Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 67. Nước Biển Chỉ Có Vị Mặn
Mùa an cư năm ấy hoàn
mãn, nhiều vị đại đức lên từ giã Bụt để đi hoằng hóa ở các địa phương. Đại đức
Punna, vốn là một trong những vị giảng sư nổi tiếng của giáo đoàn khất sĩ,
trình với Bụt là đại đức có ý về quê để hành đạo. Sinh quán của đại đức là đảo
Sunaparanta, ở ngoài khơi biển Đông, Bụt hỏi:
- Tôi nghe nói vùng
đó là một vùng chưa được khai hóa, những giống dân cư trú tại đó tính tình hung
dữ và các vụ bạo động thường xảy ra luôn, không biết là thầy về đó hành đạo có
tiện hay không.
Đại đức Punna bạch:
- Lạy Bụt, chính vì họ
chưa được khai hóa cho nên chúng ta phải tới để giúp họ. Chính vì họ hung dữ và
bạo động nên chúng ta phải đem đạo từ bi và phép hành xử bất bạo động đến. Con nghĩ
là con có thể thành công ở đó được.
- Punna, nếu thầy
đang thuyết pháp mà họ cứ tới la ó và chửi mắng vào mặt thầy thì thầy tính sao?
- Lạy Bụt, con nghĩ
la ó và chửi mắng cũng chưa lấy gì làm dữ lắm. Họ cũng còn chưa liệng đá và đồ
dơ vào con.
- Nhưng nếu họ liệng
đá và đồ dơ vào thầy?
- Lạy Bụt, liệng đá
và đồ dơ cũng chưa lấy gì làm dữ lắm. Họ cũng còn chưa lấy gậy đánh vào con.
- Nhưng nếu họ lỡ họ
lấy gậy đánh vào thầy?
Đại đức Punna cười:
- Lạy Bụt, như vậy họ
cũng còn hiền lắm. Họ vẫn chưa giết con.
- Nhưng nếu như họ lỡ
họ giết thầy?
- Điều nầy không xảy
ra đâu, bạch đức Thế Tôn, mà dù nó có xảy ra đi nữa thì chết vì đạo lý từ bi và
bất bạo động vẫn là một cái chết có ý nghĩa, có thể giáo dục người ta được. Lạy
Bụt, người ta sống trên đời ai cũng phải có một lần chết, nếu cần chết vì lý tưởng
từ bi và bất động, con sẽ không từ nan.
Bụt khen:
- Hay lắm Punna! Thầy
có dư sức đi hành hóa tại xứ Sunaparanta. Tôi hỏi để các thầy khác cũng được
nghe mà thôi, chứ riêng tôi, tôi không nghi ngờ gì về khả năng và lập trường bất
bạo động của thầy hết.
Đại đức Punna ngày
xưa vốn là thương gia. Hồi ấy Punna thường cùng với người em rể đi buôn, bỏ
hàng từ Savatthi đem về Sunaparanta và chở những sản phẩm địa phương tại quê
nhà đem bán ở lục địa. Họ dùng ghe thuyền và xe bò để chuyên chở hàng hóa. Một
hôm chở hàng tới Savatthi, Punna được trông thấy một đoàn khất sĩ đang trang
nghiêm đi khất thực. Do đó Punna đã tìm tới được tu viện Jeatvana và đã được
nghe Bụt thuyết pháp. Nghe xong bài thuyết pháp, Punna không muốn đi buôn nữa.
Ông muốn theo Bụt để làm khất sĩ. Ông giao hết tất cả hàng hóa tiền bạc cho người
em rể và tới chùa xin Bụt cho phép xuất gia. Đại đức Punna rất thông minh, đại đức
tu học rất tinh tiến và đã trở nên một vị giảng sư xuất sắc. Đại đức đã từng đi
hành hóa nhiều nơi trong các vương quốc Kosala và Magadha. Ai cũng nghĩ rằng
kinh nghiệm và đạo hạnh của đại đức đủ bảo đảm cho sự thành công của đại đức tại
quê nhà.
Mùa Xuân năm sau,
trong chuyến đi về miền Đông, Bụt đã ghé thăm Vesali, Campa, và theo dòng sông
đi ra tới miền biển để giáo hóa. Bụt và các vị khất sĩ đã có những dịp ra ngồi
rất lâu trên bờ biển. Một lần kia, đại đức Ananda nói với Bụt:
- Bạch Thế Tôn, nghe
tiếng sóng vỗ, nhìn các đợt sóng, chấm dứt mọi suy tư, theo dõi hơi thở và an
trú trong hiện tại, con thấy thân tâm thật thoải mái, và đại dương như giúp con
đổi mới trong từng giây từng phút.
Bụt gật đầu. Có một
hôm nọ đứng nói chuyện với ngư dân ven biển, đại đức Ananda hỏi các ngư dân này
nghĩ gì về biển cả. Một người đàn ông cao lớn, nước da sạm nắng, dáng người rất
đẹp nói với thầy:
- Biển có những đặc
tính rất lớn và tôi ưa biển vì những đặc tính ấy. Đặc tính thứ nhất là biển có
những bãi cát thoai thoải đưa ta đi từ từ xuống nước, khiến cho việc thả thuyền
và kéo lưới trở nên rất dễ dàng. Đặc điểm thứ hai là biển luôn luôn ở tại chỗ, biển
không bao giờ dời chỗ. Mình muốn ra biển thì mình biết hướng mà tìm đi. Đặc điểm
thứ ba là biển không chấp nhận thây chết. Khi có thây chết, biển luôn luôn đẩy
nó lên bãi. Đặc điểm thứ tư là biển chấp nhận nước của tất cả các dòng sông, dù
đó là sông Ganga, sông Yamuna, sông Aciravati, sông Sarabhu hay sông Mahi. Sông
nào ra tới biển thì cũng bỏ tên riêng của mình để mang tên biển cả. Đặc điểm thứ
năm là tuy ngày đêm muôn sông liên tiếp đổ nước về biển, biển cũng không vì vậy
mà có khi vơi khi đầy. Đặc điểm thứ sáu là nước biển ở đâu cũng mặn. Đặc điểm
thứ bảy là trong lòng biển có biết bao nhiêu thứ san hô, xà cừ và ngọc quý. Đặc
điểm thứ tám là biển làm chỗ dung thân cho hàng triệu loài sinh vật, trong đó
có những loài rất lớn dài hàng trăm do tuần, và những loài nhỏ bé như cây kim
hoặc hạt bụi. Thưa các thầy, tôi chỉ nói có chừng đó, các thầy cũng thấy tôi
yêu biển đến chừng nào.
Ananda nhìn kỹ bác
ngư dân. Bác này làm nghề chài lưới mà nói năng như là một thi sĩ. Thầy hướng về
phía Bụt:
- Thế Tôn, bác ngư
dân này ca tụng biển rất hay. Thế Tôn, bác ngư dân yêu biển thế nào thì con
cũng yêu đạo pháp giác ngộ như thế, con thấy đạo pháp của Thế Tôn có rất nhiều
đặc tính tuyệt vời, đạo pháp này cũng bao la như biển cả, mong Thế Tôn dạy cho
chúng con.
Bụt mỉm cười, đưa tay
chỉ ghềnh đá:
- Chúng ta hãy tới ngồi
trên những tảng đá kia. Tôi sẽ nói cho các vị nghe về những đặc tính của đạo
pháp giác ngộ.
Mọi người theo Bụt
leo lên ngồi trên ghềnh đá. Các bác ngư dân cũng được mời theo. Khi mọi người
đã an tọa quanh Bụt, Bụt cất tiếng:
- Nầy quý vị, bác ngư
dân vừa nói tới tám điều đáng yêu của biển. Tôi cũng sẽ nói tới tám điều đáng
yêu của chánh pháp.
Thứ nhất, nếu biển có những bờ cát thoai thoải có thể đưa ta đi từ từ xuống nước, khiến cho việc thả thuyền và kéo lưới trở nên dễ dàng, thì chánh pháp cũng vậy. Trong đạo pháp này, mọi người có thể đi từ dễ tới khó, từ thấp tới cao, từ cạn tới sâu. Chánh pháp mở rộng cho tất cả mọi người thuộc đủ loại căn tính: ai cũng có thể đi vào chánh pháp được cả. Dù là em bé, người già, giác ngộ trí thức, kẻ thiếu học... tất cả đều tìm thấy pháp môn tu học thích hợp với mình trong đạo pháp này.
Thứ hai, nếu biển
luôn luôn ở tại chỗ mà không dời đi nơi khác, không cuốn phăng đi xóm làng và
thành thị, thì chánh pháp cũng thế, những nguyên tắc của chánh pháp luôn luôn
không thay đổi, và giới luật của người thọ trì chánh pháp đã được quy định rõ
ràng, Ở đâu có sự học hỏi và thực hành đúng theo những nguyên tắc ấy và những
giới luật ấy là ở đó có chánh pháp, không thể nào sai chạy được.
Thứ ba, nếu biển
không bao giờ dung túng một thây chết trong lòng nó thì chánh pháp cũng vậy.
Chánh pháp không dung túng được vô minh, biếng lười và hành động phạm giới. Một
người không tu trong một đại chúng có tu, không thể nào cư trú lâu dài được.
Người đó sớm muộn gì cũng phải bị đẩy ra khỏi đoàn thể và giáo pháp.
Thứ tư, nếu biển chấp
nhận nước của tất cả các dòng sông không phân biệt kỳ thị thì chánh pháp cũng
thế. Từ giai cấp nào trong bốn giai cấp xã hội, người ta cũng được đón tiếp một
cách bình đẳng vào trong đạo pháp này. Cũng như khi nước các dòng sông chảy ra
biển, chúng bỏ lại sau lưng mình tên của dòng sông và bắt đầu lấy tên biển cả, những
người đi vào trong đạo pháp của tôi không còn mang theo giai cấp, dòng dõi và địa
vị xã hội của họ: tất cả đều được gọi chung là người khất sĩ.
Thứ năm, nếu biển
không vơi đi cũng không đầy thêm dù đêm ngày muôn sông vẫn tiếp tục chảy về,
thì chánh pháp cũng vậy. Chánh pháp là chánh pháp, không phải vì có nhiều người
đi theo mà mới là chánh pháp, không phải là vì ít người đi theo mà đạo pháp
không phải là chánh pháp. Sự thịnh suy không đánh giá được chân lý của đạo pháp
này.
Thứ sáu, nếu nước biển
ở đâu cũng chỉ có một vị là vị mặn, thì chánh pháp cũng thế. Dù giáo pháp được
trình bày ra nhiều cách, dù có hàng ngàn hàng vạn pháp môn, thì chánh pháp cũng
chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Không có công năng giải thoát thì đó không
phải là chánh pháp.
Thứ bảy, nếu trong
lòng biển có vô số các loại san hô, xà cừ và ngọc quý thì chánh pháp cũng thế.
Trong đạo pháp ta có nhiều pháp môn vi diệu và quý báu như tứ diệu đế, tứ chánh
cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lục, thất bồ đề và bát chánh đạo.
Thứ tám, nếu biển là
chỗ dung thân thoải mái cho hàng triệu loài sinh vật trong đó có những loài vật
nhỏ như hạt cát và dài lớn đến hàng trăm do tuần, thì chánh pháp cũng thế.
Trong đạo pháp ta, một em bé hay một người ít học vẫn có thể cơ hội tu học thoải
mái. Trong đạo pháp ta, những bậc đại nhân có kích thước lớn như những vị bồ
tát, có thể có cơ hội tu học và hoằng hóa trong một môi trường thênh thang.
Trong đạo pháp ta cũng có vô số các vị đã chứng đạt quả vị Nhập lưu, Nhất hoàn,
Bất hoàn và A la hán.
Nầy quý vị, biển cả
là một nguồn cảm hứng, là một kho tàng vô tận. Chánh pháp là một nguồn cảm hứng,
là một kho tàng vô tận.
Đại đức Ananda chắp
tay nhìn Bụt:
- Thế Tôn, người là một
vị đạo sư, nhưng người cũng là một thi sĩ nữa.
0 Đánh giá