Read more
Nhất Hạnh Tăng Thân by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Muốn An Được An
Chương 2. Ba Viên Ngọc Quý
Nhiều người trong
chúng ta đang lo lắng cho tình trạng của thế giới hiện nay. Không biết lúc nào
những quả bom sẽ nổ. Đôi khi ta có cảm giác như nhân loại đang ở bên bờ vực thẳm
và ta không biết phải làm gì. Chúng ta thấy bất lực và tuyệt vọng. Những hiểm họa,
những bất công xã hội đang lan tràn khắp nơi và mối nguy hại càng ngày càng tiến
đến gần mình. Trong tình trạng như thế, nếu sợ hãi, chúng ta sẽ không làm được
gì cả, chỉ làm cho mọi thứ càng tệ hại thêm thôi. Chúng ta phải bình tĩnh để
nhìn nhận sự việc một cách rõ ràng, sáng suốt. Thiền tập là ý thức được những
tình trạng đang xảy ra và tìm cách cứu chữa cho những tình trạng đó.
Tôi thích dùng hình ảnh
chiếc thuyền nhỏ đang băng qua vịnh Thái Lan. Thường những lúc biển động hay có
bão lớn, người ta rất sợ hãi vì thuyền có thể bị sóng gió đập tan tành và bị
chìm bất cứ lúc nào. Nhưng nếu trên thuyền có một người giữ được bình tĩnh,
sáng suốt, biết được những gì nên làm và những gì không nên làm thì người đó có
thể cứu được cho cả thuyền sống sót. Khuôn mặt của người ấy, lời nói của người ấy,
cử chỉ của người ấy truyền được cho những người khác sự an bình, trầm tĩnh và
sáng suốt. Mọi người nhìn vào có thể đặt niềm tin vào người ấy, lắng nghe người
ấy. Một người như thế có thể cứu được không biết bao nhiêu là mạng sống.
Thế giới chúng ta
cũng giống như một chiếc thuyền. So với vũ trụ thì hành tinh mà chúng ta đang sống
là một chiếc thuyền nhỏ. Chúng ta sợ hãi vì tình trạng của chúng ta có vẻ không
khá hơn tình trạng của chiếc thuyền trên biển bao nhiêu. Chúng ta biết rằng
chúng ta có hơn 50.000[1] vũ khí hạt nhân. Và với 50.000 vũ khí hạt nhân đó
loài người đã trở nên rất nguy hiểm. Chúng ta cần những người ngồi yên và có khả
năng mỉm cười, có khả năng bước được những bước chân bình an, thanh thản. Chúng
ta cần những người như thế để cứu chúng ta. Đạo Bụt Đại thừa nói rằng các bạn
chính là người đó, mỗi người trong các bạn là người đó.
Tôi có một người học
trò tên là Thích Thanh Văn, đi tu lúc sáu tuổi. Lúc 17 tuổi thì bắt đầu học với
tôi. Sau đó làm hiệu trưởng trường Thanh niên Phụng sự Xã hội. Thầy đã hướng dẫn
hàng ngàn người trẻ làm việc trong cuộc chiến tranh Việt Nam, xây dựng lại những
ngôi làng đã bị tàn phá bởi bom đạn, đưa hàng vạn người tị nạn ra khỏi vùng chiến
tranh. Thầy rất nhẹ nhàng nhưng cũng rất can đảm. Thầy đã qua đời trong một tai
nạn. Lúc đó tôi đang ở Copenhagen, thủ đô Đan Mạch, thì nghe tin thầy mất.
Lúc thầy còn là chú
tiểu sáu, bảy tuổi, thấy mọi người đem bánh, chuối tới chùa cúng Bụt, thầy muốn
biết Bụt ăn chuối như thế nào nên đợi mọi người về hết, chánh điện đóng cửa, thầy
rình xem Bụt ăn chuối như thế nào. Thầy chăm chú nhìn vào khe cửa, đợi Bụt với
tay ra bẻ chuối, bóc vỏ ăn. Thầy đợi hoài nhưng không thấy gì cả. Thầy nghĩ có
lẽ Bụt biết có ai đó đang theo dõi mình nên Ngài không ăn.
Khi khám phá ra tượng
Bụt không phải là Bụt, thầy bắt đầu đặt câu hỏi: “Bụt ở đâu?” Bởi vì đối với thầy
thì Bụt không có ở đây, Bụt không sống giữa loài người này. Và thầy kết luận rằng
Bụt không dễ thương lắm vì khi thành Bụt rồi thì Bụt lại bỏ chúng ta để đi đến
một nơi khác rất xa xôi. Tôi nói với thầy rằng Bụt là chúng ta, được làm bằng
xương bằng thịt chứ không phải bằng đồng, bằng vàng hay bằng bạc. Tượng Bụt chỉ
là biểu tượng của Bụt, cũng giống như lá cờ Mỹ chỉ là biểu tượng của nước Mỹ.
Lá cờ Mỹ không phải là nước Mỹ, không phải là người Mỹ, không phải là dân tộc Mỹ.
Gốc của từ Bụt
(Buddha) có nghĩa là tỉnh thức, hiểu biết. Những ai có tỉnh thức, hiểu biết thì
được gọi là Bụt. Đơn giản vậy thôi. Khả năng tỉnh thức, hiểu biết, thương yêu gọi
là Phật tánh. Khi người Phật tử nói: “Con về nương tựa Bụt” là người ấy bày tỏ
niềm tin vào khả năng hiểu biết, tỉnh thức trong chính họ. Người Trung Quốc và
Việt Nam nói: “Về nương Bụt trong con.” ‘Trong con’ chỉ cho thấy rõ rằng chính
mình là Bụt.
Trong đạo Bụt có ba
viên ngọc quý. Đó là Bụt, Pháp và Tăng. Bụt là người tỉnh thức. Pháp là con đường
tỉnh thức, con đường của tình thương và sự hiểu biết. Tăng là đoàn thể của những
người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. Bụt, Pháp, Tăng liên quan mật thiết với
nhau, đôi khi khó phân biệt được cái nào với cái nào. Trong mỗi người đều có khả
năng tỉnh thức, hiểu biết và thương yêu. Vì vậy trong mỗi chúng ta đều có Bụt,
Pháp và Tăng. Tôi sẽ giải thích thêm về Pháp và Tăng sau. Trước tiên tôi xin giải
thích về Bụt, người có khả năng hiểu biết và thương yêu cao nhất. Tiếng
Sanskrit, hiểu là prajna (bát nhã), thương là maitri (từ) và karuna (bi).
Hiểu và thương không
phải là hai thứ khác nhau mà là một. Giả sử một buổi sáng nào đó đứa con trai
mình thức dậy, thấy sắp trễ giờ đi học, nó nghĩ nên đánh thức đứa em gái dậy để
còn kịp giờ ăn sáng trước khi đi học. Vậy mà, đứa em gái, thay vì nói: “Cám ơn
anh đã đánh thức em dậy” thì lại nổi cáu: “Im đi, để yên cho em ngủ,” rồi đá anh một cái. Người anh có thể giận dữ
nghĩ rằng: “Mình đã thức nó nhẹ nhàng, dễ thương. Tại sao nó lại đá mình?” Người
anh chạy xuống bếp mách ba nó, hay đá lại đứa em gái một cái. Nhưng rồi nó nhớ
lại tối hôm qua em mình ho nhiều, chắc là nó bị bệnh. Có thể em mình bị cảm lạnh
nên đã hành xử như thế và nó không còn giận đứa em nữa. Giây phút đó nó là Bụt.
Nó hiểu và tỉnh thức. Khi hiểu rồi, các bạn không thể nào làm khác được mà chỉ
có thương yêu thôi. Các bạn không thể giận được. Để nuôi lớn sự hiểu biết,
chúng ta phải nhìn cuộc đời bằng ánh mắt thương yêu. Hiểu được thì thương được.
Và khi thương được thì các bạn sẽ làm cho người kia vơi đi nỗi khổ một cách rất
tự nhiên.
Những ai có tỉnh thức, có hiểu biết, thương yêu thì được gọi là Bụt. Bụt ở trong mỗi chúng ta. Chúng ta cũng có khả năng tỉnh thức, hiểu biết và thương yêu. Tôi thường nói với các em nhỏ rằng nếu hôm nay mẹ hay ba con hành xử dễ thương, có hiểu biết, thương yêu, chăm sóc gia đình chu đáo và mỉm cười tươi vui như một đóa hoa thì các con nên nói: “Mẹ, hôm nay mẹ là Bụt”, “Ba, hôm nay ba là Bụt.”
Cách đây 2.500 năm có
một người đã tu tập, đã đạt đến sự hiểu biết và thương yêu toàn vẹn mà mọi người
trên thế giới ai cũng
biết đến và công nhận, đó là Siddhartha. Khi còn trẻ, Siddhartha đã cảm
nhận được rằng cuộc sống này đầy rẫy khổ đau, con người không thương nhau đủ,
không hiểu nhau đủ. Vì vậy mà Ngài rời cung điện vào rừng thiền định, thực tập
hơi thở và nụ cười. Ngài trở thành một vị khất sĩ, tu tập làm phát khởi khả
năng tỉnh thức, hiểu biết và thương yêu đến mức cao nhất. Ngài thực tập cùng với
năm anh em đồng tu khác trong vài năm, thực tập khổ hạnh rất tinh tấn, mỗi ngày
chỉ ăn một miếng trái cây, một miếng xoài, một miếng ổi hay một miếng khế. Có
khi người ta phóng đại lên nói là Siddhartha ăn mỗi ngày một hạt mè. Nhưng khi
đến khu rừng ở Ấn Độ nơi mà ngày xưa Bụt tu tập, tôi không thấy hạt mè nào cả. Ở
đó người ta không trồng mè. Chỉ thấy dòng sông Anoma ngày xưa Bụt tắm, thấy cội
bồ đề nơi Ngài chứng đạo, nhưng cội bồ đề này không phải là cội bồ đề ngày xưa
Bụt ngồi mà là cội bồ đề cháu mấy đời của cội bồ đề trước.
Một ngày nọ đức Bụt
kiệt sức không thể tiếp tục tu tập được nữa. Ngài là một chàng trai thông minh,
vì vậy Ngài quyết định đi vào làng khất thực. Nhưng đi được bốn, năm bước thì
Ngài té xỉu và bất tỉnh vì quá đói. Khi đó có một cô gái mang sữa vào làng thấy
Ngài bèn đến gần. Cô bé thấy Ngài vẫn còn sống, vẫn còn thở nhưng quá yếu nên lấy
bát rót sữa, đưa vào miệng Ngài. Ban đầu Siddhartha không phản ứng gì cả nhưng
sau đó môi Ngài mấp máy và bắt đầu uống sữa. Ngài uống hết bát sữa và thấy
trong người khỏe hơn, rồi từ từ ngồi dậy được. Vì Bụt rất đẹp nên cô bé đưa sữa
nghĩ rằng có lẽ Ngài là Thần Núi (god of mountain). Cô quỳ xuống chuẩn bị cầu
nguyện thì Ngài đưa tay ra hiệu cho cô đừng làm thế và nói với cô… Bạn có hình
dung ra Bụt nói gì với cô bé không?
Bụt nói: “Cho ta một
ly sữa nữa.” Bởi vì Ngài thấy sữa làm nên điều kỳ diệu. Ngài thấy rằng một khi
thân thể khỏe mạnh thì mình mới có thể thiền định thành công được. Sau đó cô bé
hỏi thăm Ngài và được Ngài cho biết Ngài là một vị đạo sĩ đang tu tập thiền định
nhằm đạt đến sự hiểu biết, thương yêu lớn để có thể giúp đỡ người khác. Cô bé hỏi
cô có thể giúp được gì cho Ngài không thì Siddhartha trả lời: “Mỗi ngày đúng
vào giờ ngọ, con có thể cho ta một chén cơm được không? Điều đó sẽ giúp ta rất
nhiều.” Từ đó trở đi, ngày nào cô bé cũng mang cho Ngài một ít cơm gói trong lá
chuối, và thỉnh thoảng cô cũng mang theo một ít sữa.
Năm anh em Kiều Trần
Như cùng tu với Ngài trước đây biết vậy nên rất xem thường Ngài, nghĩ Ngài
không xứng đáng. Họ nói với nhau rằng: “Chúng ta hãy đi nơi khác để tu hành.
Ông ta đã uống sữa, ăn cơm, ông ta đã bỏ cuộc, không kiên trì, nhẫn nại.” Thực
tế thì Ngài tu tập rất tinh chuyên. Ngày này qua ngày khác, Ngài tham thiền, nhập
định liên tục nên tuệ giác, hiểu biết, thương yêu phát triển không ngừng, nhanh
như cách Ngài phục hồi lại sức khỏe vậy.
Một hôm, sau khi tắm ở
sông Anoma, Ngài có cảm tưởng là chỉ cần ngồi thiền thêm một lần nữa thôi là
Ngài có thể chứng đạo và trở thành một bậc giải thoát giác ngộ hoàn toàn. Khi
Ngài sắp ngồi xuống, lúc này Ngài vẫn còn đi thiền hành, thì có một cậu bé chăn
trâu đi tới. Ở Ấn Độ, cách đây 2.500 năm người ta dùng trâu để kéo cày. Và công
việc của cậu bé chăn trâu là canh chừng trâu, tắm cho trâu, chăm sóc trâu và cắt
cỏ cho trâu ăn.
Khi cậu bé chăn trâu
đến gần, thấy Siddhartha bước đi rất an nhiên thanh thản, cậu mến Ngài ngay. Cậu
muốn nói chuyện với Siddhartha nhưng mắc cỡ. Vì vậy cậu đến gần Siddhartha ba,
bốn lần rồi mới nói được: “Chú ơi, cháu rất mến chú.” Có nhiều khi ta thấy một
ai đó, ta mến ngay người đó dù ta không biết người đó là ai và cũng không hiểu
tại sao. Siddhartha nhìn cậu bé rồi nói: “Ta cũng mến con.” Câu trả lời của
Siddhartha khích lệ cậu bé rất nhiều, vì thế cậu bé nói tiếp: “Cháu muốn tặng
chú một cái gì đó nhưng cháu không có gì để tặng cả.” Siddhartha trả lời: “Con
có cái mà ta rất cần. Con có cỏ xanh rất đẹp mà con vừa mới cắt. Nếu được con
có thể cho ta mớ cỏ đó.” Cậu bé rất hạnh phúc là mình có thể cho Siddhartha một
cái gì đó. Siddhartha cám ơn cậu bé. Sau khi cậu bé đi rồi Ngài trải mớ cỏ ra
làm tọa cụ để ngồi.
Khi ngồi xuống, Ngài
phát một lời nguyện rất dũng mãnh: “Nếu không chứng ngộ, ta sẽ không rời khỏi
nơi này.” Với quyết tâm dũng liệt phi thường, Ngài nhập định suốt đêm và khi
sao mai vừa mọc thì Ngài đạt ngộ, trở thành một vị Bụt, một bậc giác ngộ hoàn
toàn, đạt đến khả năng hiểu biết và thương yêu cao nhất.
Bụt ở lại đó hai tuần,
sống trọn vẹn với chính mình, thưởng thức hơi thở, bước chân, nụ cười, có mặt
cho chính mình cũng như với thế giới chung quanh. Mỗi ngày cô bé vẫn mang sữa đến
cho Ngài và cậu bé chăn trâu vẫn đến thăm Ngài. Ngài dạy cho hai đứa trẻ về
pháp môn tỉnh thức, hiểu biết và thương yêu. Trong Tạng Pali có kinh Chăn Trâu,
nói về 11 kỹ thuật mà một cậu bé chăn trâu phải có, như: nhận diện trâu, hun
khói đuổi muỗi cho trâu, chăm sóc vết thương trên mình trâu, giúp trâu qua
sông, tìm nơi có đủ nước và cỏ cho trâu ăn v.v… Sau khi liệt kê 11 kỹ thuật
chăn trâu, đức Bụt nói với quý thầy, thiền tập cũng giống như vậy, và Ngài liệt
kê ra 11 kỹ năng tương đương, như nhận diện năm uẩn của con người, đem đạo lý
giải thoát giảng dạy cho những người chung quanh để họ tránh được những khổ đau
dằn vặt trong thân tâm, tránh những con đường đưa tới sắc dục danh lợi, biết
nương vào đức hạnh và kinh nghiệm của những bậc đi trước, biết quý trọng những
niềm an vui do thiền tập đưa tới, biết nương vào diệu lý bốn sự thật để biết đến
bến bờ giải thoát, biết rằng bốn lãnh vực quán niệm là mảnh đất tốt nhất để làm
phát sinh giải thoát v.v… Hầu hết những câu chuyện nói về cuộc đời của đức Bụt
đều bỏ sót sự kiện hai tuần Ngài ở lại dưới cội bồ đề sau khi thành đạo, gặp gỡ,
dạy dỗ cho cô bé đưa sữa và cậu bé chăn trâu, đi thiền hành và chơi với nhau.
Tôi tin chắc là điều này đã xảy ra. Nếu không tại sao Bụt có thể nói Kinh Chăn
Trâu? Sự thật là khi cậu bé chăn trâu lớn lên, đã trở thành đệ tử của Bụt.
Hai tuần sau, Ngài thấy
mình cần phải rời khỏi cội bồ đề để đi chia sẻ phương pháp hiểu biết và thương
yêu cho mọi người nên Ngài nói với cô bé đưa sữa và cậu bé chăn trâu rằng: “Rất
tiếc là bây giờ ta phải rời khỏi nơi đây. Chúng ta đã sống với nhau những ngày
rất hạnh phúc, nhưng ta phải đi để tiếp xúc và chia sẻ con đường ta đã khám phá
ra với mọi người.” Ngài suy nghĩ xem ai là người mà Ngài có thể chia sẻ được sự
hiểu biết và thương yêu này. Ngài nghĩ ngay đến năm người bạn đồng tu mà Ngài
đã thực tập chung trước đây. Ngài đi cả ngày để tìm năm người này. Khi Ngài đến
nơi năm anh em ở thì họ vừa mới ngồi thiền xong. Họ ngồi nhiều lắm. Bây giờ họ
rất gầy. Chúng ta cũng có thể tưởng tượng được họ gầy gò cỡ nào. Một trong số họ
thấy Bụt đi đến liền nói với những vị khác: “Nếu ông ta đến thì đừng đứng dậy,
đừng ra cổng đón tiếp ông ta. Đừng đi lấy nước cho ông ta rửa chân tay. Bởi vì
ông ta đã bỏ cuộc, ông ta đã ăn cơm, uống sữa, ông ta không kiên trì bền chí.”
Thế nhưng khi Bụt đến thì phong thái an nhiên và tĩnh lặng của Ngài đã gây ấn
tượng rất lớn đến nỗi họ không thể không đi lấy nước cho Ngài rửa chân và lấy
ghế cho Ngài ngồi. Bụt nói với họ: “Này các bạn, tôi đã tìm ra con đường giải
thoát, con đường của hiểu biết và thương yêu. Hãy ngồi xuống đi, tôi sẽ chia sẻ
những gì tôi đã tìm được cho các bạn.”
Ban đầu họ không tin.
Họ nói: “Siddhartha, trước đây khi thực tập với chúng tôi Ngài đã bỏ cuộc. Ngài
đã ăn cơm và uống sữa. Làm sao Ngài có thể trở thành một bậc giác ngộ toàn vẹn
được? Ngài nói đi. Chúng tôi không thể tin được điều này.” Đức Bụt nói: “Này
các bạn, có bao giờ tôi nói dối với các bạn không?” Kỳ thực, Ngài không bao giờ
nói dối với ai cả và năm người bạn đều công nhận điều này. “Trước đây tôi chưa
bao giờ nói dối với các bạn và bây giờ tôi cũng không nói dối với các bạn. Tôi
đã là một người giác ngộ hoàn toàn và bây giờ tôi sẽ chia sẻ với các bạn. Hãy
ngồi xuống đi, tôi sẽ nói cho các bạn nghe. Cả năm người cùng ngồi xuống nghe Bụt
nói. Ngài giảng bài pháp thoại đầu tiên cho họ. Nếu các bạn muốn đọc những lời
Ngài dạy thì hãy tìm trong kinh Tứ Đế, giải thích những nguyên tắc cơ bản của đạo
Bụt. Đó là khổ, tập (nguyên nhân của khổ đau), diệt (sự chấm dứt khổ đau) và đạo
(con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau). Tôi đã đọc nhiều câu chuyện về cuộc đời
đức Bụt và thấy Bụt cũng là một con người như chúng ta, ấy vậy mà có những họa
sĩ vẽ hình Bụt mà không thấy Bụt giống như một con người. Có rất nhiều tượng Bụt,
nhưng ít có tượng đẹp và đơn giản. Bất cứ lúc nào nếu muốn vẽ hình Bụt thì các
bạn hãy ngồi xuống thở năm, mười phút, mỉm cười buông thư trước khi cầm bút vẽ.
Sau đó vẽ một đức Bụt thật đơn giản. Đơn giản mà đẹp, với một nụ cười bình an
trầm tĩnh trên môi. Nếu được, các bạn có thể vẽ thêm vài em bé ngồi chung quanh
Ngài. Đức Bụt hãy còn trẻ, không cau có, không hung dữ, không quá nghiêm trang,
với một nụ cười nhẹ nhàng buông thả. Chúng ta phải đi theo hướng này để khi
nhìn vào Bụt là ta mến Bụt ngay như em bé chăn trâu và cô bé đưa sữa vậy.
Khi nói: “Con về
nương tựa Bụt”, chúng ta cũng nên hiểu rằng: “Bụt cũng đang nương tựa mình.” Bởi
vì nếu không có phần đầu (con) thì phần thứ hai (Bụt) không thể trọn vẹn được.
Đức Bụt cần chúng ta để cho sự tỉnh thức, hiểu biết, thương yêu trở nên có thực
mà không phải chỉ tồn tại như những khái niệm. Đó phải là những gì có thực ảnh
hưởng lên đời sống của ta. Bất cứ lúc nào tôi nói: “Con về nương tựa Bụt”, tôi
cũng nghe: “Bụt về nương tựa tôi.” Đây là bài kệ trồng cây:
Tôi gởi tôi cho đất
Đất gởi đất cho tôi
Tôi gởi tôi nơi Bụt
Bụt gởi Bụt nơi tôi.
“Tôi gởi tôi cho đất”
cũng giống như “Con về nương tựa Bụt.” Tôi quán tưởng mình là một cái cây. Cây
sống được là nhờ đất. Cây nương tựa nơi đất. Nhưng “Đất gởi đất cho tôi” bởi vì
mỗi chiếc lá rơi xuống sẽ mục nát và phân hủy làm cho đất màu mỡ hơn. Chúng ta
biết rằng cây cối làm cho đất đai màu mỡ, tốt tươi, xinh đẹp. Sở dĩ đất mẹ của
chúng ta xanh và đẹp là nhờ cây. Vì vậy trong khi cây cần đất mẹ thì đất mẹ
cũng cần cây để làm hiển lộ một hành tinh xanh đẹp. Thế nên khi nói: “Tôi gởi
tôi cho đất” thì ‘tôi’ (cái cây) cũng phải nghe những lời khác: “Đất gởi đất cho
tôi.” “Tôi gởi tôi nơi Bụt, Bụt gởi Bụt nơi tôi.” Rất rõ ràng rằng tuệ giác và
sự hiểu biết thương yêu của Bụt Thích Ca Mâu Ni cần chúng ta để trở nên có thật
trong đời sống này. Vì vậy công việc quan trọng của chúng ta là thắp sáng sự tỉnh
thức, nuôi lớn hiểu biết và thương yêu.
Tất cả chúng ta đều
là Bụt, bởi vì chỉ có qua chúng ta thì hiểu biết thương yêu mới trở nên xác thực
và hiệu quả. Thầy Thanh Văn đã qua đời trong lúc giúp đỡ mọi người. Thầy là một
phật tử thuần thành, một đức Bụt nhân từ, bởi vì thầy có khả năng giúp cả hàng
vạn nạn nhân của cuộc chiến. Nhờ thầy mà sự tỉnh thức, hiểu biết, thương yêu trở
nên có thật. Vì vậy, chúng ta có thể gọi thầy là Bụt, tiếng Sankrit là
Buddhakaya (Phật thân). Để đạo Bụt trở nên có thật thì phải cần Phật thân, một
thân thể để thực hiện những hành động tỉnh thức. Nếu không, đạo Bụt chỉ là ngôn
từ. Thầy Thanh Văn là một Phật thân. Đức Thích Ca Mâu Ni là một Phật thân. Nếu
chúng ta có tỉnh thức, có hiểu biết, thương yêu thì mỗi chúng ta đều là một vị
Bụt.
Viên ngọc quý thứ hai
là Pháp. Pháp là lời Bụt dạy, là con đường của tình thương và sự hiểu biết. Trước
khi Bụt nhập diệt, Ngài nói với đệ tử rằng: “Này quý thầy, ngày mai nhục thân của
ta sẽ không còn nữa, nhưng Pháp thân của ta sẽ luôn còn đó để giúp đời. Quý thầy
hãy lấy giáo pháp của ta làm người thầy cho chính mình, người thầy không bao giờ
bỏ mình mà đi.” Đó là Pháp thân. Pháp cũng có thân. Thân của giáo lý, thân của
con đường. Như các bạn đã thấy, ý nghĩa của pháp thân rất đơn giản. Pháp thân
nghĩa là lời dạy của Bụt, là cái hiểu của mình về giáo pháp, là con đường của
tình thương và sự hiểu biết. Sau này, người ta gọi là chân như, bản thể (nền tảng
của vạn pháp).
Tất cả những gì có khả
năng giúp ta tỉnh thức đều có Phật tánh. Khi ngồi một mình nghe tiếng chim hót,
tôi trở về với chính mình, theo dõi hơi thở và mỉm cười. Có khi nó hót như muốn
gọi lại lần nữa. Tôi mỉm cười và nói với chim: “Tôi nghe rồi.” Không chỉ có âm
thanh mà hình ảnh cũng có thể nhắc nhở chúng ta trở về với ngôi nhà đích thực của
chính mình. Buổi sáng, khi mở cửa sổ, thấy ánh sáng lùa vào, chúng ta cũng có
thể xem đó như là tiếng gọi của Pháp, và trở thành một phần của Pháp thân. Đó
là lý do tại sao người tỉnh thức nhìn đâu cũng thấy Pháp. Một hòn sỏi, một cây
tre, tiếng khóc của trẻ thơ, bất cứ thứ gì cũng đều có thể là tiếng gọi của
Pháp. Chúng ta nên thực tập như thế.
Một ngày nọ, có một vị
xuất sĩ đến tham vấn với Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngài Tuệ Trung là một người
thầy nổi tiếng trong nền Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 13. Thời kỳ này Phật
giáo rất hưng thịnh ở Việt Nam. Vị xuất sĩ hỏi: “Thế nào là Pháp thân thanh tịnh,
không tỳ vết?” Ngài Tuệ Trung chỉ vào đống phân ngựa. Thoạt nghe, ta thấy như
đó là một quan điểm thiếu tôn kính đối với Pháp bởi vì người ta thường dùng những
từ ngữ thanh cao, trang nhã để mô tả Pháp. Tuy nhiên đôi khi Phật Pháp không thể
dùng ngôn từ để diễn bày. Cho dù ta có nói Pháp thanh tịnh, không tỳ vết đi nữa
thì điều đó cũng không có nghĩa là Phật pháp tách rời những thứ ô uế, không
thanh tịnh. Thực tại, thực tại tối hậu, vượt thoát tất cả mọi ý niệm, dù là ý
niệm thanh tịnh hay ô uế. Vì thế câu trả lời của Ngài Tuệ Trung nhằm đánh thức
tâm trí vị xuất sĩ kia, giúp vị ấy buông bỏ tất cả mọi ý niệm để có thể thấy được
tự tánh các Pháp. Người thầy cũng là một phần của Pháp thân. Vì Thầy giúp mình
tỉnh thức. Cách thầy nhìn, cách thầy sống, cách thầy tiếp xử với mọi người, mọi
loài và thiên nhiên giúp ta nuôi lớn hiểu biết và thương yêu trong đời sống
hàng ngày của ta.
Có rất nhiều cách để
chuyển tải giáo pháp như thuyết pháp, viết sách, lưu hành băng giảng. Tôi có một
người bạn tu thiền ở Việt Nam, khá nổi tiếng, nhưng không có nhiều người đến học
hỏi với thầy. Có người thâu băng những buổi nói chuyện của thầy để phát hành,
và người ta chỉ biết được thầy qua những băng giảng đó.
Tuy nhiên, cho dù thầy
không giảng dạy thì sự có mặt của thầy cũng giúp chúng ta rất nhiều trong việc
tỉnh thức, xây dựng hiểu biết và thương yêu. Bởi vì thầy là một phần của Pháp
thân. Pháp không chỉ được diễn tả bằng lời, bằng âm thanh mà chính tự tính của
nó đã là Pháp rồi. Đôi khi không cần làm gì cả mà ta giúp cho người khác nhiều
hơn là làm. Ta gọi đó là đạo đức vô hành. Cũng giống như một người có khả năng
ngồi yên trên chiếc thuyền trong cơn giông bão vậy. Người đó không cần phải làm
gì nhiều mà sự có mặt của người đó làm cho tình trạng đổi thay. Đó cũng là một
mặt của Pháp thân, là thân giáo: không cần nói, không cần dạy, chỉ cần có mặt
thôi.
Điều này không chỉ
đúng với con người mà những loài khác cũng thế. Hãy nhìn những cái cây trong vườn
nhà mình đi. Cây sồi chỉ cần là cây sồi. Đó là tất cả những gì nó có thể làm. Nếu
cây sồi không phải là cây sồi thì có thể tất cả chúng ta sẽ lâm nguy. Vì thế
cây sồi cũng đang thuyết pháp. Cây sồi không làm gì cả, không phục vụ trong trường
Thanh niên Phụng sự Xã hội, không thuyết pháp, thậm chí không cần phải ngồi thiền,
mà bằng sự hiện diện của nó, cây sồi vẫn rất hữu ích cho tất cả chúng ta. Mỗi
khi nhìn vào cây sồi chúng ta có niềm tin. Những ngày hè oi bức, ngồi dưới gốc
cây sồi ta cảm thấy thoải mái, mát mẻ và thư thái. Chúng ta biết rằng nếu cây sồi
hay những cây khác không có mặt ở đó thì chúng ta sẽ không có không khí trong
lành để thở.
Chúng ta cũng biết rằng
trong những kiếp xa xưa chúng ta đã từng là cây. Có thể chúng ta đã từng là cây
sồi. Điều này không chỉ có đạo Bụt mới nói đến mà khoa học cũng nói đến. Loài
người là một loài rất trẻ, chúng ta chỉ có mặt mới đây thôi. Trước đó chúng ta
đã là đá cuội, là chất khí, là khoáng vật, rồi sau đó chúng ta là những sinh vật
đơn bào. Chúng ta là cây và bây giờ chúng ta trở thành con người. Chúng ta phải
nhớ lại những quá khứ xa xưa của chúng ta. Điều này không có gì khó cả. Chúng
ta chỉ cần ngồi xuống, thở cho thật bình an và nhìn lại thì chúng ta sẽ thấy được
quá khứ của ta. Khi ta la mắng cây sồi, cây sồi không bực bội khó chịu, khi ta
khen ngợi cây sồi, cây sồi cũng không vì thế mà hỉnh mũi lên. Chúng ta có thể học
được giáo pháp từ cây sồi. Cây sồi là một phần của Pháp thân. Chúng ta có thể học
được từ mọi thứ chung quanh ta và trong ta. Cho dù ta không ở chùa, không ở tu
viện, không ở trong những trung tâm tu học, ta vẫn có thể thực tập được. Bởi vì
Pháp có mặt quanh ta, mọi thứ đều đang thuyết pháp. Bông hoa nào, hạt sỏi nào,
ngọn lá nào cũng thuyết Pháp Hoa Kinh.
Tăng là đoàn thể của
những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. “Tăng thân” là một từ Sanskrit mới.
Tăng cũng cần có một thân. Trong gia đình, nếu ta thực tập hơi thở ý thức, nụ
cười tươi vui, nhận diện Bụt trong ta và trong con cái ta thì gia đình ta trở
thành một Tăng thân. Nếu gia đình ta có chuông thì chuông là một phần của Tăng
thân. Bởi vì tiếng chuông giúp ta thực tập. Nếu chúng ta có tọa cụ thì tọa cụ
cũng là một phần của Tăng thân. Rất nhiều thứ giúp ta thực tập như không khí để
thở, con đường để đi, gốc cây để ngồi… Nếu gần nhà mình có một công viên hay bờ
sông thì chúng ta quả thật là may mắn, bởi vì chúng ta có thể đi thiền hành ở
đó. Chúng ta phải nhận diện, khám phá ra tăng thân chung quanh ta. Chúng ta có
thể mời bạn bè tới thực tập chung với nhau, cùng nhau thiền trà, ngồi thiền, đi
thiền… Chúng ta phải cố gắng thành lập một Tăng thân ở nhà hay ở địa phương. Có
Tăng thân chúng ta sẽ thực tập dễ dàng hơn.
Siddhartha, khi thực
tập với năm thầy tu khổ hạnh và bắt đầu uống sữa lại thì năm thầy bỏ đi. Vì vậy
Ngài đã nhận cây bồ đề làm Tăng thân của Ngài. Ngài nhận cậu bé chăn trâu, cô
bé đưa sữa, dòng sông, cây cối và chim chóc quanh Ngài làm Tăng thân. Có những
người sống trong trại tập trung cải tạo, không có Tăng thân, không có trung tâm
thiền tập nhưng họ vẫn thực tập được. Họ xem những thứ chung quanh họ là một phần
của Tăng thân. Có người còn thực tập đi thiền trong nhà tù. Cho nên, trong khi
chúng ta còn may mắn, còn có khả năng tìm ra nhiều yếu tố để thành lập Tăng
thân thì chúng ta phải tiến hành ngay. Bạn bè chúng ta, con cái chúng ta, anh
chị em chúng ta, nhà ta, cây xanh trong vườn ta, tất cả những yếu tố đó đều có
thể là một phần của Tăng thân.
Thiền tập hay thực
hành theo đạo Bụt là để cho chúng ta có bình an, thanh tịnh và hạnh phúc, làm
phát khởi hiểu biết và thương yêu. Chúng ta thực tập không phải cho hạnh phúc
bình an của riêng ta mà cho hạnh phúc bình an của gia đình và xã hội. Nếu nhìn
kỹ hơn chúng ta sẽ thấy ba viên ngọc quý này thực ra chỉ là một. Trong một cái
có chứa đựng hai cái kia. Trong Bụt có tánh Bụt (Phật tánh) và thân Bụt (Phật
thân) mà trong Bụt cũng có Pháp thân, vì không có Pháp thân thì Bụt không thể
thành Bụt được. Trong Bụt cũng có Tăng thân, vì Bụt ăn sáng với cây bồ đề, với
những cái cây khác, với chim chóc và môi trường quanh Ngài. Trong một trung tâm
thiền tập cũng có Tăng thân. Ở đó có sự hành trì theo con đường của tình thương
và sự hiểu biết. Cho nên Pháp thân có mặt, giáo pháp có mặt. Tuy nhiên giáo
pháp không thể trở nên sinh động và có thật nếu không có sự sống và con người.
Vì vậy Phật thân cũng đang có mặt. Nếu Bụt và Pháp không có mặt thì Tăng thân
cũng không có mặt. Không có chúng ta thì Bụt cũng không có thực, Bụt tồn tại chỉ
là một ý niệm.
Không có các bạn thì
Pháp lấy ai để được hành trì. Pháp phải được hành trì bởi một ai đó. Không có
các bạn thì Tăng thân cũng không thể có được. Vì vậy khi nói: “Con về nương tựa
Bụt”, ta cũng nghe: “Bụt về nương tựa con.” “Con về nương tựa Pháp”, “Pháp về
nương tựa con.” “Con về nương tựa tăng”, “Tăng về nương tựa con.”
Xem Chương 3 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá