Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 54. Thanh Thản Trước Cuộc Thịnh Suy
Chỉ trong vài hôm,
dân chúng ở thủ đô đều hay tin là Angulimala đã được chế ngự, và ai nấy đều thở
phào nhẹ nhõm, nhưng điều người ta bàn tán đến nhiều nhất là việc Angulimala đã
cải tà quy chính, xuất gia theo Bụt.
Câu chuyện nầy được
truyền ra trong xứ và còn truyền ra những xứ khác. Uy tín của Bụt và của giáo
đoàn khất sĩ lên rất cao, ở đâu và lúc nào các vị khất sĩ cũng nhìn bằng con mắt
kính trọng.
Uy thế của giáo đoàn
còn lên cao hơn nữa khi mọi người thấy số trí thức và thanh niên từ các giáo
phái từ bỏ giáo phái mình để theo Bụt càng ngày càng đông. Câu chuyện cư sĩ
Upali thuộc giáo phái Nigantha bỏ giáo phái này để theo Bụt là một trong những
đề tài đàm luận sôi nổi nhất trong giới tôn giáo và triết học ở Magadha và ở Kosala.
Upali là một người cư
sĩ giàu có và thông minh vào bậc nhất ở miền Bắc nước Magadha. Ông là người thí
chủ lớn nhất của giáo pháo Nigantha mà người lãnh đạo là giáo chủ Nataputta.
Giáo phái này gồm toàn những du sĩ lõa hình, có rất đông quần chúng tín mộ.
Lúc ấy là mùa Xuân, Bụt
cư trú trong vườn Xoài Pavarika tại Nalanda, miền Bắc nước Magadha. Một hôm du
sĩ lõa hình Digha Tappasi, một cao đệ của giáo chủ Nataputta, nhân đi khất thực
ở Nalanda, đã ghé vào thăm Bụt để đàm luận về đạo lý. Bụt hỏi thăm và được vị
du sĩ này cho biết rằng giáo phái Nigantha chỉ dùng danh từ tội báo (dandani)
mà không dùng danh từ hành nghiệp (karmani). Được hỏi về bản chất của tội báo,
Digha Tappasi cho biết là có ba loại: thân tội, khẩu tội, và ý tội.
Được hỏi loại nào nặng
nhất và căn bản nhất, du sĩ nói:
- Tội của thân là nặng
nhất, và là căn bản nhất.
Bụt cho biết trong đạo
lý của người, ý nghiệp là quan trọng nhất, tại vì ý là căn bản, du sĩ Tappasi
buộc Bụt phải lặp lại điều này ba lần để Bụt không thể chối cãi, và sau đó kiếu
từ ra về. Gặp lại giáo chủ Nataputta, du sĩ kể lại những chi tiết của cuộc đàm thoại.
Nataputta cười lớn và nói:
- Sa môn Gotama đã lầm
lẫn nghiêm trọng. Tội trong tâm ý và nơi lời nói chưa phải là tội lớn. Chính những
tội do thân thể gây nên một cách cụ thể mới là quan trọng, và có ảnh hưởng lâu
dài. Du sĩ Tappasi! Thầy đã nắm được yếu chỉ của đạo pháp ta.
Trong buổi đàm đạo giữa
Nataputta và Tappasi còn có mặt một số người cư sĩ, trong đó có vị trưởng giả
trí thức Upali và các bạn của ông ta từ thành phố Balaka đến. Nghe tới đây,
Upali xin tình nguyện đi thăm Bụt để nói cho Bụt biết là vị sa môn này đã thấy
sai khi cho rằng ý nghiệp có tính cách căn bản hơn thân nghiệp và khẩu nghiệp.
Giáo chủ Nataputta rất
muốn cho Upali đi, nhưng du sĩ Tappasi e ngại. Ông sợ Upali sẽ bị Bụt chinh phục,
nhưng giáo chủ Nataputta có đức tin lớn nơi Upali. Ông nói:
- Đừng sợ cư sĩ Upali
sẽ trở nên đệ tử của sa môn Gotama. Sa môn Gotama, trái lại có thể trở nên đệ tử
của Upali cũng chưa biết chừng.
Du sĩ Tappasi cố ngăn
nhưng không được. Upali đến thăm Bụt và cuộc đàm đạo giữa hai người rất là hào
hùng. Đây là lần đầu tiên nhà trí thức này được gặp Bụt. Trong bảy ví dụ liên
tiếp. Bụt chỉ cho Upali thấy ý tội là căn bản. Bụt biết các du sĩ lõa hình phái
Nigantha là những người có trì giới không sát sinh và biết giữ gìn không dẫm đạp
lên trên các loại côn trùng. Bụt khen ngợi điều này. Nhưng người hỏi Upali:
- Nếu không cố ý mà dẫm
đạp lên các loại côn trùng thì có phạm tội không?
Upali trả lời:
- Giáo chủ Nataputta
bảo rằng nếu không cố tình giết thì không phạm tội.
Bụt cười và nói:
- Như vậy thì giáo chủ
Natputta công nhận ý tội là căn bản rồi; nói thân tội là căn bản sao được nữa?
Upali rất khâm phục đức
độ và tuệ giác của Bụt. Ông thưa với Bụt là ngay từ đầu Bụt đưa ra, ông đã thấy
giáo chủ giáo phái Nigantha là sai, nhưng ông vẫn cứ gạn hỏi để Bụt giảng giải
thêm nữa. Nghe đến đâu, ông càng thấy sáng và cuối cùng ông lạy Bụt xin Bụt cho
ông làm đệ tử.
Bụt nói:
- Upali, hãy nghĩ cho
thật kỹ. Một người trí thức có tầm vóc như ông không thể quyết định một cách vội
vã được. Hãy suy nghĩ cho thật chín chắn.
Upali lại quý mến Bụt
hơn vì câu nói vừa rồi của Bụt. Câu nói đó chứng tỏ Bụt không ham có thêm đệ tử,
dù là một đệ tử có uy tín lớn trong giới nhân sĩ như ông. Không một vị giáo chủ
nào khi nghe Upali xin vào đạo mà lại còn bảo Upali nên suy nghĩ cho chín chắn như
vị sa môn này. Upali nói:
- Thế Tôn, con đã suy
nghĩ chín chắn lắm rồi. Xin Bụt cho con quay về nương tựa Bụt, nương tựa Pháp
và nương tựa Tăng. Con rất mừng đã tìm thấy nền đạo lý chân chính, con rất mừng
đã tìm thấy Bụt.
Bụt nói:
- Cư sĩ Upali, lâu
nay ông là một trong những người bảo trì đắc lực nhất cho các thầy du sĩ phái
Nigantha. Vậy đừng vì theo tôi mà chấm dứt việc cúng dường các thầy bên đó.
Upali bạch:
- Thế Tôn thật là cao
cả. Thế Tôn thật là rộng lượng. Giáo chủ phái Nigantha không được như Thế Tôn
đâu.
Nghe tin Upali đã
theo Bụt, du sĩ Tappasi đến báo cho giáo chủ Nataputta. Vị này không tin, cả
hai tìm tới nhà Upali và được chính Upali cho biết sự thực.
Uy tín của Bụt và
giáo đoàn khất sĩ lên cao, nền đạo lý mới đã chinh phục được lòng người trong
hai nước lớn và trong các nước kế cận. Có nhiều vị khất sĩ tỏ vẻ vui mừng khi
báo tin này về Savatthi lên Bụt. Bụt nói:
Đáng mừng hay không là ở chỗ các thầy có tu học tinh tiến hay không. Chúng ta không nên vui buồn theo sự thịnh suy. Chúng ta phải học thái độ thản nhiên trước cái suy cũng như trước cái thịnh.
Một buổi sáng, trong
khi Bụt và các thầy khất sĩ đang chuẩn bị lên đường đi khất thực thì có một
toán cảnh sát vào tu viện Jetavana. Họ cho biết là được lệnh đi tìm một người
đàn bà mất tích. Các thầy ai cũng ngạc nhiên, không biết tại sao đi tìm một người
đàn bà mất tích mà lại tới tu viện nam giới vào một buổi sớm mai. Đại đức
Bhaddiya hỏi người bị mất tích là ai. Cảnh sát bảo là nữ du sĩ Sundari. Sundari
là một tiểu ni xinh đẹp của một giáo phái lớn có cơ sở ở Savatthi. Mấy tháng
nay cô thường hay đến tu viện để nghe thuyết pháp. Nói là để học hỏi thêm về
các tông giáo khác. Các thầy bảo với cảnh sát là hiện cô không có ở đây. Nhưng
các vị cảnh sát bảo là đã được lệnh khám xét kỹ lưỡng. Sau một hồi tìm kiếm, họ
phát giác được tử thi của tiểu ni Sundari chôn cất sơ sài trong đất tu viện,
không xa tịnh thất của Bụt là mấy.
Không ai hiểu được tại
sao cô Sundari chết và tại sao thi hài của cô lại bị chôn ở đất tu viện. Sau
khi cảnh sát đưa xác Sundari đi, Bụt bảo các thầy cứ đi khất thực như thường lệ,
người bảo:
- Quý vị hãy hết lòng
an trú trong chánh niệm.
Ngày hôm đó, giáo
phái của tiểu ni Sundari tổ chức rước thi hài cô đi ngang qua nhiều đường phố để
tụng niệm. Thỉnh thoảng họ dừng lại để khóc kể. Quần chúng thấy thế xúm lại gần.
Họ phân bua:
- Bà con cô bác có thấy
không? Xác của tiểu ni Sundari đó! Họ chôn trong đất của tu viện Jetavana! Bà
con nghĩ có chán ngán không? Họ xưng là con cháu dòng họ Sakya, là những người
tu theo phạm hạnh; họ nói từ bi hỷ xả, thế mà họ hãm hiếp người ta đến chết rồi
chôn dấu người ta đi cho mất tích! Bà con cô bác nghĩ sao?
Dân chúng ở Savatthi
rất hoang mang. Ngay trong số những người đã được trực tiếp biết Bụt và các vị
khất sĩ mà cũng có người cảm thấy niềm tin lung lay. Những người có tin vững
chãi nơi Bụt và nới các vị khất sĩ thì nghĩ rằng đây là một vụ vu khống. Tuy
nhiên họ cũng đau khổ không kém. Các giáo phái chống đối Bụt nhân cơ hội này
ráo riết tuyên truyền để triệt hạ uy tín của giáo đoàn khất sĩ. Đến đâu cũng nghe
người ta bàn tán về vụ này. Các vị khất sĩ tới đâu cũng bị chất vấn ráo riết. Họ
cố giữ thái độ trầm tĩnh và an trú trong chánh niệm như Bụt đã căn dặn, nhưng đối
với các vị khất sĩ mới tu và còn non yếu, việc đương đầu với quần chúng trong vụ
tiếng tăm này là một điều cực kỳ khó khăn. Họ cảm thấy tủi hổ. Nhiều khi họ
không muốn đi vào thành phố để khất thực nữa. Bụt biết được tâm trạng của các vị
khất sĩ này. Một buổi chiều tại giảng đường, người nói:
- Những chuyện oan ức
như thế này có thể xảy ra bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào. Quý vị khất sĩ đừng
cảm thấy tủi hổ. Quý vị chỉ nên cảm thấy tủi hổ khi mình không sống đời sống phạm
hạnh cho xứng đáng mà thôi. Nếu giới luật được nghiêm trì, nếu đời sống phạm hạnh
không có tì vết, thì không việc gì các thầy phải tủi hổ. Dư luận phát sinh, dư
luận tồn tại rồi dư luận sẽ tiêu diệt. Ngày mai đi khất thực mà có người hỏi,
quý vị cứ thẳng thắn trả lời: "Người nào gây nhân thì người ấy sẽ chịu quả."
Và chỉ cần nói từng ấy thôi là đủ.
Nghe Bụt nói thế, các
thầy cảm thấy được an ủi rất nhiều. Trong khi đó nữ cư sĩ Visakha rất khổ đau.
Bà có đức tin trọn vẹn nơi Bụt và nơi giáo đoàn. Bà biết đây là một vụ vu khống
để bôi nhọ Bụt và giáo đoàn khất sĩ. Ngay từ hôm nghe được tin này, bà lập tức
đi tìm cư sĩ Sudatta. Hai người đàm luận rất lâu, và cuối cùng họ đồng ý là phải
cho người đi bí mật dò la để tìm ra thủ phạm của vụ bôi nhọ.
Cư sĩ Sudatta đề nghị
phải có người giả trang đi thám thính ngay cả trong nội bộ giáo phái du sĩ của
tiểu ni Sundari. Hai người đến thăm thái tử Jeta để nhờ thái tử giúp một tay
trong việc này. Chỉ trong vòng bảy hôm, thám tử đã tìm ra được thủ phạm giết người.
Sau khi nhận tiền thù lao, hai tên giết người này đã đi ăn nhậu với nhau để
chia nhau số tiền được thưởng. Trong cơn say họ đã cãi lộn với nhau và tiết lộ
những điều bí mật. Cảnh sát hoàng gia đã được phái tới bắt họ. Các thủ phạm đã
thú nhận tất cả tội lỗi và kể tên những vị lãnh đạo tôn giáo đã thuê họ giết cô
Sundari và chôn dấu tử thi cô gần tịnh thất của Bụt.
Vua Pasenadi tới tu
viện Jetavan thăm Bụt sau khi được báo cáo về tin này. Vua tỏ ý mừng cho Bụt và
cho giáo đoàn vừa thoát được một tai nạn. Bụt cho vua biết là hận thù và ganh
ghét có thể làm cho con người mù quáng, và xin vua giảm tội cho các phạm nhân.
Người nói những vụ như thế này có thể xảy ra trong tương lai nếu con người không
vượt thắng được hận thù và ganh ghét.
Chỉ trong vòng hai
hôm sau là tất cả dân chúng trong thủ đô biết được sự thật về âm mưu bôi nhọ Bụt
và giáo đoàn khất sĩ. Dân chúng thủ đô bắt đầu nhìn các vị khất sĩ trở lại bằng
con mắt thán phục và nhiều kính nể.
0 Đánh giá