Read more
Nhất Hạnh Tăng Thân by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi
Chương 1. Ta Từ Đâu Tới? Ta Đi Về Đâu?
Mục Lục Chương 1
1.1. Trở
Thành Không
1.2. Tìm Lại
Người Thân Đã Mất
1.3. Không
Có Gì Sinh Ra, Không Có Gì Mất Đi
1.5. Bị Trói
Vào Một Ý Niệm
1.6. Không Đến
Không Đi
1.7. Buồn
Phiền Vì Vô Minh
1.8. Kính Trọng
Biểu Hiện Của Mình
1.9.
Không Có Gì Bằng Kinh Nghiệm
Trong
tu viện của tôi ở nước Pháp, có một bụi cây hoa đào Nhật bổn. Bụi hoa này thường
nở rộ vào mùa Xuân, nhưng một năm, mùa Đông ấm áp hơn nên hoa nở sớm hơn thường
lệ. Rồi một đêm trời trở lạnh, nhiệt độ xuống tới điểm băng giá. Sớm hôm sau
khi đi thiền hành, tôi nhận thấy những nụ hoa đều bị héo hết. Tôi nghĩ “Vậy là
đầu năm nay sẽ không có đủ hoa cúng Bụt.”
Vài
tuần sau, trời ấm áp trở lại. Khi tôi đi bộ trong vườn, tôi lại nhìn thấy những
nụ hoa đào thuộc thế hệ mới đang biểu hiện ra. Tôi hỏi chúng: “Các con là những
bông hoa đã chết khi trời băng giá hay là nhữngbông hoa khác?”
Hoa
trả lời tôi: “Thầy, chúng con không phải những bông hoa đó, mà cũng không khác
những bông đó. Khi nhân duyên đầy đủ chúng con biểu hiện ra, và khi thiếu nhân
duyên thì chúng con ẩn tàng. Giản dị vậy thôi!”
Đó
là giáo pháp của Bụt. Khi nhân duyên đầy đủ, thì sự vật biểu hiện. Khi nhân
duyên không còn đầy đủ, thì chúng rút lui. Chúng đợi tới đúng thời điểm sẽ biểu
hiện trở lại.
Trước
khi sinh ra tôi, mẹ tôi đã mang thai một em bé khác. Nhưng bà bị xảy thai và em
bé đó không ra đời. Khi còn nhỏ, tôi thường hỏi: “Bào thai đó là anh tôi hay
chính là tôi? Ai đã muốn biểu hiện ra trong lần mẹ xảy thai đó?” Khi mẹ tôi mất
em bé, thì có nghĩa là nhân duyên chưa đủ cho bé ra đời, nên nó quyết định lui
lại, chờ điều kiện tốt đẹp hơn: “Con tốt hơn nên rút lui, và sẽ trở lại nay mai
nhé mẹ!”
Chúng
ta phải tôn trọng ý kiến của em bé. Nếu bạn nhìn đời bằng những cái nhìn như thế,
bạn sẽ bớt khổ đau nhiều. Mẹ tôi đã mất anh tôi hay chính tôi lúc đó, thấy chưa
đúng thời điểm, tôi đã lui lại?
1.1.
Trở Thành Không
Nỗi
sợ hãi lớn lao nhất của chúng ta là khi chết, chúng ta sẽ trở thành không. Nhiều người trong chúng ta tin rằng
cuộc đời của ta bắt đầu từ lúc chào đời và chấm dứt khi ta chết. Chúng ta tin rằng
chúng ta tới từ cái Không, nên khi chết
chúng ta cũng không còn lại gì hết. Và chúng ta lo lắng vì sẽ trở thành hư vô.
Bụt có cái hiểu rất khác về cuộc đời. Ngài hiểu rằng sống và chết chỉ là những ý niệm không có thực. Coi đó là những sự thực, chính là nguyên do gây cho chúng ta khổ não. Bụt dạy không có sinh, không có diệt, không tới cũng không đi, không giống nhau cũng không khác nhau, không có cái ngã thường hằng cũng không có hư vô.
Chúng
ta thì coi là Có hết mọi thứ. Khi
chúng ta hiểu rằng mình không bị hủy diệt thì chúng ta không còn lo sợ. Đó là sự
giải thoát. Chúng ta có thể an hưởng và thưởng thức đời sống một cách mới mẻ.
1.1.
Tìm Lại Người Thân Đã Mất
Đối
với trường hợp mất người thương cũng thế. Khi nhân duyên không còn đầy đủ thì họ
biến đi. Khi mẹ chết, tôi rất đau đớn. Khi chúng ta chỉ mới bảy hay tám tuổi đầu,
ta không hề nghĩ sẽ có ngày mất mẹ. Nhưng sự thực là khi lớn lên và tất cả
chúng ta, ai cũng sẽ mất mẹ. Nếu bạn biết tu tập, thì tới giờ phút chia lìa, bạn
sẽ không quá khổ sở. Bạn sẽ sớm nhận thức được rằng mẹ bạn vẫn đang còn sống
trong bạn.
Ngày
mẹ chết, tôi viết vào nhật ký: “Tai nạn lớn nhất đời tôi đã xảy ra rồi.” Tôi
đau khổ hơn một năm, sau khi mẹ qua đời. Nhưng rồi một đêm, khi ngủ trong cái cốc
ở vùng cao nguyên Việt Nam, tôi nằm mơ thấy mẹ tôi. Tôi thấy tôi ngồi chơi bên
bà và chúng tôi nói chuyện rất vui. Mẹ tôi trông trẻ đẹp, tóc bà thả dài xuống
lưng. Thật là sung sướng được chuyện trò với mẹ, như thể bà chưa chết vậy. Tôi
tỉnh dậy vào lúc hai giờ sáng và tôi có cảm giác thực sự là tôi chưa từng mất mẹ.
Cảm tưởng mẹ vẫn ở trong tôi, nó rất rõ ràng. Tôi hiểu rằng ý tưởng mất mẹ chỉ
là một ý tưởng mà thôi. Rõ ràng lúc đó, tôi thấy mẹ luôn luôn còn sống trong
tôi.
Tôi
mở cửa đi ra ngoài. Tất cả sườn đồi được tắm trong ánh trăng. Đó là một đồi trà
và thất của tôi ở lưng chừng đồi, phía sau ngôi chùa. Khi đi bộ thong thả giữa
các luống trà, tôi vẫn cảm thấy mẹ ở bên tôi.
Bà
là ánh trăng vuốt ve tôi như bà thường hay làm, thật dịu dàng âu yếm... thật là
kỳ diệu! Mỗi khi chân tôi chạm mặt đất, tôi biết mẹ tôi vẫn đang ở cạnh. Tôi biết
cái thân này không phải của riêng tôi mà nó là sự tiếp nối của mẹ, cha, của ông
bà, của cụ kỵ, của tổ tiên. Những dấu chân tôi tưởng của tôi, thực ra là của cả
hai chúng tôi. Tôi và mẹ cùng để lại những dấu chân trên mặt đất ẩm ướt đó.
Từ
lúc ấy, ý nghĩ mất mẹ không còn hiện diện trong tôi nữa. Tôi chỉ cần nhìn vào
bàn tay tôi, cảm nhận hơi gió mát trên mặt hay đất dưới bàn chân, là tôi nhớ mẹ
tôi luôn luôn có mặt với tôi, trong mọi thời điểm.
Khi
mất một người mình thương thì ta đau khổ. Nhưng nếu bạn biết nhìn sâu, bạn có
cơ hội để nhận ra rằng bản thể của người đó là vô sinh, bất diệt. Chỉ có sự biểu
hiện và sự ngừng lại để biểu hiện dưới hình thức khác mà thôi. Bạn phải rất
tinh và tỉnh thức để có thể nhận ra sự biểu hiện mới của người thương đó. Nhưng
khi thực tập và cố gắng, bạn có thể làm được chuyện này.
Vậy,
hãy nắm tay một người bạn tu, cùng nhau đi thiền hành. Hãy để tâm tới từng cái
lá, từng bông hoa, từng con chim và từng giọt sương nhỏ. Nếu bạn có thể ngừng lại
và nhìn sâu thì bạn có thể nhận diện được người thương ở những biểu hiện khác
nhau, dưới nhiều hình thái. Bạn sẽ lại yêu đời.
1.2.
Không Có Gì Sinh Ra, Không Có Gì Mất Đi
Nhà
khoa học người Pháp, ông Lavoisier đã từng tuyên bố: “Khôngcó gì được sinh ra,
cũng không có gì mất đi.” Dù ông ta không thực hành đạo Bụt, nhưng nhà khoa học
ấy đã tìm ra chân lý giống như Bụt thấy vậy.
Bản
chất thực của chúng ta là bản chất không sinh không diệt. Chỉ khi nào ta chạm
được vào bản chất chân thực đó, chúng ta mới chuyển đổi được nỗi sợ hãi mình
không hiện hữu, đổi được cái lo trở thành hư không.
Bụt
dạy khi đầy đủ nhân duyên thì sự việc biểu hiện, và chúng ta nói nó hiện hữu.
Khi thiếu một hoặc hai điều kiện, sự việc đó không biểu hiện như trước thì ta
nói nó không hiện hữu. Theo Bụt, nói rằng thứ này có hay không có là sai.
Trong thực tại, không có thứ gì hoàn toàn có hay hoàn toàn không hiện hữu.
Chúng
ta thấy được chuyện này rất dễ dàng khi nhận xét các máy truyền hình và phát
thanh. Chúng ta có thể đang ở trong một căn phòng không có máy truyền hình và
cũng không có máy phát thanh.
Khi
ở trong căn phòng đó, chúng ta có thể cho rằng không có chương trình truyền
hình hay truyền thanh tại đó. Nhưng tất cả chúng ta đều hiểu là không gian
trong phòng chứa đầy các tín hiệu. Tín hiệu của các chương trình đó có mặt khắp
mọi nơi. Chúng ta chỉ cần một điều kiện nữa thôi, một chiếc máy thu thanh hay
truyền hình, là bao nhiêu hình thái, màu sắc và âm thanh sẽ biểu hiện ra. Vậy
khi nói rằng cáctín hiệu đó không hiện hữu là sai, vì sự thực chúng ta chỉ thiếu
dụngcụ để thâu chúng vô và cho các tín hiệu đó cơ hội biểu hiện ra. Chúng hình
như không hiện hữu chỉ vì nhân duyên không đầy đủ để các chương trình xuất hiện.
Vậy thì trong căn phòng đó, ở giờ phút đó, nếu chúng ta nói rằng chúng không hiện
hữu, thì chỉ vì chúng ta không nhìn hay nghe được chúng, chứ không phải vì
chúng không có mặt. Chỉ vì các quan niệm có-không mà chúng ta bị rối trí. Quan
niệm hiện hữu và không hiện hữu khiến chúng ta tin là cái này có, cái kia là không.
Ý niệm có và không đó không thể áp dụng vào thực tại được.
1.3.
Không Trên Không Dưới
Ý
niệm về trên dưới cũng vậy. Cho rằng có trên có dưới là sai. Cái gì ta nghĩ là
phía dưới, có thể ở phía trên của người khác, ở nơi khác. Chúng ta đang ngồi
đây và cho rằng, phía trên là hướng bên trên đầu ta, còn đối nghịch với nó là
phía dưới.
Những
người đang ngồi thiền ở bán cầu kia không đồng ý với ta được, vì phía trên của
ta là phía dưới của họ. Họ không ngồi lộn ngược đầu. Ý nghĩ trên dưới có nghĩa
là trên dưới cái gì đó mà thôi.
Quan
niệm trên dưới không thể áp dụng cho thực tại trong vũ trụ được. Đó chỉ là những
quan niệm liên hệ tới môi trường ta sinh hoạt. Đó là những ý niệm, cho chúng ta
một tiêu chuẩn, nhưng chúng không có thật. Thực tại không bị ràng buộc vào bất
kỳ ý niệm nào.
1.4.
Bị Trói Vào Một Ý Niệm
Bụt
đã kể cho ta một câu chuyện ngụ ngôn rất hay về tư tưởng và ý niệm. Một thương
gia trẻ trở về nhà sau chuyến đi buôn xa, thấy nhà đã bị cướp, đốt thành tro.
Ngay phía ngoài nền nhà cũ là một cái xác nhỏ bé đã bị cháy thành than. Anh ta
nghĩ đó là xác đứa con trai nhỏ của mình. Anh không biết rằng con trai anh vẫn
còn sống. Anh không biết rằng sau khi đốt nhà, bọn cướp đã bắt đứa bé theo. Và
trong tình trạng rối loạn, anh đã tin rằng cái xác kia chính là xác con anh.
Anh vò đầu đấm ngực khóc lóc, rồi làm đám tang cho con.
Người
thương gia đó rất yêu con. Nó là lẽ sống của anh. Anh thương xót nó tới độ
không thể rời hũ tro của nó. Anh may một cái túi bằng gấm và bỏ tro vô đó, đeo
trước ngực ngày đêm, lúc ngủ nghỉ, cũng như khi làm việc. Một đêm con anh trốn
thoát khỏi tay bọn cướp. Nó trở về căn nhà cha nó đã xây lại và nó gõ cửa một
cách háo hức vào lúc hai giờ sáng. Cha nó thức giấc, lòng vẫn còn rất đau khổ
và túi tro vẫn mang trên ngực, anh hỏi: “Ai đó?”
“Con
đây cha ơi!” Đứa bé trả lời vọng qua cửa.
“Mày
tệ quá, mày đâu phải con tao. Con tao đã chết ba tháng trướcrồi, tao còn tro của
nó ngay đây.”
Đứa
bé tiếp tục đấm vào cửa và khóc lóc. Nó năn nỉ hoài để xin vào trong nhà nhưng
người cha nhất định không cho. Người cha giữ chặt lấy ý niệm con đã chết và cho
rằng đứa bé vô lương tâm này chỉ đến phá rầy anh ta mà thôi. Cuối cùng đứa bé
đành bỏ đi và anh ta mất con vĩnh viễn.
Bụt dạy rằng khi ta bị kẹt
vào một ý niệm và coi đó là chân lý thì ta sẽ mất cơ hội để thấy được chân lý.
Dù cho chân lý tới tận nhà gõ cửa, bạn cũng sẽ từ chối vì không mở được cái tâm
bạn ra. Vậy nên khi bạn vướng vào một ý niệm về sự thật hay có ý niệm về các điều
kiện của hạnh phúc thì hãy cẩn thận.
Giới
thứ nhất để thực tập Chánh niệm là thực tập để được tự do, không bị thiên kiến:
“Ý thức được sự khổ đau
gây ra do sự quá khích và hẹp hòi, chúng con nhất định sẽ không thờ làm thần tượng
bất cứ một chủ nghĩa hay lý thuyết nào, kể cả những chủ nghĩa và lý thuyết Phật
giáo. Những hệ thống giáo lý trong đạo Bụt phải được nhận thức như những pháp môn
hướng dẫn giúp chúng con biết nhìn sâu và phát triển cái hiểu và thương - mà
không phải là những chân lý để bảo vệ và thờ phượng.”
Đây
là sự thực tập giúp chúng ta không bị ràng buộc vào một giáo điều nào. Thế giới
chúng ta đã chịu khổ đau quá nhiều vì các chủ thuyết, giáo điều. Điều thứ nhất
trong sự thực tập chánh niệm giúp ta được tự do. Sự tự do này ở trên tất cả các
ý niệm về tự do mà ta vẫn thường có. Nếu ta bị kẹt vào các ý niệm, ta sẽ đau khổ
và làm cho người thân đau khổ theo.
1.5.
Không Đến Không Đi
Đối
với đa số, chúng ta đau khổ nhiều nhất vì ý niệm đến-đi. Chúng ta nghĩ rằng những người thương của ta đã đến từ một
nơi nào đó và nay sẽ đi tới một nơi nào đó. Nhưng bản chất của thực tại là
không đến cũng không đi. Chúng ta không từ đâu tới mà cũng không đi tới đâu cả.
Khi nhân duyên đầy đủ thì ta biểu hiện, khi nhân duyên không còn đầy đủ thì
chúng ta không biểu hiện. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không hiện hữu. Giống
như khi làn sóng phát thanh không phát ra âm thanh, thì chúng chỉ không biểu hiện
mà thôi.
Không
phải chỉ có các ý niệm đến-đi mới không diễn bày được thực tại, mà các ý niệm
hiện hữu hay không hiện hữu cũng vậy. Chúng ta học được câu này trong kinh Bát
Nhã:
“Xá lợi tử nghe đây,
Thể mọi pháp đều không
Không sinh cũng không diệt
Không thêm cũng không bớt...
”
Ý nghĩa chữ KHÔNG này rất
quan trọng. Nó có nghĩa là mọi sự việc đều trống rỗng, không có tự tánh riêng
biệt. Không có cái gì có tự tánh độc lập, không có cái gì tự nó hiện hữu. Khi
nhìn sâu vào mọi sự, mọi vật, ta sẽ thấy rằng tất cả, kể luôn ta trong đó, đều
là những hợp thể. Ta được làm bằng các phần tử không phải ta.
Ta
là hợp thể của cha mẹ, ông bà, cơ thể, cảm thọ, nhận thức, đất, mặt trời và vô
số các yếu tố không phải ta. Tất cả những thứ đó tùy theo nhân duyên. Ta thấy rằng
tất cả những thứ đó đã, đang hay sẽ biểu hiện đều có tương quan và liên hệ mật
thiết với nhau. Những gì biểu hiện ra mà ta nhìnthấy, chỉ là một phần của bao
thứ khác, của các điều kiện đầy đủ khiến cho nó có mặt. Mọi sự mọi vật đều không
được sinh ra hay bị mất đi vì chúng luôn luôn ở trong tiến trình liên tục biểu
hiện.
Chúng
ta có thể thông minh để hiểu được chuyện này. Nhưng hiểu bằng trí óc thôi không
đủ. Thực sự hiểu điều này, ta sẽ hết sợ hãi. Ta sẽ được giác ngộ và sống với
cái nhìn tương tức (Inter-being). Chúng ta phải thực tập nhìn thật sâu như thế
trong đời sống hàng ngày để nuôi dưỡng sự hiểu biết về không sinh không diệt.
Như thế, ta có thể thực chứng được sự mầu nhiệm của sự vô úy, không sợ hãi.
Nếu
chúng ta nói tới vấn đề tương tức tương nhập như một lý thuyết thì không ích lợi
gì hết. Ta nên đặt câu hỏi: “Tờ giấy này, mi từ đâu tới? Giấy là cái gì? Và mi
tới đây làm gì? Giấy sẽ đi đâu?” Ta cũng hỏi ngọn lửa (đang đốt tờ giấy): “Lửa
ơi, mi từ đâu tới và mi sẽ đi đâu?” Hãy lắng nghe chúng trả lời. Ngọn lửa, tờ
giấy đang trả lời bằng sự cómặt của chúng. Chúng ta chỉ cần nhìn sâu thì sẽ
nghe được câu trả lời của nó. Ngọn lửa trả lời: “Tôi không tới từ đâu cả.”
Đó
cũng là câu trả lời của cây hoa đào Nhật bổn. Chúng tôi (hai đợt hoa) không giống
mà cũng không khác nhau. Hoa không tới từ đâu và cũng không đi đâu hết. Khi mất
một em bé, chúng ta không nên buồn. Đó chỉ là vì lúc ấy chưa đủ nhân duyên cho
nên em chưa biểu hiện ra ở thời điểm đó mà thôi, em sẽ trở lại.
1.1.
Buồn Phiền Vì Vô Minh
Đức
Quan Thế Âm là học trò của Bụt. Một bữa Ngài nhập định và đạt được sự hiểu biết
sâu xa, Ngài thấy rằng mọi sự vật đều không có tự tánh. Hiểu như vậy, Ngài vượt
qua được màn vô minh, nghĩa là Ngài thoát được hết các khổ não.
Nhìn
cho sâu, chúng ta cũng thấy được rằng không có gì sinh ra, không có gì chết đi,
không có gì tới, cũng không có gì đi, không có
cũng không không, không giống
cũng không khác.
Nếu
ta không học phép tu tập này thì thật là phí phạm quá sức.
Chúng ta có thể thực tập
theo nhiều phương pháp để bớt khổ, nhưng trí tuệ lớn nhất là sự giác ngộ về
không sinh không diệt. Khi chúng ta giác ngộ được chuyện này thì ta không còn sợ
hãi nữa.
Chúng
ta có thể vui hưởng được gia tài khổng lồ mà tổ tiên ta truyền lại cho. Ta nên
thu xếp để có thì giờ thực tập giáo pháp huyền diệu này mỗi ngày.
1.2.
Kính Trọng Biểu Hiện Của Mình
Khi
nhìn một người bạn mình bằng con mắt thiền quán, ta có thể nhìn thấy trong đó,
tất cả các thế hệ tổ tiên của bạn mình. Ta sẽ rất kính trọng người đó và kính
trọng cả con người mình, vì ta thấy đó là ngôi đền thờ của tất cả các thế hệ tổ
tiên.
Bạn
cũng nhìn thấy thân thể mình là nền tảng của các thế hệ tương lai. Do đó chúng
ta sẽ không làm hại thân mình, vì như thế là không tử tế với các thế hệ con
cháu. Ta sẽ không sử dụng ma túy và ăn uống những thứ có độc tố làm hại thân thể.
Đó là do cái hiểu về sự biểu hiện, nó đã giúp chúng ta sống một cuộc đời lành mạnh,
trong sáng và có trách nhiệm.
Ý
niệm trong-ngoài cũng như vậy. Khi
chúng ta nói Bụt và cha mẹ ở trong ta, hay ở ngoài ta, ý niệm trong ngoài đó
không có nghĩa chi cả. Chúng ta bị kẹt vào các ý niệm, nhất là ý niệm đến-đi và
hiện hữu hay không hiện hữu. Chỉ khi ta buông bỏ được các ý niệm đó thì sự thật
mới hiển lộ, sự thật của Niết bàn. Khi tất cả các ý niệm hiện hữu hay không hiện
hữu đã tắt ngấm thì Chân như thực tại nó sẽ biểu hiện ra.
1.3.
Không Có Gì Bằng Kinh Nghiệm
Chúng
ta có thể dùng một thí dụ dễ hiểu về trái quít và trái sầu riêng.
Nếu
có người nào chưa từng nếm quít hay sầu riêng, thì dù cho bạn mô tả các thứ đó
bằng bao nhiêu hình tượng, bạn cũng không thể diễn tả được các thứ trái cây đó
thực sự chúng ra sao. Bạn chỉ có thể giúp người kia có kinh nghiệm sống, thực
chứng về hai trái cây đó.
Bạn
không thể nói: “Sầu riêng ư, nó giống như mít hay đu đủ.” Bạn không thể nói gì
như khi người ta ăn trái sầu riêng. Sầu riêng, nó vượt qua tất cả các ý niệm.
Trái quít cũng vậy. Khi bạn chưa từng ăn trái quít, thì dù cho người kia thương
bạn cách mấy, cố gắng giúp bạn cách mấy cũng không diễn tả được hương vị trái
quít ra sao. Thực tại của trái quít vượt lên trên tất cả mọi ý niệm. Niết Bàn
cũng vậy. Đó là một thực tại vượt qua các ý niệm. Chỉ vì ta có ý niệm về Niết
bàn mà ta đau khổ. Phải thực chứng, phải tự kinh nghiệm, đó là con đường phải
đi.
Xem Tiếp Chương 2 –
Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá