Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 51. Kho Tàng Của Cái Thấy
Mãn mùa an cư, Bụt
lên đường, hướng về Savatthi. Svastika và Rahula được phép tùy tùng người. Đây
là lần đầu Svastika được đến tu viện Jetavana. Tu viện rất đẹp và đầy đủ mọi tiện
nghi cho sự tu học. Khung cảnh đã tươi mát mà không khí lại đầm ấm. Thấy
Svastika, thầy nào cũng mỉm cười. Ai cũng biết là do vị khất sĩ trẻ này mà Bụt
đã nói kinh Chăn Trâu.
Svastika nhận thấy rằng
trong một hoàn cảnh thuận tiện cho sự tu học như thế này chắc chắn chú sẽ đạt
được nhiều tiến bộ. Chú hiểu tại sao Tăng cũng quan trọng như Bụt và Pháp. Tăng
là đoàn thể của những người cùng đi trên con đường tỉnh thức, và ta phải tìm về
nương tựa Tăng để được nâng đỡ và hướng dẫn. Cũng như ta đã tìm về nương tựa Bụt
và Pháp.
Năm nay, vị sa di
Rahula được hai mươi tuổi. Chú được đại đức Sariputta làm lễ trao giới khất sĩ.
Cả tu viện đều vui mừng. Đại đức đã dạy chú thật chu đáo nhiều ngày trước ngày
chú thọ giới.
Chú Svastika cũng được
hân hạnh dự nghe những lời giáo huấn này. Sau khi Rahula được thọ giới khất sĩ.
Bụt đã để thì giờ đặc biệt dạy cho chú về các công phu thiền quán, Svastika
cũng được dự thính các buổi dạy. Bụt dạy Rahula quán chiếu về sáu giác quan là
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, về sáu đối tượng của giác quan là hình sắc, âm thanh,
mùi vị, xúc chạm và ý niệm, và về sáu thức là cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái
nếm, cái xúc chạm và ý thức.
Người dạy Rahula quán
chiếu về tự tính vô thường của mười tám hiện tượng đó mà người gọi là thập bát
giới. Mười tám hiện tượng gồm có sáu căn, sáu trần và sáu thức. Căn tức là cơ
quan cảm giác, trần là đối tượng của các cơ quan đó, và thức là những nhận thức
phát sinh ra từ sự xúc chạm giữa căn và trần. Phép quán này gọi là giới phân biệt
quán.
Bụt dạy quán chiếu
căn, trần và thức để thấy tất cả các hiện tượng này đều nương vào nhau mà có mặt,
để thấy được tự tính vô thường và duyên sinh của chúng. Một khi đã thấy như thế
thì hành giả chứng đắc được tính cách vô ngã và thoát ly được sinh tử. Bụt dạy
thầy khất sĩ trẻ Rahula thật kỹ lưỡng về đạo lý vô ngã. Bụt nói:
- Này Rahula, trong
năm uẩn là thân thể, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức, không có gì bất
biến để có thể gọi là ngã cả. Thân thể này không phải là ngã. Thân thể này cũng
không phải là ngã sở, nghĩa là vật sỡ hữu của ngã. Ngã không nằm trong thân thể,
thân thể cũng không nằm trong ngã.
Có ba loại kiến chấp
về ngã. Kiến chấp đầu là cho rằng thân thể này là ngã. Hoặc cảm thọ, tri giác,
tâm hành và nhận thức này là ngã. Kiến chấp này gọi là ngã chấp. Khi nói tới
thân thể này không phải là ngã, người ta có thể rơi vào kiến chấp thứ hai, cho rằng
ngã là một cái gì riêng biệt với thân thể, và thân thể chỉ là một vật sở hữu của
ngã. Kiến chấp thứ hai này gọi là dị ngã chấp. Kiến chấp thứ ba cho rằng trong
thân thể có ngã và trong ngã có thân thể, hai không phải là hai mà cũng không
là một, cái nầy nằm trong cái kia. Kiến chấp này gọi là tương tại chấp. Rahula,
quán vô ngã là phải nhìn sâu vào lòng năm uẩn để thấy năm uẩn không phải là
ngã, không phải là dị ngã, cũng không phải là tương tại. Vượt được ba kiến chấp
này rồi mới thực sự chứng nghiệm được tự tính vô ngã của vạn pháp.
Tại tu viện Cấp Cô Độc
này có một thầy tên là Thera. Svastika nhận xét rằng thầy này ít ưa nói chuyện
với ai, và đi đâu cũng đi một mình, làm gì cũng làm một mình. Đại đức Thera
không làm phật lòng ai, cũng không phạm vào giới điều nào, nhưng thầy sống có vẻ
lẻ loi và không thật sư hòa hợp với đại chúng, Svastika đã có lần tới gần thầy để
gợi chuyện nhưng thầy cũng tránh đi. Mọi người đặt tên cho thầy là "người
ưa sống một mình".
Svastika biết rằng Bụt
thường khuyến khích các thầy tránh tụ họp chuyện trò, tránh những buổi nhàn đàm
vô ích để có thì giờ sống một mình mà thiền quán, nhưng chú cảm thấy cách sống
của thầy Thera không thật sự là cách sống mà Bụt muốn. Một buổi chiều, nhân có
cơ hội, Svastika đem chuyện này trình bày lên Bụt.
Ngày mai lại, trong
giờ pháp thoại, Bụt gọi đại đức Thera lên và hỏi:
- Thầy là người ưa sống
một mình, làm cái gì cũng ưa làm một mình và tránh sự chung đụng với các thầy
khác, có phải vậy không?
Đại đức đáp:
- Bạch Thế Tôn, đúng
như vậy. Thế Tôn thường dạy người khất sĩ nên biết độc cư, nghĩa là nên sống một
mình.
Quay lại đại chúng, Bụt
nói:
- Các vị khất sĩ, tôi
muốn dạy cho các vị thế nào là thật sự biết sống một mình.
Người thật sự biết sống
một mình là người biết an trú trong chánh niệm. Người ấy ý thức được những gì
đang xảy ra trong thân thể, trong cảm giác, trong tâm ý và nơi những đối tượng
của tâm ý. Người ấy biết quán chiếu sự sống trong giờ phút hiện tại, không tìm
về quá khứ, không tưởng tới tương lai, vì quá khứ thì không còn mà tương lai
thì chưa tới. Sự sống chỉ có mặt trong giờ phút hiện tại. Nếu ta bỏ giờ phút hiện
tại, ta đánh mất sự sống.
Này các vị, thế nào
là tìm về quá khứ? Tìm về quá khứ ở đây có nghĩa là tự đánh mất mình trong quá
khứ, trôi dạt trong quá khứ trên những đợt sóng tư duy: trong quá khứ hình thể
ta từng như thế đó, cảm thọ ta từng như thế đó, địa vị ta từng như thế đó, hạnh
phúc ta từng như thế đó... Phát khởi lên những tư duy như thế và bị ràng buộc bởi
những gì thuộc về quá khứ, đó là tìm về quá khứ.
Này các vị, thế nào
là tưởng tới tương lai? Tưởng tới tương lai ở đây có nghĩa là tự đánh mất mình
trong tương lai, trôi dạt trong tương lai, trên những đợt sóng tư duy, lo sợ hoặc
mơ tưởng: trong tương lai, hình thể ta sẽ được hay sẽ bị như thế đó, cảm thọ ta
sẽ được hay bị như thế đó, hạnh phúc ta sẽ được như thế đó, khổ đau ta sẽ bị
như thế đó... Phát khởi lên những tư duy như thế và bị ràng buộc bởi những ước
mơ hoặc lo sợ về tương lai... đó là tưởng tới tương lai.
Này các vị, trở về
giây phút hiện tại là để tiếp xúc với sự sống và để quán chiếu sự sống. Nếu
không tiếp xúc thì không thể quán chiếu. Chánh niệm giúp ta trở về hiện tại, tiếp
xúc với hiện tại và quán chiếu sự sống trong hiện tại. Trở về hiện tại không có
nghĩa là tự đánh mất mình trong những đam mê hoặc sầu khổ về hiện tại. Nếu bị
ràng buộc bởi những đam mê và sầu khổ về những gì đang xảy ra trong hiện tại thì
sự sống cũng không có mặt. Sự sống không có mặt vì chánh niệm không có mặt.
Này các vị khất sĩ, người biết sống một mình là người biết an trú trong hiện tại, dù người ấy đang ngồi giữa đám đông. Một người ngồi trong rừng sâu mà nếu không có chánh niệm, nếu bị những con ma quá khứ và tương lai lôi cuốn và ám ảnh thì người ấy vẫn không phải là người biết sống một mình.
Rồi Bụt đọc cho các
thầy nghe một bài kệ:
Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Phải tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Thì Mâu Ni gọi là
Người Biết Sống Một Mình.
Đọc xong bài kệ, Bụt
cảm ơn đại đức Thera và bảo thầy đi xuống. Người không trực tiếp khen hay chê
thầy. Nhưng chắc chắn là lần này đại đức thật sự hiểu được ý Bụt.
Trong buổi pháp đàm
hôm đó, Svastika nghe các thầy lớn nói rằng những lời dạy của Bụt hôm đó rất là
quan trọng, mọi người cần phải ghi nhớ. Đại đức Ananda trùng tuyên một lần nữa
những điều Bụt nói cho mọi người nghe. Thầy đọc lại bài kệ của Bụt một cách
trôi chảy và thông suốt. Svastika lấy làm lạ. Hình như thầy Ananda nhớ hết những
lời Bụt nói không sót một tiếng nào. Cách nói, lời nói, và cú pháp giống hệt
như khi Bụt nói. Khi đại đức Ananda trùng tuyên xong lời Bụt, đại đức
Mahakaccana đứng lên nói:
- Ta hãy nên lấy lời
Bụt dạy hôm nay làm thành một kinh văn. Thưa các huynh đệ, tôi xin đề nghị gọi
kinh này là kinh Bhaddekaratta nghĩa là kinh Người Biết Sống Một Mình, và cũng
xin đề nghị tất cả các huynh đệ học thuộc lòng để hành trì. Ít nhất mỗi người
trong chúng ta đều phải học thuộc lòng bài kệ.
Đại đức Mahakassapa đứng
dậy tán đồng ý kiến ấy.
Sáng hôm sau, trong
khi đi khất thực, Bụt gặp một bọn trẻ con đang tụ họp với nhau chơi đùa. Các
thiếu nhi này đang hành hạ những con cua nhỏ mà chúng bắt được dưới ruộng. Một
đứa trong bọn chúng lấy ngón tay trỏ của bàn tay trái đè xuống lưng một con
cua. Với tay phải, nó bẻ một càng của con cua. Bọn trẻ reo hò vang dậy. Đứa kia
thích chí, bẻ gãy một cái càng cua khác. Bọn trẻ lại vỗ tay hò reo. Chúng chơi
như vậy cho đến khi tất cả hai càng và tám chân của con cua đều bị bẻ gãy hết.
Rốt cuộc chúng liệng con cua xuống ruộng và đi bắt một con khác để chơi. Thấy Bụt
và các thầy tới, bọn chúng ngửng đầu lên rồi lại cúi xuống chơi trò hành hạ mấy
con cua. Chúng tàn ác mà không biết là chúng tàn ác. Bụt bảo bọn trẻ ngừng tay.
Người nói:
- Này các con, nếu
các con bị trặc chân tay hay gãy tay thì các con có đau không?
“Bạch thầy,” có, bọn
trẻ trả lời.
- Con cua bị các con
bẻ gãy càng và gãy chân cũng đau đớn như thế đó. Các con có biết không?
Bọn trẻ nín bặt.
Bụt nói tiếp:
- Con cua cũng biết
ăn uống, con cua cũng có cha, mẹ, anh và chị của nó như là các con vậy. Các con
làm khổ con cua như thế thì các con cũng làm khổ luôn cả cha mẹ và anh chị nó.
Các con hãy suy nghĩ đi.
Bọn trẻ tỏ vẻ hối hận.
Lúc bấy giờ thấy Bụt và các thầy xúm quanh một bọn trẻ, những người qua lại gần
đấy cũng ghé lại xem. Nhân cơ hội này Bụt dạy cả trẻ em lẫn người lớn về lòng từ
bi. Người nói:
- Chúng ta phải làm
sao để cho tất cả mọi loài đều cảm thấy có an ổn và có niềm vui trong sự sống.
Chúng ta phải bảo vệ sự sống cho nhau và đem niềm vui cho nhau. Tất cả mọi
loài, dù lớn, dù nhỏ, dù đi bằng hai chân hay đi bằng bốn chân, dù bò trên mặt đất
hay bay trên hư không hoặc bơi lội trong nước cũng đều có quyền sống. Chúng ta
không nên đem tâm hận thù nhau, sát hại nhau. Chúng ta nên che chở cho nhau.
Này các con, cũng như
một bà mẹ đem thân mạng che chở cho đứa con thân yêu duy nhất của mình, mỗi người
trong chúng ta phải mở lòng ra để đón nhận và che chở cho tất cả các loài có sinh
mệnh. Lòng thương của chúng ta phải bao trùm tất cả mọi loài sinh vật đang có mặt
trên, dưới, trong, ngoài và chung quanh ta. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, trái
tim ta phải mang theo tình thương đó, và ta hãy an trú đêm ngày trong tình thương
đó.
Dạy xong, Bụt rủ bọn
trẻ cũng đem thả những con cua còn lại xuống ruộng, rồi người cùng các vị khất
sĩ tiếp nối con đường đi khất thực. Svastika biết Bụt rất chú tâm đến việc hướng
dẫn trẻ em nên chú bàn với chú Rahula tổ chức những buổi tập hợp thiếu nhi tại
tu viện Jetavana để các em có dịp được học hỏi với Bụt. Với sự cộng tác của những
người cư sĩ trẻ thường hay đến tu viện nghe Pháp, nhất là với bốn người con của
cư sĩ Sudatta.
Svastika và Rahula
thường quy tụ các em thiếu nhi trong vùng về chùa mỗi tháng một lần. Cư sĩ
Sudatta có bốn người con: Subhada chị, Subhada em, Sumana và Kala. Kala là con
trai duy nhất của cư sĩ. Ban đầu Kala không có vẻ hăng hái lắm, nhưng vì mến
Svastika nên cậu từ từ dấn thân vào việc tu học. Công chúa Vajiri con quốc
vương Pasenadi cũng yểm trợ đắc lực cho việc giáo dục thiếu nhi này.
Một buổi chiều rằm,
công chúa rủ bọn trẻ đem hoa lên tận tịnh xá dâng Bụt. Mỗi em cầm trong tay những
cành hoa hái được trong vườn nhà của mình. Có em đã hái được cả những cành hoa
dại trên đường đến tu viện. Công chúa Vajiri ôm theo một bó sen đã hái được ngay
trong hồ sen vườn Thượng Uyển.
Khi lên tới tịnh xá
thì công chúa và bọn trẻ được biết Bụt đã ra giảng đường. Đã đến giờ người nói
pháp thoại. Pháp thoại hôm nay được nói chung cho cả hai giới xuất gia và tại
gia. Các em thiếu nhi rủ nhau cùng lên pháp đường. Thấy thiếu nhi tới, các thầy
và các vị cư sĩ đều nhường lối cho các em đi.
Bụt đã ngồi trên pháp
tòa. Tất cả các em thiếu nhi được công chúa Vajiri hướng dẫn đã lên dâng những
bông hoa của mình hái được trên chiếc bàn nhỏ đặt trước mặt Bụt rồi cúi đầu xá
Bụt. Bụt mỉm cười đáp lễ các em và bảo tất cả đi xuống tìm chỗ ngồi phía trước
đại chúng.
Buổi pháp thoại hôm
đó thật là đặc biệt. Đợi các thiếu nhi ngồi xuống yên ổn. Bụt mới đứng dậy. Người
cầm lấy một bông sen đưa lên trước mặt đại chúng, không nói năng gì. Tất cả đại
chúng đều im phăng phắc. Không ai hiểu Bụt muốn nói gì bằng cử chỉ ấy. Một lát
sau, Bụt đưa mắt quan sát đại chúng rồi mỉm cười. Người lên tiếng:
- Tôi có con mắt của
chánh pháp, kho tàng của cái thấy mầu nhiệm và tôi đã trao lại cho Mahakassapa.
Mọi người đổ dồn hai
mắt về đại đức Kassapa. Nụ cười chưa tắt trên môi đại đức. Mắt thầy vẫn nhìn
lên Bụt. Mọi người lại nhìn lên Bụt. Bụt đang nhìn bông hoa và mỉm cười.
Svastika không hiểu
gì hết và nghĩ rằng có nhiều người cũng ngẩn ngơ như chú. Chú biết điều quan trọng
nhất trong lúc này là giữ chánh niệm và chú bắt đầu theo dõi hơi thở theo
phương pháp đã được học với Bụt.
Chú thấy bông hoa Bụt
cầm trên tay là một bông sen trắng đang vào lúc hé nở. Bàn tay Bụt cầm đóa sen
trong một dáng điệu thanh tao và trang trọng, ngón tay cái và ngón tay trỏ kẹp
cuống hoa vào giữa, và cuống hoa nằm xuôi ép theo lòng bàn tay. Chính bàn tay Bụt
cũng xinh đẹp như một bông hoa, và đóa sen trắng phía trên, tinh khiết và mầu
nhiệm, cũng có vẻ như là một bàn tay khác của người. Svastika cảm nhận được cái
đẹp tinh khiết và trang trọng mà không cần suy tư tìm hiểu.
Bất giác chú cũng mỉm
miệng cười. Bỗng Bụt cất tiếng nói. Tiếng của ngài trong, ấm và sang sảng:
- Đại chúng, bông hoa
này là một thực tại mầu nhiệm. Khi tôi cầm nó đưa lên trước đại chúng, tất cả
chúng ta đều có cơ hội tiếp xúc với bông hoa. Cơ hội ấy là một cơ hội đồng đều.
Tiếp xúc được với bông hoa là tiếp xúc được với thực tại mầu nhiệm, tiếp xúc với
sự sống.
Mahakassapa đã mỉm cười
trước tiên vì Mahakassapa đã tiếp xúc được với bông hoa trước tiên. Trong đại
chúng đây, có những vị không tiếp xúc được với bông hoa, đó là vì trong tâm của
quý vị còn có những chướng ngại. Có những vị đang đặt câu hỏi: "Vì cớ gì
mà sa môn Gotama hôm nay đưa cành hoa lên?" Vì tâm các vị ấy đang bận rộn
về những ý tưởng, cho nên các vị ấy không tiếp xúc được với bông hoa.
Đại chúng, đắm chìm
trong suy tư là một trong những nguyên do khiến ta không tiếp xúc được với thực
tại. Trong trường hợp đang bị lo lắng, phiền muộn, giận hờn hay ghen ghét chế
ngự, ta cũng mất cơ hội tiếp xúc với thực tại mầu nhiệm.
Đại chúng! Bông hoa
trong tay tôi có thể chỉ thật sự có mặt đối với những ai biết an trú, trong
chánh niệm nơi giờ phút hiện tại. Nếu quý vị không trở về an trú trong giờ phút
hiện tại thì bông hoa có mặt cũng như không. Có những người đi ngang qua rừng
cây trầm hương mà không thấy được một cây trầm hương. Có những người đi qua sự
sống mà không tiếp xúc được với sự sống. Đại chúng! Sự sống chứa chất khổ đau
mà sự sống cũng đầy những mầu nhiệm. Quý vị phải tinh cần và tỉnh thức để tiếp
xúc với những khổ đau và những mầu nhiệm ấy của sự sống. Nhưng tiếp xúc với khổ
đau không có nghĩa là tự đánh mất mình trong khổ đau và tiếp xúc với mầu nhiệm
không có nghĩa là tự đánh mất mình trong mầu nhiệm. Tiếp xúc là để thực sự chứng
nghiệm sự sống và quán chiếu sự sống, ta sẽ thấy được tự tính duyên khởi và vô
thường của sự sống, do đó ta sẽ không đánh mất ta trong tham đắm, trong giận hờn
và trong mê muội. Ta sẽ thường xuyên an trú trong tự do và giải thoát.
Svastika rất sung sướng.
Chú hiểu được lời Bụt dạy. Chú hài lòng lắm khi nhớ ra rằng chú đã mỉm cười khi
tay Bụt còn cầm bông hoa đưa lên. Đại đức Mahakassapa mỉm cười trước vì đại đức
là một đệ tử lớn của Bụt, đứng về hàng thầy của chú. Chú làm sao tự so sánh
mình với đại đức, cũng như với các vị cao đệ khác của Bụt như các thầy Sariputta,
Moggallana, Assaji... Năm nay chú chỉ mới hai mươi bốn tuổi.
0 Đánh giá