Nhưng tôi sẽ
đấu tranh mạnh mẽ với mọi cái bóng giả của bạn, để cho bạn có thể được khám phá
trong mặt thực, đích thực, nguyên bản của bạn.
Lời kinh:
Thưa thầy kính
yêu của chúng tôi,
Tam Thánh, một đệ
tử của Lâm Tế, một lần nói với Tuyết Phong, "Cá vàng thoát khỏi lưới! Lấy
gì làm thức ăn?"
Thiền bao giờ
cũng có nhiều thách đố tương tự mà không thể được giải. Thách đố cổ đại nhất, từ
đó nhiều thách đố như vậy đã nảy sinh, là ở chỗ một người nuôi lớn một con ngỗng
trong cái bình. Khi con ngỗng còn nhỏ, mới ra từ trứng, ông ấy cho nó vào trong
bình. Thế rồi ông ấy liên tục nuôi con ngỗng trong bình, cho tới khi toàn thể
cái bình đầy ngỗng.
Bây giờ con
ngỗng quá to, nó không thể được lấy ra từ miệng bình. Và các Thiền sư đã từng hỏi:
Làm sao lấy được con ngỗng ra mà không làm vỡ bình, và không giết chết con ngỗng?
Và mọi người đã từng suy ngẫm về điều này: làm sao lấy được con ngỗng ra mà
không phá bình, hay làm chết ngỗng. Dường như không có giải pháp.
Những câu đố
này, những thách đố này, không phải là để có giải pháp; chúng đem tới cuộc cách
mạng khi bạn có được sáng suốt. Hàng trăm người đã trở nên chứng ngộ qua những
thách đố nhỏ, ngớ ngẩn như vậy. Nhiều tháng và nhiều năm họ sẽ suy ngẫm, và họ
sẽ không tìm ra bất kì cách nào. Không có cách... không có vấn đề về tìm ra bất
kì cách nào. Nhưng bởi vì họ đã nghĩ chỉ về con ngỗng trong bình trong nhiều
năm, toàn thể tâm trí bị bỏ đi, mọi suy nghĩ dừng lại. Mối quan tâm duy nhất của
họ là làm sao mang con ngỗng ra khỏi bình.
Mọi logic thất
bại, mọi suy luận thất bại, mọi suy nghĩ thất bại; tâm trí đã không giúp ích. Họ
gạt tâm trí sang bên, và khi họ đi tới không gian của vô trí, họ đã cười. Họ chạy
tới thầy, và thấy bộ mặt mỉm cười của họ, thầy sẽ nói, "Vậy, con ngỗng ở
ngoài rồi sao?" Và đệ tử sẽ chạm chân thầy. Anh ta sẽ nói, "Vâng, nó
bao giờ cũng ở ngoài. Cái bình là ảo vọng."
Bạn bao giờ
cũng là phật; việc không là phật của bạn chỉ là ảo vọng. Cái bình là ảo vọng, bạn
bao giờ cũng ở ngoài bình. Mọi nhà tù bao quanh bạn - nhà tù của tâm trí, của
thân thể, của tiền bạc, của thế giới - là không liên quan. Khi có liên quan tới
con người bên trong nhất của bạn, nó không bị động chạm bởi bất kì cái gì. Nó
bao giờ cũng ở ngoài. Chỉ cần bạn nhìn thấy sự kiện này, và tự do từ mọi hướng
kéo tới bạn.
Tuyết Phong
nói, "Đợi ông ra khỏi lưới, ta sẽ nói với ông."
Tuyết Phong
là một thầy lớn, cũng như Lâm Tế là thầy lớn. Tam Thánh chỉ là đệ tử.
Tuyết Phong
nói với Tam Thánh, "Đợi ông ra khỏi lưới, ta sẽ nói với ông. Ngay bây giờ,
ta không thấy vấn đề và chỉ làm phí thời gian của ta. Ông còn chưa ra, ông sẽ
không hiểu. Cứ đi và suy ngẫm. Đầu tiên ra khỏi lưới, và thế rồi ta sẽ trả lời
ông. Thực ra, thế thì chẳng cần trả lời."
Đây là cái
hay của Thiền. Nó mang tâm thức riêng của bạn tới điểm mà không có câu hỏi, và
không câu trả lời nào được cần. Bạn đơn giản đi ra ngoài câu hỏi và trả lời. Bạn
có thể hát bài hát, bạn có thể vẽ bức tranh đẹp, bạn có thể chơi nhạc, bạn có
thể múa, bạn có thể cười, nhưng bạn không thể nói bất kì cái gì về cái gì đã xảy
ra cho bạn.
Tuyết Phong nói,
"Đợi ông ra khỏi lưới, thế thì tới ta và ta sẽ nói cho ông."
Tam Thánh
nói, "Là thiện tri thức của một nghìn năm trăm người, mà thoại đầu cũng chẳng
biết."
Tuyết Phong
có một thiền viện lớn một nghìn năm trăm đệ tử. Tam Thánh chế nhạo ông ấy,
khích ông ấy:
Tam Thánh
nói, "Là thiện tri thức của một nghìn năm trăm người, mà thoại đầu cũng chẳng
biết."
Thực ra,
không ai có thể nói một lời về tự do bên trong nhất. Hoặc bạn có nó hoặc bạn
không có nó, nhưng không ai có thể nói bất kì cái gì về nó. Ngay cả khi bạn có
nó, bạn sẽ không có khả năng nói một lời. Điều đó, Tam Thánh chưa hiểu.
Tuyết Phong
nói, "Lão tăng trụ trì nhiều việc."
"Ông cứ
đi đi. Trước hết thoát ra khỏi lưới và thế rồi tới. Ngay bây giờ, ta không có
thời gian để phí hoài cùng ông."
Dường như đó
là thái độ rất nghiệt ngã của Tuyết Phong, nhưng không phải vậy. Ông ấy bất lực,
như mọi Phật đều bất lực; có những điều về nó không cái gì có thể được nói. Bạn
phải tìm chúng theo cách riêng của bạn.
Nếu ai đó
nói cái gì đó, người đó là kẻ thù của bạn không phải là người bạn, vì bất kì
cái gì người đó nói sẽ trở thành khối chắn trong tìm kiếm của bạn. Bạn sẽ bắt đầu
nghĩ bạn biết câu trả lời, cần gì tìm kiếm? Và câu trả lời là được vay mượn, nó
không phải là của bạn.
Nếu tôi uống
nước, cơn khát của tôi được dịu đi.
Nếu bạn uống
nước, cơn khát của bạn được dịu đi.
Nước vĩnh hằng
của sự sống cũng vậy. Uống từ chúng đi. Không ai có thể cho bạn lời giải thích
- ngay cả không một lời - để chỉ ra hướng.
Tuyết Phong
không phải là nghiệt ngã, ông ấy đơn giản bảo anh ta, "Ông còn quá trẻ
con, ông không hiểu điều ông đang hỏi. Ông sẽ phải tự mình tìm nó. Trước hết,
thoát ra khỏi lưới đi. Ngay bây giờ ta phải tham dự nhiều chuyện cho tăng đoàn.
Ta là toà chủ."
Một dịp
khác, một thời gian sau, Tam Thánh nói với một sư, "Ông vừa mới từ đâu tới?"
Sư nói,
"Quái!"
Tam Thánh
nói, "Quái!"
Sư lại nói,
"Quái!"
Tam Thánh
không thể hiểu được. Ông ấy nói, "Quái? Ông tới từ quái sao?"
Sư nói,
"Nếu ông đánh bừa tôi, tôi sẽ nói 'Quái!'"
Dễ hiểu nếu
bạn trong một khoảnh khắc chỉ nhìn vào lí thuyết khoa học về vũ trụ đã tới từ
đâu. Nó đã là sự bùng nổ: Quái! - chỉ là vụ nổ vô cùng, hỗn độn, và từ hỗn độn
dần dần mọi thứ bắt đầu đông đặc lại.
Từ `quái'
không ngụ ý bất kì cái gì; nó đơn giản ngụ ý sự bùng nổ âm thanh. Đó là điều
`Yaa-Hoo' của chúng ta ngụ ý.
Khi bạn kêu
"Quái!" - quan sát nó đập vào bạn ở đâu. Nó đập ngay dưới rốn bạn. Đó
là chỗ bạn đang tới. Trung tâm sự sống ở ngay dưới rốn bạn, khoảng 5-6 cm dưới
rốn.
Do đó ở Nhật
Bản - nơi họ đã tìm thấy đích xác trung tâm đúng từ đó sự sống đã nảy sinh
trong thân thể bạn - khi họ muốn tự tử, họ không bắn bản thân họ vào đầu, họ
không bắn bản thân họ vào tim, họ đâm vào bên dưới rốn, đích xác 6 cm bên dưới.
Chỉ một con dao sắc, và không có bất kì âm thanh nào, không có bất kì hành hạ
nào, người này đơn giản ngã chết. Một khi dao đi vào trung tâm con người bạn, sự
sống của bạn lập tức rời khỏi thân thể này; thân thể này không còn sử dụng được
nữa.
Điều đó được
nói ở Nhật bản theo cách rất kính trọng, vì chừng nào một người chưa biết qua
thiền điểm này đích xác ở đâu, người đó không thể tự tử bằng việc đâm vào điểm
đó. Đâm vào điểm đó cũng giống như châm kim vào bánh xe. Không khí đi ra ngoài.
Đánh vào trung tâm con người của bạn, sự hiện hữu đơn giản bay ra, đi tìm bụng
mẹ khác nếu bạn còn chưa chứng ngộ. Nếu bạn đã chứng ngộ, nó biến mất trong trời
xanh của điều tối thượng.
Nhưng
"Quái!" là một âm thanh hay. Có rất ít âm thanh mà không có nghĩa,
nhưng có ý nghĩa mênh mông.
Khi Tam
Thánh lại nói, "Quái!"
Sư nói,
"Nếu ông đánh bừa tôi, tôi sẽ nói 'Quái!'"
Tôi bao giờ
cũng tới từ Quái, nếu ông đang tới từ Quái.
Điều đó có vẻ
rất ngớ ngẩn cho người ngoài, nhưng không cho Thiền nhân. Thiền có môi trường
đa chiều của riêng nó. Rất khó hiểu nước Nhật Bản nếu bạn không hiểu Thiền.
Ở đây trong
nhóm trị liệu có một vấn đề. Nhiều người Nhật Bản thế đang tới - và nhiều người
nữa sẽ trên đường...
Sigmund
Freud, và Carl Gustav Jung, và Alfred Adler, và Assagioli, và Fritz Perls -
toàn các nhà phân tâm của phương Tây chỉ biết tới Ki tô giáo và Do Thái giáo.
Ki tô giáo chỉ là một nhánh của Do Thái giáo, không gì hơn. Họ không hiểu bất
kì cái gì về phương Đông. Mọi phép trị liệu này đã được phát triển ở phương
Tây.
Cho nên mọi
nhà trị liệu đều nói với người tham gia của mình, "Sâu bên dưới ông phải
ghét bố ông" - vì ý tưởng của Sigmund Freud là ở chỗ mọi con gái cạnh
tranh với mẹ, cô ta ghét mẹ. Cô ta ghen vì mẹ đang độc quyền bố. Cô ta muốn có
người bố. Cho nên mọi con gái đều ghét mẹ và yêu bố, và ngược lại: mọi con trai
yêu mẹ và ghét bố. Mọi cách trị liệu này về căn bản được dựa trên sự cố định
vào bố hay mẹ.
Nhưng các
nhà trị liệu đã tới tôi nói, "Chúng tôi gặp khó khăn. Nếu thầy bảo một người
Nhật Bản rằng anh ta ghét mẹ, hoặc anh ta sẽ tự giết mình hoặc anh ta sẽ giết
thầy." Ở Nhật Bản, nói với ai đó rằng "Ghét mẹ bạn đi," bạn đã
xúc phạm nhân phẩm người đó. Và khi nhân phẩm bị xúc phạm, bị làm nhục, chỉ có
hai cách: hoặc anh ta giết bạn hoặc anh ta giết bản thân anh ta. Nhưng cả hai
người không thể cùng tồn tại thêm nữa.
Cho nên các
nhà trị liệu đã từng hỏi tôi, "Làm gì? Toàn thể trị liệu của chúng tôi là
từ Do Thái giáo và Ki tô giáo, và với người Nhật Bản nó không áp dụng được chút
nào." Họ đã được nuôi dưỡng lớn lên trong bầu khí hậu khác toàn bộ, nơi mẹ
được kính trọng và yêu mến, nơi bố được kính trọng và yêu mến. Từ chính thời
thơ ấu bố và mẹ thuyết phục đứa trẻ đi tới thiền viện để học thiền, đi tới Thiền
sư để ngồi bên cạnh ông ấy chỉ để hấp thu hương vị của ông ấy, sự hiện diện của
ông ấy, "vì chung cuộc con phải đạt tới việc nở hoa của Phật tính."
Nó là xu hướng khác toàn bộ.
Làm sao con
trai có thể ghét mẹ mình người đã từng bảo nó chỉ là bản thân nó? "Đi tới
thiền viện đi. Học cách lấy bản thân mình làm trung tâm" - và chung cuộc
cách làm tan biến trung tâm này nữa, chỉ là hư không và thuần khiết, hoàn toàn
trống rỗng. Chỉ trong trống rỗng không bụi nào tụ lại; bằng không, mọi nơi bụi
tụ lại.
Người bố
thuyết phục đứa trẻ học từ các thầy, những thầy lớn. Ngay cả các hoàng đế cũng
được bố họ gửi đi, "để học cái gì đó về con người bên trong nhất của con.
Nếu con không biết bản thân con, con không xứng đáng là hoàng đế. Đầu tiên là
hoàng đế của bản thân con."
Làm sao bạn
có thể ghét bố bạn được, người đã làm cho bạn thành hoàng đế của bản thân bạn
trước khi cho bạn kế tục vương quốc bên ngoài? Ông ấy đã cho bạn vương quốc bên
trong.
Thiền chắc
chắn đã tạo ra sự nổi dậy vô cùng chống lại mọi văn hoá, mọi văn minh.
Như tôi có
thể thấy, Thiền sẽ lát đường cho con người mới tới, và cho nhân loại mới nổi
lên. Đó là lí do tại sao tôi đang nói nhiều thế về Thiền. Nó không phải là
không có chủ định. Tôi muốn bạn hiểu sâu sắc nhất có thể được.
Tam Thánh nhặt
cây thiền trượng lên, và sư này tự sẵn sàng nhận cú đánh.
Bạn có thể
thấy bất kì chỗ nào khác trên thế giới mà ai đó sẵn sàng, cúi mình, đưa đầu ra
để bị đánh không? Không đâu trên thế giới. Hoặc, nếu bạn mạnh, bạn sẽ nhảy lên người
này, người định đánh bạn; hoặc nếu bạn yếu, bạn sẽ trốn chạy đúng lúc trước khi
người đó đánh bạn.
Nhưng đây là
Thiền tuyệt đối. Sư này sẵn sàng, quì trên đầu gối, dường như cầu nguyện, cúi
mình, đưa đầu ra - "Thầy đánh đi." Ông ấy đã không nói điều đó, nhưng
sự sẵn sàng của ông ấy nói điều đó: "Nếu thầy đánh tôi... ngay cả cú đánh
từ thầy cũng là món quà, món quà mà không có giá trị gì ở bãi chợ, nhưng có giá
trị trong sự vĩnh hằng của thời gian."
Tam Thánh
nói, "Khi ông đi xuống dốc... Khi ta đánh ông, ông đi xuống dốc núi. Không
có vui thú chừng nào ông chưa chạy xuống nó. Và nhớ không đi chậm:
"không
có vui thú chừng nào ông chưa chạy xuống" - với sự khẩn thiết vô cùng dường
như ông đang đi đâu đó,
"Thế rồi
làn gió mát, và tia nắng mặt trời đẹp, và việc chạy xuống của ông... Có lẽ ông
có thể hiểu điều ông đã không hiểu khi ông đã ở cùng ta."
Tôi nhớ lại
những ngày tìm kiếm của riêng tôi.
Tôi thường dậy
sớm, ba giờ sáng, khi lúc đó còn tuyệt đối tối và vẫn còn ba hay bốn giờ nữa
trước khi mặt trời mọc.
Tôi đã sống
bên cạnh một công viên đẹp, và thường không có ai ở đó. Tôi thường chạy - đó là
niềm vui vô cùng. Bạn lại là con hươu trong công viên, lại là con sử tử trong rừng.
Cái gì đó tâm trạng vô cùng nảy sinh trong bạn.
Một ông
Shinhi già có một quán trà nhỏ - đó là quán trà duy nhất, bên góc vườn - nơi mọi
người tới thăm vườn ban ngày. Đó là cái vườn duy nhất, với cây cổ thụ và rất đẹp.
Ông ấy kinh doanh tốt về bán trà. Ông ấy thường ngủ trong chỗ trú ngụ trong
đêm.
Khi tôi thường
chạy qua, nhiều lần ông ấy nói, "Tôi xin lỗi, thưa anh. Anh đánh thức tôi
dậy. Tôi biết đó là anh, nhưng tôi ra khỏi giấc ngủ vã mồ hôi và run rẩy, vì
vào giờ này không ai tới đây, và đôi khi anh là quá thể" - vì đôi khi tôi
hay chạy giật lùi.
Có một sân
khổng lồ đầy tre. Chúng đã làm ra bóng râm lớn tới mức trong đêm trăng tròn con
đường được che phủ bằng bóng của tre. Cho nên khi tôi đi vào bóng râm, không ai
có thể thấy được tôi, và khi tôi đi ra khỏi bóng râm bất thình lình, ông già
Shidhi đó sẽ nhảy lên từ giường của ông ấy.
Ông ấy sẽ
nói, "Lại nữa à? Bao nhiêu lần tôi đã tự thuyết phục bản thân mình rằng
đây là cùng anh thanh niên, hoàn toàn dở hơi! Nhưng anh sẽ giết tôi một ngày
nào đó, tim tôi đập mạnh thế. Bất thình lình từ bóng tối ai đó tới, và điều đó
nữa, chạy giật lùi...!" Ở Ấn Độ, huyền thoại là ở chỗ ma chạy giật lùi, điều
đó là rắc rối. "Làm sao phân biệt được rằng anh thực sự là anh, không phải
là ma?"
Một hôm chuyện
xảy ra - lúc đó là ba giờ sáng - một người đưa sữa phải đã dậy sớm. Anh ta thường
tới quãng năm hay sáu giờ, nhưng có lẽ anh ta đã không ngủ ngon, có lẽ đã có
quá nhiều muỗi, cái gì đó có thể đã có... Anh ta đã tới sớm, và anh ta mang hai
xô đầy sữa.
Khi tôi ló
ra từ bóng tối, nhảy múa giật lùi, anh ta quăng cả hai xô và chạy. Và cứ tưởng
rằng anh ta đã hiểu lầm, tôi đã đuổi theo anh ta! Tôi càng chạy, anh ta càng chạy
nhanh hơn. Tôi nói, "Thật kì lạ..."
Ông già
Sindhi đã quan sát toàn thể khung cảnh. Ông ấy nói, "Anh sẽ giết chết anh
ta! Sao anh đuổi theo anh ta?"
Tôi nói,
"Tôi đơn giản muốn bảo anh ta rằng tôi không phải là ma."
Ông già
Sindhi nói, "Không ai tin điều đó đâu. Ma bao giờ cũng nói điều đó! Anh cứ
đưa tôi hai xô kia. Đến sáng anh chàng kia sẽ tới, và tôi sẽ đưa trả anh ta các
cái xô và giải thích tình huống này."
Trong mấy
năm tôi đã hỏi ông già Sindhi liệu người này có tới không. Ông ấy nói,
"Không, hai cái xô kia vẫn đấy."
Tôi nói,
"Ông có ý tưởng nào anh ta đã đi đâu không?"
Ông ấy nói,
"Chẳng có ý tưởng nào. Tôi hay nghĩ anh đã làm chết anh ta. Anh ta có thể
đã không sống được với kinh nghiệm kì lạ về ma đuổi theo anh ta."
Nhưng tôi đã
làm mọi nỗ lực để tìm ra người này. Chung cuộc tôi đã tìm thấy anh ta; anh ta sống
ở làng cạnh đó. Cho nên tôi đi tới đó với hai cái xô đó.
Khoảnh khắc
anh ta thấy tôi, anh ta bắt đầu nhảy. Anh ta nói, "Không! Đừng tới
đây!"
Tôi nói,
"Tôi đã tới chỉ để trả lại anh cái xô của anh."
Anh ta nói,
"Tôi không muốn bất kì cái gì!" - với mắt nhắm nghiền, để cho anh ta
không thấy tôi.
Tôi nói,
"Ít nhất thì cũng nhìn tôi đã, chỉ nhìn vào bàn chân tôi. Chúng không phải
là cách chân ma chìa ra sau!"
Người này
nhìn vào bàn chân tôi. Anh ta nói, "Vậy là anh không phải là ma à?"
Tôi nói,
"Một ngày nào đó tôi sẽ trở thành ma, nhưng ngay bây giờ tôi không là ma."
Anh ta nói,
"Trời! Tôi đã đi vòng gần hai dặm đường không cần thiết chỉ để tránh chỗ
đó nơi anh chạy giật lùi! Đừng có làm điều đó. Bất kì người nào..."
Tôi nói,
"Anh không biết cái đẹp của nó."
Anh ta nói,
"Đẹp sao?"
Tôi nói,
"Anh không biết phúc lành của nó."
Anh ta nói,
"Đừng có thuyết phục tôi."
Tôi nói,
"Chỉ một lần thôi, anh tới cùng tôi."
Anh ta nghĩ
một chốc, và anh ta nói, "Tốt hơn cả tôi nên tới để cho nỗi sợ chỗ đó mất
đi."
Thế là ngày
hôm sau tôi đón anh ta tới từ làng này trong xe của tôi, và mang anh ta về nhà
tôi, và cả hai chúng tôi chạy nhảy giật lùi.
Ông già
Sindhi nhảy ra khỏi giường của mình. Ông ấy nói, "Trời! anh đã tìm ra con
ma khác này ở đâu?"
Tôi nói,
"Anh ấy không phải là ma."
Ông ấy nói,
"Tôi đã bảo anh rồi, mọi ma đều nói điều đó!"
Tôi nói,
"Đây là cùng người đã vứt bỏ xô sữa của mình."
Ông ấy nói,
"Anh đã tìm thấy anh ta ở đâu? Anh đã đào anh ta lên từ mồ à?"
Tôi nói,
"Ông đem đuốc ra và nhìn chân anh ta. Anh ta là người sống, anh ta đã
không chết. Và nhìn vào cái xô: ông biết cái xô này, chúng đã nằm đây với ông
trong nhiều năm."
Ông ấy nói,
"Tốt hơn cả là tôi phải đổi chỗ này; nó trở thành quá nặng nề. Ngày mai
anh có thể đem tới người thứ ba - và trong bóng tối rất khó phân biệt. Anh
không thể dừng trò chạy giật lùi này được sao?"
Tôi nói,
"Nó hay thế... nó cực lạc thế."
Ông ấy nói,
"Cái gì?"
Tôi nói,
"Chừng nào ông chưa nếm trải nó..." Tôi nói, "Hỏi người đưa sữa
xem."
Người đưa sữa
nói, "Điều đó là đúng, nó làm cho ông cảm thấy tự do thế."
Ông già nói,
"Thế thì tôi sẽ thử ngày mai."
Vợ ông ấy
nói, "Không! Ông đừng tham gia với những người này. Họ điên, và họ đang
thuyết phục ông."
Tôi nói,
"Để ông ấy có nếm trải đi. Đừng lo nghĩ, không cái gì sẽ xảy ra đâu. Tôi
nhận trách nhiệm. Và một ngày nào đó bà sẽ tham gia cùng chúng tôi."
Bà ấy nói,
"Anh nghĩ tôi sẽ tham gia cùng anh sao? Thế thì tốt hơn cả là cả hai chúng
tôi cùng tham gia. Nếu cái gì đó xảy ra, nó xảy ra cho cả hai chúng tôi. Tôi
không muốn sống một mình mà không có chồng tôi." Thế là cả hai cùng tham
gia.
Tôi thường sống
cùng một người bạn, một người rất giầu. Ông ấy đã cho tôi một nửa cái nhà một tầng
của ông ấy. Khi ông ấy thấy bốn người - ba đàn ông một đàn bà - ông ấy hoảng hồn!
Ông ấy nói,
"Khi anh làm điều đó một mình là được. Tôi biết anh, nhưng tôi không biết
những người này - liệu họ là đàn ông, đàn bà hay chỉ là ma. Và anh đã tìm ra
người đàn bà này ở đâu? Hoặc là anh bỏ điều này hoặc anh nắm quyền sở hữu toàn
thể cái nhà này. Tôi có nhà một tầng khác, tôi sẽ rời đi."
Tôi nói,
"Điều đó sẽ là tốt đấy, vì thế thì tôi có thể vui chơi với các ma mới, thậm
chí cho phép họ ngủ ở đây chỉ để cho họ dậy đúng giờ - ba giờ."
Thực tại ông
ấy đã chuyển nhà.
Tam Thánh
đang nói đúng,
"Khi
ông đi xuống dốc, không có vui thú chừng nào ông chưa chạy xuống nó," vừa
đó ông ấy đánh sư.
Sư nói,
"Ông đồ ăn cướp!" và đi mất.
Đi xuống dốc.
Thiền tạo ra
những giai thoại hay.
Điều ông ấy
đang cố nói, tôi nói với bạn mọi ngày.
Đi vào trong
- không chậm chạp, nhưng với toàn bộ ý thức, với sự khẩn thiết dường như đây là
khoảnh khắc cuối cùng, cũng như chiếc giáo, xuyên tới chứ không chạy tới, vì chỗ
dốc xuống là rất nhỏ. Từ đầu bạn tới sự hiện diện của bạn, có một khoảng cách rất
nhỏ. Chừng nào bạn chưa đi thực sự nhanh, phá tan mọi cây cầu, phá tan mọi chướng
ngại, bạn sẽ không đạt tới sự hiện diện tối thượng của bạn.
Đó là điều
Tam Thánh ngụ ý, và sư này đã hiểu khi ông ấy nói, "Ông đồ ăn cướp!"
Đó là cách diễn đạt rất đáng yêu. Ông ấy đang nói, "Ông đã cướp của tôi
hoàn toàn. Ông đã thuyết phục tôi hoàn toàn. Tim tôi là tim ông, con người tôi ở
trong tay ông."
Một sư khác
có mặt trong cảnh này hỏi, "Sư vừa bây giờ - làm sao ông ấy có thể đi
vào?"
Ông ấy đã hiểu
- ông ấy đã là người đi theo Tam Thánh - ông ấy đã hiểu điều Tam Thánh ngụ ý bởi
chạy và không đi chậm.
Sư này đã hỏi,
"Làm sao ông ấy có thể đi vào bằng việc chạy xuống dốc?"
Tam Thánh
bình, "Cha đó đã đi gặp thầy giáo trước đây."
"Ông ấy
đã chạy đi gặp thầy cũ của ông ấy. Thầy cũ đã không thể thuyết phục được ông ấy;
ta đã xoay xở thuyết phục ông ấy. Thầy cũ đã nói cùng điều với ông ấy, nhưng
ông ấy đã bỏ lỡ. Bây giờ ông ấy đã quay lại với thầy cũ mà nói, `Thầy đã đúng.
Đấy chỉ là sự đặc kịt thông minh của tôi, da dầy của tôi, mà không cái gì đã
xuyên thấu. Nhưng Tam Thánh đã làm việc này trong vòng một phút. Ông ấy đã cho
tôi cú đánh thế vào đầu, và tôi chạy xuống toàn thể dốc núi.'"
Ông ấy là
đúng. Đây là những lời biểu tượng.
Tam Thánh
đang nói, "Ta đang đánh ông, và từ điểm đó có đường dốc từ đầu tới tim tới
sự hiện hữu. Chạy đi, đừng dừng lại bất kì đâu, và đừng đi chậm. Không người
nào biết về giây tiếp; giây này có thể là giây cuối cùng." Cho nên ông ấy
đã đi để bày tỏ sự kính trọng của ông ấy với thầy cũ của mình.
Buson viết:
Biển đang thời
xuân.
Cả ngày nó dâng
lên đổ xuống,
vâng, dâng lên
và đổ xuống.
Bạn phải
quán tưởng lần nữa:
Biển đang thời
xuân. Cả ngày nó dâng lên đổ xuống, vâng, dâng lên và đổ xuống.
Ông ấy đang
nói, mà không nói điều đó, chân lí tối thượng của con người bạn: "Ông dâng
lên nhưng ông không dâng tới đỉnh tối thượng từ đó không có đổ xuống. Ông dâng
lên chút ít và lại đổ xuống. Lần nữa ông nghe thầy khác, ông dâng lên chút ít
thêm và ông lại đổ xuống.
"Chừng
nào ông chưa dâng lên tới đỉnh tối thượng, tới đỉnh núi mà từ đó không có việc
quay lại, ông đã từng chỉ làm bài tập vô tích sự như sóng đại dương: dâng lên
và đổ xuống, dâng lên và đổ xuống, từ vĩnh hằng. Khi nào ông sẽ dừng điều này?
Khi nào ông sẽ dâng lên và dâng lên và dâng lên không có đổ xuống nữa?"
Điều này tôi
gọi là Phật tính.
Điều này tôi
gọi là người thức tỉnh.
Câu hỏi 1
Maneesha đã hỏi
một câu hỏi:
Thưa thầy kính
yêu của chúng tôi,
Chúng tôi có thực
sự phải quay lại từ buông bỏ không? Đặc biệt là đêm qua, có cảm giác dường như
thầy có thể đã nói cho chúng tôi vào trong chứng ngộ!
Maneesha,
tôi có Nivedano sẵn sàng. Khoảnh khắc tôi thấy bạn sắp ra ngoài giới hạn từ đó
bạn sẽ không có khả năng quay lại, tôi lập tức gọi Nivedano.
Bạn phải ở
đây cùng tôi. Nhiều điều thế phải được làm cho nhân loại. Cho nên tôi đưa bạn tới
điểm đó, nhưng không phải là điểm tối thượng. Tôi chỉ cho phép bạn có thoáng
nhìn, và khoảnh khắc tôi thấy bạn đi lên trước, tôi lập tức gọi bạn quay lại.
Bạn phải ở
đây trong khi tôi ở đây. Nhiều thứ thế vẫn còn chưa được làm. Toàn thể nhân loại,
không biết điều đó, đang chờ đợi ai đó làm cho họ có ý thức, tỉnh táo, để giúp
họ trở thành chư Phật. Họ có thể không biết, họ thậm chí có thể đánh bạn.
Điều đó thường
xảy ra... Triết gia Đức quan trọng nhất, Immanuel Kant, không bao giờ lấy vợ -
không phải ông ấy thiên về vô dục, nhưng vì ông ấy đã là nhà tư tưởng lớn.
Một người
đàn bà đã hỏi ông ấy; ông ấy nói, "Tôi sẽ phải nghĩ về điều đó, nó là vấn
đề lớn."
Ông ấy mất
ba năm nghiên cứu sâu về mọi vấn đề ủng hộ hôn nhân và chống lại hôn nhâu.
Chúng là tương đương.
Người phục vụ
của ông ấy nói, "Đừng phí thời gian. Mặc dầu ông đã thấy ủng hộ và chống đối
là tương đương, một điều nữa vẫn còn thiên về hôn nhân."
Ông ấy nói,
"Cái đó là cái gì?"
Người phục vụ
nói, "Kinh nghiệm. Không có hôn nhân ông sẽ không có bất kì kinh nghiệm
nào. Với hôn nhân ông sẽ có kinh nghiệm nào đó - tôi không nói tốt hay xấu -
nhưng kinh nghiệm nào đó chắc chắn có. Cái đó vẫn còn là một điểm ủng hộ
thêm."
Nó đã thuyết
phục tới mức ông ấy lập tức đi tới nhà người đàn bà này và gõ cửa. Người bố ra
mở cửa, và Kant nói, "Tôi sẵn lòng cưới con gái ông."
Ông ấy nói,
"Con ta, con quá chậm rồi. Nó đã lấy chồng, nó có hai con rồi. Con đã làm
gì suốt thời gian này?"
Ông ấy nói,
"Tôi đã nghiên cứu mọi điểm ủng hộ và chống đối."
Ông già nói,
"Con đã tìm thấy nhiều điểm tán thành hơn sao?"
Ông ấy nói,
"Không, đấy là người phục vụ của tôi đã nói cho tôi rằng có kinh nghiệm
bao giờ cũng là tốt hơn là không có nó. Người ta không bao giờ biết được, cái
gì đó tốt có thể bắt nguồn từ nó. Và cho dù nó biến thành cái gì đó xấu, nó làm
cho người ta được trải nghiệm nhiều hơn."
Thế là ông ấy
vẫn còn là người độc thân. Không đàn bà nào khác đã bao giờ hỏi ông ấy, và ông ấy
không phải là người đi hỏi bất kì người nào.
Ông ấy đã phụ
thuộc vào người phục vụ này. Người phục vụ này liên tục đòi thêm lương, và ông ấy
phải cho điều đó, vì không người phục nào khác có khả năng ở lại cùng ông ấy.
Ông ấy là một người rất kì lạ, và điều kì lạ nhất là ở chỗ ông ấy thường làm việc
như chiếc đồng hồ treo tường.
Khi ông ấy
đi tới đại học, mọi người sẽ chỉnh đồng hồ đeo tay của họ. Ông ấy đi là đủ; điều
đó có nghĩa là đồng hồ của họ không đúng. Khi ông ấy quay về, mọi ngày vào cùng
giờ... Ngay cả vào chủ nhật khi không có nhu cầu đi tới đại học, chỉ để giữ thường
lệ ông ấy sẽ đi tới đại học, ngồi trong thư viện và quay về vào cùng thời gian
như thường.
Vào ba giờ
sáng ông ấy phải được đánh thức dậy, và vào chín giờ tối ông ấy phải bị buộc
lên giường. Mọi điều đó phải được làm bởi người phục vụ. Ông ấy đã trả lương
cho anh ta số tiền lương khủng, với điều kiện rằng khi đến chín giờ, "Bất
kì cái gì xảy ra - tôi có thể đánh anh, hay tôi có việc khẩn cấp ngay lập tức
phải làm - không nghe theo tôi. Anh phải buộc tôi vào giường. Cho dù anh phải
đánh tôi, anh được phép. Nhưng nhớ, tôi sẽ cho anh trận đánh ra trò!"
Đó là một cảnh
tượng kì lạ. Mọi tối vào chín giờ, mọi sáng lúc ba giờ - nó đã là sự hỗn độn tới
mức toàn thể hàng xóm thức dậy. Người phục vụ sẽ kéo ông ấy ra, còn ông ấy sẽ
quay trở lại dưới chăn. Ông ấy sẽ la hét, lăng mạ anh ta, còn người phục vụ sẽ
đáng ông ấy, tát ông ấy.
Đây là tình
huống của toàn thể nhân loại.
Maneesha, tất
cả các bạn phải sống để đánh thức mọi người cho dù chống lại ý chí của họ, mặc
họ. Đừng bận tâm nếu họ đánh bạn, nếu họ khóc, nếu họ la; bạn liên tục kéo họ.
Họ phải được làm thành chư Phật!
Đó là lí do
tại sao bạn không cho phép bạn đi ra ngoài giới hạn. Tôi đang quan sát mọi người
một cách chặt chẽ.
Giờ là lúc
dành cho Sardar Gurudayal Singh.
Hiram T.
Horace III, nhà ngoại giao Mĩ ở Paris, được đứa con mình, Hiram Junior, chạy tới.
"Bố
ơi," Hiram Nhỏ hỏi, "lạm phát nghĩa là gì?"
"Này,
con trai," Hiram Lớn nói, "nó nghĩa là giá chung tăng lên."
"Thật
à?" Hiram Nhỏ hỏi. "Và điều đó tạo ra khác biệt gì?"
"Này,
con trai," Hiram T. Horace III giải thích, "Bố sẽ nói nó theo cách
này: ở đây ở Paris, trước lạm phát, với bố cuộc sống là rượu, nhà hàng và đàn
bà. Từ khi lạm phát, bây giờ nó là bia, ăn ở nhà và mẹ con!"
Ziggy
Zoldoz, một công dân Tiệp Khắc, bị kết án tù mười lăm năm vì gọi chủ tịch đảng
cộng sản là thằng ngốc.
Bernie
Beanball, phóng viên nước ngoài cho tờ Thời đại mới, hỏi quan chức chính phủ tại
sao bản án của Ziggy là nghiêm khắc thế. "Chắc chắn rồi," Bernie nói,
"án tù cho xúc phạm cá nhân không bao giờ quá mười hai tháng?"
"Điều
đó là đúng," người của đảng nạt nộ, "nhưng anh ta đã không bị kết án
vì xúc phạm. Anh ta bị kết án vì làm lộ bí mật nhà nước!"
Anh nông dân
Scrumpy quyết định trả tiền mời anh bạn cũ của mình, nông dân Zeke. Anh ta thấy
Zeke đang nghiêng người trên hàng rào của chuồng lợn, đang hút tẩu thuốc và lầm
rầm bài hát.
"Chào,
Zeke," Scrumpy nói, vừa nhìn quanh nông trại. "Mọi sự thế nào với ông
bạn thời gian gần đây?"
"À, hơi
chịu được," Zeke đáp. "Tôi có một số cây cần chặt hạn, nhưng cơn xoáy
lốc tới và đỡ tôi khỏi rắc rối này."
"Thực
thế à?" Scrumpy hỏi.
"Vâng,"
Zeke nói. "Thế rồi các cành nằm đó và cần đốt đi, nhưng sét đánh lửa cháy
chúng và đỡ tôi khỏi rắc rối này."
"Thực
thế à?" Scrumpy hỏi. "Vậy anh sẽ làm gì bây giờ?"
"Thế
này, chẳng gì mấy đâu," Zeke đáp, vừa hút tẩu. "Tôi hình dung tôi sẽ
chỉ phải đợi ở đây cho tới khi khoai tây bị rung chuyển khỏi đất bởi động đất!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)
Nivedano...
(tiếng trống)
Im lặng...
Nhắm mắt lại, và cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn bị đông cứng.
Đây là khoảnh
khắc đúng để nhìn vào trong. Nhưng chạy đi, với ý thức đầy đủ của bạn, toàn bộ
sinh lực của bạn, và sự khẩn thiết rằng - người ta chẳng bao giờ biết - đây có
thể là khoảnh khắc cuối cùng của đời bạn.
Bạn phải trở
thành vị Phật. Đi xuyên qua thể tinh tú của bạn tới chính trung tâm con người bạn.
Khi bạn đi gần
hơn, khi bạn đi sâu hơn, im lặng lớn giáng lên bạn. Thêm chút nữa... và an bình
mà bạn chưa bao giờ biết trước đây bao quanh bạn. Thêm chút nữa... và bạn ở
trung tâm của con người bạn. Khoảnh khắc này bạn là người được may mắn nhất
trên trái đất.
Cực lạc lớn
bắt đầu nở hoa trong chính trung tâm con người bạn, như hoa sen. Hương thơm là
của thế giới khác.
Phẩm chất duy
nhất bạn phải nhớ là: Chứng kiến mọi thứ, nhưng không bị đồng nhất với bất kì
cái gì.
Bạn không là
thân thể, bạn không là tâm trí, bạn không là thể tinh tú đầy ánh sáng. Bạn chỉ
là nhân chứng, được định tâm, chỉ quan sát, phản xạ như gương. Trên gương này
không bụi nào đã bao giờ tụ lại.
Để làm cho
nó thành rõ ràng, Nivedano...
(tiếng trống)
Thảnh thơi,
nhưng nhớ chứng kiến.
Chỉ là nhân
chứng cho mọi thứ đang xảy ra.
Khoảnh khắc
bạn chỉ là nhân chứng, bạn sẽ cảm thấy bạn đang tan chảy vào trong đại dương,
cũng giống như băng tan ra.
Thính phòng
Phật Gautama vào khoảnh khắc này đã trở thành đại dương tâm thức không gợn sóng
nào. Các bạn đã hội nhập vào lẫn nhau. Đây là kinh nghiệm đầu tiên, thoáng nhìn
đầu tiên.
Hạt mầm này
sẽ lớn lên theo thời gian, và đột nhiên một ngày nào đó bạn sẽ thấy mùa xuân đã
tới! Bạn là vị Phật, người đã thức tỉnh - việc tìm kiếm tối thượng của mọi người
tìm kiếm chân lí.
Thu lấy thật
nhiều cực lạc, thật nhiều phúc lạc, thật nhiều phúc lành... và thuyết phục vị
Phật đi cùng bạn ra chu vi cuộc sống của bạn. Trong công việc mọi ngày của bạn,
trong lời của bạn, trong cử chỉ của bạn, trong im lặng của bạn, ông ấy phải hiện
diện.
Dần dần, dần
dần bạn biến mất, và chỉ Phật còn lại. Từ điểm đó, khi duy nhất Phật còn lại, bạn
có thể nhảy vào trong càn khôn, bước nhảy lượng tử, và biến mất không để lại bất
kì dấu vết nào đằng sau.
Đây là mục
đích tối thượng của sự tồn tại cho mọi sinh linh - đặc biệt cho con người, vì họ
được tiến hoá cao nhất.
Trước khi
Nivedano gọi các bạn trở lại, thuyết phục vị Phật. Đó không phải là ai đó khác,
đó là chính con người bạn.
Nivedano...
(tiếng trống)
Quay lại...
Nhưng bây giờ
quay lại như Phật, được rót đầy niềm vui, phúc lạc, duyên dáng, im lặng sâu sắc.
Ngồi vài khoảnh
khắc chỉ để nhớ lại con đường này, con đường vàng mà bạn đã đi qua. Và chỉ hân
hoan trong sự kiện rằng bạn đã có khả năng tan chảy và hội nhập, rằng bạn đã có
khả năng đương đầu với cái ngã đích thực của bạn, vị Phật.
Và nhớ chia
sẻ ngọn lửa của bạn, chia sẻ vàng của bạn với mọi người, bạn và thù, người quen
và người lạ. Toàn thể nhân loại là của chúng ta - họ có thể không biết, nhưng
chúng ta biết. Họ có thể vật lộn chống lại chúng ta, nhưng chúng ta chỉ có thể
cảm thấy từ bi với họ.
Nhớ, một hạt
mầm có thể làm cả trái đất xanh.
Được chứ,
Maneesha?
Vâng, thưa
Osho kính yêu.
Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục lục
..............................
0 Đánh giá