Read more
Một hạt mầm làm cả trái đất xanh - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 3. 1,758,640,175 quỉ
Powered by RedCircle
Thưa thầy kính
yêu của chúng tôi,
Một lần, một sư
hỏi Fuketsu, "Phật là cái gì?"
Fuketsu đáp,
"Trúc đụng núi Jorin."
Thế rồi sư khác
hỏi, "Phật là cái gì?"
Fuketsu trả lời,
"Phật không là cái gì?"
Sư thứ ba nói với
Fuketsu, "Tổ phương tây tới mang theo thông điệp của ông ấy; tôi xin thầy
nói thẳng nó cho tôi!"
Tại điểm này,
Fuketsu đáp, "Khi một con chó sủa vào hư không, cả nghìn con khỉ thực sự
nhe răng ra."
Một dịp khác một
sư hỏi, "Nghĩa của việc Bồ đề đạt ma tới từ phương tây là gì?"
Fuketsu nói,
"Chúng ta biết mọi khúc uốn lượn của suối núi, nhưng không biết bản thân
núi."
Các bạn, hôm
nay tôi sẽ nói trước hết về tôn giáo và tội ác nó đã phạm phải chống lại nhân
loại, tự nhiên, môi trường, sinh thái.
Tội ác của
tôn giáo có nhiều, nhưng tội tồi tệ nhất là ở chỗ nó đã đặt con người vào trung
tâm của sự tồn tại. Nó đã trao ý tưởng này cho toàn thể nhân loại rằng toàn thể
sự tồn tại dành cho việc sử dụng của bạn: bạn là sáng tạo lớn nhất của Thượng đế.
Cái nhìn sự
tồn tại hướng theo con người nhất định tạo ra thảm hoạ trong tự nhiên, nhất định
phá huỷ cân bằng sinh thái, nhất định cho con người ý tưởng kì lạ của bản ngã.
Kinh Thánh
nói Thượng đế đã tạo ra con người theo hình ảnh riêng của ngài, và con người đã
tin vào điều đó. Cứ nhìn vào mặt bạn trong gương mà xem: nó có là mặt của Thượng
đế trong gương không?
Chân lí là ở
chỗ Ki tô giáo đã từng lừa nhân loại. Không phải là Thượng đế đã làm ra con người
theo tưởng tượng riêng của ngài đâu, chính con người đã tạo ra Thượng đế theo
hình ảnh riêng của con người. Và mọi kinh sách của mọi tôn giáo đã cho con người
sự phóng túng kì lạ trên tự nhiên, trên con vật và chim chóc. Điều đó đã lên tới
cực điểm trong việc tiêu diệt nhiều loài vật, chim. Nó đã tiêu diệt hàng triệu
cây chẳng vì lí do gì. Mọi giây trôi qua, một sân bóng bị dọn quang mọi mầu
xanh, mọi cây cối.
Khi Ấn Độ trở
nên độc lập, nó có ba mươi ba triệu hec ta cây. Ngày nay nó chỉ còn mười một
triệu héc ta.
Cái nhìn lấy
con người làm trung tâm này bắt đầu với Genesis, trong Kinh Thánh. Trong
Genesis có nói:
"Sinh sản
nhiều và sinh sôi nảy nở, và làm đầy trái đất và chinh phục nó; và có quyền chi
phối trên cá của biển và trên chim của không trung và trên mọi thứ sống di chuyển
trên trái đất."
Đây là tội
ác tối thượng mà đã làm cho con người thành bạo hành chống lại tự nhiên, cho
con người tự do chinh phục những con vật hồn nhiên, tiêu diệt chúng. Nó đã làm
cho con người thành man rợ.
Bây giờ
chúng ta đang khổ vì mọi cây đó đã bị tiêu diệt và nhiều cây nữa đang bị tiêu
diệt liên tục. Chắc chắn có cân bằng trong sự tồn tại. Những cây này là anh của
bạn và chị của bạn đấy, không có vấn đề có quyền chi phối. Bạn thở ra các bô
níc, chúng hít nó vào. Chúng thở ra ô xi, bạn hít nó vào. Mối quan hệ sâu sắc
thế... Bạn không thể tồn tại mà không có cây, mà cây cũng không thể tồn tại mà
không có bạn; sự tồn tại của bạn là được bắt rễ sâu sắc thế trong lẫn nhau.
Khi cây trở
nên ngày một ít đi, mức độ ô xi trong không khí đã đi xuống và xuống và xuống.
Bạn có thể đã không nghĩ về điều đó...
Tại sao bạn
không thở đầy đủ? Phổi của bạn có sáu nghìn túi phải được rót đầy, nhưng bạn thở
nông, cho nên chỉ hai nghìn túi được rót đầy, và bốn nghìn túi vẫn còn tù đọng,
chất đầy với các bô nic chết, điều là nguyên nhân gây ra hàng triệu bệnh. Nó
làm giảm khoảng sống của bạn, nó làm yếu linh hồn của bạn, nó phá huỷ thông
minh của bạn. Bạn đang sống ở mức tối thiểu chỉ bởi vì phát biểu này trong
Genesis rằng bạn "có quyền chi phối trên cá của biển và trên chim của
không trung và trên mọi thứ sống di chuyển trên trái đất."
Con người đã
giết biết bao nhiêu loại vật đẹp chỉ vì thức ăn cho mình, đã giết nhiều loài
chim thế - toàn thể các loài đã biến mất.
Ở Ấn Độ, sư
tử đã là con vật quốc gia, nhưng những thợ săn ngu xuẩn - đặc biệt thợ săn Anh,
người đã từng nắm quyền hành ở đất nước này trong gần ba trăm năm - đã tiêu diệt
mọi sư tử, con vật đẹp nhất trong sự tồn tại. Chân giá trị thế, mạnh mẽ thế, vĩ
đại thế! Và họ đã làm gì? - chỉ trang trí cho phòng khách của họ bằng cái đầu
nhồi bông của sư tử.
Ngày nay
toàn thể các loài đang trên bờ vực biến mất. Không còn nhiều hơn hai tá sư tử
trong toàn thể Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ phải thay đổi con vật quốc gia từ sư tử
sang hổ, vì sư tử đang sắp biến mất. Khi sư tử chết, nó không bao giờ được thay
thế.
Và không chỉ
người Anh, người Ki tô giáo đã tiêu diệt chúng; ngay cả sư Hindu cũng ngồi trên
da sư tử. Bạn sẽ không tin mọi người có thể ngu xuẩn thế nào.
Tôn giáo dường
như đem ngu xuẩn nào đó cho mọi người, những người được sinh ra đã là thông
minh.
Sư Hindu ngồi
trên da sư tử - và tất nhiên, một con sư tử phải bị giết cho một sư - và ý thức
hệ họ thuyết giảng là ở chỗ bằng việc ngồi lên da sư tử bạn có thể vẫn còn vô dục.
Quái lạ! Ngu xuẩn không có giới hạn.
Da sư tử có
liên quan gì tới vô dục? Sư tử không vô dục; người ta không bao giờ nghe nói về
sư tử vô dục. Bằng chứng khoa học nào có đó? Tôi không biết một sư nào là vô dục,
và tôi đã biết hàng nghìn sư - người Hindu, người Jaina...
Ngay bây giờ
hai cuốn sách đã đưa ra từ một trong những giáo phái giầu nhất của người Jaina,
Terapanth. Giáo phái này được đứng đầu bởi Acharya Tulsi. Một nghìn bẩy trăm sư
dưới ông ấy, và ba lần hơn là các ni - và tất cả đều suy đồi về dục.
Hai cuốn
sách này mà vừa mới đưa ra, Acharya Tulsi cố gắng vất vả để chính phủ cấm
chúng. Nhưng nhà xuất bản của các cuốn sách này cũng là một người đi theo cùng
giáo phái này. Ông ấy biết rằng điều được viết ra trong hai cuốn sách đó bởi một
cựu sư của Acharya Tulsi là tuyệt đối đúng. Ông ấy nói, "Tôi sẽ tranh đấu
chống lại chính phủ và đi tới toà thượng thẩm. Họ không thể ngăn cản sự thực!"
Một lần tôi
đã ở trong trại của Acharya Tulsi trong bẩy ngày. Tôi không thể tin được... nhiều
sư thế, nhiều ni thế đã tới liên hệ với tôi, và họ kể cho tôi rằng suy đồi như
vậy đang diễn ra đằng sau khung cảnh - và ngay cả Acharya Tulsi cũng không là
ngoại lệ. Đồng tính đồng dục thịnh hành rộng rãi, dị dục thịnh hành rộng rãi.
Những ni kia được dùng gần như gái mãi dâm. Họ liên tục thuyết giảng về vô dục,
và thực tại của riêng họ là đủ mọi loại suy đồi.
Một trong những
cựu thành viên của một hệ thống thờ cúng tôn giáo đã tới thẳng tôi khi anh ấy rời
khỏi hệ thống này. Anh ấy muốn viết sách, nhưng tôi nói, "Đợi chút đi.
Không ai sẽ lắng nghe bạn đâu. Bạn cứ tạo ra trạng thái nào đó cho bản thân bạn
và thế rồi viết sách. Cuốn sách là tuyệt đối bản chất" - vì bản thân anh ấy
đã là nạn nhân của dâm dục của Acharya Tulsi, không nói tới các sư khác.
Các cô gái đẹp
Jaina được mời tới trở thành ni. Điều đã được nghĩ, điều đã được thuyết giảng,
điều đã được tuyên truyền trong hàng trăm năm là trở thành ni cô là trở thành
linh thiêng: bạn mang danh giá và phúc lành về cho gia đình bạn nữa. Cho nên
khi họ thấy một cô gái đẹp, họ mời gia đình: "Cô gái này có quyền năng tâm
linh tới mức cô ấy cần được khai tâm thành ni cô." Gia đình sung sướng, cộng
đồng sung sướng, cô gái sung sướng rằng cô đã được chọn như một người tâm linh
có khả năng vô cùng. Nhưng thực tại là khác toàn bộ. Cô ấy đã được chọn bởi vì
cô ấy đẹp, trẻ, và các sư đang ngồi đó đói meo.
Tôi đã làm
phát biểu này, và không một tờ báo Ấn Độ nào có dũng cảm để in nó! Và khi văn
phòng báo chí của tôi hỏi, truy hỏi cái gì đã xảy ra cho phát biểu của tôi -
tôi nhận toàn thể trách nhiệm cho nó, các vị không cần lo nghĩ! - họ nói,
"Chúng tôi cảm thấy rất bối rối để in nó." Và nó đã không được in.
Có lẽ họ đã
bị hối lộ bởi những người đi theo của Acharya Tulsi. Có lẽ chính phủ đứng đằng
sau nó, vì Acharya Tulsi giữ nhiều phiếu bầu và nhiều tiền ông ấy quản lí qua
những người đi theo của ông ấy để cúng cho các đảng chính trị đang trong quyền
lực.
Mọi tôn giáo
đều suy đồi về dục. Họ phải vậy. Hành động sáng tạo và tích cực duy nhất của họ
suốt nhiều thế kỉ là viện trợ tích cực.
Và bởi vì
Genesis nói, "Sinh sản nhiều" - điều đó ngụ ý dân số trên trái đất
ngày càng nhiều - "và sinh sôi nảy nở" - thậm chí không gấp đôi, mà
nhân lên - đó là lí do tại sao giáo hoàng Ki tô giáo và các giám mục và các hồng
y giáo chủ và các linh mục toàn là những người chống lại kiểm soát sinh đẻ: vì
điều đó đi ngược lại Genesis, chính nền tảng của tôn giáo của họ.
Cho nên toàn
thể dân số này bùng nổ, điều sẽ giết một nửa nhân loại qua nạn đói hoàn toàn,
ai chịu trách nhiệm cho điều đó? Genesis - và những giám mục và giáo hoàng và hồng
y giáo chủ và linh mục ngu xuẩn.
Bạn sẽ ngạc
nhiên mà biết rằng khi Ronald Reagan lên cầm quyền, ông ấy lập tức cắt ngân
sách cho kiểm soát dân số của các nước nghèo, vì ông ấy là một người Ki tô giáo
chính thống, phát xít. Từ khi ông ấy ở trong quyền lực, ông ấy đã hoàn thành
phát biểu của Genesis: "Sinh sản nhiều và sinh sôi nảy nở."
Khi Ấn Độ trở
nên độc lập, nó chỉ có bốn trăm triệu người. Bây giờ nó có chín trăm triệu người,
và đến cuối thế kỉ này nó sẽ là một tỉ người. Sau bốn mươi năm nó sẽ gấp đôi: sẽ
có hai tỉ người ở Ấn Độ. Bạn sẽ kiếm lương thực từ đâu?
Ngay bây giờ,
nửa đất nước đang đói, và quá nửa nước là kém dinh dưỡng. Ngay cả chính khách,
bộ trưởng chính của Haryana, đã tới với phát biểu này - vì bang của ông ấy đang
bị đói - rằng nếu tình huống này tiếp tục, Ấn Độ sẽ trở thành loài ngợm. Nó sẽ
mất mọi thông minh, nó sẽ mất mọi sức mạnh và tài năng, nó sẽ mất mọi chân giá
trị của con người.
Rất hiếm khi
nghe thấy sự thực từ chính khách, rất hiếm khi nghe thấy sự thực từ người tôn
giáo.
Trong cuốn
sách của mình, Nhân danh Thượng đế, David Yallop phơi bày nạn tham nhũng của
Vatican. Ông ấy nói cách giáo hoàng John Paul - giáo hoàng trước giáo hoàng
Polack này - đã ra lệnh điều tra Ngân hàng Vatican Bank sau báo cáo rằng nó đã
tham gia vào việc rửa tiền.
Giáo hoàng
cũng đã làm rõ ràng dưới chỉ đạo của ông ấy nhà thờ sẽ chấp nhận kiểm soát sinh
đẻ.
Đột nhiên,
sau hai hoạt động triệt để này, ba mươi ba ngày sau khi được làm giáo hoàng,
người mạnh khoẻ này đã chết vì đau tim. Ghi chép cá nhân của ông ấy, và các lọ
thuốc đã biến mất một cách bí ẩn. Trước khi nguyên nhân của cái chết có thể được
xác nhận, thân thể của ông ấy đã được ướp, một quá trình làm cho không thể nào
phát hiện được sự hiện diện của chất độc. Nhiều người cảm thấy ông ấy đã bị sát
hại.
Giáo hoàng mới,
người Polack, đã thăng cấp cho ông trưởng ngân hàng này thành tổng giám mục. Vì
người này đã là trưởng của ngân hàng, chính phủ Italy đã ban hành lệnh bắt -
nhưng họ không thể vào Vatican được. Vatican là một quốc gia tám dặm vuông ở
ngay giữa Rome, thủ đô của Italy. Người đứng đầu tôn giáo và đất nước có chủ
quyền là giáo hoàng. Tất nhiên, không ai có thể vào đó để bắt ông ấy. Và họ biết
hoàn toàn rõ rằng ông ấy phải bị bắt bởi chính phủ Italy nếu người đó đi ra khỏi
Vatican, vì điều họ đã làm qua ngân hàng...
Đó là mafia
lớn nhất. Mọi tiền mua bán heroin - không phải số lượng nhỏ, sáu trăm triệu đô
là một năm! - họ đang biến thành tiền trắng. Đây là toàn thể chức năng của Ngân
hàng Vatican. John Paul đã là một người có thông minh lớn. Ông ấy muốn tìm ra sự
kiện về ngân hàng này, vì nó đang phạm tội ác lớn nhất, vì điều đó hàng triệu
thanh niên đang bị cầm tù.
Chỉ sau ba
mươi ba ngày... Đây là thời gian ít nhất bất kì giáo hoàng nào đã là giáo
hoàng. Ông ấy đã hoàn toàn mạnh khoẻ; ông ấy không có hồ sơ bị bệnh tim nào, và
ông ấy được thấy đang ngồi trong giường, chết, giữ chặt tờ giấy trong tay,
trong đó ông ấy đã viết di chúc của mình và làm hai điểm rõ ràng: rằng ngân
hàng phải được điều tra hoàn toàn, và nếu có bất kì tội nào bị phạm phải, mọi
người phải bị trừng phạt. Và thứ hai, tình huống đã thay đổi hoàn toàn từ những
ngày của Genesis. Việc kiểm soát sinh đẻ nên được phép, và mọi loại phương pháp
kiểm soát sinh đẻ, thuốc, nên được phép cho nhân loại - đặc biệt cho Thiên chúa
giáo. Giờ không phải là lúc để sinh sôi nảy nở.
Bài báo này
mà ông ấy đã nắm chặt trong tay mình - và ông ấy đã chết - bài báo này cũng đã
biến mất. Và họ đã không có được chứng chỉ từ chuyên gia y tế rằng ông ấy đã chết
một cách tự nhiên; họ lập tức ướp xác mà không bảo cho bất kì người nào. Sau
khi ướp xác không có cách nào tìm ra liệu người này có bị đầu độc hay không.
Như tôi có
thể thấy, ông ấy chắc chắn đã bị sát hại bởi vì ông ấy đã đi ngược lại ngân
hàng tội phạm, và ngược lại thái độ tội phạm của người Ki tô giáo - họ liên tục
chống lại phá thai, chống lại thuốc kiểm soát sinh đẻ, chống lại bất kì loại
phương pháp nào mà có thể ngăn cản bùng nổ dân số.
Đây không phải
là trường hợp duy nhất.
Ai đã đóng
đinh Jesus? Các giáo sĩ tôn giáo, tu sĩ cấp cao, giáo sĩ trưởng của ngôi đền lớn
của người Do Thái ở Jerusalem. Tất cả họ, không trừ ngoại lệ nào, đều muốn
thanh niên vô tội này, người mới chỉ ba mươi ba tuổi, phải bị đóng đinh, chẳng
vì lí do nào hết cả. Ông ấy đã không phạm bất kì tội nào. Ông ấy đã không giết
bất kì người nào, ông ấy đã không cưỡng hiếp bất kì người nào.
Ngay cả thống
đốc La Mã của vùng Judea đã bị ngạc nhiên khi biết rằng họ đã muốn đóng đinh
Jesus. Và thống đốc La Mã có mặt ở Jerusalem, Pontius Pilate, đã muốn thả tự do
cho ông ấy, vì ông ta không thể thấy bất kì điều hại nào. "Có lẽ anh ta
nói mọi thứ mà người Do Thái không muốn nghe, gần tai bạn thế và liên tục trên
con đường của bạn. Không nghe! Nhưng đây không phải là cách thức có văn hoá và
nhân bản. Vì bạn bất đồng với ông ấy và bạn thậm chí không thể cho các luận cứ
cho Jesus vô giáo dục này, đóng đinh là câu trả lời...? Nhưng Pontius Pilate đã
hi vọng điều đó ở khoảnh khắc cuối cùng...
Mọi năm khi
kì nghỉ lễ của người Do Thái bắt đầu, các tội phạm đã bị kết án sẽ bị đóng
đinh. Ba người, ba tội phạm sẽ bị đóng đinh, và một người là Jesus, người đã
không là tội phạm chút nào. Pontius Pilate đã hi vọng rằng giáo sĩ cấp cao của
ngôi đền - chức vụ cao nhất cho giáo sĩ, các học giả uyên bác của Do Thái giáo,
người có quyền thả một người khỏi bị đóng đinh - sẽ đề nghị Jesus được thả ra,
vì ông ấy đã không phạm bất kì tội nào. Nhưng ngay cả giáo sĩ cao nhất, với cả
nghìn giáo sĩ bâu quanh ngôi đền, đã hô lên rằng Barabba, kẻ tội phạm bên ngoài
quan niệm...
Barabbas đã
giết bẩy người, anh ta đã cưỡng hiếp nhiều đàn bà; anh ta là người say hoàn hảo.
Anh ta vẫn còn trong tù gần như cả đời. Mọi lúc anh ta được thả ra, trong vòng
hai ngày anh ta sẽ quay lại - anh ta đã giết ai đó hay anh ta đã cưỡng hiếp đàn
bà nào đó. Bây giờ chung cuộc họ quyết định anh ta phải bị đóng đinh - anh ta
là không thể chữa được. Đó đã là cú sốc cho Pontius Pilate, nhưng mọi giáo sĩ,
kể cả giáo sĩ trưởng, đã hét lên, "Chúng tôi muốn Barabbas được thả
ra."
Ngay cả
Barabbas cũng không thể tin được vào điều đó. Anh ta biết Jesus. Thỉnh thoảng
anh ta đã nghe ông ấy, và anh ta đã yêu thanh niên này. Người này nói những điều
hay. Anh ta đã hi vọng rằng nếu anh ta cò thể vẫn còn ở ngoài nhà tù, anh ta có
thể nghe thêm anh thanh niên này.
Jesus đã từng
nói cho mọi người chỉ trong ba năm, và không với nhiều người, vì mọi người đều
sợ hệ thống cấp bậc tôn giáo: nếu bạn bị thấy trong một toán cùng Jesus bạn
cũng có thể bị trừng phạt. Cho nên chỉ vài thanh niên, người có dũng cảm và can
trường, đã đi theo ông ấy và lắng nghe ông ấy.
Barabbas, bất
kì khi nào anh ta có cơ hội ra khỏi nhà tù, đã đi tới nghe ông ấy. Và khi anh
ta thấy rằng anh ta sắp được thả, còn anh chàng đáng thương này với những ý tưởng
lớn, với cái nhìn đẹp, sắp bị đóng đinh, ngay cả Barabbas đã nói với mọi người,
"Điều đó tuyệt đối là tội phạm. Điều hoàn toàn đúng cho tôi là phải bị
đóng đinh, tôi đã làm đủ tội ác rồi! Nhưng anh thanh niên này... anh ta thậm chí
đã không bắt đầu sống, anh ta chỉ mới ba mươi ba."
Và trong
vòng bẩy ngày Barabbas đã giết một người khác. Nhưng chính qui tắc của đế quốc
La Mã là một khi một người được thả bởi ân xá của hoàng đế, người đó không thể
bị kết án tử hình lần nữa. Đó là câu chuyện gây ấn tượng vô cùng - ấn tượng hơn
cả câu chuyện về Jesus.
Người Ki tô
giáo nói Jesus đã làm nhiều phép màu, nhưng không có ghi chép Do Thái đương đại
nào tồn tại. Nếu những phép màu đó thực sự đã xảy ra - người chết được phục
sinh, nước được biến thành rượu, với một lát bánh mì ông ấy đã nuôi cả nghìn
người, ông ấy bước đi trên nước - bạn có nghĩ một người như thế này sẽ đi mà
không được người đương đại chú ý không? Không một tham chiếu nào ngay cả tới
cái tên của Jesus được tạo ra bởi bất kì văn đàn đương đại nào.
Nhưng
Barabbas thực sự là con người của phép màu. Đây đã là phép màu. Sau khi phạm phải
bẩy lần giết người, nhiều lần cưỡng hiếp, anh ta được thả ra... và điều được hỏi
là ở chỗ anh ta được thả bởi những giáo sĩ tôn giáo và linh thiêng nhất, một
cách nhất trí! Nó không phải là phép màu sao?
Và sau bẩy
ngày - đó đã chỉ là thói quen của anh ta - anh ta đã giết một người, anh ta đã
cưỡng hiếp đàn bà nào đó, anh ta đã lại bị bắt. Nhưng bây giờ anh ta không thể
bị đóng đinh, cho nên anh ta bị đày sang Hi Lạp. Đó đã là cách thức. Nếu ai đó
không thể bị đóng đinh, một khi anh ta đã được thả ra do ân xá của hoàng đế,
anh ta bị đày sang mỏ than ở Hi Lạp. Những mỏ than đó đã trở nên sâu thế, và
công nghệ đã gần như là số không, tới mức gần như mọi tháng hàng nghìn người chết,
vì mỏ sẽ sập.
Ngay khi
Barabbas đi vào mỏ than, ngày thứ ba mỏ sập. Mọi người dưới mỏ - và đã có gần
hai nghìn người - mọi người đều chết trừ Barabbas. Bạn không gọi điều đó là
phép màu sao?
Ngay cả
hoàng đế, hoàng đế La Mã, đã bị ấn tượng. Hoàng hậu cũng quá bị ấn tượng -
"Đây là con người thực của Thượng đế!" - cho nên anh ta đã được triệu
về Rome, kinh đô. Các cuộc thi đấu sẽ bắt đầu, và trong cuộc thi đấu một biến cố
đặc biệt là đánh nhau với sư tử đã bị bỏ đói trong nhiều ngày.
Hoàng đế muốn
biết liệu Barabbas này có thực sự là con người của Thượng đế không, cho nên
Barabbas đã bị đẩy vào đấu trường. Một con sư tử đói được thả ra, và Barabbas
đã đánh nhau với tính toàn bộ của anh ta, vì không có nhu cầu giữ bất kì cái
gì; sư tử sẽ giết chết anh ta.
Nhưng bạn sẽ
ngạc nhiên: anh ta giết chết sư tử. Với tính toàn bộ như vậy và sự khẩn thiết
như vậy, khi sự sống lâm nguy, ai quan tâm tới bất kì cái gì? Ngay cả sư tử
cũng trở nên sợ - và anh ta đã giết chết nó bằng tay trần!
Ngay cả
hoàng đế cũng không thể tin được vào mắt mình. Điều đó chưa bao giờ xảy ra trước
đây! Và hoàng hậu muốn ít nhất cũng chạm áo choàng của Barabbas, cho nên bà ta
đứng ra bên ngoài cổng đấu trường, và khi Barabbas được đưa ra, bà ta chạm áo
choàng của anh ta, và bà ta nói, "Anh là con người của Thượng đế."
Nhưng mọi
năm này anh ta không thể quên được mặt của Jesus. Mặt hồn nhiên đó, mặt trẻ
trung đó, mặt an bình và im lặng đó đã từng ám ảnh anh ta cả ngày lẫn đêm. Cho
nên khi anh ta được thả ra - hoàng đế phải thả anh ta - anh ta lập tức tìm nhóm
người ngầm, người đã biến thành người Ki tô giáo. Anh ta gia nhập nhóm này, và
ngày anh ta gia nhập nhóm và chấp nhận cây chữ thập để treo quanh cổ mình, anh
ta bị bắt ngay lập tức và bị đóng đinh. Không phép màu nào xảy ra. Anh ta đã chết
như một người Ki tô giáo.
Tại sao Jesus đã bị đóng đinh?
Tôn giáo
không thể dung thứ bất kì người nào với cái nhìn mới, với mơ ước mới, với hi vọng
mới về nhân loại, với hứa hẹn mới để được hoàn thành. Không tôn giáo nào có thể
dung thứ việc nổi lên của bất kì người nào có hình ảnh mới về con người. Họ cảm
thấy bị tổn thương. Điều đó có nghĩa là kinh sách của họ đã là sai, nghĩa là
mãi cho tới giờ điều họ đã từng tôn thờ đã là ngu xuẩn. Vì mỗi một người này, họ
không thể bỏ toàn thể di sản kế thừa của họ.
Họ không có
luận cứ chống lại Jesus, hay chống lại Socrates, hay chống lại al-Hillaj
Mansoor; luận cứ duy nhất của họ là đóng đinh. Tôn giáo đã phạm phải nhiều tội
ác thế trong nhiều thế kỉ. Mọi tôn giáo đều nghĩ tôn giáo khác là sai, và đưa họ
về đúng, cách đơn giản là chặt đầu họ. Người Ki tô giáo đã từng giết người Do
Thái, người Mô ha mét giáo; người Mô ha mét giáo đã từng giết người Ki tô giáo,
người Hindu; người Hindu đã từng giết người Mô ha mét giáo, Phật tử - nhân danh
Thượng đế! Bạn đã có loại Thượng đế gì vậy?
Theo cuốn
sách của Corrado Balducci, một nhà ngoại giao của Vatican, quân đội của quỉ bao
gồm đích xác một tỉ bẩy trăm năm mươi tám triệu, sáu trăm bốn mươi nghìn một
trăm bẩy mươi nhăm quỉ. Chắc chắn nhà ngoại giao Vatican này phải đã tới thăm địa
ngục!
Và bao nhiêu
người trong quân đội của Thượng đế, tôi có thể hỏi? Chỉ có ba anh chàng - Thượng
đế, Thánh Linh, và đứa con trai duy nhất, Jesus? Có bất kì khả năng nào của Thượng
đế thắng lại quỉ không?
Tôi sẽ nhắc
lại con số để cho bạn có thể nhớ nó. Quân đội của quỉ bao gồm đích xác một tỉ bẩy
trăm năm mươi tám triệu, sáu trăm bốn mươi nghìn, một trăm bẩy mươi nhăm quỉ.
Không có hi vọng nào cho nhân loại.
Có lẽ đó là
lí do tại sao Thượng đế đã trốn tới ngôi sao xa xôi nào đó, cùng với đứa con
trai duy nhất của ông ấy và Thánh Linh - khi thấy tình huống này.
Người ta tự
hỏi làm sao những người này đi tới những kết luận này. Nhà ngoại giao này, nếu
ông ấy đã tới địa ngục... Trong Ki tô giáo bạn không thể quay lại từ địa ngục.
Một khi bạn ở trong địa ngục bạn ở mãi mãi trong địa ngục, ở vĩnh hằng. Làm sao
ông ấy xoay xở, chống lại tôn giáo riêng của ông ấy, để thoát ra khỏi địa ngục?
Và không đi tới địa ngục, bạn nghĩ người nào có thể đếm được số lớn này, chỉ ngồi
ở Vatican?
Và không người
Ki tô giáo nào thậm chí đã nghi vấn cái ngu xuẩn của người này. Điều đó làm tôi
ngạc nhiên. Tôi đơn giản không thể tin được điều đó. Một mặt, Ki tô giáo nói, nếu
bạn rơi vào địa ngục, nó là được kết thúc rồi; cánh cửa bị đóng lại mãi mãi, và
bạn sẽ cháy trong ngọn lửa địa ngục vĩnh hằng.
Chính ở điểm
này mà một trong những nhà tư tưởng có ý nghĩa của thế kỉ này, Bertrand
Russell, đã bỏ Ki tô giáo - đặc biệt ở điểm này. Ông ấy đã viết cuốn sách, Tại
sao tôi không là người Ki tô giáo, và điểm đầu tiên là ở chỗ "Tôi không thể
quan niệm được rằng trong một kiếp sống..." vì Ki tô giáo chỉ tin vào một
kiếp sống. Trong Hindu giáo, trong Jaina giáo, trong Phật giáo, bạn có thể phạm
hàng triệu tội vì hàng triệu kiếp là sẵn có, về sau và lên trước. Bạn có thể
liên tục làm nhiều tội thế, không có nhu cầu đếm. Nhưng trong Ki tô giáo, trong
Do Thái giáo, trong Mô ha mét giáo, chỉ có một kiếp sống.
"Trong
một kiếp sống," Bertrand Russell hỏi câu hỏi, "tôi có thể phạm phải
bao nhiêu tội? Mọi tội mà tôi đã phạm phải, và mọi tội mà tôi muốn phạm phải
nhưng tôi đã không phạm, và mọi tội tôi đã mơ phạm phải... Cho dù mọi điều này
bị coi là tội, quan toà nghiêm khắc nhất trên thế giới không thể cho tôi vào tù
hơn bốn năm rưỡi. Sự vĩnh hằng của lửa địa ngục sao? - tôi chưa phạm đủ tội!"
Điều này ngớ
ngẩn thế, rằng một người như Bertrand Russell... Ông ấy có nhiều ý kiến khác,
nhưng đây là ý kiến cơ bản: rằng điều đó là tuyệt đối ngớ ngẩn. Nếu bạn liên tục
phạm tội từ lúc bạn được sinh ra, suốt ngày và đêm, cho tới khi bạn bước vào nấm
mồ của bạn, thế nữa sự vĩnh hằng của ngọn lửa địa ngục là không công bằng. Bẩy
mươi năm liên tục phạm tội - không ngủ, không ăn - thế nữa, bẩy mươi năm chỉ là
bẩy mươi năm. Ngay cả nhiều tội... mặc dù bạn không thể phạm nhiều tội đó. Một
số thời gian bạn sẽ cần ăn, một số thời gian cần ngủ, một số thời gian cần yêu,
một số thời gian đi xem phim. Và cái gì sẽ xảy ra cho ti vi?
Nhưng Ki tô
giáo, không cho bất kì lập luận nào, liên tục nhấn mạnh rằng nếu bạn phạm tội...
Bao nhiêu tội? Ít nhất một con số phải được cho, rằng nếu bạn phạm một tá tội
chẳng cái gì được nói về nó. Bạn có thể phạm một tội, bạn có thể phạm nghìn tội...
trừng phạt là như nhau. Đây là loại công bằng gì?
Và những người
này đã từng đếm quỉ...
Vào thời
Trung Cổ họ đã giết đàn bà, gọi họ là phù thuỷ.
Từ
`witch-phù thuỷ' không phải là từ xấu. Trong nguồn gốc của nó, nó ngụ ý người
đàn bà khôn ngoan. Nhưng Ki tô giáo đã làm nhiễm bẩn từ này, đã phá huỷ cái đẹp
của nó. Và điều gì đã là quá trình này - làm sao bạn tìm ra phù thuỷ, làm sao bạn
chứng minh rằng cô ấy là phù thuỷ? Một khi được chứng minh, trừng phạt duy nhất
là thiêu sống cô ấy tại ngã tư đường trong phần chính của thành phố.
Một toà án đặc
biệt được thu xếp bởi giáo hoàng để tìm mọi phù thuỷ và tiêu diệt họ, vì họ đã
bị "quỉ ám."
Không ai biết
bất kì cái gì về Thượng đế, không ai biết bất kì cái gì về quỉ, và hàng nghìn
và hàng nghìn đàn bà đã bị thiêu sống! Họ đã xoay xở điều đó thế nào? - một quá
trình đơn giản.
Bất kì người
nào cũng có thể thông báo, ngay cả một cách nặc danh: "Tôi ngờ người đàn
bà nào đó hàng xóm tôi là phù thuỷ." Người đàn bà đó sẽ bị bắt ngay lập tức
bởi toà án, bị buộc vào tù, bị tra tấn, đánh đập, lạm dụng tình dục.
Tôi nhớ những
người đàn bà khi lưng tôi bị đau, tám năm trước. Một máy kéo dãn được mang tới
để kéo thân thể tôi - chân theo hướng này, đầu theo hướng kía - để đặt xương sống
thẳng ra. Vào lúc đó tôi nhớ rằng máy kéo dãn này đã được người Ki tô giáo phát
minh ra để tra tấn đàn bà. Tôi đã biết chút ít về cái máy đó, nhưng những người
đàn bà kia đã bị xé ra từng phần. Đôi khi chân rời ra... đôi khi không cần
thiêu sống họ. Đầu sẽ rời ra...
Những tảng
băng lớn sẽ được đặt lên ngực họ. Chừng nào họ chưa chịu thú tội, không có cách
nào thoát ra khỏi nhà tù: "Thú tội rằng mi đã có quan hệ dục với quỉ
đi!" Một cách tự nhiên, bất kì người nào đều sẽ nghĩ tốt hơn cả là thú tội
còn hơn phải trải qua mọi tra tấn này. Và tra tấn này sẽ tiếp tục cho tới khi họ
thú tội; không có đường ra.
Và các giám
mục những người đã hành hạ họ sẽ dạy họ cách họ phải thú tội trước toà án. Khi
họ thú tội rằng, "Vâng, tôi đã có quan hệ dục với quỉ," thế thì linh
mục sẽ bảo họ, "Cô phải nói cho toà cách cô nhận ra quỉ. Cô phải nói cho họ
rằng hắn ta có dương vật chẽ ra" - để nó có thể đi vào người đàn bà từ cả
hai lỗ - "đó là cách tôi đã nhận ra rằng nó là quỉ."
Những người
đàn bà đáng thương đó phải thú tội này trước toà. Và toà sẽ hỏi, "Làm sao
cô nhận ra nó là quỉ, không phải là người?" Thế thì họ sẽ mô tả bộ máy
sinh dục của quỉ. Nó chắc chắn phải là đặc biệt, chẽ ra; điều đó đủ là bằng chứng.
Họ đã bịa ra
việc thú tội, họ đã bịa ra bằng chứng, và người đàn bà này bị thiêu sống. Họ đã
tiêu diệt hàng nghìn đàn bà nhân danh Thượng đế - vì quỉ phải bị tiêu diệt.
Nhưng bây giờ,
xem số lượng quỉ... Tôi không nghĩ rằng chỉ bằng việc giết vài nghìn đàn bà bằng
thiêu sống, bạn có thể tiêu diệt được quỉ. Bạn đang tiêu diệt đàn bà, quỉ sẽ
tìm thấy đàn bà khác - và nhiều quỉ thế!
Kì lạ... bạn
đáng phải thiêu quỉ, không phải đàn bà. Đàn bà đã là nạn nhân; tội phạm là quỉ.
Nhưng đó là logic kì lạ: nạn nhân bị thiêu vì bạn không thể tìm thấy quỉ ở bất
kì đâu.
Không quỉ
nào tồn tại, không Thượng đế nào tồn tại. Đây là những hư cấu được tạo ra bởi
tôn giáo để hành hạ nhân loại, để bóc lột nhân loại, để tạo ra sợ và tham trong
nhân loại.
Và thượng đế
học của người Ki tô giáo đã không thay đổi. Nó vẫn còn như cũ.
Moses, người
sáng lập Do Thái giáo, chắc chắn đã nói đối với người Do Thái khi ông ấy nói,
"Ta đã được Thượng đế bảo rằng các ông là người được chọn của thế giới, và
ngài đã bảo ta dẫn dắt các ông tới vùng địa linh, Israel."
Nếu như ông ấy
đã được bảo cho đích xác địa chỉ Israel ở đâu, thế thì tại sao phải mất bốn
mươi năm để tìm ra Israel? Bốn mươi năm dài lang thang trong sa mạc Saudi
Arabia... Và cảm giác của tôi, không có bất kì hoài nghi nào, là ở chỗ điều ông
ấy đã gọi là Israel đơn giản để che giấu sự kiện rằng ông ấy đã nói dối. Israel
chỉ là một chỗ nghèo nàn, núi non, không giầu có; không cách nào nó có thể được
gọi là địa linh của Thượng đế.
Moses đã nhận
ra điều đó khi ông ấy bỏ mọi người ông ấy đã mang đi từ Ai Cập. Gần ba phần tư
số họ đã chết đói, khát... bốn mươi năm lang thang trong sa mạc. Thế hệ thứ ba
của dân tộc này đã đi vào hiện hữu, người không quan tâm gì mấy về Moses; họ đã
không biết bất kì cái gì về anh chàng này là ai. Nhìn thấy tình huống này, ông ấy
đơn giản bảo bọ, "Đây là chỗ đó."
Nhưng sự sống
tỏ ra rất gian nan, gian nan hơn nó đã vậy ở Ai Cập. Và trong bốn nghìn năm người
Do Thái đã khổ nhiều hơn họ đã từng khổ ở Ai Cập. Ở Ai Cập họ đã là nô lệ,
nhưng ngay cả sự nô lệ đó đã là tốt hơn nhiều so với lời hứa và hi vọng giả
này. Và, nhìn thấy tình huống này, ông ấy phải đã từng nghĩ, "Những người
trẻ này không biết ta, bố hay ông bà họ đã đi cùng ta. Thấy mảnh đất khó khăn
này, không màu mỡ, họ không định tha thứ cho ta vì dẫn họ tới chỗ này." Chỉ
như cái cớ để thoát khỏi Israel, ông ấy đã nói, "Một trong các bộ lạc của
chúng ta đã bị lạc trong sa mạc. Ta sẽ đi tìm họ trong khi các ông quản lí đất
thiêng của Thượng đế."
Moses đã đi
tìm bộ lạc bị lạc, những người đã đi tới Kashmir. Họ đã định cư ở Kashmir.
Kashmir có vẻ giống như đất thiêng. Hoàng đế Moghul đầu tiên, Babar - khi ông ấy
tới chinh phục Ấn Độ, ông ấy đã đi vào qua Kashmir - nhìn cái đẹp của Kashmir,
ông ấy nói, "Nếu như có bất kì thiên đường nào, nó là ở đây. Nó là ở
đây!"
Moses đã tới
Kashmir; mồ của ông ấy là ở Kashmir. Và bởi vì ông ấy đã cho ý tưởng giả về
tính cao siêu, người Do Thái đã khổ vô cùng. Khổ của họ vẫn còn chưa đi tới kết
thúc. Toàn thể trách nhiệm thuộc về Moses.
Những người
sáng lập tôn giáo đã từng nói dối theo mọi cách có thể. Moses đã nói dối người
của ông ấy rằng trên núi Sinai ông ấy đã gặp Thượng đế, và Thượng đế đã trao
cho ông ấy mười lời răn. Không ai đã nhìn thấy Thượng đế.
Nghĩ về bản
thân bạn mà xem: nếu bởi tình cờ bạn bắt gặp Thượng đế, bạn sẽ làm gì? Đánh ông
ấy thật mạnh và giết ông ấy, vì mọi khổ mà nhận loại đã trải qua trong nhiều thế
kỉ và thế kỉ là trách nhiệm của Thượng đế người đã tạo ra con người, người đã tạo
ra thế giới.
Nhu cầu là
gì? Sự tồn tại là im lặng và đẹp hoàn hảo. Nhu cầu là gì để tạo Thành Cát Tư
Hãn, và Thiếp Mộc Nhi, và Nadirshah? Chỉ giữa ba người này, họ đã giết một trăm
triệu người.
Nhu cầu là
gì để tạo ra Adolf Hitler? Và còn đủ kì lạ, ông ta đã giết những người được chọn
của Thượng đế: sáu triệu người Do Thái ở Đức! Và bản thân ông ta đã tuyên bố rằng
ông ta là đầu thai của nhà tiên tri Do thái, Elijah.
Kì lạ... nhà
tiên tri Do Thái giết sáu triệu người Do Thái sao? Ông ta phải đã giết người Đức.
Nhưng vấn đề là, ông ta đã có cùng ý tưởng ngu xuẩn: rằng giống người Đức
Nordic là giống nòi thượng đẳng; nó được sinh ra để chinh phục thế giới. Các giống
nòi khác là hạ đẳng. Điều đó là va chạm. Hai giống nòi 'được chọn' không thể sống
cùng nhau. Bản ngã của họ liên tục lâm vào xung đột.
Mọi tôn giáo
này đều nói chỉ có một Thượng đế - và một Thượng đế tạo ra ba trăm tôn giáo chỉ
để đánh lộn lẫn nhau sao? Thượng đế này phải điên, nếu ngài tồn tại chút nào.
Tôi cảm thấy
tốt hơn cả là chúng ta nên tin cậy tuyên bố của Friedrich Nietzsche rằng ngài
chết rồi, vì là chết là tốt hơn là điên. Ít nhất bạn chết trong minh mẫn đầy đủ.
Cảm giác của
tôi là ngài đã tự tử, khi thấy tình huống và đống lộn xộn làm sao ngài đã tạo
ra.
Ở Ấn Độ, Thượng
đế đã tạo ra thế giới - điều này là đặc biệt cho thành phố Poona tự xưng có văn
hoá. Thượng đế đã tạo ra thế giới, và điều đầu tiên ngài đã tạo ra đàn bà. Đàn
bà mà ngài đã tạo ra là con gái ngài, nhưng ngài trở nên mê tít; ngài muốn cưỡng
hiếp con gái riêng của mình.
Đàn bà trở
nên sợ tới mức cô ấy chạy mất và trở thành con bò cái. Nhiều đàn bà làm điều
đó, nó chẳng là gì đặc biệt. Thượng đế, thấy rằng đàn bà đã biến thành bò, lập
tức trở thành con bò đực! Và đây là cách đàn bà liên tục trượt từ thân thể này
vào thân thể khác, và Thượng đế liên tục đuổi theo cô ấy, trở thành con đực
khác của loài khác. Đó là cách mọi loài đã được tạo ra. Đây là tôn giáo lớn của
người Hindu - giống nòi có văn hoá, những người tôn giáo cổ đại nhất của thế giới.
Ngay cả Thượng
đế của họ là gunda, du côn, kẻ hãm hiếp - và họ tự gọi bản thân mình là có văn
hoá. Những cái gọi là người tự xưng, có văn hoá này phải nhìn vào kinh sách
riêng của họ, và họ sẽ ngạc nhiên.
Một trong những
đầu thai của Thượng đế là Parashuram, có lẽ là người bạo hành nhất trong toàn
thể lịch sử nhân loại. Bố ông ấy là người thấy Hindu - tôi đôi khi gõ đầu: người
thấy Hindu, và trong tuổi già của ông ấy vẫn còn ghen với vợ đẹp của anh ta.
Không có bằng
chứng cho điều đó, nhưng người Hindu tin rằng mặt trăng là Thượng đế, mặt trời
là Thượng đế.
Người thấy
già, bố của Parashuram... Tôi không biết tên nguyên gốc của ông ấy là gì, vì
parshu là một loại kiếm đặc biệt, rất nặng, không dài như kiếm, gần bằng nửa
kích cỡ, nhưng đủ rộng. Một cú đánh... nó nặng tới mức một cú đánh là đủ chặt đứt
đầu bạn. Tôi không biết tên nguyên gốc của ông ấy là gì, nhưng vì ông ấy liên tục
mang parshu, ông ấy trở thành Parashuram.
Một hôm bố
ông ấy gọi ông ấy vào, nói, "Ta ngờ mẹ con. Bà ấy có chuyện tình với Thượng
đế trăng. Khi ta đi tắm sáng sớm lúc ba giờ sáng, mặt trăng tới và làm tình với
mẹ con. Ta không thể dung thứ được điều đó. Ta bao giờ cũng thấy bất kì khi nào
ta đi ra sông, trăng ẩn trong mây. Ta biết hoàn toàn rõ nơi ông ta đã đi."
Chính kẻ ngốc
mà bạn gọi là người thấy sao? - họ thậm chí không biết rằng nếu trăng rơi vào
yêu người đàn bà, người đàn bà sẽ bị kết thúc. Bạn sẽ thậm chí không tìm thấy một
mảnh của người đàn bà. Nó lớn thế - nó là một phần tám của hành tinh trái đất -
tới mức không đàn bà nào có thể làm tình với người có kích cỡ đó. Làm sao cô ấy
sẽ tìm ra mồm anh ta ở đâu? Tay anh ta ở đâu? Và làm sao trăng đi vào cái lều
nhỏ của người thấy Hindu?
Nhưng dầu vậy
không người nào đã kết án bố của Parashuram, rằng ông ấy là người mù, hoàn toàn
mù - và bạn gọi ông ấy là người thấy? Ông ấy mù với ghen, rồ dại tới mức ông ấy
gần như mất trí. Thực tại đã là ở chỗ ông ấy đã lấy một người đàn bà trẻ, rất đẹp,
và ông ấy đã già và được kết thúc.
Ông ấy đã ra
lệnh cho Parashuram, "Con đi đi, đây là mệnh lệnh của bố con" - và
vâng lời là tôn giáo lớn nhất - "chặt đầu mẹ con và mang nó về trước
ta."
Parashuram
được coi là một trong những hoá thân của Thượng đế, và mặc dù anh ta không thể
thấy được rằng điều đó toàn là vô nghĩa. "Làm sao trăng có thể tới khi
mình bao giờ cũng ở đây? Bố đi ra sông, và nếu trăng tới con sẽ chặp đầu ông
ta." Nhưng anh ta đã không nói bất kì cái gì. Anh ta đơn giản đi vào trong
lều và chặt đầu người đàn bà đáng thương và mang nó ra.
Người bố tuyệt
đối thoả mãn. Và vì anh ta đã đi một cách vâng lời - ngay cả để chặt đầu người
mẹ, thậm chí không hỏi một câu - người Hindu đã chấp nhận anh ta là một trong
những hoá thân của Thượng đế, vâng lời thuần tuý.
Vâng lời thuần
tuý, hay nô lệ thuần tuý?
Vâng lời thuần
tuý, hay ngu si thuần tuý?
Và bởi vì mặt
trăng và mặt trời được người Hindu coi thuộc vào giống nòi kshatriyas, chiến
binh - người Hindu không thể nghĩ mà không mang hệ thống đẳng cấp của họ vào -
cho nên surya, mặt trời, và mặt trăng cả hai đều là chiến binh, kshatriyas, thấp
hơn brahmin. Parashuram đã là một brahmin, và anh ta giận trăng tới mức anh ta
quyết định giết mọi chiến binh của đất nước. Và người này được coi là hoá thân
của Thượng đế. Các chiến binh khác của đất nước này phải đã làm gì với mẹ người
đó, hay với bố người đó?
Và câu chuyện
kì lạ nhất là... Anh ta là con người của quyền lực mênh mông. Mười sáu lần anh
ta đã phá huỷ toàn thể hạng chiến binh của đất nước này. Toàn thể cuộc đời anh
ta đã bị phí hoài trong giết và giết, liên tục giết mười sáu lần một cách đơn
thương độc mã.
Và thế thì
kshatriya đã tới từ đâu? Anh ta đã tiêu diệt họ tất cả mười sáu lần. Bạn cần
tiêu diệt họ mười sáu lần sao? Một lần chắc đã đủ rồi: mọi kshatriyas đều bị giết.
Làm sao bạn xoay xở để làm cho họ chết mười sáu lần? Đó là câu chuyện thô bỉ
khác của Hindu giáo.
Hindu giáo
cho phép người thấy của nó... Mộ mặt họ đang nói về vô dục, khởi xướng vô dục
như tôn giáo cao nhất, và mặt khác họ cho phép những người thấy, những thánh
nhân lớn: "Nếu bất kì đàn bà nào tới ông và hỏi xin đứa con từ ông, ông
không thể từ chối."
Đó là cách
thức... vì Parashuram đã không giết đàn bà. Người thấy phải đã có cuộc sống tốt
thú vị! Hàng nghìn đàn bà, vợ vua, con gái vua đã tới họ theo cách riêng của họ,
cầu xin được cho đứa con bởi họ.
Loại người thấy
gì vậy...?
Những người
thấy này dường như là trai mãi dâm, và họ đang cho dịch vụ cho mọi người. Đất
nước này là lớn thế. Parashuram có thể chết ở miền nam; ở miền bắc trẻ con được
sinh ra. Đến lúc ông ấy bị kết thúc ở miền nam, lại hạng chiến binh mới đã nảy
sinh. Đến lúc ông ấy kết thúc miền bắc, miền đông, miền tây, cả đời ông ấy...
Và có nhiều người thấy thế, và có lẽ nhiều người đã giả vờ là người thấy. Một
cơ hội tốt thế!
Những điều
thô bỉ, những điều tục tĩu này chẳng ai nhắc tới, vì chúng sẽ phá huỷ bản ngã của
đất nước, rằng đây là đất nước của người ngoan đạo, của tâm linh, của tôn giáo.
Bạn có thể nghĩ rằng những người thấy này có thể được gọi là người thấy không,
họ đã thấy chân lí, họ đã trở nên thức tỉnh không? Và bản thân Parashuram là
người vô ý thức nhất. Không có lí do gì, chỉ vì người Hindu tin rằng trăng là
chiến binh, mọi chiến binh phải bị giết. Và anh ta phải đã làm cho toàn thể đất
nước thành nhà thổ, nhưng dầu vậy anh ta được thừa nhận là một trong những hoá
thân của Thượng đế.
Ở Ấn Độ,
trong gần mười nghìn năm... Đó là tính toán của các nhà khoa học hiện đại. Người
Ki tô giáo không bao giờ tin vào mười nghìn năm vì Kinh Thánh của họ; Kinh
Thánh của họ nói Thượng đế đã tạo ra thế giới chỉ mới bốn nghìn năm trước khi
Jesus được sinh ra. Điều đó nghĩa là chỉ sáu nghìn năm từ khoảnh khắc này. Cho
nên mọi thứ phải được đặt vào trong khuôn khổ sáu nghìn năm. Họ đã quyết định rằng
Rigveda được viết năm nghìn năm trước; họ không thể đi ra ngoài điều đó.
Nhưng các học
giả đã thấy rằng Rigveda đã được viết chín mươi nghìn năm trước - với bằng chứng
vững chắc, điều không thể tranh cãi chống lại. Rigveda mô tả chòm sao nào đó mà
chỉ xảy ra chín mươi nghìn năm trước. Trừ phi những người đã viết ra Rigveda đã
thấy chòm sao này - nó đã không xảy ra lại lần nữa... Điều tuyệt đối chắc chắn
là những người này đã quan sát chòm sao đó, và họ đã mô tả nó thật chi tiết
trong Rigveda. Nhưng chín mươi nghìn năm là câu chuyện dài và không cái gì được
viết về nó.
Có thể nhất
là satipratha - khi người chồng chết người vợ cũng nhảy vào dàn thiêu hoả táng
- là cổ như Rigveda. Nếu Rigveda năm nghìn tuổi, thế thì satipratha là năm
nghìn tuổi; nếu nó là chín mươi nghìn tuổi, sati là chín mươi nghìn tuổi. Trong
chín mươi nghìn năm, bao nhiêu triệu đàn bà - đôi khi rất trẻ, chỉ lấy chồng một
tuần trước đó, hay có thể một ngày trước đó, thậm chí hôn nhân còn chưa làm
xong...? Ở Ấn Độ, ngay cả trẻ em cũng thường xây dựng gia đình - ngay cả ngày
nay chúng cũng xây dựng gia đình, ngược lại hiến pháp và luật pháp - ngay cả trẻ
em còn trong bụng mẹ cũng đã xây dựng gia đình. Chỉ hai người bạn quyết định rằng,
"Nếu vợ tôi sinh con trai và vợ anh sinh con gái, hay ngược lại, chúng sẽ
được lấy nhau." Điều này được quyết định. Hôn nhân này là chung cuộc. Bạn
không thể đưa cô gái một ngày tuổi hay một năm tuổi sang nhà chồng được, nhưng
cô bé đã lấy chồng. Hôn nhân này có thể không bao giờ được hoàn thành. Cô gái
có thể năm tuổi và chồng có thể chết. Thực ra có nhiều khả năng về chết hơn là
sống.
Ở Ấn Độ cổ đại,
mãi cho tới đầu thế kỉ này, trong mười con trai, chín đứa sẽ chết. Và nếu bạn
làm hôn nhân cho trẻ con - người vợ thậm chí đã không thấy chồng mình, nhưng nếu
anh ta chết cô ấy phải nhảy vào dàn thiêu hoả táng.
Tôi đã từng
hỏi các shankaracharyas, những người lãnh đạo tôn giáo Hindu, "Nếu các ông
nghĩ rằng chính hiện tượng tâm linh lớn là người vợ phải chết, phải nhảy vào
dàn thiêu hoả táng khi đang sống, tại sao không đàn ông nào làm hành động tâm
linh như vậy?" Chỉ đàn bà là tâm linh, và đàn ông phải là bò đực sao?
Tôi đã thấy
bằng mắt riêng của mình đàn bà bị thiêu sống. Xem điều đó là kinh nghiệm ghê rợn
thế, vì đàn bà sống cố chạy ra khỏi dàn thiêu hoả táng - cô ấy còn sống - và
các brahmins đang đứng khắp xung quanh với những bó đuốc lớn để buộc cô ấy trở
lại trong dàn thiêu. Để cho điều đó không được thấy, nhiều bơ, ghe được đổ lên
dàn thiêu. Nó trở thành gần như đám mây khói, và bạn không thể thấy được cái gì
đang xảy ra bên trong đám mây. Bên trong đám mây khói các tu sĩ đang đứng với
các bó đuốc bùng cháy để đẩy người đàn bà trở lại dàn hoả thiêu, và bên ngoài
có nhiều âm nhạc, ban hát, tiếng ồn tới mức không ai có thể nghe thấy người đàn
bà cầu nguyện, la hét, kêu lên "Giúp tôi với! Cứu tôi với!" Không ai
có thể nghe thấy. Khắp xung quanh buổi lễ đang diễn ra, vì một người đàn bà đã
trở thành tâm linh.
Tôi đã từng
hỏi; không ai đã trả lời tôi. Tôi có lẽ là người duy nhất trên thế giới đã
không được trả lời trên một điểm.
Tôi đã tới
nhiều shankaracharyas thế - có tám người, mỗi người cho từng hướng. "Nếu
tính tâm linh là dễ dàng thế, chỉ nhảy vào trong dàn hoả thiêu, tại sao đàn ông
đã không đạt tới tính tâm linh như vậy?" Và họ câm - họ không có câu trả lời.
Họ chỉ có một câu trả lời: kết án tôi.
Nhưng sự kiện
này là rõ ràng, nó là đất nước gia trưởng nam. Mọi tôn giáo đều có tính gia trưởng
nam, chống lại đàn bà.
Tôi đã ở
trong những tình huống ác mộng khủng khiếp vậy. Tôi đã thấy đàn bà bị thiêu
cháy và tôi đã thấy cách họ đã xoay xở điều đó. Một tầng những âm nhạc lớn, âm
nhạc to; tầng khác, vòng tròn khác bên trong nó, với trích dẫn lớn về kinh sách
Veda; thế rồi tầng thứ ba, mà gần như bị ẩn kín trong mây do bơ tinh khiết tạo
ra - các tu sĩ. Tôi có nên gọi họ là tu sĩ không? - họ là đồ tể. Họ đang đứng
quanh dàn hoả thiêu với các bó đuốc cháy ép buộc người đàn bà đang chạy đây đó,
cố tìm cách thoát ra. Nhưng không có khả năng nào.
Điều này bạn
gọi là tính tâm linh, cưỡng bức giết người đàn bà? Nhưng lí do là, tính sở hữu
của đàn ông.
Mọi tôn giáo
đều có tính gia trưởng nam, họ thiên về đàn ông. Đàn ông muốn sở hữu vợ trong
khi anh ta còn sống và anh ta muốn sở hữu cô ấy ngay cả khi anh ta chết. Anh ta
sẽ không bỏ cô ấy một mình để có chuyện tình với bất kì người nào khác.
Nhưng khi có
liên quan tới đàn ông, tôi đã thấy người vợ cháy trên dàn hoả thiêu của cô ấy
và người chồng nói với mọi người: "Các vị có ý tưởng nào đó về tìm một cô
gái đẹp ở đâu không? Tôi muốn lấy vợ lần nữa" - ngay tại chỗ đó. Họ thậm
chí không thể đợi được hai, ba ngày. Ít nhất để cho lửa biến mất đã chứ, để cho
thân thể người đàn bà được cháy hết hoàn toàn. Không, đích xác tại dàn hoả
thiêu, quanh nó, mọi người đang ngồi và thảo luận cô gái nào sẽ là phù hợp cho
người này. Và người này có thể già, chẳng thành vấn đề; người năm mươi tuổi có
thể lấy cô gái mười sáu tuổi.
Tội ác chống
lại nhân loại là mênh mông.
Tội ác chống
lại tự nhiên... Tất cả những người đã từng ăn thịt không nghĩ lấy một khoảnh khắc
nó tới từ sinh linh sống. Chỉ vì ngon miệng của bạn, bạn sẵn sàng giết bất kì
ai. Cái gì sai về kẻ ăn thịt người?
Một người đã
bị những kẻ ăn thịt người bắt nhưng bằng cách nào đó đã trốn thoát kể cho tôi,
"Tôi phải ăn lót lòng vì tôi quá gầy. Đó là lí do tại sao tôi có thể xoay
xở trốn thoát - họ đã nuôi tôi và chuẩn bị tôi." Chừng nào anh ta chưa trở
nên đủ béo, không ích gì mà làm súp anh ta. Điều đó đã cho anh ta đủ thời gian,
nhưng trong khi đó anh ta phải ăn thịt người, xương thịt người, và anh ta bảo
tôi, "Tôi ghét phải thú nhận điều đó, nhưng tôi không thể cưỡng lại việc
nói cho ông sự thực: nó là thứ ngon ngất trên thế giới."
Chỉ bởi vì
nó là ngon, bạn sẽ bắt đầu ăn con người sao?
Chỉ bởi vì
nó là ngon, bạn đã từng ăn đủ mọi loại con vật - đó là điều Kinh Thánh cho phép
bạn - chim trên trời, cá dưới nước, con vật trong rừng. Bạn là vua duy nhất của
toàn thể tự nhiên này: chinh phục, ăn, tận hưởng. Chỉ tiêu diệt con vật...!
Chung cuộc, con người phải bắt đầu ăn quả nữa vì không có đủ con vật.
Đã có một
giai đoạn khi con người là thợ săn. Đã không có định cư, mọi người liên tục di
chuyển tới bất kì chỗ nào con vật di chuyển. Con vật trốn khỏi con người. Nhưng
khi họ thấy khan hiếm con vật họ bắt đầu ăn quả, họ bắt đầu gieo trồng. Để gieo
trồng họ phải chặt cây - những cây mọc trong hai trăm năm hay ba trăm năm. Có
những cây mất bốn nghìn năm để lớn lên. Họ tiêu diệt những loài đẹp đó mãi mãi.
Và họ tiếp tục tạo ra ngày càng nhiều dân, và nhu cầu về nhiều đất hơn buộc họ
chặt nhiều cây hơn. Không có cây tầng ô xi trên trái đất đã tụt xuống rất nhiều.
Chúng ta đang sống ở mức tối thiểu.
Có những thảm
hoạ kì lạ mà sẽ được gọi là "tự nhiên," nhưng chúng không tự nhiên.
Chẳng hạn, ở Nepal - nó là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới - họ
đã bán cây của họ cho Liên Xô. Hàng triệu cây đã bị chặt, và hợp đồng vẫn còn
không bị động đến cho ba mươi năm tới. Liên Xô không dùng rìu để chặt cây, nó
có công nghệ rất tinh tế. Trong một ngày nó có thể chặt cả nghìn cây. Trong
vòng vài giây, cây mà đã mọc trong ba trăm năm sẽ đổ xuống. Toàn thể Himalayas
bao quanh Nepal đã trở thành trụi tán lá, và bởi vì điều đó... Sông Hằng thường
chảy chậm vì có nhiều cây thế; chúng là một loại cản trở. Sông Hằng đang dần dần,
dần dần, dần dần gặp đại dương ở Bangladesh. Bây giờ không có cây, lụt tới với
tốc độ vô cùng tới mức năm nay ba phần tư Bangladesh bị lụt. Nó cũng là một nước
nghèo. Hàng triệu người chết. Hàng triệu nhà đơn giản bị quét vào đại dương.
Bây giờ,
Bangladesh không thể làm được bất kì cái gì, và nếu bạn hỏi Nepal, nhà vua nói,
"Dân của tôi nghèo thế. Chúng tôi không có bất kì cái gì để bán. Chúng tôi
chỉ có cây, và tôi phải nuôi dân tôi. Điều xảy ra cho Bangladesh không phải là
vấn đề của tôi."
Năm sau, có
lẽ toàn thể Bangladesh sẽ đi vào đại dương. Và Nepal có thể sống bằng việc bán
cây được bao lâu? Trong ba mươi năm Liên Xô sẽ lấy mọi cây từ Nepal. Thế rồi một
nguy hiểm lớn kéo đến: nếu băng vĩnh hằng của Himalayas bắt đầu tan ra. Cây đã
che bóng cho tuyết khỏi ánh mặt trời - cây dầy, cây lớn - và tuyết trong
Himalayas đã không bao giờ tan ra, nó đã ở đó từ vĩnh hằng. Nhưng bây giờ có cơ
hội bạn sẽ thấy lụt mênh mông - và không con thuyền của Noah nào là sẵn có thêm
nữa.
Nếu
Himalayas tan chảy, mọi đại dương khắp thế giới sẽ dâng lên một mét hai. Bombay
sẽ nhấn bị chìm, New York sẽ bị nhấn chìm; chúng tất cả sẽ thành đại dương. Ô
tô sẽ không còn giúp ích gì - chỉ thuyền. Bạn không thể sống còn nếu mọi đại
dương dâng lên cao hơn mét hai - và bạn sẽ gọi nó là thảm hoạ "tự
nhiên"...?
Tôi không gọi
nó là thảm hoạ tự nhiên. Tôi gọi nó là thảm hoạ con người chế ra.
Những người
lãnh đạo tôn giáo đã không làm bất kì cái gì để ngăn cản mọi thảm hoạ này. Dân
số liên tục tăng; đất đai trở nên ngày càng nghèo hơn vì chúng đã bị trồng trọt
trong hàng nghìn năm và chúng đã không được nuôi dưỡng.
Tôi bảo bạn
rằng chỉ vào đầu thế kỉ này, chín đứa trẻ đã chết trong mười đứa sinh ra. Bây
giờ tình huống là chính là đối lập: một đứa trẻ chết trong số mười đứa sinh ra,
chín đứa trẻ tiếp tục sống, vì các tiện nghi y tế. Chúng ta đã làm rồi toàn thể
sinh thái của trái đất.
Ai chịu
trách nhiệm?
Chắc chắn
người tôn giáo, người đáng phải cảnh báo cho nhân loại đừng tăng dân số nữa...
nhưng tất cả họ đều thiên về nhiều dân hơn. Ngay cả những người đứng đầu tôn
giáo Ấn Độ cũng đang chống lại kiểm soát dân số, vì họ cần ngày càng nhiều
thành viên trong các tổ chức của họ, trong nhà thờ của họ. Họ không quan tâm
chút nào về toàn thể hành tinh trái đất đang bị phá huỷ bởi bàn tay của chúng
ta. Và cái gọi là những người tôn giáo này là toán tội phạm nói dối thế.
Mới hôm nay
tôi đã nhận được sơ đồ sinh của tôi từ một tờ báo, Veer Arjun. Nhà chiêm tinh
là K. A. Dube Padmesh. Từ đâu người này có được nó? Tôi không biết sơ đồ sinh
riêng của tôi. Không ai biết sơ đồ sinh của tôi. Nó chưa bao giờ được làm ra.
Tôi đã được sinh ra trong một làng nhỏ thế nơi không có sân bay, không ga xe lửa,
không xe bus nào tới làng, không đường xá - chỉ hai trăm dân làng chất phác sống.
Không có bất kì nhà chiêm tinh nào làm sơ đồ sinh của tôi. Từ đâu mà những cái
gọi là người tôn giáo này...?
Chiêm tinh
là một phần của tôn giáo Hindu. Từ tưởng tượng riêng của họ, họ xoay xở làm ra
sơ đồ của tôi. Tôi đã bắt gặp nhiều sơ đồ - trong ba mươi năm này tôi đã bắt gặp
ít nhất hai tá sơ đồ sinh. Chúng được các nhà chiêm tinh bịa ra - tôi không biết
từ đâu - và thế rồi họ diễn giải chúng. Họ phát minh ra sơ đồ và thế rồi họ diễn
giải sơ đồ. Họ thậm chí không hỏi tôi. Tôi không có sơ đồ sinh.
Nhưng nói dối
đã xuyên vào những người tôn giáo sâu và nền tảng thế... Những ngôi sao lớn có
liên quan gì tới người bình thường như tôi? Mọi sao này đang quyết định số mệnh
của tôi sao? Tôi không phải là con rối.
Một lần chuyện
xảy ra ở Jaipur, thủ phủ của Rajasthan... Họ có một nhà chiêm tinh rất nổi tiếng
- nhà chiêm tinh cho vua của Rajasthan. Tôi đã ở cùng với nhà vua. Ông ấy triệu
nhà chiêm tinh tới, vì tôi không có sơ đồ sinh. Nhà chiêm tinh nói, "Không
có vấn đề gì. Tôi sẽ đọc tay ông."
Nhà vua bảo
tôi, "Đây là một người rất đắt, nhưng tôi sẽ trả tiền, đừng lo nghĩ."
Tôi nói,
"Không. Cứ để nó cho tôi. Đừng can thiệp, chỉ giữ yên tĩnh thôi."
Ông ấy thường
tính một nghìn ru pi cho một lần đọc. Ông ấy làm việc đọc và thế rồi ông ấy chờ
một nghìn ru pi.
Tôi nói,
"Ông là người vĩ đại về dự đoán. Ông biết mọi thứ, nhưng ông không biết
tôi sẽ không trả tiền!"
Ông ấy nói,
"Cái gì?"
Tôi nói,
"Vâng, ông làm phí thời gian của tôi. Ông phải trả tiền cho tôi."
Ông ấy nói,
"Thế này thì quá thể. Nếu ông không muốn trả tiền thì cũng được, tôi sẽ
đi. Nhưng ông đang đòi tôi trả tiền...?"
Tôi nói,
"Ông đã giữ tay tôi. Tôi không cho phép bất kì người nào giữ tay tôi. Ông
đã nói điều vô nghĩa và làm phí thời gian của tôi."
Tôi bảo nhà
vua của Rajasthan, "Bảo người này ông ấy phải đặt một nghìn ru pi ra
đây."
Nhà vua nói,
"Ông ấy là một brahmin nghèo. Tôi sẽ đưa ông một nghìn ru pi."
Tôi nói,
"Không thành vấn đề. Vì tiền là tiền... ông để một nghìn ru pi ở
đây."
Nhà vua phải
để một nghìn ru pi. Tôi trả nó lại cho ông ấy. Tôi nói, "Tôi không cần nó
cho lúc này. Thỉnh thoảng tôi có thể cần nó - với lãi suất. Ông triệu kẻ ngốc
này tới và ông bảo tôi, `Ông ấy là nhà chiêm tinh vĩ đại trong vương quốc của
tôi...'"
Nhưng tôn
giáo đã từng dối trá theo đủ mọi cách có thể, khai thác mọi người theo mọi cách
có thể. Chừng nào tôn giáo chưa chết, tính tôn giáo đích thực thực sự không thể
được sinh ra.
Một chút ít
lưu ý tiểu sử trước khi tôi nói về kinh Maneesha đã mang tới. Những kinh này
thuộc về thế giới của Thiền. Với tôi, Thiền là tính tôn giáo đích thực duy nhất.
Nó chẳng liên quan gì tới Phật giáo, nó chẳng liên quan gì tới Đạo giáo. Thực
ra nó là việc nổi dậy chống lại các truyền thống Phật giáo và Đạo giáo. Nhưng
nó đã mang thông điệp tinh tuý của Phật. Nó đã cắt bỏ mọi thứ là bình luận đơn
thuần. Nó đã cắt đi mọi rác rưởi khỏi con đường. Nó là chính tinh tuý của kinh
nghiệm của Phật - và điều đó cũng là kinh nghiệm của Lão Tử, của Đạo.
Thiền lát đường
cho nhân loại tương lai của một tính tôn giáo.
Thiền là
vàng đích thực bắt nguồn từ toàn thể quá khứ nhân loại.
Tình yêu của
tôi cho nó không phải là vô ích.
Tôi đang cố
giúp bạn hiểu Thiền với một chủ định đặc biệt - vì bạn sẽ là con người mới, bạn
sẽ tạo ra nhân loại mới, thế giới mới, điều đang phát triển thực chất hướng tới
Phật tính.
Phật là
không liên quan gì tới Phật Gautam; Phật là chính bản tính của bạn. Nó ngụ ý,
việc thức tỉnh. Bạn vô ý thức. Sâu bên dưới ý thức của bạn có ẩn kín ngọn lửa của
nhận biết, tỉnh táo. Ngọn lửa đó là Phật-pháp, cái đó là chính bản tính của bạn.
Bạn không phải đi bất kì chỗ nào để tìm ra nó, bạn phải đi vào trong. Không nhà
thờ, không tổ chức, không tôn giáo... chỉ phẩm chất về tính tôn giáo.
Và phẩm chất
về tính tôn giáo là gì? Phẩm chất về tính tôn giáo là được định tâm trong con
người chứng kiến của bạn. Từ việc chứng kiến đó nhận biết lớn nảy sinh trong bạn;
mùa xuân tới với cuộc đời bạn và hàng nghìn hoa của từ bi, của yêu, của phúc lạc.
Khắp xung quanh hương thơm của điều tối thượng bao quanh bạn.
Đây là lưu ý
tiểu sử nhỏ về Fuketsu, một Thiền sư.
Fuketsu
(sinh năm 896 và chết năm 973) đầu tiên học kinh điển Khổng Tử.
Khổng Tử
không phải là người tôn giáo, Khổng Tử chỉ là nhà đạo đức. Khổng Tử chỉ tương
đương như Karl Marx. Không phải là trùng hợp ngẫu nhiên mà Trung Quốc đã biến
thành nước cộng sản, vì ý thức hệ Khổng Tử đã lát đường. Mọi vấn đề đó là cách
xử sự đúng, đạo đức đúng, xã giao đúng; không nhắc tới tâm linh, chỉ hành vi xã
hội, không nhắc tới chiều sâu cá nhân của bạn. Khổng Tử là một trong những người
gây lẫn lộn nhất mà đã được sinh ra trên thế giới.
Fuketsu đầu
tiên học kinh điển Khổng Tử, rồi trở thành sư. Về sau ông ấy học từ Kính Thanh,
đệ tử của Tuyết Phong, và rồi chung cuộc ông ấy đi tới Nan In - một trong những
Thiền sư vĩ đại nhất - qua ông này ông ấy đã nhận ra chứng ngộ của mình.
Học kinh điển
Khổng Tử, ông ấy phải đã hiểu rằng Khổng Tử chỉ xử trí với thế giới bên ngoài,
xã hội, cách cư xử xã hội. "Đây không phải là tìm kiếm của mình; mình muốn
biết bản thân mình. Mình muốn biết con người mình là gì, rễ của mình được kết nối
với càn khôn theo cách nào; sự sống của mình tới từ đâu, và nó đi tới đâu; liệu
có cái gì nhiều hơn thân thể và vật liệu tạo nên hệ thống thân-tâm không, hay
không có gì ngoại trừ thân thể này, cái sẽ được đặt lên dàn hoả thiêu, hay
trong nấm mồ, và sẽ phân rã thành đất, thành các yếu tố cơ bản của nó."
Tôi nhớ tới
một đệ tử của Khổng Tử. Ông ấy đã hỏi Khổng Tử, "Tôi đã nghe nói nhiều thế
về Lão Tử..." Họ là đương đại. Đôi khi chuyện xảy ra gần như phản ứng dây
chuyền...
Ở Trung Quốc
đã có Khổng Tử, nhà tư tưởng lớn nhưng duy vật; Lão Tử, vị Phật lớn; Trang Tử,
Liệt Tử. Ở Ấn Độ đã có Phật Gautam, Mahavira, và sáu người khác có kinh sách đã
bị người Hindu đốt, có tượng đã bị phá huỷ; chỉ tên của họ vẫn còn trong lời của
Phật, hay trong lời của Mahavira. Đồng thời, ở Hi Lạp đã có Socrates,
Heraclitus, Dionysius, Diogenes. Đột nhiên toàn thế giới được bắt lửa với cái
nhìn sáng suốt mới.
Đệ tử của Khổng
Tử đã hỏi ông ấy, "Thầy phải đã nghe nói về Lão Tử. Ông ấy nói về không
gian bên trong nơi chỉ có an bình và không cái gì khác, hoàn toàn im lặng và
không rối loạn. Thầy sẽ dạy cho tôi cách đi vào bên trong chứ?"
Khổng Tử rất
giận. Ông ta nói, "Dừng mọi điều vô nghĩa này lại. Học đạo đức, đức hạnh,
tránh tội lỗi, cư xử như quân tử. Học cách cư xử của xã hội. Khi có liên quan tới
thế giới bên trong của ông, khi ông chết ông sẽ có vĩnh hằng thời gian cho cái
đó trong nấm mồ. Ông có thể tìm kiếm và thiền và tìm ra cái gì ở bên trong.
Nhưng ngay bây giờ, đừng phí thời gian của ta." Đó là thái độ của ông ấy.
Nhưng, dần dần,
nhiều người nói về Lão Tử. Chung cuộc Khổng Tử thu lấy dũng cảm. Ông ta rất sợ,
vì chuyện kể rằng ông ta đã nghe nói về Lão Tử là người kì lạ thế: "Người
này có thể làm bất kì cái gì. Ông ấy cưỡi trâu, ngồi quay mặt ra sau - một gã
nguy hiểm."
Nhưng ông ta
càng muốn né tránh ông ấy, ông ta càng trở nên quan tâm hơn. Đó là cách tâm trí
con người vận hành. Bất kì cái gì bạn muốn né tránh bạn sẽ bắt gặp lặp đi lặp lại.
Bạn sẽ trở nên bị bỏ bùa. Chung cuộc ông ta quyết định gặp ông ấy.
Lão Tử không
ở xa xôi gì, ngay bên ngoài kinh thành trên núi trong hang. Khổng Tử đi tới đó.
Ông ấy bảo các đệ tử, những người đi theo ông ấy, dừng lại bên ngoài hang, vì
ông ấy sợ: "Người kia có thể làm bất kì cái gì. Ông ấy có thể đánh mình,
và mình không muốn các đệ tử của mình thấy điều xảy ra cho mình." Ông ta
nói, "Ta sẽ kể cho các ông. Trước hết để ta đi và đương đầu với người
đó."
Lão Tử đang
ngồi trong hang sâu trong bóng tối, rất im lặng. Ông ấy chẳng bận tâm chút nào
rằng Khổng Tử đã tới. Ông ấy chẳng nói lời chào Khổng Tử, ông ấy không nói,
"Mời ông ngồi." Ông ấy chẳng chú ý gì.
Khổng Tử
nói, "Điều này thực lạ. Ít nhất ông phải cư xử như quân tử chứ."
Lão Tử nói,
"Tôi nghĩ rằng ông chắc không có can đảm đi vào trong hang của tôi. Ở đây
chúng tôi không dạy đạo đức hay hạnh quân tử. Ở đây chúng tôi dạy cách chết và
được phục sinh. Ông có sẵn sàng không?" - vừa nhìn vào trong mắt ông ta -
và Lão Tử rút kiếm ra.
Khổng Tử
nói, "Xin tha thứ cho tôi. Tôi sẽ không bao giờ tới hang của ông nữa!"
- vừa vã mồ hôi, và hang lại rất mát.
Ông ta bước
ra và ông ta bảo các đệ tử, "Người này là nguy hiểm. Ông ấy là con rồng.
Ông ấy chắc đã giết ta mất." Ông ta đã không hiểu Lão Tử chút nào. Ông ấy
đã không nói về cái chết thường, ông ấy đã nói về cái chết của bản ngã. Và chừng
nào bản ngã chưa chết, bạn không là cái ngã đích thực của bạn, bạn không là mặt
nguyên bản của bạn. Khổng Tử đã bỏ lỡ.
Fuketsu phải
đã hiểu rằng "Những kinh điển này sẽ không giúp cho mình." Ông ấy đã
bỏ Khổng Tử và trở thành sư.
Nhưng trở
thành sư, tôn thờ tượng và làm nghi lễ, cũng không giúp được gì. Tượng là ở bên
ngoài bạn cũng như bất kì người nào khác; nó không dẫn bạn vào trong. Mọi lời cầu
nguyện của bạn, mọi nghi lễ của bạn đều dựa trên một dối trá nền tảng: sự tồn tại
của Thượng đế.
Chung cuộc
ông ấy trở nên thất vọng với việc là sư nữa. Ông ấy tới Kính Thanh, một Thiền
sư, đệ tử của Tuyết Phong, một Thiền sư lớn khác.
Kính Thanh bảo
ông ấy, "Nan In vẫn còn sống. Khi Phật lớn vẫn còn sống, sao bận tâm về những
người nhỏ bé như ta? Ta có thể dạy ông, ta có thể giúp ông, nhưng việc giúp đầu
tiên của ta là: đi tới Nan In. Ta chỉ là cái ao nhỏ, ông ấy là chính đại dương.
Ông không thể thấy bờ bên kia."
Đây là cái đẹp
của Thiền. Không tôn giáo nào khác sẽ cho bất kì người nào đi sang thầy khác.
Có xung đột, ganh đua. Mọi người đều muốn là người vĩ đại nhất. Nếu ai đó mà tới,
ông ta sẽ vồ lấy anh ta, ông ta sẽ không cho phép anh ta đi bất kì chỗ nào
khác. Ông ta sẽ nhận lời hứa: "Tôi buông xuôi theo thầy."
Thiền không
bao giờ muốn bất kì người nào buông xuôi. Không có hợp đồng!
Từ tự do của
bạn, bạn tới.
Từ tự do của
bạn, bạn học.
Từ tự do của
bạn, bạn trưởng thành.
Từ tự do của
bạn sẽ xảy ra chứng ngộ của bạn. Điều này không phải là ngoại lệ, nó gần như là
qui luật. Nếu thầy nhìn vào mắt của đệ tử, thầy có thể thấy ai sẽ là thầy đúng
cho người này, và thầy sẽ chỉ anh ta tới người đúng này.
Và khi một
người như Nan In còn sống, tại sao không nắm lấy cơ may và cơ hội này? Điều đó
rất hiếm khi xảy ra qua các thế kỉ. Các thế kỉ trôi qua, chỉ thế bạn mới bắt gặp
một người như Nan In.
Cho nên ông ấy
đi tới Nan In, qua ông này ông ấy đã nhận ra chứng ngộ của mình.
Đây chỉ là
ghi chú tiểu sử về Fuketsu.
Ông ấy ở với
Nan In trong sáu năm, và thế rồi trở thành sư trụ trì ngôi chùa trên núi
Fuketsu, ông ấy vẫn còn ở đây trong bẩy năm.
Điều đã là
truyền thống trong quá khứ ở Nhật Bản: nếu một thầy làm chùa trên núi, và ông ấy
đã chứng ngộ, hoàng đế sẽ đặt tên cho ngọn núi theo tên của thầy. Vì Fuketsu đã
làm ra thiền viện mới, việc khai trương mới, không gian mới cho những người tìm
kiếm tới, hoàng đế Nhật Bản đã đặt tên cho núi này là Fuketsu.
Ông ấy là
cháu của Lâm tế trong dòng truyền thừa pháp.
Lời kinh:
Thưa thầy
kính yêu của chúng tôi,
Một lần, một
sư hỏi Fuketsu, "Phật là cái gì?"
Fuketsu đáp,
"Trúc đụng núi Jorin."
Bạn sẽ ngạc
nhiên bởi câu trả lời này, nhưng điều ông ấy nói không đích xác là điều ông ấy
ngụ ý. Khi ông ấy nói, "Trúc đụng núi Jorin" - Núi Jorin ở ngay trước
Núi Fuketsu - vào khoảnh khắc đó một làn gió nhẹ phải đã thổi qua rặng trúc
trên núi Jorin và trúc phải đã gây ra tiếng động, đập vào nhau, nhảy múa trong
gió, trong ánh mặt trời.
Vào khoảnh
khắc này, Fuketsu được một sư hỏi,
"Phật
là cái gì?"
Fuketsu đáp,
"Chính khoảnh khắc này... tỉnh táo và nhận biết chính khoảnh khắc này là
việc là Phật.
Cứ nhìn trúc
đụng nhau trên Núi Jorin mà xem..."
Thiền chỉ
tin cậy vào khoảnh khắc này. Thiền không thể nói về Phật Gautam nào đó từ hàng
trăm năm quá khứ. Khi chư phật trúc đang nhảy múa trong không trung, tạo ra tiếng
ồn mở hội lớn, điều đó là đủ chỉ ra thực tại, khoảnh khắc này. Đó là thông điệp
tinh tuý của Phật: sống trong khoảnh khắc này, không bao giờ trong quá khứ,
không bao giờ trong tương lai. Sống trong khoảnh khắc này... và bạn đã trở
thành vị Phật. Ở đây và bây giờ, và bạn là vị Phật.
Thế rồi sư
khác hỏi, "Phật là cái gì?"
Fuketsu nói,
"Chúng ta biết mọi khúc uốn lượn của suối núi, nhưng không biết bản thân
núi," bởi vì ông này đã không hiểu điều đang diễn ra. Người này đang hỏi,
"Phật là cái gì?" - và bạn đang nói về trúc.
Cho nên sư
khác lại hỏi,
" Phật
là cái gì?"
Fuketsu trả
lời, "Phật không là cái gì?"
Đây là câu
trả lời mênh mông:
"Phật
không là cái gì?"
Phật là
chính bản tính của sự tồn tại. Từ nhành lá nhỏ nhất tới ngôi sao lớn nhất, mọi
thứ về bản chất, về tiêm năng, là vị Phật.
Một số Phật
đang ngủ, không có hại gì trong điều đó.
Một số Phật
đã thức tỉnh, không có vinh quang gì trong điều đó.
Chỉ chăm
chú, khi bạn là vị Phật đang ngủ - không ngáy, vì điều đó làm chư Phật ngủ khác
bị rối. Không quấy rối bất kì người nào, không can thiệp vào lãnh thổ của bất
kì người nào - đó là đức hạnh duy nhất tôi biết.
Không có mấy
khác biệt... tôi đã ngủ hôm qua, hôm nay tôi thức. Hôm nay bạn ngủ, ngày mai bạn
có thể thức - hay có thể hôm nay.
Phật là bản
tính thực của chúng ta, do đó Fuketsu đã nêu ra một phát biểu quan trọng nhất:
"Phật
không là cái gì? Ông nói cho ta đi.
"Ông hỏi
ta, Phật là cái gì? Ông có điên không? Bản thân sự sống là Phật. Bản thân sự tồn
tại là Phật."
Vâng, chư Phật
được thấy trong hai phân loại: vài người đang ngủ, có thể mệt mỏi, mệt của nhiều
nhiều vòng đời, nhiều nhiều việc sinh, nhiều nhiều việc chết, đang nghỉ. Nhưng
vài người đã nghỉ đủ rồi. Họ mệt vì nghỉ, cho nên họ thức dậy. Nhưng không có
khác biệt bản chất: Phật thức, Phật ngủ - cả hai đều là Phật.
Ngủ không thể
làm rối bản tính của bạn, mà thức cũng không thể nâng cao bản tính của bạn.
Vâng, ngủ bạn không biết bạn là ai; thức, không chỉ bạn biết bạn là ai, bạn biết
toàn thể sự tồn tại, phẩm chất thực của nó - phẩm chất của Phật tính. Một khi bạn
trở thành phật, đột nhiên toàn thể sự tồn tại là ngọn lửa nhận biết.
Câu trả lời
của Fuketsu là vĩ đại:
"Phật
không là cái gì?"
Sư thứ ba
nói với Fuketsu, "Tổ phương tây tới mang theo thông điệp của ông ấy; tôi
xin thầy nói thẳng nó cho tôi!"
Một dịp khác
một sư hỏi, "Nghĩa của việc Bồ đề đạt ma tới từ phương tây là gì?"
Ông ấy đang hỏi về Bồ đề đạt ma. Đó là câu hỏi thường xuyên trong thế giới Thiền:
Tại sao Bồ đề đạt ma đã từ Ấn Độ tới Trung Quốc? Thông điệp của ông ấy là gì?
Tại điểm
này, Fuketsu đáp, "Khi một con chó sủa vào hư không, cả nghìn con khỉ thực
sự nhe răng ra."
Câu trả lời
kì lạ, nhưng có ý nghĩa. Ông ấy đang nói, "Tại sao ông bận tâm về những điều
này? Bồ đề đạt ma tới Trung Quốc để sủa!"
Mọi chư Phật
đang làm đích xác điều đó: sủa vào người đang ngủ. Người đang ngủ ngụ ý khỉ.
"Khi một
con chó sủa vào hư không..."
Bạn phải đã
thấy cho sủa vào hư không - chư Phật lớn! Thông điệp duy nhất của Phật là hư
không, hay, nói thẳng hơn, không tính đồ vật. Bạn không là đồ vật, bạn không là
món hàng. Bạn ở bên ngoài tính đồ vật. Bạn là ánh sáng lên bản thân bạn.
" Khi một
con chó sủa vào hư không..."
Nhớ rõ ràng
rằng Thiền chấp nhận rằng chó có bản tính Phật cũng như bạn có. Mọi sinh
linh... chính sự sống về bản chất đang che giấu vị Phật trong bản thân nó.
"Khi một
con chó sủa vào hư không, cả nghìn con khỉ thực sự nhe răng ra."
Khi một Bồ đề
đạt ma tới Trung Quốc và sủa, cả nghìn con khỉ trở thành Phật tử - nhưng họ đã
không hiểu thông điệp này. Họ đã cười vào việc sủa của Bồ đề đạt ma vào hư
không; họ thích thú. Với họ, giải trí là chứng ngộ. Khỉ sau rốt vẫn là khỉ.
Nhưng điều
ông ấy đang nói, ông ấy đang nói về nhân loại. Nếu bạn không là Phật, quên mọi
điều về nhân loại đi. Tất nhiên bạn có thân thể của con người, nhưng bên trong,
nhìn vào tâm trí bạn - nó là con khỉ.
Chỉ Phật dừng
con khỉ hoàn toàn. Chỉ Phật sống trong vô trí. Và vô trí làm cho bạn thành người
đích thực, sự tồn tại đích thực, bộ phận đích thực của càn khôn, của vĩnh hằng.
Bạn biến mất trong đại dương của sự tồn tại, và đó là phúc lành lớn nhất, cực lạc
lớn nhất.
Một dịp khác
một sư hỏi, "Nghĩa của việc Bồ đề đạt ma tới từ phương tây là gì?"
Cùng câu hỏi.
Fuketsu nói,
"Chúng ta biết mọi khúc uốn lượn của suối núi, nhưng không biết bản thân
núi."
Bạn phải chú
ý tới sự kiện này. Bạn có thể đặt cùng câu hỏi cho cùng thầy lặp đi lặp lại,
nhưng bạn sẽ không bao giờ nhận được cùng câu trả lời lần nữa. Thầy đáp ứng với
khoảnh khắc một cách tự phát, thầy không lặp lại từ kí ức. Đáp ứng của thầy là
thuần khiết thế...
Mọi thứ liên
tục thay đổi, nhưng phản ứng của bạn vẫn còn như cũ. Đáp ứng liên tục thay đổi
cùng với luồng thay đổi của sự tồn tại.
Thầy không
bao giờ phản ứng, thầy chỉ đáp ứng.
Cho nên câu
hỏi vẫn là như cũ, nhưng câu trả lời của Fuketsu là khác toàn bộ.
Ông ấy nói,
"Chúng
ta biết mọi khúc uốn lượn của suối núi..."
Ông ấy đang
ngồi trên Núi Fuketsu, và dòng suối núi đang uốn lượn quanh núi. Nó là khoảnh
khắc hiện tại. Ông ấy chỉ cho người hỏi,
"Chúng
ta biết mọi khúc uốn lượn của suối núi, nhưng không biết bản thân núi."
Để biết núi
bạn sẽ phải trở thành núi. Để biết Bồ đề đạt ma bạn sẽ phải trở thành một Bồ đề
đạt ma. Không có cách khác.
Để biết Phật
bạn phải trở thành Phật. Là Phật tử, bạn đang như khỉ, bạn đang bắt chước. Khỉ
rất giỏi khi có liên quan tới bắt chước.
Mọi cái gọi
là tôn giáo đều đầy khỉ.
Người Ki tô
giáo đang lặp lại Jesus; kinh điển nổi tiếng của họ là bắt chước Christ. Không
ai nghĩ rằng `bắt chước' là từ xấu. Nó là một kinh điển rất được yêu mến của Ki
tô giáo.
Các Phật tử
đang cố gắng - bắt chước - là Phật. Nhưng bằng bắt chước bạn có thể hành động
như Phật, nhưng bạn không thể là Phật.
Nếu bạn muốn
là Phật, quên mọi điều về chư Phật và Christ và Krishna đi. Chỉ là bản thân bạn,
đi vào trong bản thân bạn, và bạn sẽ thấy Phật - không bởi việc là Phật tử,
nhưng bởi chỉ tìm ra tính đích thực của bạn, trung tâm bên trong nhất của bạn.
Đừng là khỉ bao giờ.
Tôi nhớ tới
một câu chuyện hay.
Một người
thường bán các mũ Gandhi. Đặc biệt vào lúc bầu cử ở Ấn Độ, mũ Gandhi được cần rất
nhiều. Mọi người đều muốn chứng tỏ rằng mình là người theo Gandhi. Mũ Gandhi giống
như cờ, biểu lộ cho mọi người rằng "Tôi là người theo Gandhi. Bỏ phiếu cho
tôi."
Một người
thường làm mũ Gandhi cho thời gian bầu cử, và anh ta thường đi từ chợ để tiếp
thị bán mũ. Đó là kinh doanh hời. Mũ đang có nhu cầu lớn.
Một hôm, anh
ta mệt mỏi quay về nhà. Bản thân anh ta đang đội mũ Gandhi, và trong túi của
mình anh ta vẫn còn nhiều mũ. Anh ta đã nghĩ đi sang chợ khác, nhưng anh ta mệt
tới mức dưới một gốc cây bồ đề lớn, cùng cây dưới đó Phật đã trở nên chứng ngộ...
Đó là lí do tại sao cây đó được gọi là cây bồ đề. Nó được đặt tên theo Phật. Bồ
đề ngụ ý chứng ngộ.
Nó là một
cây kì lạ trong mọi cây; nó có thể mọc sum suê như bạn muốn. Các cành của nó
sau khi đạt chiều dài nào đó trở nên nặng tới mức chúng rủ xuống. Vì trọng lượng
của chúng là lớn thế, để bảo vệ bản thân chúng, các cành mọc các rễ mới xuống đất.
Khi rễ mới đạt tới đất, chúng có giá đỡ mới. Và từng cành liên tục mọc các rễ mới,
cho nên có cây bồ đề khổng lồ.
Một cây tồn
tại ở Adyar tại tổng hành dinh thế giới của phong trào thông thiên học. Nó khổng
lồ tới mức mười nghìn người có thể ngồi dưới nó. Những người thông thiên học
thường tổ chức các cuộc họp của họ dưới cây bồ đề này.
Người này đã
không nhìn vào cây, nhưng nó đầy khỉ. Anh ta mệt thế, anh ta chỉ để túi bên cạng
mình và đi vào giấc ngủ. Lũ khỉ quan sát. Chúng không thể cưỡng được cám dỗ lấy
mũ Gandhi. Chúng tới gần hơn và chúng thấy rằng người này đã ngủ say, cho nên
chúng kéo túi mở ra. Mỗi con khỉ lấy một cái mũ; chỉ một con khỉ không còn mũ.
Khi người
này đã nghỉ ngơi xong, anh ta nhìn xung quanh. Túi của anh ta trống rỗng, và
anh ta không thể thấy có người nào. Thế rồi bọn khỉ bắt đầu cười khúc khích.
Anh ta nhìn lên. Anh ta nói, "Trời! Nhiều người theo Gandhi thế! Giờ làm
gì đây?" Thế rồi đột nhiên anh ta nhớ rằng khỉ là kẻ bắt chước. Thế là anh
ta cởi mũ ra và ném xuống đất. Tất cả lũ khỉ cởi mũ ra và ném xuống đất. Anh ta
thu thập mũ và trở về nhà.
Năm sau anh
ta cảm thấy ốm vào lúc bầu cử. Anh ta đã chuẩn bị mũ cho nên anh ta bảo con
trai mình đi ra chợ: "Nhưng nhớ một điều. Có một cây bồ đề rất khổng lồ với
đầy khỉ. Và bóng của nó thì mát thế... sau nhiều dặm đường đi bộ, người ta cảm
thấy muốn nghỉ. Cho nên bố kể cho con kinh nghiệm của bố, bằng không con sẽ gặp
rắc rối. Nếu điều đó xảy ra cho con, nhớ, đừng lo nghĩ: khỉ là kẻ bắt chước.
"Nếu
con muốn ngủ, đi ngủ. Nếu khỉ lấy mũ, cứ để chúng thích thú một chốc. Khi con
thức dậy, đừng lo nghĩ, chỉ ném mũ của con xuống và chúng tất cả sẽ ném mũ xuống.
Thu thập lấy mũ và về nhà."
Cậu con trai
nói, "Hay đấy." Thực ra, cậu đang trông đợi tận hưởng khoảng khắc thú
vị này.
Trước khi đi
tới chợ - người bố đã nghỉ khi ông ấy quay về - cậu con nghĩ, "Sao không
nghỉ bây giờ và tận hưởng và thế rồi đi ra chợ?" Cho nên cùng với túi đầy,
anh ta đi ngủ. Lũ khỉ trèo xuống, và khi anh ta thức dậy chúng tất cả đều đã đội
mũ.
Cậu con trai
nhìn lên. Tất cả chúng cười khúc khích. Cậu con trai biết thủ đoạn này; cậu ném
mũ của mình xuống. Không con khỉ nào ném mũ của nó; ngược lại, một con khỉ mà
đã không lấy được mũ trèo xuống và lấy chiếc mũ của anh ta và trèo lên.
Không chỉ bố
của cậu con trai đã kể cho cậu ấy, lũ khỉ cũng đã được bố mẹ chúng kể cho,
"Nếu việc như vậy xảy ra, đừng bị lừa."
Ba Tiêu đã
viết:
Chuông chùa
lặng đi...
Bạn đã bao
giờ nghe tiếng chuông chùa lặng dần đi không? Âm thanh trở nên ngày càng nhỏ
hơn, hay tiếng vang trong thung lũng cứ lặng dần, và thế rồi im lặng lớn kéo tới,
lớn hơn nó đã vậy trước khi chuông ngân.
Chuông chùa
lặng đi.
Hương hoa
còn lại -
buổi tối
hoàn hảo!
Ba Tiêu viết
với bút pháp vàng thế.
Bạn có thể
thấy nó đích xác! Bạn có thể nghe thấy tiếng chuông ngân nga và lặng dần trong
im lặng sâu sắc. Bạn có thể thấy hoa nở vẫn còn lại, và hương thơm.
Im lặng làm
sâu sắc, hương thơm làm sâu sắc… buổi tối hoàn hảo.
Haiku là,
như tôi đã nói với các bạn, bức tranh bằng lời. Không vẽ ra, chỉ qua lời, bài
haiku vẽ ra bức tranh, bức tranh rất sống động. Với bức vẽ, tranh là chết. Nghệ
thuật lớn của nhà thơ bao gồm việc vẽ bức tranh mà sẽ còn sống mãi.
Chuông chùa
lặng đi. Hương hoa còn lại - buổi tối hoàn hảo!
Maneesha đã
hỏi một câu hỏi:
Thưa thầy
kính yêu của chúng tôi,
Chúng tôi có
được sinh ra với sức đẩy bên trong, bẩm sinh hướng tới tự nhận ra không?
Như một sự lựa
chọn, bản chất của chân lí có là tới mức nó hấp dẫn cái là của nó không? Hay có
động lực khác hoàn toàn đang chơi đùa liên quan đến chứng ngộ?
Maneesha, cả
hai điều vận hành cùng nhau.
Lực từ của
Phật tính của bạn kéo bạn vào trong, và khao khát được tạo ra từ thất vọng
trong cuộc sống làm cho bạn sẵn sàng tìm kiếm. Bạn đã nhìn khắp xung quanh và
đã không tìm thấy bất kì cái gì. Bạn đã từng khát, và khát, và khát, và mọi thứ
đã thất bại, mọi hứa hẹn đã bị tan vỡ.
Thế thì một
khoảnh khắc tới, bạn bắt đầu nhìn vào trong. "Bạn đã nhìn ra ngoài đủ rồi,
cứ cho một cơ hội cho cái bên trong đi" - ý tưởng đó nảy sinh một cách tự
động, và có Phật bẩm sinh của bạn kéo bạn. Và một khi bạn nhìn vào bên trong, cả
hai bắt đầu vận hành cùng nhau, đi gần hơn lẫn nhau. Một nửa đường chúng gặp gỡ.
Câu ngạn ngữ
Sufi là, "Nếu bạn lấy một bước hướng tới chân lí, chân lí lấy một nghìn bước
hướng tới bạn."
Không động lực
nào khác được cần. Mọi điều được cần là sự sáng tỏ về thất vọng trong thế giới
bên ngoài, và thông minh để nhắc bạn rằng bạn đã không tìm kiếm bên trong. Chỉ
hai cánh này là được cần. Cuộc truy hỏi khát khao, và Phật đang ngồi đó như lực
từ lớn kéo bạn hướng tới ông ấy và cũng đi gần hơn tới bạn. Việc gặp gỡ bao giờ
cũng là ở giữa.
Tôi giúp bạn
đi vào bên trong đi tìm trung tâm bên trong của bạn. Đó là trung tâm nơi bạn sẽ
gặp Phật. Ông ấy sẽ đi ra từ kho báu ẩn kín của con người bạn để đón chào bạn ở
cổng. Trung tâm của con người bạn là cổng của càn khôn.
Giờ là lúc
dành cho Sardar Gurudayal Singh. Thực ra, muộn rồi!
Cha Fungus
đã tích luỹ món nợ đánh bạc khổng lồ và cần một số tiền nhanh. Ông ấy có ý tưởng
chói lọi về giải quyết vấn đề của mình. Ông ấy nối dây điện khắp các chỗ ngồi
nhà thờ bằng điện.
Chủ nhật tiếp,
cha Fungus đang cao giọng trong giảng lễ thì ông ấy dừng lại và hô lên, "Tất
cả những người sẽ cho quĩ từ thiện của nhà thờ một trăm đô la, đứng dậy!"
Fungus chạm
vào nút và hai mươi người bật dậy trên chân họ.
"Tốt!"
cha Fungus nói. "Bây giờ, tất cả những người muốn cho năm trăm đô la, đứng
dậy!"
Ông ấy chạm
nút khác và hai mươi người nữa nhảy lên trên chân họ.
"Tuyệt
vời!" Fungus nói. "Bây giờ, tất cả những người sẽ cho một nghìn đô
la, đứng dậy!"
Ông ấy ném
khoá chủ, và mười lăm người Scot tới thăm bị sốc điện chết luôn!
Cha Fumble tới
thăm giáo dân Oregon trung tâm và đi tới trang trại của Sheep-Shaggers gần
Fossil. Ông ấy thấy bé Becky, con gái của Sheep-Shaggers, đang chơi trong sân
trước và đi tới tán chuyện.
"Chào
cháu," cha Fumble nói. "Bác có thể nói chuyện với bố cháu được
không?"
"Không,"
Becky đáp, vừa lắc đầu. "Bố trong tù vì quấy rầy con chiên."
"Thật
à?" cha Fumble kêu lên. "Thế thì bác có thể nói chuyện với mẹ cháu được
không?"
"Không,"
Becky đáp, vừa lắc đầu. "Mẹ cháu đã bị đưa tới trang trại vui đùa. Mẹ cháu
nói chuyện với con chiên."
"Thật
à?" Fumble kêu lên. "Thế thì bác có thể nói chuyện với anh cháu được
không?"
"Không,"
Becky đáp. "Anh ấy ở đại học."
"Tốt
quá!" Fumble kêu lên. "Anh ấy học cái gì?"
"Anh ấy
chẳng học gì cả," Becky đáp. "Họ đang nghiên cứu anh ấy!"
Muffin
Snuffler, người lau dọn Nhà Trắng, một hôm đang đánh bóng sàn trong Phòng bầu dục,
thì anh ta nhìn lên bức tranh George Washington và thấy đôi môi chuyển động.
Bị choáng và
hơi hoảng hồn, Muffin len vào gần bức tranh hơn và lắng nghe người anh hùng Mĩ
nói.
"Đem
cho tôi con ngựa!" Washington ra lệnh. "Tôi sẽ để đất nước này vào trật
tự!"
Muffin chạy
ra khỏi văn phòng và đâm sầm thẳng vào tổng thống George Bush. "Thưa tổng
thống," anh ta la lên, "bức tranh của George Washington vừa nói với
tôi!"
"Đừng
có ngốc!" Bush cắn cảu. "Tranh không nói!" Và ông ta bước vào
Phòng bầu dục và hướng về bức tranh. Những trước khi ông ta tiến tới nó, George
Washington lại nói, "Này, Muffin!" Washington kêu lên, "Tôi bảo
ông đem cho tôi con ngựa - không phải con lừa!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)
Nivedano...
(tiếng trống)
Im lặng...
Nhắm mắt lại...
Cảm thấy
thân thể bạn hoàn toàn bị đông cứng.
Đây là khoảnh
khắc đúng để nhìn vào trong, với toàn bộ sinh lực của bạn, với toàn bộ tâm thức
của bạn, và với sự khẩn thiết dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng của đời bạn.
Đi một cách
mạnh mẽ hướng tới trung tâm như mũi tên, xuyên qua mọi tầng của thân thể, tâm
trí, thể tinh tú.
Chỉ đi tới
trung tâm.
Khi bạn lại
gần trung tâm hơn, bạn gần với Phật hơn.
Khi bạn đi
sâu hơn vào trong bản thân bạn, bạn đang tiếp cận tới chính con người bạn.
Khoảnh khắc
bạn đạt tới trung tâm, cuộc gặp gỡ lớn xảy ra.
Bạn và Phật
hội nhập lẫn nhau, hệt như hai ánh sáng hội nhập vào nhau, và im lặng lớn giáng
xuống, và niềm vui vô cùng nảy sinh trong bạn.
Nhớ chỉ một
phẩm chất mà Phật có. Phẩm chất đó là việc chứng kiến.
Bất kì cái
gì đang xảy ra, chỉ là nhân chứng, không bị đồng nhất.
Bạn không là
thân thể, bạn không là tâm trí, bạn không là thể tinh tú.
Bạn không là
im lặng, bạn không là tất cả những hoa kia đang trút lên bạn.
Bạn chỉ là
nhân chứng.
Nhân chứng
là chính việc là vị Phật.
Tại khoảnh
khắc này tôi đang đối diện với mười nghìn chư Phật.
Nivedano...
(tiếng trống)
Giúp họ thảnh
thơi.
Nhưng nhớ chứng
kiến mọi thứ đang xảy ra bên trong bạn. Dần dần, bạn sẽ cảm thấy việc tan chảy
vô cùng trong đại dương tâm thức bao quanh bạn. Mười nghìn chư Phật đang tan chảy
trong đại dương tâm thức không gợn sóng nào.
Hân hoan,
yêu thương, đây là khoảnh khắc lớn lao nhất của đời bạn. Bạn là người được may
mắn nhất trên trái đất vào khoảnh khắc này.
Thu lấy thật
nhiều hương thơm của cái bên trong, thật nhiều hoa của cái vô hình, thật nhiều
nước cam lồ của cái vô hạn, của cái vĩnh hằng, thật nhiều điệu vũ của sự tồn tại
như có thể được.
Nivedano...
(tiếng trống)
Quay lại,
nhưng quay lại như chư Phật, với an bình, im lặng, duyên dáng lớn.
Ngồi xuống
trong vài khoảnh khắc chỉ để nhớ lại con đường vàng mà bạn đã đi qua. Và chỉ
quan sát: mọi ngày khoảng cách giữa bạn và Phật đang trở nên ngày càng ít hơn.
Ngày trung
tâm của bạn và chu vi của bạn trở thành một, ngày cuộc sống thường ngày của bạn
cũng là việc diễn đạt của Phật tính của bạn - lấy nước từ giếng, chẻ củi cho
mùa đông - bạn sẽ là Phật trong thiền của bạn, bạn sẽ là Phật trong mọi hoạt động
của bạn. Ngày đó sẽ là ngày vĩ đại nhất trong hàng triệu kiếp sống của bạn.
Ngày đó bạn sẽ được thức tỉnh khỏi cơn mê, khỏi giấc ngủ say lần đầu tiên.
Lần đầu tiên
bạn sẽ biết cái đẹp của sự tồn tại, chân lí của nó, sự huy hoàng của nó. Thế
thì mọi điều còn lại cho bạn là chia sẻ - chia sẻ niềm vui của bạn, cực lạc của
bạn, với bạn bè, với người lạ.
Ngoại trừ
toàn thể trái đất trở nên được rót đầy bằng lễ hội này của việc là vị Phật,
không có hi vọng cho con người.
Nhưng tôi
tin cậy vào thông minh của sự tồn tại. Bạn đơn giản lan toả hương thơm. Nó sẽ
trở thành lửa hoang khắp thế giới.
Riêng một hạt
mầm có thể làm cả trái đất xanh.
Được chứ,
Maneesha?
Vâng, thưa
Osho kính yêu.
Xem tiếp Chương 4 - Quay về Mục lục
..............................
0 Đánh giá