Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 30. Trúc Lâm Tịnh Xá
Ngày trăng tròn đã tới.
Buổi sáng, Bụt khoác
ca-sa, mang bát, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ đi vào thành
Rajagaha, đáp lại lời mời của quốc vương Bimbisara. Đoàn người đi trang nghiêm
và lặng lẽ. Đường phố mà các vị khất sĩ đi qua đã được treo cờ và kết hoa. Dân
chúng đổ ra hai bên đường chào đón đông nghịt. Tới một ngã tư, Bụt và giáo đoàn
không đi lên được nữa, bởi vì dân chúng đã đổ ra đông quá, làm bít mất con đường.
Lúc ấy, khất sĩ
Uruvela Kassapa đang đi sát sau lưng Bụt, còn chưa biết làm cách gì để khai
thông con đường thì thầy bỗng thấy xuất hiện trước mặt Bụt một chàng thanh niên
tuấn tú, tay cầm cây đàn mười sáu dây. Thanh niên cất tiếng hát, giọng chàng
trong sáng và vọng lớn lên như tiếng chuông đồng. Tay đàn, miệng hát, chàng rẽ
đám đông để đi tới. Quần chúng tránh đường cho chàng đi. Con đường được mở rộng,
lúc ấy Bụt và giáo đoàn mới tiến lên được.
Thầy Kassapa nhận ra
được tung tích người thanh niên đang mở đường cho Bụt và tăng đoàn bằng âm nhạc
và thi ca. Đó là một chàng thi sĩ đã tới quy y với Bụt cách đây chưa đầy một
tháng. Chàng đang ứng khẩu hát lên những cảm nghĩ của mình. Chàng hát:
Sáng nay trên đất nước, có mùa Xuân thắm tươi
Giữa thủ đô ta có bậc giác ngộ tuyệt vời
Cùng một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử, người đi vào thành Vương Xá
Bậc điều ngự đang ung dung bước tới, dung quang lặng lẽ mà sáng ngời.
Quần chúng nghe chàng
một cách say mê. Mọi người nhìn vào chàng, rồi lại nhìn vào Bụt. Chàng mỉm cười
rồi hát tiếp:
Bởi ta có may mắn là học trò của bậc toàn giác
Hãy cho ta ca ngợi tình thương và trí tuệ không bờ bến của Người
Cho ta ca con đường đưa tới chân trời tự tại
Cho ta ca tăng đoàn đang đi trên chánh đạo soi sáng cho đời.
Chàng còn hát nữa,
cho đến khi Bụt và tăng đoàn tới được cổng hoàng cung. Lúc ấy chàng mới cúi đầu
làm lễ Bụt rồi biến mất trong đám đông.
Vua Seniya Bimbisara
đích thân ra tận ngọ môn để đón chào Bụt và tăng đoàn. Các nhân sĩ và tân khách
của vua, có tới hàng ngàn người, cũng theo vua ra đón Bụt. Vua đưa Bụt vào
hoàng cung. Sân rồng đã được che nắng bởi những chiếc rạp dựng lên cho cuộc đón
tiếp long trọng này. Rạp được kết bằng hoa lá rất mỹ lệ. Chỗ ngồi của Bụt được đặt
ở vị trí trung ương. Chỗ ngồi của một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ cũng đã
được chuẩn bị chu đáo. Sau khi Bụt đã ngồi xuống trên ghế của người, vua
Bimbisara thỉnh cầu các vị khất sĩ và toàn thể quan khách an tọa. Vua ngồi một
bên Bụt. Phía bên kia là khất sĩ Kassapa.
Ngôi chủ khách đã
phân, thái tử Ajatasattu mang nước và khăn ra cho Bụt rửa tay chân. Tiếp theo,
quân hầu cũng đem nước và khăn ra cho tất cả các vị khất sĩ rửa tay chân. Lễ tẩy
tịnh đã xong, vua đích thân đứng dậy cúng dường các thức ăn cho Bụt. Vua cung
kính sớt các thức ăn vào bát của mỗi người. Trong khi đó, phu nhân của vua, hoàng
hậu Vedehi, hướng dẫn người hầu trong hoàng cung cúng dường thức ăn cho các vị
khất sĩ.
Bụt và giáo đoàn khất
sĩ mặc niệm và chú nguyện trước khi ăn. Vua Bimbisara và tất cả các quan khách
cũng đều giữ im lặng trong thời gian dùng bữa. Trong sáu ngàn tân khách của
vua, không ai là không cảm nhận được sự thanh tịnh và an lạc thoát ra từ nhân
cách của Bụt và của giáo đoàn khất sĩ.
Sau khi Bụt, tăng
đoàn và quan khách đã thọ trai xong, bình bát của các vị khất sĩ được người hầu
đem rửa và trả lại cho mỗi vị. Vua Bimbisara hướng về Bụt, cung kính chắp tay.
Hiểu được ý vua, Bụt lên tiếng dạy về chánh pháp. Người nói về năm giới như là phương
thức tạo dựng và bảo vệ hòa bình và hạnh phúc trong quốc gia. Người nói năm giới
có thể được nhận thức như là những nguyên tắc sống chung hòa bình và an lạc,
trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
- Giới thứ nhất là
không sát hại. Giữ gìn giới này là để nuôi dưỡng lòng từ bi. Tất cả các loài
sinh vật, từ người cho đến chim muông và cầm thú, loài nào cũng sợ chết. Nếu ta
biết tôn quý sự sống của ta thì ta cũng phải biết tôn quý sự sống của loài sinh
vật khác. Không những ta không được tiêu diệt sự sống của con người, mà ta còn
nên tránh việc tiêu diệt sự sống của các chủng loại khác. Ta phải sống hòa bình
với con người và sống hòa bình với các loài sinh vật khác. Nuôi dưỡng được lòng
thương, ta làm cho cuộc đời bớt khổ và đẹp đẽ thêm lên. Nếu mọi người trong nước
đều biết giữ giới không sát hại thì đất nước sẽ không bị loạn lạc, và dân chúng
được sống hòa bình. Khi mọi người thương nhau và đoàn kết với nhau thì dân giàu
và nước mạnh, không nước nào sẽ có đủ sức để xâm lăng nước mình, và tuy có quân
đội hùng mạnh, quốc gia sẽ không cần sử dụng đến. Quân đội sẽ có thì giờ để làm
những công việc xây dựng đường xá, cầu cống, chợ búa và đê điều.
Giới thứ hai là không
xâm phạm đến tài sản của kẻ khác. Nếu tài sản của mình là do mình tạo ra bằng sức
làm việc hàng ngày của mình thì không ai có quyền xâm phạm đến. Tất cả những lời
nói và hành động nào nhằm tước đoạt tài sản ấy đều được xem là phạm giới. Không
được ăn trộm, ăn cướp, lường gạt, hoặc dùng quyền lực mình để cưỡng chiếm tài sản
của kẻ khác. Lợi dụng sự khờ dại, sức lao động của kẻ khác và hoàn cảnh khó khăn
của họ để làm giàu cũng phạm vào giới này. Nếu dân trong một nước mà biết hành
trì giới này thì trong nước sẽ có công bằng xã hội và những tội ác như cướp của
và giết người sẽ giảm bớt rất mau chóng.
Giới thứ ba là không
xâm phạm tiết hạnh của kẻ khác. Ngoài vợ mình hay chồng mình, người giữ giới
không được chung chạ với kẻ khác. Giữ được giới này thì tạo được đức tin và hạnh
phúc trong gia đình mình, đồng thời cũng tránh được sự gây ra đổ vỡ khổ đau
trong các gia đình khác. Muốn có hạnh phúc, muốn có thì giờ và tâm não để lo việc
ích quốc lợi dân thì nên tránh việc có nhiều tỳ thiếp.
Giới thứ tư là không nói dối và không nói những lời gây chia rẽ căm thù. Lời nói phải phù hợp với sự thật: có thì nói có, không thì nói không. Lời nói có thể tạo nên niềm tin và hạnh phúc. Lời nói cũng có thể tạo nên đổ vỡ và sự thù oán, có khi còn đưa tới sự chém giết lẫn nhau. Có khi lời nói cũng có thể tạo ra chiến tranh. Ta phải rất cẩn thận cho lắm mới được.
Giới thứ năm là không
uống rượu và không sử dụng các chất ma túy. Rượu và các chất ma túy làm cho ta
mất sáng suốt. Khi say ta có thể tạo ra nhiều đổ vỡ cho bản thân, cho gia đình
và cho tổ quốc. Giữ giới này, ta giữ cho thân thể ta được khỏe mạnh và tâm hồn
được sáng suốt, vì vậy bậc thức giả luôn luôn phải giữ giới này. Nếu đại vương
và các vị chức sắc của triều đình mà thấu triệt và vâng giữ được năm giới này
thì đó là một điều đại phước cho quốc gia và cho tất cả bàn dân thiên hạ trong vương
quốc.
Đại vương, bậc quốc vương
đứng đầu một nước cần sống trong tỉnh thức và biết được những gì đang xảy ra
trong vương quốc mình. Nếu đại vương làm cho trong triều ngoài quận ai cũng hiểu
thấu và thực hành được năm giới, tức là năm nguyên tắc sống hòa bình và an lạc,
thì vương quốc Magadha sẽ trở nên vương quốc thịnh vượng nhất trong hoàn vũ.
Vua Bimbisara sung sướng
tiến tới trước Bụt và làm lễ người. Hoàng hậu Vedehi cũng đứng dậy từ chỗ ngồi
của bà. Cầm tay thái tử Ajatasattu, bà đi tới trước Bụt. Bà dạy thái tử chắp
tay thành búp sen để vái chào người, rồi bà nói:
- Lạy Bụt, hôm nay có
thái tử Ajatasattu, con của con và nhiều trẻ em khác con của các vị vương tử đại
thần và quan khách. Các em đông có tới bốn trăm đứa. Xin Bụt đem lòng thương
xót chỉ bày cho thiếu nhiều con đường của tỉnh thức và của thương yêu.
Nói xong hoàng hậu sụp
xuống lạy Bụt. Thái tử Ajatasattu cũng được bà bảo sụp xuống lạy Bụt. Bụt mỉm
cười đưa tay cầm lấy tay thái tử. Hoàng hậu quay lại làm dấu hiệu. Tất cả các
thiếu nhi có mặt đều được đưa ra trình diện. Đây toàn là trẻ em nhà quyền quý
và khá giả, nên em nào cũng được phục sức rất tươm tất. Trai cũng như gái đều có
đeo vòng ở cổ tay và cổ chân. Các em gái mặc những chiếc sari lộng lẫy đủ màu
trông rất tươi mát. Thái tử Ajatasattu cũng ngồi xuống ngay dưới chân Bụt.
Bụt nhớ lại những em
bé nghèo mà người đã gặp dưới cây hồng táo ở ngoại thành Kapilavatthu. Người tự
hứa là mai này về lại quê hương sẽ đi tìm gặp lại những em bé như thế để làm
tròn ước nguyện.
Người nói:
- Này các con, trước
khi ta được làm người, ta đã từng làm đất đá, cây cối, chim chóc và muông thú.
Các con cũng vậy, trong những kiếp xưa các con đã từng làm đất đá, cây cối và
chim muông. Ngày hôm nay ta được gặp các con, cũng có thể là vì trong những kiếp
xa xưa ta và các con đã từng gặp nhau. Chúng ta đã có thể làm cho nhau sung sướng.
Chúng ta cũng đã có thể làm cho nhau khổ đau.
Hôm nay ta muốn kể
cho các con nghe một chuyện đã từng xảy ra hàng ngàn kiếp trước. Đây là chuyện
một con cò, một con cua, một cây bông sứ và rất nhiều tôm cá. Hồi ấy, ta là cây
bông sứ, và trong số các con có thể có đứa đã làm con cò, có đứa có thể đã làm
con cua và nhiều đứa có thể đã làm tôm cá. Trong câu chuyện ấy, con cò là một đứa
nham hiểm và có tính hay lường gạt. Nó đã làm cho biết bao nhiêu con khác chết
chóc và khổ đau. Hồi ấy, như các con đã biết, ta làm cây bông sứ. Con cò cũng
đã làm cho khổ đau, nhưng ta đã học được một bài học. Đó là: khi mình lường gạt
và làm khổ đau kẻ khác thì mình cũng sẽ bị lường gạt và sẽ bị khổ đau trở lại.
Trong kiếp xa xưa đó,
ta làm cây bông sứ đứng gần một cái hồ sen rất thơm và rất mát. Hồ sen này lại
không có cá. Cách hồ không xa, lại có một cái ao nhỏ hẹp, ít nước và nóng bức,
nhưng lại có nhiều tôm cá. Một con cò đi ngang qua đây thấy tôm cá quá nhiều mới
nảy sinh ra một mưu kế. Nó tới đứng gần bên bờ hồ và tự tạo cho mình một vẻ mặt
đăm chiêu.
Bọn cá hỏi:
- Bác Cò, bác suy
nghĩ gì đấy?
- Ta đang suy nghĩ đến
số phận của các chú. Ở đây, ao hẹp, nước ít lại nóng bức. Các chú lại thiếu thức
ăn. Đời sống của các chú có vẻ khổ cực, ta thương lắm.
- Vậy bác có cách gì
giúp tụi cháu không, bác Cò?
- Nếu tụi bay để ta
chở từng đứa tới bỏ xuống cái hồ sen đàng kia, thì ở đó tụi bay sẽ được tha hồ
bơi lội trong nước mát và sẽ có vô số thức ăn.
- Bác Cò ơi, tự thuở
cha mẹ sinh ra, chúng cháu chưa bao giờ nghe nói là loài cò mà lại có lòng tốt
với loài tôm cá. Bác bày ra cách đó chẳng qua chỉ là để ăn thịt chúng cháu, đứa
này rồi tới đứa khác, vậy thôi. Có phải không?
- Tụi bay đa nghi lắm.
Tao là bác của tụi bay, không lý tao lại gạt tụi bay hay sao. Sự thật là đàng
kia có một cái hồ sen rộng lắm, nước nhiều mà lại mát nữa. Nếu tụi bay không
tin thì một đứa hãy theo tao qua đó xem. Xem xong tao lại trả nó về đây để nó
báo cáo lại sự thật cho tụi bay biết.
Bọn tôm cá châu đầu
vào nhau để bàn luận một hồi lâu. Cuối cùng chúng cử một bác cá nhám đi với con
cò. Con cá nhám này đã già, thân thể gần như một cục đá. Nói bơi lội giỏi đã
đành, mà nó cũng có thể di chuyển dễ dàng trên đất cạn. Con cò cắp lấy con cá
nhám vào mỏ và bay về phía hồ sen. Nó thả con cá vào hồ sen để cá bơi lội thỏa
thích và đi thăm mọi nơi trong hồ. Quả thật là hồ rộng, nước rất mát và thực phẩm
rất nhiều. Một lát con cò chở con cá nhám về ao, và nó kể lại tất cả những gì
nó đã thấy cho bọn chúng trong ao nghe.
Bọn tôm cá nghe kể rất
lấy làm vui sướng. Chúng yêu cầu con cò chở chúng sang hồ, mỗi chuyến một đứa.
Cò bằng lòng. Nó cắp con cá đầu tiên vào mỏ và bay đi, nhưng thay vì thả cá xuống
hồ sen, nó bay về phía cây bông sứ, nó buông cá vào một chỉa ba của thân cây.
Nó dùng mỏ rỉa cá ra và ăn thịt con cá. Ăn xong, nó hất xương cá xuống gốc cây
bông sứ. Rồi nó bay về phía ao để "chở" một con cá khác, và luôn luôn
bỏ xương cá xuống gốc cây.
Ta là cây bông sứ. Ta
chứng kiến tất cả những điều này. Ta rất tức giận con cò nhưng không thể nào
ngăn cản được con cò. Các con biết, cây bông sứ chỉ có thể đâm rễ sâu thêm vào
đất, mọc cành mọc lá và làm hoa, nhưng không thể chạy đi đâu được. Ta không thể
chạy tới ao để vạch rõ cho bọn tôm cá biết âm mưu của con cò. Ta cũng không thể
vươn cành ra để ngăn con cò không cho cò ăn thịt cá. Ta đứng yên chịu trận. Mỗi
lần cò mang tới một con cá và mổ cho cá toét ra để ăn thịt là mỗi lần cây bông sứ
đau đớn rúng động cả châu thân, nhựa cây như chảy dồn dập hơn, da cây như co
rúm lại. Có khi cây bông sứ rung rung và những giọt sương rơi xuống như là cây
cũng biết khóc. Con cò không để ý tới những dấu hiệu đó. Ngày này sang ngày
khác, nó mang cá tới cây bông sứ để ăn thịt. Ăn hết cá nó ăn đến tôm.
Đống xương cá dưới gốc
cây đã cao bằng hai cái thùng lớn. Làm một cây bông sứ, ta biết mình có bổn phận
nở hoa để làm thơm làm đẹp cho núi rừng, nhưng ta rất đau khổ vì không làm được
gì để cứu bọn tôm cá. Nếu ta là một con nai hoặc một con người thì ta đã có thể
làm được một cái gì. Đàng này ta bị chôn chân xuống đất không đi đâu được. Với
niềm thương trong lòng, ta thầm nguyện sau này nếu được làm thú hay làm người, ta
sẽ gắng hết sức để bênh vực kẻ yếu và ngăn chặn không cho kẻ hung bạo và giảo
quyệt đi lừa gạt và tàn sát kẻ khác.
Ngày hôm ấy, dưới ao
cá và tôm đã hết. Chỉ còn có một con cua. Lúc đầu cò ta chê, nhưng sau đó đói bụng
quá, nó lại gần bờ nước và nói:
- Này cháu, tất cả những
tôm cá mà ta đã chở tới hồ sen, hiện đang sung sướng vẫy vùng bên đó. Cháu lại
đây, bác chở qua đó luôn.
- Bác thì làm sao chở
được cháu? Cháu là một con cua mà.
- Thì bác cắp cháu
trong mỏ bác, như đã chở những đứa khác.
- Bác mà cắp cháu
trong mỏ bác thì không chắc lắm. Bác có thể để cho cháu rơi xuống và cháu sẽ vỡ
toang.
- Đừng có sợ, cháu.
Bác sẽ ngậm cháu thật chặt.
Con cua suy nghĩ: có
thể là cò đã thả tất cả tôm cá xuống hồ sen. Cũng có thể là cò đã ăn thịt hết tất
cả họ hàng nhà tôm và họ hàng nhà cá. Ta hãy cẩn thận. Ta phải đề phòng. Nếu cò
thả ta xuống hồ thì đó là chuyện tốt. Nếu cò muốn ăn thịt ta thì ta cũng có sẽ
cách tự vệ.
Nghĩ như thế, Cua nói
với Cò:
- Bác ơi, mỏ bác
không đủ mạnh để giữ cho cháu khỏi rơi đâu. Bác phải để cháu bám vào cổ bác bằng
hai cái càng của cháu mới được.
Cò bằng lòng ngay, nó
để cho Cua bám vào cổ nó. Cò vỗ cánh bay đi, nhưng thay vì bay thẳng xuống hồ,
cò lại bay qua cây bông sứ.
- Bác ơi, tại sao bác
không đưa cháu xuống hồ mà lại đem cháu đi đâu thế?
- Cháu ơi, ai dại dột
mà đi chở mướn cho bọn bay. Tao đâu có phải là đầy tớ của bọn mày. Ta chỉ muốn
chở bọn mày tới đây để ăn thịt từng đứa mà thôi. Coi kìa, mày có thấy đống
xương cá cao nghệu dưới gốc cây bông sứ không? Đó, mày cũng sẽ chấm dứt cuộc đời
của mày nơi đó.
- Bác Cò ác độc ơi, tụi
tôm cá ấy dại dột quá nên mới bị bác lừa dối và ăn thịt, nhưng cháu thì bác đừng
có hòng mà ăn thịt được cháu. Bác hãy mang cháu về dưới hồ đi, nếu không cháu sẽ
kẹp đứt cổ bác cho mà xem.
Nói xong, Cua bắt đầu
xiết những gọng kềm của Cua trên cổ Cò. Những cái càng cua siết cứng như những
chiếc gọng kềm bằng sắt khiến cho Cò ta đau quá. Cò kêu lên:
- Thôi anh Hai ơi,
anh Hai đừng kẹp tôi đau quá. Để tôi đưa anh Hai xuống hồ. Tôi không dám ăn thịt
anh Hai đâu.
Cò nghiêng cánh liệng
bay trở lại hồ sen và đặt Cua xuống bờ nước, nơi có chút ít bùn lầy. Cua vẫn chưa
buông cổ Cò. Nghĩ tới bao nhiêu tôm các trong hồ bị Cò tàn sát hết. Cua nghiến răng
kẹp hai cái càng thật mạnh, khiến cho cổ Cò đứt rời ra, và Cò lăn xuống chết. Rồi
Cua đi xuống nước.
Các con ơi, lúc ấy ta
là cây bông sứ, ta chứng kiến từng chi tiết nhỏ của tấn kịch này. Ở đời, ăn hiền
ở lành thì sẽ được người hiền lành giúp đỡ. Ăn ở độc ác sớm muộn gì cũng lâm
vào cảnh thảm thương. Ta đã học được bài học đó. Ta nguyện đời đời sẽ làm việc
lợi ích cho muôn loài. Ta đã làm người trong nhiều vạn kiếp. Giờ đây, gặp các
con, ta muốn truyền lại bài học ta đã học ngày xưa cho các con nghe.
Tất cả các thiếu nhi
có mặt đều chăm chú nghe Bụt thuật chuyện tiền thân. Đứa nào cũng thương cho
cây bông sứ và cho tất cả những loài tôm cá bị lừa gạt. Đứa nào cũng căm giận
con cò và khen con cua là biết lo xa. Bụt lặng yên và bọn thiếu nhi quay lại thầm
thì với nhau về câu chuyện người vừa kể.
Vua Bimbisara đứng dậy.
Đi tới trước Bụt, vua chắp tay lại làm lễ người. Vua nói:
- Hôm nay bậc tôn quý
trên đời đã ban cho người lớn và trẻ em một bài học thật quý giá. Trẫm mong
thái tử Ajatasattu thấm nhuần được lời dạy và đạo đức của người. Vương quốc Magadha
có được may mắn lớn nên người mới dừng chân hoằng hóa nơi đây. Trẫm có một món
quà muốn dâng lên bậc giác ngộ và tăng đoàn của người, không biết người có chịu
cho trẫm cái hân hạnh được dâng cúng món quà ấy không?
Bụt không nói. Người
đưa mắt nhìn vua, có ý muốn vua nói tiếp. Vua im lặng một lát rồi nói:
- Về phía Bắc thủ đô
Rajagaha có một vườn tre rất rộng và rất đẹp mà trẫm gọi là Trúc Lâm, hay là
Venuvana. Trúc Lâm cách cửa Bắc của kinh đô chỉ chừng hai dặm. Công viên này rất
yên tĩnh, rất mát mẻ và có rất nhiều con sóc hiền lành. Trẫm muốn hiến cúng
công viên ấy lên Bụt và tăng đoàn của người để làm trụ sở tu học và hành đạo. Mong
đức Từ Bi chấp nhận cho lòng thành của trẫm.
Bụt suy nghĩ. Đây là
lần đầu tiên một cơ sở được hiến tặng cho giáo đoàn để làm nơi tu học. Các vị
khất sĩ cũng cần có một căn cứ để an cư trong mùa mưa. Ta nên chấp nhận tặng phẩm
này. Nghĩ như thế, Bụt mỉm cười và gật đầu ưng thuận. Vua Bimbisara mừng rỡ.
Vua nghĩ là cơ sở đó có thể giữ được bậc giác ngộ lâu dài trong vương quốc
mình. Trong số các vị tân khách, có nhiều người thuộc giới lãnh đạo Bà-la-môn.
Họ không mấy hoan hỷ về quyết định này của vua, nhưng họ vẫn giữ im lặng. Vua
truyền đem ra một cái bình vàng. Ngài tự tay làm lễ rót nước trong bình lên tay
Bụt, và trang trọng tuyên bố:
- Bạch Thế Tôn, cũng
như nước trong chiếc bình vàng này chảy vào tay người, khu vườn Trúc Lâm đã được
trẫm hiến tặng cho người và giáo đoàn do người lãnh đạo.
Lễ bàn giao đã xong. Cuộc
thừa tiếp giáo đoàn đã kết thúc. Bụt và một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ từ
giã hoàng cung.
0 Đánh giá