Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 62. Đừng Vội Tin Cũng Đừng Vội Bài Bác
Mùa an cư hoàn mãn, đại
đức Sariputta đến từ biệt Bụt để lên đường hành hóa, Bụt chúc đại đức lên đường
bình yên, thân thể và tâm trí nhẹ nhàng, không gặp quá nhiều khó khăn trên đường
giáo hóa. Đại đức Sariputta cảm tạ và lên đường ngay sau đó.
Trưa hôm ấy có một vị
khất sĩ lên tìm Bụt và phàn nàn với người là thầy đã bị đại đức Sariputta hất hủi.
Bụt hỏi hất hủi như thế nào. Vị khất sĩ ấy đáp:
- Con hỏi thầy ấy đi
đâu, thầy ấy đã không thèm trả lời mà lại còn xô con ngã rồi bỏ đi không thèm
xin lỗi.
Bụt bảo Ananda:
- Chắc Sariputta chưa
đi xa đâu. Ananda, hãy nhờ một vị sa di đi tìm đại đức Sariputta về. Tối hôm
nay chúng ta sẽ tập hợp đại chúng ở giảng đường Jeta.
Đại đức Ananda vâng mệnh.
Chiều hôm ấy đại đức Sariputta trở về tu viện với vị sa di. Thầy lên trình diện
Bụt. Bụt bảo:
- Sariputta, tối hôm
nay chúng ta sẽ họp tại giảng đường, có vị khất sĩ buộc tội thầy đã xô ngã thầy
ấy và bỏ đi không thèm xin lỗi.
Các đại đức
Moggallana và Ananda chiều hôm đó tay cầm xâu chìa khóa đi vào khắp các tăng xá
của tu viện. Tới đâu họ cũng thông báo về cuộc họp tối nay. Họ nói:
- Mời chư huynh đệ tối
nay tới họp mặt đông đảo tại giảng đường. Tối nay sư huynh Sariputta thế nào
cũng gầm lên tiếng gầm sư tử của sư huynh trước mặt Thế Tôn và đại chúng, sẽ
hào hứng lắm.
Tối hôm ấy giảng đường
không thiếu mặt ai. Ai cũng muốn biết đại đức Sariputta phản ứng thế nào trước
những người lâu nay đã có thái độ ganh ghét và hờn giận mình. Ai cũng biết rằng
đại đức là một người đệ tử lớn của Bụt và được Bụt tin yêu, và vì vậy ông đã là
mục tiêu của rất nhiều sự hiểu lầm và ganh ghét. Trong giới môn đệ Bụt, có người
nghĩ rằng Bụt đã tin cậy Sariputta một cách quá đáng, rằng người đã quá nghe lời
Sariputta, hoặc đã đi tới những quyết định dưới ảnh hưởng nặng nề của vị đại đức
này. Có người lại nghĩ rằng nếu họ bị Bụt quở trách và giáo giới đó là cũng vì Bụt
đã nghe những lời nói ra, nói vào của đại đức Sariputta. Và họ đem lòng hận thù
đại đức. Họ nhắc mãi tới việc năm xưa có lần Bụt đã mời Sariputta ngồi chung một
ghế.
Có một thầy tên là
Kokalika, trước đây cũng từng cư trú tại tu viện Jetava, và đã từng thù ghét
các sư huynh Sariputta và Moggallana đến nước không ai có thể can ngăn được. Chuyện
đã xảy ra cách trên tám năm, nhưng vẫn còn đậm nét trong lòng thầy Ananda.
Theo thầy Kokalika
thì cả hai vị đại đệ tử Bụt là Sariputta và Moggallana đều là những người tu
hành giả dối, đều là người hành động theo ái dục. Niềm ganh tỵ và hận thù của
thầy Kokalika quá lớn khiến không ai có thể hòa giải được. Chính Bụt đã có lần
gọi thầy tới và bảo: "Này khất sĩ Kokalika, đừng có nói rằng Sariputta và
Moggallana là những người bị ái dục chi phối. Họ là những người có đạo đức chân
thật và tính tình rất hòa ái."
Tuy nhiên vì tâm thầy
Kokalika đã bị hận thù che lấp nên thầy không tiếp nhận được lời của Bụt. Cuối
cùng thầy bỏ tu viện ra đi. Sau đó thầy mắc một chứng bịnh rất lạ kỳ. Da thầy
trở nên sần sùi, rồi tự nhiên đầy mình mọc ra hàng vạn cái mụt nhỏ lớn bằng hạt
cải, những cái mụt này lớn lên bằng những hạt đậu. Rồi những chiếc mụt ấy vỡ ra,
chảy đầy máu và mủ. Thuốc men nào cũng không chữa được, Bụt nhận thầy về tu viện,
nhưng thầy không về.
Sau đó thầy mạng chung.
Bụt rất xót thương. Người bảo: "Hận thù và ganh ghét là những chất độc làm
ung thối tâm hồn, sau khi làm ung thối tâm hồn, những chất độc ấy còn phá hoại
thân thể và gây thành những chứng bệnh rất kỳ lạ. Này các vị khất sĩ, các vị đừng
để cho những chất độc ấy thấm vào thân tâm."
Đại đức Ananda biết hết
những tình tiết đó cho nên đã ngần ngại rất nhiều trước khi nhận trách nhiệm
làm thị giả cho Bụt. Trong những điều kiện thầy đưa ra có điều kiện là nếu làm
thị giả cho Bụt, thầy xin Bụt đừng bao giờ cho thầy áo, đừng cho thầy ngủ chung
một phòng và đừng bao giờ chia cho thầy những thức ăn mà người ta cúng dường
riêng cho Bụt. Thầy biết rất rõ là trong số những người đến với Bụt có nhiều
người muốn được Bụt tiếp xử bằng một thái độ đặc biệt, và nếu không được tiếp xử
như thế họ cảm thấy buồn tủi và từ sự buồn tủi đó họ có thể sinh ra hờn án và
ghét bỏ luôn cả Bụt.
Đại đức Ananda nhớ rằng
hồi Bụt an cư tại làng Kaimasadamya ở Kosambi, có một người đàn bà tên là
Magandika đã vì không được Bụt đối xử một cách đặc biệt mà sinh lòng thù hận Bụt.
Magandika là một phụ nữ xinh đẹp, con gái của một gia đình Bà la môn. Lần đầu thấy
Bụt - hồi đó Bụt mới có bốn mươi bốn tuổi - cô đem lòng yêu mến người, rồi khi
tình cảm đó lớn mạnh, cô đòi hỏi Bụt có một biệt nhãn đối với cô. Cô đã làm mọi
cách để Bụt đối xử với cô như một người đặc biệt, nhưng cô không thành công.
Rốt cuộc, tình cảm biến
thành thù hận. Sau này trở nên thứ hậu của vua Udena xứ Vamsa, cô đã dùng quyền
thế và phương tiện của cô để cho người đi nói xấu và nhục mạ Bụt, làm áp lực
cho những chính quyền quận và ấp đừng cho Bụt và giáo đoàn tới thuyết pháp. Cô
lại tìm cách trả thù và hành hạ vương phi Samavati, một người rất được vua
Udayana ân sủng, chỉ vì người nầy là đệ tử rất thuần kính của Bụt. Thấy Bụt bị nhục
mạ và làm khó dễ quá, đại đức Ananda đề nghị người nên đi hành đạo tại một xứ
khác. Bụt hỏi:
- Nếu tới xứ khác mà
cũng bị nhục mạ và làm khó dễ nữa, thì ta sẽ đi đâu?
Ananda nói:
- Thì ta nên tới một
xứ khác nữa.
Bụt bảo:
- Nói như thế không
được. Ananda ơi, gặp khó khăn, ta không nên nản lòng. Phải từ trong môi trường
khó khăn ấy mà tìm ra giải pháp ổn thỏa. Ananda, nếu ta thực tập phép hành xã,
ta sẽ không thấy khó chịu khi bị nhục mạ, và những lời nhục mạ ấy không động được
đến ta. Những người chửi rủa ta sẽ không làm tổn thương được ta và chí hướng ta
nếu ta thực tập được phép xả; còn họ, họ sẽ phải chịu đựng những kết quả của sự
chửi rủa của họ. Khi một người nhổ nước bọt lên trời với ý định làm bẩn người,
trời đã không bị bẩn mà nước bọt sẽ rơi xuống mặt người nhổ nước bọt.
Bụt đã thành công năm
xưa ấy, Ananda thấy lòng bình thản và không lo ngại gì cho đại đức Sariputta tối
nay. Đạo hạnh của Sariputta đã được số đông các huynh đệ công nhận. Nếu đứng
vào địa vị của Bụt, chắc Ananda cũng phải làm như Bụt và cũng phải trọng dụng đại
đức Sariputta.
Sư huynh Sariputta thật
xứng đáng ở địa vị một huynh trưởng. Thông minh xuất chúng, kiến giải và đạo hạnh
cao siêu, sư huynh đã từng thay thế Bụt nhiều lần trong việc lãnh đạo giáo
đoàn. Sư huynh đã thuyết pháp nhiều lần và nhiều bài pháp thoại của sư huynh đã
được Bụt khen ngợi và cũng đã được trùng tuyên thành kinh điển.
Chính Kinh Dấu Chân
Voi - Hatthipadopanna sutta - là do sư huynh nói. Trong kinh này sư huynh đã dạy
về tứ diệu đế. Sư huynh không lặp lại những lời của Bụt, mà đã diễn giải tứ diệu
đế một cách rất kỳ thú căn cứ vào sự tu chứng của bản thân sư huynh. Những lời
sư huynh nói về bốn yếu tố đất, nước, lửa và không khí liên hệ tới năm uẩn thật
là những giáo lý kỳ đặc và mới mẻ.
Khi Bụt bước vào giảng
đường, tất cả các vị khất sĩ đều đứng dậy. Người đưa tay mời mọi người an tọa.
Người cũng ngồi xuống pháp tọa để dành cho người và ra hiệu cho đại đức
Sariputta tới ngồi trên một chiếc ghế thấp bên tay phải của người.
Đợi cho mọi người an
tọa hết. Bụt mới xoay lại nói với đại đức Sariputta:
- Sariputta, có vị khất
sĩ buộc tội thầy xô vị ấy ngã và bỏ đi mà không xin lỗi. Thầy có điều gì nói về
việc này không?
Đại đức Sariputta đứng
dậy chắp tay xá Bụt rồi chắp tay xá đại chúng. Thầy lên tiếng:
- Thế Tôn, một ông thầy
tu không tu, không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động
tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu của mình
và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Thế Tôn, con nhớ bài học mà ngày xưa Thế Tôn đã
dạy cho khất sĩ Rahula, hồi ấy mới mười tám tuổi, cách đây đã trên mười bốn năm.
Thế Tôn dạy Rahula học theo hạnh của đất, của nước, của lửa và của không khí, để
nuôi dưỡng và phát triển bốn đức Từ, Bi, Hỷ và Xả. Hôm ấy con cũng có mặt. Thế
Tôn dạy Rahula, nhưng con đã có duyên học và thực tập bài học ấy trong suốt mười
bốn năm qua và con đã nhiều lần thầm biết ơn Thế Tôn về bài học ấy.
Thế Tôn, con đã tập hành sự như đất, và con đã thành công. Đất bao giờ cũng đầy đặn, rộng lớn, bao la, có khả năng thu nhận và chuyển hóa. Dù người ta đổ và rải lên những thứ tinh sạch như hoa, nước thơm, sữa thơm hoặc đổ và rải xuống đất những thứ dơ bẩn và hôi hám như phân, nước tiểu, máu, mủ, đàm, nhớt... thì đất cũng tiếp nhận những thứ đó một cách thản nhiên, không tham đắm, không giận hờn, cũng không ghê tởm...
Lạy Bụt, con đã quán
niệm để thân và tâm con được như đất. Một ông thầy tu không quán niệm thân thể
nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu
như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con
không đến nỗi như vậy.
Thế Tôn, con đã tập
hành sự như nước. Khi người ta giặt những thứ thơm tho hoặc dơ bẩn trong nước,
nước cũng không vì thế mà cảm thấy tham đắm hoặc tủi nhục, buồn khổ và chán chường.
Nước bao la, lưu chuyển, có năng lực hóa giải và gạn lọc. Lạy Bụt, con đã quán
niệm để thân và tâm con được như nước. Một ông thầy tu không quán niệm thân thể
nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu
như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con
không đến nỗi như thế.
Thế Tôn, con đã tập
hành sự như lửa. Lửa đốt cháy mọi thứ kể cả những cái đẹp đẽ hoặc hôi hám và dơ
bẩn, nhưng lửa không vì vậy mà cảm thấy hoặc tham đắm hoặc tủi nhục, buồn giận
và chán chường. Lửa có năng lực thiêu đốt, gạn lọc và hóa giải. Lạy Bụt, con đã
quán niệm để thân và tâm con được như lửa. Một ông thầy tu không quán niệm thân
thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy
tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con
không đến nỗi như thế.
Thế Tôn, con đã tập
hành sự như không khí. Không khí thổi đi những thứ mùi hoặc thơm hoặc thối, dù
mùi đó là mùi máu mủ, phân và nước tiểu, mà không cảm thấy tham đắm hoặc tủi nhục,
buồn giận hay chán chường. Không khí có khả năng giải tỏa, gạn lọc và hóa giải.
Lạy Bụt, con đã quán niệm để thân và tâm con được như không khí. Một ông thầy
tu không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của
thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà
không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như thế.
Thế Tôn, như một em
bé dòng dõi hạ tiện, áo quần rách rưới ôm bát vào làng xóm mà xin ăn; trong
lòng không có một hào ly nào tự phụ, con cũng thế, trái tim con cũng như trái
tim của một em bé dòng dõi hạ tiện, luôn luôn tràn đầy khiêm cung, đâu có dám lên
mặt với ai. Lạy Bụt, một ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi thân thể,
không có ý thức về những động tác của tâm ý, một ông thầy tu như thế có thể xô
ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như thế.
Đại đứ Sariputta còn
muốn nói nữa, nhưng vị khất sĩ buộc tội đại đức đã đứng dậy. Vị này vắt chéo áo
sanghati lên vai, và lạy xuống trước Bụt, rồi quỳ xuống với hai bàn tay chắp lại,
vị ấy nói:
- Bạch Thế Tôn, con
đã phạm giới, con đã buộc tội sư huynh Sariputta một cách oan uổng, con xin sám
hối trước Bụt và đại chúng để được thanh tịnh, và tự nguyện từ nay về sau sẽ
không tái phạm.
Bụt nói:
- Thầy đã nhận là mình
có tội trước đại chúng và sám hối. Điều này rất tốt, đại chúng đã chấp nhận sự
sám hối của thầy.
Quay lại đại đức
Sariputta, Bụt nói:
- Mong đại đức bỏ qua
lỗi lầm của vị khất sĩ này.
- Con xin sẵn lòng bỏ
qua nếu thầy ấy hối cải, và con cũng xin thầy ấy bỏ qua và tha thứ những lỗi lầm
có thể có của con.
Vị khất sĩ đến trước
Sariputta chắp tay lại làm lễ, Đại đức Sariputta đứng dậy đáp lễ. Hai vị cung
kính lạy nhau. Đại chúng rất hoan hỷ. Không khí rất cởi mở và hòa dịu. Đại đức
Ananda đứng dậy nói:
- Sư huynh Sariputta,
mời sư huynh ở lại chơi với các huynh đệ dăm ba hôm rồi sau đó hãy lên đường đi
hành hóa. Anh em rất nhiều người muốn được gặp gỡ thân mật với sư huynh.
Đại đức Sariputta mỉm
cười, im lặng chấp thuận. Sau mùa an cư, Bụt đi du hành ở nhiều thị trấn trong
xứ. Một hôm người đến Kesaputta, thị trấn của bộ tộc Kalama. Giới trẻ tìm gặp
người rất đông, họ đã từng nghe tiếng sa môn Gotama nhưng chưa lần nào được gặp.
Một thanh niên chắp tay hỏi Bụt:
- Sa môn Gotama, lâu
nay có rất nhiều vị đạo sĩ Bà la môn đến viếng xứ Kesaputta này, để giảng dạy đạo
lý. Vị nào cũng nói chỉ có đạo lý của mình là hay và thường hay chê bai những đạo
lý khác. Chúng con thật là bối rối, không biết đường nào mà đi, và rốt cuộc
chúng con sinh ra nghi ngờ tất cả. Sa môn, chúng con nghe nói người là bậc giác
ngộ liêm trực, xin người cho chúng con biết là nên tin theo ai và không nên tin
theo ai? Ai là nói đúng và ai là người đang truyền bá tà thuyết?
Bụt nói:
- Trong trường hợp
này, nếu các bạn có sinh tâm nghi ngờ, đó cũng là việc tự nhiên, dễ hiểu.
Nầy các bạn, các bạn
đừng vội tin vào một điều gì dù điều đó là điều mà người ta thường nói đến
luôn, dù điều đó có trong kinh điển, dù điều đó là do một bậc thầy mà thiên hạ
tôn sùng nói ra. Các bạn chỉ nên chấp nhận và tin vào những điều mà các bạn thấy
hợp với lý trí của các bạn, những điều được các hiền nhân đồng ý, những điều mà
nếu đem ra thực hành thì đưa tới những kết quả tốt đẹp cho đời sống, còn những
điều không hợp với lý trí, những điều bị các hiền nhân chê trách, những điều mà
nếu đem ra thực hành thì đưa tới khổ đau và đổ vỡ, những điều đó các bạn nên
bác bỏ, đừng chấp nhận nữa.
Người thanh niên
Kalama nói:
- Xin sa môn Gotama
chỉ bày thêm cho chúng con.
Bụt hỏi:
- Này các bạn, ví dụ
có một người để tham vọng, giận hờn và si mê chế ngự tâm mình, thì những tham dục
giận hờn và si mê ấy sẽ làm cho kia vui hay là khổ?
- Thưa sa môn, những
tham vọng, giận hờn và si mê ấy sẽ làm cho người kia phạm vào tội ác và sẽ đem
lại khổ đau lâu dài cho người ấy.
- Vậy thì sống theo
tham vọng, giận hờn và si mê có phải là lối sống mà các bậc hiền nhân chấp nhận
và khuyến khích không?
- Thưa không.
- Giả dụ có một người
kia sống theo hạnh Từ, Bi, Hỷ, và Xả, biết đem lại hạnh phúc cho kẻ khác, biết
làm giảm bớt nỗi khổ của người đời, biết vui theo niềm vui của kẻ khác, biết đối
xử với kẻ khác một cách không kỳ thị, không oán trách, thì những hạnh Từ, Bi, Hỷ,
và Xả ấy sẽ làm cho người ấy vui hay là khổ?
- Những hạnh ấy không
những sẽ làm cho người ấy có hạnh phúc mà còn làm cho mọi người sống chung
quanh có hạnh phúc nữa.
- Vậy thì sống theo Từ,
Bi, Hỷ, và Xả có phải là lối sống mà các bậc hiền nhân chấp nhận và khuyến
khích không?
- Thưa sa môn, có.
- Hay lắm, các bạn.
Các bạn hiện có đầy đủ tư cách để phán xét những gì nên tin và nên chấp nhận,
và những gì không nên tin và không nên chấp nhận. Tôi xin nhắc lại: chỉ nên tin
và chấp nhận những gì hợp với trí xét đoán của mình, những gì được các bậc hiền
nhân chấp nhận và khuyến khích, những gì mà nếu đem ra thực hành sẽ đem lại niềm
vui và hạnh phúc cho mình và cho kẻ khác. Những gì sai trái, chống lại niềm vui
và hạnh phúc, thì nên từ chối, đừng chấp nhận.
Những người trẻ trong
bộ tộc Kalama rất lấy làm hoan hỷ sau khi nghe Bụt nói. Họ nhận thấy giáo lý của
Bụt rất phù hợp với lý trí họ, không đòi hỏi một đức tin không điều kiện. Họ thấy
nơi giáo lý ấy một niềm tôn trọng tự do tư tưởng rất lớn. Nhiều người xin được
quy y làm học trò của Bụt.
0 Đánh giá