Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 71. Nghệ Thuật Lên Dây Đàn
Mùa an cư hoàn mãn, Bụt
lên đường về miền Nam. Người ghé thăm vườn Nai Migaradava ở Isipatana, phía Bắc
thành phố Baranasi, nơi người đã nói pháp thoại Tứ Diệu Đế, pháp thoại đầu tiên
của người. Quang cảnh ở đây đã đổi khác. Một cái tháp lớn đã được dân chúng địa
phương dựng lên để kỷ niệm lần đầu tiên bánh xe chánh pháp được chuyển xoay.
Mới đó mà ba mươi sáu
năm đã đi qua, bánh xe chánh pháp đã được chuyển xoay liên tục trong mười sáu
năm và chánh pháp đã được lan truyền đến mọi nơi, trên khắp lưu vực sông Hằng.
Tại vườn Nai, một giảng
đường đã được tạo lập và các vị khất sĩ cư trú tu học rất là đông đảo. Sau khi
thăm hỏi, thuyết pháp và khích lệ đại chúng, Bụt lên đường đi Gaya. Người ghé
Uruvela thăm cây bồ đề năm xưa. Cây bồ đế càng ngày càng xanh tốt. Nhiều tịnh
thất đã được dựng lên trong vùng. Vua Bimbisara đang chuẩn bị cho xây một ngôi tháp
kỷ niệm nơi Bụt thành đạo. Bụt ghé vào thôn xóm để chơi với bọn trẻ con. Những
đứa trẻ năm nay không khác gì những đứa trẻ năm xưa. Chú bé chăn trâu Svastika
năm xưa nay đã bốn mươi bảy tuổi rồi và đã trở nên một vị lớn tuổi trong giới
khất sĩ. Bọn trẻ đi hái những trái đu đủ chín đỏ để cúng dường Bụt, đứa nào
cũng biết đọc bài tam quy.
Từ Gaya, Bụt đi dần
lên phía Đông Bắc để về Rajagaha. Về tới thủ đô, Bụt đi thẳng lên núi Linh Thứu.
Tại đây, Bụt gặp đại đức Punna. Thấy Bụt, đại đức rất mừng. Thầy kể cho Bụt
nghe về công trình hoằng pháp của thầy tại đảo Sunaparanta. Thầy vừa mới kết
thúc một mùa an cư tại đó với một số các vị khất sĩ bạn. Số người quy y Bụt,
Pháp và Tăng ở đảo đã lên tới con số năm trăm.
Những ngày kế tiếp, Bụt
đi thăm các trung tâm tu học rải rác trong vùng. Một đêm kia, tĩnh tọa trong tịnh
thất tại trung tâm vườn Mát. Bụt thoáng nghe được giọng tụng kinh hơi bất thường
của một vị khất sĩ. Giọng tụng kinh này có vẻ mệt mỏi và buồn chán. Bụt biết vị
khất sĩ này đang gặp khó khăn.
Sáng hôm sau, nhờ hỏi
đại đức Ananda, Bụt biết vị khất sĩ tụng kinh hồi hôm là Sona. Bụt đã từng biết
Sona nhiều năm về trước tại Savatthi. Đại đức Kulikanna đã được xuất gia dưới sự
hướng dẫn của đại đức Maha Kaccana, và tu học với đại đức này mấy năm trên núi
Pavatta ở xứ Kururaghara. Sona là một thanh niên con nhà giàu, nho nhã thông minh,
nhưng thể chất không được cứng cáp cho lắm. Thầy phải cố gắng hết sức mới sống
được đời sống xuất gia không nhà không cửa, ăn một ngày một bữa và ngủ dưới gốc
cây, nhưng đạo tâm của Sona rất lớn. Năm sau, thầy Sona mới được đại đức bổn sư
phái về Savatthi thăm Bụt. Được gặp Bụt lần đầu, thầy Sona rất sung sướng, Bụt
hỏi thăm thầy:
- Sona, thầy có mạnh
giỏi không? Tu học, khất thực và hành hóa có khó khăn lắm không?
- Bạch Thế Tôn, con hạnh
phúc lắm. Công việc tu học, khất thực và hành hóa của con không có gì khó khăn.
Bụt bảo thầy Ananda:
- Thầy dọn cho khất
sĩ Sona một chỗ nghỉ ngơi trong tịnh thất.
Đại đức Ananda kê
thêm một cái giường trong tịnh xá Bụt. Đêm ấy, Bụt ngồi thiền ngoài trời cho tới
ba giờ sáng. Sona thấy thế cũng không ngủ. Khi Bụt bước vào, người hỏi:
- Thầy chưa ngủ sao?
- Bạch Thế Tôn, con
chưa ngủ.
- Thầy chưa buồn ngủ
sao? Vậy thì thầy có thuộc được kinh kệ gì, đọc lên cho vui đi.
Đại đức Sona vâng lời
đọc lên mười sáu câu kệ thuộc phép quán niệm hơi thở. Giọng thầy trong như
chuông, không vấp váp, không có một lỗi văn phạm. Bụt khen:
- Thầy đọc hay lắm,
thầy tu đã được mấy năm rồi?
- Bạch Thế Tôn, con mới
đi tu được có hơn một năm thôi. Con chỉ mới có một tuổi an cư.
Đó là lần đầu Bụt gặp
thầy Sona. Đêm qua nghe tiếng tụng kinh của thầy. Bụt biết là Sona đã cố gắng
quá sức mình trong nỗ lực tu học. Người bảo Ananda cùng đi với người tới tịnh
thất của thầy Sona. Thấy Bụt, Sona đứng dậy chào mừng. Bụt bảo Ananda và Sona
ngồi xuống cạnh Bụt, rồi người hỏi Sona:
- Ngày trước, hồi
chưa xuất gia, thầy là nhạc sĩ chuyên về đàn mười sáu dây, phải không?
- Bạch Thế Tôn, phải.
- Khi đánh đàn, nếu
dây đàn chùng thì sao?
- Bạch Thế Tôn, nếu
dây đàn chùng thì tiếng đàn chưa đúng mức.
- Còn nếu dây quá
căng.
- Bạch Thế Tôn, nếu
dây đàn quá căng thì tiếng đàn biến thể và dây đàn có thể đứt.
- Còn nếu dây đàn được
lên vừa phải?
- Bạch Thế Tôn, nếu
dây đàn được lên vừa phải thì bản nhạc sẽ hay.
Đúng như vậy đó, Sona! Giải đãi và lười biếng thì đạo nghiệp không thành, mà cố gắng quá sức mình thì sẽ đưa tới sự mệt mỏi và thối chí. Sona! Thầy phải biết lượng sức mình, đừng ép uổng thân và tâm quá mức, như vậy thầy mới mong thành tựu được đạo nghiệp.
Đại đức Sona đứng dậy
lạy xuống để cảm tạ Bụt. Một buổi chiều, y sĩ Jivaka, lên núi Linh Thứu thăm Bụt.
Tới chân núi, ông gặp Bụt, Bụt mới ở tu viện Trúc Lâm về. Ông chào Bụt và xin phép
được đi theo người lên núi. Jivaka nhìn Bụt leo các bậc thang đá lên núi mà
trong bụng khen thầm. Năm nay Bụt đã bảy mươi hai tuổi rồi mà người còn cứng
cáp và mạnh khỏe quá, Bụt leo núi một cách thong thả và ung dung, một tay cầm
bát, một tay cầm chéo áo. Đại đức Ananda đi cạnh Bụt không thể cầm bát thay cho
Bụt được, bởi vì một tay thầy cũng cầm bát và một tay thầy cũng cầm chéo áo.
Jivaka tiến lên và xin mang bình bát hầu Bụt. Bụt trao bình bát cho ông và mỉm
cười:
- Như Lai đã leo núi
này có cả mấy ngàn lần, lần nào cũng tự cầm lấy bát, thì đã có sao đâu.
Bậc đá được xây lên tận
thềm tịnh xá của Bụt ở trên đỉnh đồi. Chính vua Bimbisara đã ra lệnh xây mấy
trăm bậc đá này để cúng dường. Lên tới sân tịnh xá, y sĩ được Bụt mời ngồi trên
một tảng đá. Ông cám ơn Bụt rồi hỏi thăm Bụt về tình hình sức khỏe và công việc
hoằng hóa của người ở các nước. Ông nhìn đại đức Ananda rồi nhìn Bụt. Ông nói:
- Bạch Thế Tôn, con
xin phép nói sơ lược về tình trạng giáo đoàn ở đây. Con thấy tình trạng giáo
đoàn có liên hệ tới tình trạng chính trị. Con nghĩ Thế Tôn cần phải được thông
báo về tình hình này.
Rồi y sĩ cho Bụt biết
rằng đại đức Devadatta có vây cánh khá mạnh mẽ và đông đảo trong giới các vị khất
sĩ cũng như trong giới chính trị. Cánh tay trái của đại đức là đại đức
Kokalika, một người được xem như là mưu sĩ của đại đức Devadatta. Ngoài ra còn
có các đại đức Kotamoraka Tissa, Khandadeviputta và đại đức Samuddadatta; vị nào
cũng có đông đảo đệ tử.
Đại đức Devadatta rất
thông minh mà cũng rất hùng biện cho nên được rất đông người nghe theo, trong
giới khất sĩ cũng như trong giới cư sĩ. Đại đức không chính thức nói ra là đại
đức chống đối Bụt và các vị đại đệ tử phụ tá người, nhưng đại đức đã nhiều lần
đưa ra ý kiến là Bụt đã lớn tuổi, không đủ sức để lãnh đạo giáo đoàn, và cách
thức của Bụt đã hơi xưa không thích hợp với giới trẻ và với thời đại mới. Đứng về
phương diện xã hội, đại đức rất được nhiều giới giàu có ủng hộ.
Người ủng hộ đại đức
tận tình nhất là hoàng thái tử Ajatasattu. Không biết đại đức khéo léo thế nào
mà thái tử Ajatasattu đã ủng hộ đại đức một cách tận tình. Hoàng thượng
Bimbisara tin kính Bụt như thế nào thì Ajatasattu tin kính đại đức Devadatta
như thế ấy. Thái tử đã xây cất cho đại đức một trung tâm tu học lớn trên núi
Gayasisa, nơi ngày xưa Bụt đã nói Kinh Lửa cho ba anh em đại đức Uruvela
Kassapa và cả gần một ngàn vị môn đệ của họ. Thái tử cho chở tới trung tâm các
thức cúng dường, chở bằng xe ngựa, ba bốn hôm một lần. Giới thương gia và chính
trị gia muốn được lòng thái tử cũng bắt chước đi lại Gayasisa để cúng dường và
nghe pháp. Với sự ủng hộ đó, uy tín của đại đức càng lúc càng lên. Số các vị khất
sĩ theo hùa về đại đức đã có đến ba hoặc bốn trăm vị. Nói tới đây, y sĩ lại
nhìn Bụt và xuống giọng:
- Bạch Thế Tôn, con
nghĩ rằng những gì xảy ra đó không đủ để làm Thế Tôn e ngại, nhưng điều này con
xin Thế Tôn lưu ý cho con, con nghe phong phanh là Ajatasattu muốn sớm làm vua
để thi hành được những gì mà thái tử muốn, Ajatasattu nóng ruột thấy vua cha ngồi
ở trên ngôi lâu quá; cũng như đại đức Devadatta nóng ruột thấy Bụt chưa giao
quyền lãnh đạo giáo đoàn cho đại đức. Con nghĩ rằng chính đại đức Devadatta đã gieo
những ý tưởng nguy hiểm vào đầu thái tử Ajatasattu, Thế Tôn, vì phải lui tới
kinh đô để chữa trị cho hoàng thượng và hoàng gia, con đã cảm thấy các nguy cơ
này. Nếu vạn nhất có chuyện gì xảy ra, Bụt và giáo đoàn thế nào cũng bị liên lụy.
Xin Thế Tôn lưu ý.
Bụt nói:
- Jivaka, cảm ơn ông
đã cho Như Lai biết tình hình. Biết được những gì đang xảy ra, đó là điều quan
trọng, nhưng ông đừng quá lo lắng, Như Lai sẽ sắp đặt để giáo đoàn đừng bị
vương vấn vào những chuyện không may.
Y sĩ Jivaka lạy Bụt,
cáo từ và xuống núi. Bụt dặn thầy Ananda đừng tiết lộ những gì y sĩ nói cho ai
biết.
Mười hôm sau, trong một
buổi pháp thoại lớn tổ chức hàng tháng tại tu viện Trúc Lâm, Bụt giảng về ngũ lực,
tức năm loại năng lực cần thiết để nuôi dưỡng hoa trái giác ngộ. Ngũ lực là niềm
tin (tín), sự chuyên cần (tấn), chánh niệm (niệm), sự chuyên tinh (định), và sự
hiểu biết (tuệ).
Buổi pháp thoại rất
đông đảo, có trên ba ngàn người tham dự, trong đó có cả quốc vương Bimbisara.
Pháp thoại vừa chấm dứt, mọi người chưa có cơ hội để hỏi Bụt những điểm họ chưa
thấu triệt thì đại đức Devadatta đã đứng dậy. Đại đức bước lên, chắp tay cung
kính làm lễ Bụt, rồi bạch:
- Thế Tôn, năm nay tuổi
Thế Tôn đã cao, sức khỏe Thế Tôn đã kém, Thế Tôn cần được nghỉ ngơi an tĩnh để
bớt đi những khó nhọc trong những năm chót còn lại trên đời. Công việc lãnh đạo
giáo đoàn đã trở nên quá nặng nhọc đối với Thế Tôn. Xin Thế Tôn rút về tịnh xá
an nghỉ. Con sẽ xin thay mặt người mà lãnh đạo giáo đoàn khất sĩ.
Bụt nhìn Devadatta,
người trả lời:
- Devadatta, cảm ơn
thầy đã lo lắng cho Như Lai, nhưng Như Lai vẫn còn đủ sức để lãnh đạo giáo đoàn
khất sĩ.
Đại đức quay lại nhìn
đại chúng. Có khoảng ba trăm vị khất sĩ đứng dậy và chắp tay. Đại đức nói:
- Ở đây có nhiều vị
cũng nhận thấy như con. Xin Thế Tôn đừng e ngại, con đủ sức lãnh đạo giáo đoàn
để đỡ mệt cho người.
Bụt nói:
- Thôi, Devadatta, đừng
nên nói nữa. Trong số các đệ tử lớn của ta có những vị xuất sắc và xứng đáng
hơn thầy nhiều mà ta cũng chưa giao cho họ trách nhiệm lãnh đạo giáo đoàn khất
sĩ, huống hồ là giao cho thầy. Thầy chưa có đủ tư cách lãnh đạo giáo đoàn khất
sĩ đâu.
Bị Bụt chê giữa đám
đông người, trong đó có cả vua Bimbisara, đại đức Devadatta lấy làm xấu hổ, mặt
thầy đỏ lên vì giận. Thầy đi xuống, không nói thêm một lời nào nữa.
Ngày hôm sau, tại tịnh
thất trên núi Linh Thứu, đại đức Ananda tâm tình với Bụt:
- Thế Tôn, con rất
đau khổ vì anh ruột của con là đại đức Devadatta, Thế Tôn đã chê anh ấy trước
đám đông, anh ấy sẽ tìm mọi cách để trả thù, con nghĩ là sẽ có chia rẻ trầm trọng
trong giáo đoàn, nếu Thế Tôn thấy con cần đi nói chuyện riêng với anh ấy để
khuyên nhủ thì con xin đi.
- Ananda, sở dĩ Như
Lai phải nói nặng với Devadatta ngay giữa đám đông và trước mặt quốc vương là
vì Như Lai có ý muốn cho mọi người thấy rằng Devadatta không phải là người chủ
chốt trong giáo đoàn, và những hành vi của Devadatta sau nầy chỉ có một mình
Devadatta chịu trách nhiệm, chúng ta không phải gánh chịu trách nhiệm ấy.
Ananda, nếu thầy thấy nói chuyện với Devadatta có thể làm cho Devadatta hồi tâm
thì thầy cũng nên đi gặp Devadatta.
Mấy hôm sau đó, y sĩ
Jivaka lại lên thăm Bụt. Ông trình với Bụt rằng ông biết Devadatta đang chuẩn bị
một kế hoạch nào đó để tách rời khỏi giáo đoàn, nhưng ông không biết rõ được kế
hoạch đó là kế hoạch gì.
0 Đánh giá