Read more
Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Con Đã Có Đường Đi – Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Con Đường Của Phật
Những đóng góp của đạo Phật cho một nền đạo đức
toàn cầu
Chương 1. Con đường của Phật

Con Đường Của Bụt là
chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 – 2009.
Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài. Con đường ấy sẽ giúp chúng ta chuyển hóa những khổ đau, đem lại hạnh phúc cho mình và cho người.
Có thể nhiều người sẽ
thắc mắc: tại sao chúng ta cần học lại về con đường của Bụt trong khi nó đã được
đề cập rất rõ ràng trong kinh luật luận? Lý do thật đơn giản: vì thế giới đang
đi tới một trật tự mới – trật tự toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, chính trị, giáo dục… Và tất yếu, nền luân lý đạo đức cũng
không thể nào tách ra khỏi quỹ đạo này.
Một trật tự toàn cầu
cần có một nền đạo đức được chấp nhận của toàn thể nhân loại. Bởi vì, mỗi châu,
mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi nhóm dân đều có nền văn hóa, nền đạo đức với những
giá trị và tiêu chuẩn riêng. Trong xu thế toàn cầu hóa, chúng ta cần đi tới sự
công nhận những giá trị chung. Và những người tu tập theo đạo Bụt cần phải nói
lên tiếng nói từ trái tim của mình để cống hiến cho nền đạo đức toàn cầu hóa
này. Cụ thể, chúng ta sẽ đóng góp những gì?
Năm 1993 tại Chicago,
đã diễn ra một hội nghị thượng đỉnh về vấn đề đạo đức toàn cầu. Trong hội nghị
này, một nhà thần học người Đức đã đưa ra một văn bản chuyên môn về đạo đức
toàn cầu. Khi đọc những tài liệu này, có thể tuệ giác của chúng ta sẽ được xúc
chạm phát sinh ra những cái thấy. Và những cái thấy đó sẽ được đem đóng góp cho
nền đạo đức toàn cầu.
Trong tiếng Việt có
chữ đạo đức, luân lý. Chữ luân lý dùng để dịch cho chữ morality, và chữ đạo đức
cũng có thể dịch là morality hay ethic. Luân lý là một từ Hán – Việt. Luân là
cách hành xử giữa người với người sao cho trọn vẹn, sao cho có hạnh phúc, và
sao cho vắng mặt của sự khổ đau. Có một từ liên quan đến chữ luân mà chúng ta
cũng rất hay dùng là nhân luân. Nó có nghĩa là đạo đức của con người. Chữ lý là
những nguyên tắc, luật lệ căn bản cho những hành động. Luân lý có thể là cách
nói tắt của luân thường đạo lý. Chữ thường có nghĩa là chung, những nguyên tắc
hành xử giữa con người với con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người,
và được mọi người chấp nhận.
Đạo là con đường. Và
lý ở đây ngoài nghĩa trên còn có thêm một nghĩa nữa là lý luận. Như vậy, luân
thường đạo lý có thể hiểu là những nguyên tắc luân lý đưa tới một con đường bằng
những lối hành xử giữa con người và con người, và được chấp nhận bởi tất cả mọi
người. Đây là quan điểm của người Á Đông.
Người Á Đông còn quan
niệm về đạo đức như sau: Đạo là con đường, đức là những tính tốt như: sự thành
thật, lòng nhân từ… Do vậy, đạo đức có thể hiểu là con đường đức hạnh. Những đức
hạnh mang lại cho ta những con đường. Con đường giúp ta tránh những đau khổ, và
không làm cho người khác đau khổ. Con đường làm cho ta có hạnh phúc, và giúp
cho người khác có hạnh phúc.
Khi đức Thế Tôn thành
đạo, Ngài cũng đã nghĩ đến con đường. Thành đạo có nghĩa là sự giác ngộ hoàn
toàn, là sự giải thoát. Chữ thành đạo này không chỉ có nghĩa là con đường mà
còn có nghĩa là thấy chân lý, thấy được sự thật; là sự thực hiện thành công sự
thật; là một tuệ giác lớn. Đạo là tuệ giác và cũng là con đường để đi đến tuệ
giác đó.
Tôn giáo cũng có thể
dịch là tông giáo. Tông là truyền thống, tông phái. Chữ tôn giáo theo cách hiểu
của Tây phương có dính líu tới Thượng Đế và niềm tin nơi đấng Thượng Đế. Nhưng
tôn giáo không hẳn cần phải có niềm tin nơi một đấng hay một truyền thống nào
đó. Chữ giáo có nghĩa là dạy. Có khi tôn giáo cũng được dịch là đạo – đạo ở đây
chỉ có nghĩa là con đường. Nếu dùng chữ đạo để dịch cho chữ religion thì chưa
chính xác. Vì chữ religion có hàm chứa yếu tố đấng tạo hoá, mà chữ đạo không
hàm chứa ý nghĩa về một đấng tạo hóa.
Trong đạo Bụt, ý niệm
về con đường rất rõ. Bài giảng đầu tiên của đức Thế Tôn hướng về năm người bạn
đã từng tu khổ hạnh với Người, năm anh em ông Kiều Trần Như, đã đặt nền tảng
cho cả một nền đạo đức. Bài giảng đó còn được gọi là Chuyển Pháp Luân Kinh.
Trong bài giảng này, Ngài đề cập đến Bốn sự thật mầu nhiệm (tứ diệu đế) và con
đường của Tám sự hành trì chân chính (Bát chánh đạo). Cụ thể, Ngài nói về khổ
đau của con người và cách chuyển hoá khổ đau đó. Chuyển Pháp Luân Kinh có thể gọi
là căn bản cho một nền đạo đức Phật giáo. Kinh đó rất thực tế, không là triết học
mà là đạo đức học.
Khổ Đế dưới cái nhìn mới
Tứ Diệu Đế là bốn sự
thật cao quý mầu nhiệm, còn được gọi là Tứ Thánh Đế – “Bốn sự thật thánh thiện”,
hay Tứ Chân Đế, bốn sự chân thật không giả dối. Sự thật thứ nhất (khổ đế) công
nhận có những khổ đau hiện thực trong cuộc đời. Ngay trong lời dạy đầu tiên của
Ngài, chúng ta đã có thể nhận thấy đức Thế Tôn rất thực tế. Ngài không dùng thời
gian để nói về những vấn đề siêu hình không ích lợi cho đời sống của con người
như vấn đề vũ trụ vạn hữu, ai đã tạo ra thế giới này…
Ngài đưa chúng ta về
với hiện trạng của bản thân chúng ta và hiện trạng của xã hội. Điều này rất cần
thiết với mỗi chúng ta. Bởi muốn giải quyết những bức xúc, những khó khăn của
chính mình, ta cần phải biết nhìn lại bản thân, nhận diện những khổ đau đang có
mặt và những nguyên nhân đã dẫn đến những khổ đau đó.
Nhiều người khi nghe
Ngài giảng khổ đau là một sự thật, đã tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng: tất cả
đều là khổ. Họ dùng hết thời giờ của mình để chứng minh tất cả là khổ: sinh khổ,
già khổ, bệnh khổ và chết cũng khổ. Từ cách hiểu như vậy họ đã dẫn đến sự phân
chia khổ đau thành ba loại: khổ khổ, hành khổ, hoại khổ.
1. Khổ khổ: Là tự thân của cái khổ, ví dụ: đau
răng là khổ, mất người thương là khổ.
2. Hành khổ: Hành là hiện tượng, tất cả các hiện tượng
do nhân duyên tập hợp lại đều gọi là hành, thí dụ: bông hoa là một hành, vì
bông hoa được tạo nên từ rất nhiều nguyên nhân. Trong kinh nói “chư hành vô thường”,
đây là một sự thật. Không có cái hành hay sự vật nào mà không vô thường. Không
những cái đau răng của ta vô thường mà cái răng của ta cũng vô thường. Họ nói
đau răng đã khổ mà không đau răng cũng khổ, hễ có răng là có khổ. Răng đau cũng
khổ rồi mà răng chưa đau cũng khổ vì trước sau gì thì nó cũng đau. Ý tưởng này
hơi cưỡng ép. Nếu các hành là khổ thì có cái gì là không khổ nữa?
3. Hoại khổ: Cái gì cũng sẽ tàn hoại, khi tàn hoại
nó là khổ mà chưa tàn hoại nó cũng là khổ như thường.
Người giảng những điều
này chỉ muốn chứng tỏ lời Bụt là đúng, rằng tất cả đều là khổ. Nhưng Bụt không
hề nói như vậy. Bụt chỉ nói là cái khổ đang có mặt và chúng ta phải tìm cách giải
quyết những cái khổ. Đừng nên hiểu lời Bụt dạy một cách quá giáo điều. Hiểu như
thế thì rất tội cho Bụt. Do đó, khi giảng dạy về sự thật thứ nhất, chúng ta nên
tránh cách hiểu: tất cả là khổ, mà nên hiểu: tất cả là vô thường hay vô ngã thì
đúng hơn.
Trong xã hội, khi
sinh ra một đứa con thì đó là một niềm vui. Tới ngày sinh nhật thì ta ăn mừng
sinh nhật và hát bài Happy Birthday. Nếu nói sanh ra là khổ thì sao ta lại hát
bài Happy Birthday, hay ăn mừng sinh nhật? Nói già là khổ. Nhưng đối với tôi,
tôi thấy già cũng rất vui. Tôi già rồi nên tôi biết. Khi già thì trong người
không có những năng lượng quá bồng bột, không có những bức xúc của tuổi trẻ.
Già thì rất đằm, có thể sống sâu sắc được. Già hay lắm đấy.
Khi còn trẻ, ta như một
dòng suối nhảy múa trên núi, thao thức muốn đi ra biển càng sớm càng tốt. Nhưng
khi dòng suối chảy đến đồng bằng và hòa vào dòng sông thì tự nhiên nó sẽ chảy
chậm lại. Khi đi chậm lại, ta cũng sẽ thấy mây trời hiện ra trong lòng mình.
Đâu phải làm dòng suối mới vui, làm dòng sông cũng vui vậy.
Và tuổi già cũng có rất
nhiều điều kiện để ta sống vui phải không? Trong cuộc đời, ai mà không một lần
bệnh? Nếu nói tôi không biết đến bệnh là gì thì hơi xa rời thực tế. Còn nhỏ mà
ta không bị bệnh thì lớn lên hệ thống miễn dịch sẽ rất yếu, và ta có thể sẽ chết
bất cứ lúc nào. Nhờ ta có những cảm sốt vặt vãnh khi còn nhỏ nên hệ thống miễn
dịch của ta mới được rèn luyện để trở nên mạnh mẽ mà chống đỡ được với những
con vi khuẩn từ bên ngoài xâm nhập vào. Cho nên, có bệnh không hẳn là điều tiêu
cực. Vì không bệnh, tham dục sẽ nổi lên. Bệnh có thể là trợ duyên cho sự tu tập
của ta.
Còn vấn đề chết thì
sao? Nếu không có chết thì làm sao có sống được? Nếu già không chết, lấy chỗ
đâu cho con cháu sống? Thử tưởng tượng nếu trên trái đất toàn những ông bà già năm
trăm, sáu trăm tuổi chống gậy lọm khọm vừa đi vừa ho sù sụ thì chán chết. Trong
cơ thể, nếu không có tế bào chết đi thì những tế bào mới không thể sinh ra được.
Cho nên cái chết rất cần thiết cho ta. Nếu ta chết với tuệ giác là chết mà
không chết thì sự chết của ta không phải là khổ.
Những người thực tập
theo lời Bụt dạy cần phải uyển chuyển, khéo léo để có thể hiểu và áp dụng giáo
lý của Ngài phù hợp với hoàn cảnh sống. Ngày xưa không có hiện tượng hâm nóng địa
cầu, không có nhiều căng thẳng, không có nhiều người bị bệnh tâm thần như ngày
nay. Ngày xưa cũng không có nhiều bạo động và khủng bố, cũng không có những cuộc
khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Lối sống của người xưa không gây tàn hại môi
trường khốc liệt như ngày nay và cũng không có nhiều cuộc chiến tranh giữa các
tôn giáo. Đây là những nỗi khổ có thật của thời đại, những khổ đế mà ta phải nhận
diện. Vấn đề ở đây không phải là đi tìm kiếm cái khổ mà là gọi đúng tên cái khổ
đó. Ta biết khổ là có thật để tìm đường chuyển hoá chúng.
Tập Đế
Sự thật thứ hai là Tập
Đế. Tập Đế là nguyên nhân dẫn tới khổ đau. Muốn thấy được con đường thoát khổ
thì phải thấy được những gốc rễ của khổ đau. Muốn chuyển hoá tình trạng hâm
nóng địa cầu thì ta phải thấy được những nguyên nhân dẫn tới chuyện hâm nóng địa
cầu: Đó là do cách ta tiêu thụ hằng ngày, sử dụng xe hơi, nuôi súc vật để ăn thịt,
phá hủy rừng cây… Tất cả những cái đó đều góp phần làm nóng địa cầu. Và chỉ khi
nào biết rõ những nguyên nhân dẫn đến cái khổ thì ta mới có thể chuyển hóa cái
khổ hiệu quả được. Cái thấy này là một sự đóng góp rất thực tế cho nền văn hóa
toàn cầu.
Rõ ràng, chủ trương của
đạo Bụt không đòi hỏi phải có đức tin nơi một vị thần linh mà chỉ cần biết dựa
vào tuệ giác của chính mình để chấp nhận sự có mặt của khổ đau, tìm ra nguyên của
khổ đau và chuyển hóa khổ đau nơi mình và cuộc đời.
0 Đánh giá