Read more
Nhất Hạnh Tăng Thân by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Muốn An Được An
Chương 6. Tương Tức
Sự gặp gỡ giữa đạo Bụt
và Tây phương rất quan trọng và lý thú. Xã hội Tây phương có những giá trị đáng
kể như tinh thần dân chủ, tự do nhận thức và cách nhìn nhận vấn đề rất khoa học.
Sự gặp gỡ giữa đạo Bụt và những giá trị này đã cống hiến cho nhân loại nhiều điều
rất mới mẻ và thú vị. Chúng ta hãy nhìn vào vài ví dụ điển hình. Máy in được
phát minh ra ở Trung Quốc và loại dây thép chuyển động (movable metal type) được
phát minh ở Hàn Quốc, nhưng khi người Tây phương bắt đầu sử dụng thì nó trở
thành một phương tiện truyền thông quan trọng. Thuốc súng (Gun power) được người
Trung Quốc khám phá nhưng nó đã làm thay đổi bộ mặt của Trái đất khi người Tây
phương bắt đầu sản xuất rộng lớn. Cây trà được người châu Á khám phá ra nhưng
khi đưa qua Tây phương thì nó trở thành trà túi lọc (tea bags). Khi kết hợp với
cách nhìn và sáng tạo của Tây phương thì nguyên lý bất nhị của đạo Bụt sẽ làm
thay đổi toàn bộ cách sống của chúng ta. Vai trò của đạo Bụt ở Hoa Kỳ trong việc
đưa đạo Bụt vào gặp gỡ nền văn minh Tây phương là rất quan trọng đối với tất cả
chúng ta.
Đạo Bụt không phải chỉ
có một pháp môn duy nhất mà có rất nhiều pháp môn. Đạo Bụt đi vào một nước nào
thì nước đó hình thành nên một đạo Bụt mới. Lần đầu tiên viếng thăm tăng thân
Phật giáo ở nước này (nước Mỹ) tôi nói với một người bạn: “Xin bạn hãy chỉ cho
tôi đức Bụt của bạn, đức Bụt của nước Mỹ bạn.” Câu hỏi của tôi đã làm người bạn
ngạc nhiên, bởi vì người đó nghĩ rằng Bụt ở đâu thì chẳng vậy, có khác gì nhau đâu. Kỳ thực, Trung Quốc có Bụt
Trung Quốc, Tây Tạng có Bụt Tây Tạng… Và giáo lý cũng vậy, cũng khác nhau. Giáo
lý của đạo Bụt nước này khác với giáo lý của đạo Bụt nước khác. Đạo Bụt để được
coi là đạo Bụt thì đạo Bụt phải phù hợp và thích ứng với tâm lý, văn hóa của xã
hội nơi mà đạo Bụt ấy đang thâm nhập và phụng sự.
Câu hỏi của tôi rất
đơn giản: “Bồ tát của các bạn ở đâu? Các bạn hãy chỉ cho tôi một Bồ tát Hoa Kỳ.”
Người bạn của tôi không có khả năng làm điều đó. “Hãy chỉ cho tôi một thầy tu
Hoa Kỳ, một sư cô Hoa Kỳ, hay một trung tâm đạo Bụt Hoa Kỳ.” Tất cả những điều
này chưa biểu hiện. Chúng ta có thể học hỏi từ những truyền thống đạo Bụt khác,
nhưng chúng ta cũng nên sáng tạo ra một đạo Bụt cho chính mình. Tôi tin rằng với
sự thực tập thâm sâu, các bạn sẽ sớm có được một đạo Bụt cho chính mình. Tôi
xin giới thiệu cho các bạn một hình thức đạo Bụt có thể được chấp nhận ở Tây
phương. Trong 20 năm qua chúng tôi đã thí nghiệm hình thức đạo Bụt này và thấy
phù hợp với xã hội Tây phương. Đó là giới Tiếp Hiện.
Giới Tiếp hiện được
hình thành trong chiến tranh Việt Nam. Nó bắt nguồn từ phái thiền Lâm Tế, thuộc
thế hệ thứ 42. Đó là hình thức đạo Bụt nhập thế hay còn gọi là đạo Bụt dấn thân
– đạo Bụt được ứng dụng vào trong đời sống hàng ngày, trong xã hội chứ không chỉ
có trong tu viện hay trong chùa chiền. Tiếp Hiện là hai từ Hán Việt.
‘Tiếp’ nghĩa là tiếp
xúc. Ý niệm đạo Bụt dấn thân cũng đã nằm trong từ tiếp này. Trước hết là tiếp
xúc với chính mình. Trong xã hội hiện đại hóa, hầu hết chúng ta không muốn tiếp
xúc với tự thân. Hàng ngày, chúng ta tiếp xúc với rất nhiều thứ như tôn giáo,
thể thao, chính trị, sách báo… nhưng lại muốn quên đi bản thân mình. Bất cứ lúc
nào rảnh rỗi, ta cũng muốn cho một cái gì đó đi vào trong ta, ví dụ như mở ti
vi lên và để những chương trình ti vi đi vào xâm chiếm tâm thức ta. Vì vậy mà
‘Tiếp’ trước hết nghĩa là tiếp xúc với tự thân để tìm ra nguồn tuệ giác, hiểu
biết và thương yêu trong mỗi chúng ta. Tiếp xúc với tự thân là ý nghĩa của thiền,
là ý thức được những gì đang xảy ra trong thân, tâm và cảm thọ. Đó là ý nghĩa
thứ nhất của từ ‘Tiếp’.
‘Tiếp’ cũng có nghĩa
là tiếp xúc với các vị Bụt và Bồ tát, những bậc đã giác ngộ, chứa đầy hiểu biết
và thương yêu. Tiếp xúc với tự thân là tiếp xúc với nguồn tuệ giác và từ bi ấy.
Các em nhỏ cũng hiểu được rằng Bụt ở trong chính tự thân chúng. Một bé trai đã
tuyên bố vào ngày đầu tiên của khóa tu ở Ojai – Cali là ‘con là một đức Bụt’.
Tôi nói với em rằng điều đó đúng một phần, vì có khi em là Bụt nhưng có khi em
không là Bụt. Là Bụt hay không phụ thuộc vào mức độ tỉnh thức nơi em.
Nghĩa thứ hai của từ
‘Tiếp’ là tiếp tục, là kéo dài lâu hơn.
Nghĩa là sự nghiệp hiểu biết và thương
yêu mà chư Bụt và chư vị Bồ tát đã khởi xướng phải được tiếp tục. Điều này chỉ
thực hiện được khi chúng ta tiếp xúc được với tự thân. Cũng giống như khi đào
giếng, chúng ta đào sâu xuống đất cho đến khi nào tìm thấy được mạch nước ngầm
thì giếng nước sẽ đầy. Khi chúng ta tiếp xúc với tự tâm mình thì nguồn hiểu biết,
thương yêu sẽ hiện ra. Đây là nguồn gốc căn bản của mọi vấn đề. Tiếp xúc với tự
tâm (chân tâm) để duy trì sự nghiệp của chư Bụt và chư Bồ tát.
‘Hiện’ nghĩa là hiện
tại. Chúng ta phải có mặt trong giây phút hiện tại bởi vì chỉ có hiện tại là có
thật, chỉ có giây phút hiện tại là ta có thể sống được. Ta thực tập không phải
để cho tương lai hay để lên thiên đường, mà thực tập để có bình an, có tình
thương và niềm vui sống ngay bây giờ. ‘Hiện’ cũng có nghĩa là hiện thực, là biểu
hiện, là chứng nghiệm. Tình thương và sự hiểu biết không phải là những khái niệm
mơ hồ hay những lời nói suông mà phải được chứng nghiệm trong tự thân và trong
xã hội. Đó là ý nghĩa của từ ‘hiện’.
Rất khó để tìm được từ
tiếng Anh hay tiếng Pháp có thể chuyên chở được ý nghĩa của hai từ ‘tiếp hiện’.
Trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có từ Interbeing (Tương tức) chuyên chở được
tinh thần này, vì vậy mà ta tạm dịch từ Tiếp hiện là Interbeing. Trong kinh, từ
tương tức là một từ ghép, nghĩa là có trong nhau, là nhau. Interbeing là một từ
mới trong tiếng Anh, hy vọng nó sẽ được chấp nhận và được đưa vào từ điển.
Chúng ta đã nói về cái tất cả trong cái một và cái một chứa đựng cái tất cả.
Nhìn vào tờ giấy ta thấy mọi thứ như mây, rừng, người tiều phu… Vì có tôi đây
nên có anh đó. Vì có anh đó nên có tôi đây. Đó là ý nghĩa của Tương tức. Chúng
ta có trong nhau, là nhau, tương tức nhau. Dòng tu tiếp hiện có hai chúng.
Chúng chủ trì và chúng đồng sự. Chúng chủ trì bao gồm những người nguyện thực tập
14 giới Tiếp hiện. Trước khi thọ 14 giới tiếp hiện phải thực tập ít nhất một
năm. Ngay sau khi thọ giới, giới tử phải sắp xếp, tổ chức như thế nào để có thể
tiếp tục thực tập với tăng thân ngay xung quanh mình. Tăng thân đó được gọi là
chúng đồng sự, nghĩa là những người này cũng thực tập như vậy nhưng chưa thọ giới,
chưa trở thành thành viên của chúng chủ trì.
Những người trong
chúng chủ trì cũng không mang một hình thức đặc biệt nào cả. Họ không cạo đầu,
hay mang sắc phục đặc biệt. Điều làm cho họ khác với những người khác là họ cần
thực hiện thêm một số điều lệ. Một trong số những điều lệ này là mỗi năm tham dự
60 ngày tu chánh niệm, liên tục hoặc chia ra thành nhiều đợt. Ví dụ nếu họ thực
tập mỗi ngày chủ nhật thì họ đã có 52 ngày. Những người trong chúng đồng sự
cũng có thể thực tập như vậy hoặc nhiều hơn cho dù họ không muốn thọ giới. Những
người thuộc chúng chủ trì có thể chọn lựa sống độc thân hay lập gia đình.
Các thành viên phải tụng
14 giới ít nhất là mỗi hai tuần một lần. Có thể bắt đầu tụng Ba sự quay về và
Hai lời hứa cho trẻ em. Hai lời hứa này là nền tảng của tất cả những giới tướng
của người lớn. Lời hứa thứ nhất là: “Con nguyện nuôi lớn lòng từ bi để thương
yêu và bảo vệ sự sống của mọi người, mọi loài, cỏ cây và đất đá.” Lời hứa thứ
hai là: “Con nguyện nuôi lớn sự hiểu biết để thương yêu và sống hài hòa với mọi
người, mọi loài, cỏ cây và đất đá.” Vì vậy hai lời hứa này là từ bi và sự hiểu
biết. Đó là tinh yếu của đạo Bụt. Sau khi tụng Ba sự quay về và Hai lời hứa,
các em có thể ra ngoài chơi và người lớn tiếp tục tụng 14 giới.
Thông thường các giới
tướng bắt đầu bằng những lời khích lệ, cảnh báo liên quan đến thân như không giết
hại, trộm cắp… Nhưng giới tiếp hiện thì ngược lại, bắt đầu bằng những giới liên
quan đến Tâm. Trong đạo Bụt, tâm là gốc của mọi thứ. Đây là giới tướng của 14
giới tiếp hiện.
Giới Thứ Nhất: Thái Độ Cởi Mở
Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để không bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Con nguyện nhìn nhận những giáo nghĩa Bụt dạy như những pháp môn hướng dẫn thực tập để làm phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động. Thấy được rằng niềm cuồng tín dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị, con xin nguyện tập nhìn với thái độ cởi mở và với tuệ giác tương tức để có thể chuyển hóa tập khí vướng mắc vào giáo điều và năng lượng bạo động trong con và trên thế giới.
Đây là tiếng gầm sư tử
lớn, là đặc trưng của đạo Bụt. Người ta thường nói rằng Giáo Pháp chỉ là chiếc
bè giúp người qua sông, là ngón tay chỉ mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay là mặt
trăng, chiếc thuyền là bờ. Nếu chấp chặt vào chiếc bè hay vào ngón tay, ta sẽ
đánh mất mọi thứ. Chúng ta không thể nhân danh ngón tay hay chiếc bè mà giết hại
lẫn nhau. Loài người chúng ta quý hơn bất kỳ một học thuyết hay một ý thức hệ
nào.
Đạo Bụt không phải
như vậy. Một trong những lời dạy căn bản nhất của Bụt là: “Sự sống là cái quý giá nhất.” Đó là câu trả
lời cho vấn đề chính ‘chiến tranh và hòa bình’. Hòa bình chỉ có thể đạt được
khi chúng ta không kẹt vào các quan điểm và chủ thuyết; vượt thoát được những
cuồng tín và giáo điều. Càng thực tập giới này chúng ta càng thấy rõ thực tại
và càng hiểu được lời Bụt dạy hơn.
Giới Thứ Hai: Phá Bỏ Kiến Chấp
Ý thức được những khổ
đau do kiến chấp và vọng tưởng gây ra, con xin nguyện thực tập để phá bỏ thái độ
hẹp hòi và cố chấp, để có thể mở lòng ra mà đón nhận kinh nghiệm và tuệ giác của
kẻ khác, và nhờ đó thừa hưởng được nhiều lợi lạc từ trí tuệ tập thể. Con biết rằng
những kiến thức hiện giờ con đang có không phải là những chân lý bất di bất dịch.
Tuệ giác chân thật chỉ có thể đạt được do sự thực tập quán chiếu và lắng nghe,
bằng sự buông bỏ tất cả mọi ý niệm mà không phải bằng sự chứa chấp kiến thức
khái niệm. Con nguyện suốt đời là một người đi tìm học và thường trực sử dụng
chánh niệm để quán chiếu sự sống trong con và xung quanh con trong từng giây
phút.
Giới này phát xuất từ
giới thứ nhất. Hãy nhớ câu chuyện người cha không chịu mở cửa cho đứa con trai
của mình vì nghĩ rằng con của mình đã chết. Đức Bụt nói: “Nếu chúng ta nắm bắt
một cái gì đó và cho đó là chân lý tuyệt đối, rồi kẹt vào đó thì khi sự thật đến
gõ cửa, chúng ta cũng không chịu mở cửa cho sự thật đi vào. Một nhà khoa học với
tinh thần cởi mở, có khả năng chất vấn những kiến thức của khoa học hiện tại
thì sẽ có cơ hội khám phá ra sự thật cao hơn. Người Phật tử cũng vậy, trong khi
thiền tập, trong khi đi tìm sự hiểu biết cao hơn, phải đặt câu hỏi với những
cái thấy hiện đang có của mình liên quan đến thực tại. Phương pháp để đạt tới sự
hiểu biết là vượt thoát những kiến thức, ý niệm. Không kẹt vào các ý niệm là
giáo lý căn bản giúp ta đạt tới sự hiểu biết lớn.
Giới Thứ Ba: Tự Do Nhận Thức
Ý thức được những khổ
đau do sự cưỡng bức người khác vâng theo cái thấy của mình, con nguyện không ép
buộc bất cứ một ai, kể cả trẻ em, đi theo quan điểm của con, bằng bất cứ cách
nào: uy quyền, sự mua chuộc, sự dọa nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ.
Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và quyền tự do nhận thức của họ.
Tuy nhiên con biết con phải sử dụng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ
để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp.
Giới này cũng xuất
phát từ giới thứ nhất. Đây là tinh thần tự do nhận thức. Tôi nghĩ người Tây
phương có thể chấp nhận được bởi vì các bạn hiểu được nó. Nếu chúng ta có khả
năng tìm cách ứng dụng giới này trên toàn cầu thì thế giới sẽ rất hạnh phúc.
Giới Thứ Tư: Ý Thức Về Khổ Đau
Ý thức rằng tiếp xúc
và quán chiếu về bản chất của khổ đau có
thể giúp con có thêm hiểu biết và phát khởi tâm từ bi, con nguyện thực tập quay
về với tự thân và sử dụng năng lượng chánh niệm để nhận diện, chấp nhận, ôm ấp
và lắng nghe những nỗi khổ niềm đau trong con. Thay vì trốn tránh thực tại khổ
đau và tìm cách khỏa lấp niềm đau trong con bằng sự tiêu thụ, con sẽ hết lòng
thực tập hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm để nhìn sâu vào những gốc rễ của
khổ đau. Con ý thức rằng con chỉ có thể tìm thấy con đường thoát khổ khi nào
con thấu hiểu được nguồn gốc của khổ đau. Và một khi thấu hiểu được khổ đau của
tự thân thì con mới có khả năng hiểu được những khổ đau của người khác. Bằng những
phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh, con nguyện thường xuyên
tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những
đau khổ hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con nguyện tìm tới với những kẻ khổ
đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ.
Bài pháp thoại đầu Bụt
dạy cho năm anh em Kiều Trần Như ở vườn Lộc Uyển là Tứ Thánh Đế (Bốn sự thật
cao quý). Sự thật thứ nhất là khổ đau. Chúng ta phải ý thức về nỗi khổ đau của
ta. Nếu không có bệnh tật ốm đau, không có khó khăn đau khổ thì ta sẽ không tìm
ra được nguyên nhân của chúng, không tìm ra được những phương thuốc hữu hiệu
giúp ta chữa lành bệnh.
Đứng về phương diện
nào đó thì Mỹ là một xã hội khép kín. Người Mỹ không ý thức nhiều về những gì
đang xảy ra trên thế giới. Cuộc sống của họ quá bận rộn, cho dù họ có xem ti vi
hay đọc báo để biết thêm tin tức, và những tin tức, hình ảnh bên ngoài có hiện
ra trong họ thì họ cũng không thực sự tiếp xúc được với chúng. Tôi hy vọng các
bạn sẽ tìm cách nuôi dưỡng ý thức về những khổ đau hiện thực đang có mặt khắp
nơi trên thế giới. Cố nhiên trong nước Mỹ cũng có những nỗi khổ đau và chúng ta
phải tiếp xúc với những nỗi khổ đau ấy. Nhưng hầu hết những nỗi khổ đau của Tây
phương thì không quá trầm trọng và dai dẳng. Nó có thể biến mất khi chúng ta thấy
và hiểu được những nỗi đau khổ trầm kha của các dân tộc khác. Đôi khi ta khổ
đau vì những yếu tố tâm lý. Ta không thể vượt thoát được chính mình, vì vậy mà
ta khổ. Do đó, nếu chúng ta tiếp xúc được với những nỗi khổ đau của thế giới và
những nỗi khổ đau ấy làm ta chấn động, xót thương thì có thể chúng ta sẽ có nhiều
động lực để tìm tới và giúp đỡ những người đang lâm vào tình trạng đau khổ đó
và như thế nỗi khổ của ta sẽ có cơ hội chấm dứt.
Giới Thứ Năm: Nếp Sống Lành Mạnh Và Từ Bi
Ý thức rằng hạnh phúc
chân thật chỉ thật sự có mặt khi nào các yếu tố an ổn, vững chãi, thảnh thơi và
từ bi có mặt, con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải trong khi nhiều người
đang đói khổ thiếu thốn, không đặt danh vọng, quyền hành, giàu sang và sự hưởng
thụ dục lạc làm mục tiêu của đời mình vì con biết những thứ ấy sẽ đem lại cho
con nhiều khổ đau và tuyệt vọng. Con nguyện thực tập nhìn sâu vào cách con nuôi
dưỡng thân tâm bằng bốn loại thực phẩm: đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức
thực. Con nguyện không chơi bài bạc, không uống rượu, không sử dụng các chất ma
túy và bất cứ một sản phẩm nào có độc tố,
trong đó có mạng lưới toàn cầu, trò chơi điện tử, phim ảnh, các chương trình
truyền thanh, truyền hình, sách báo và cả chuyện trò, vì con biết rằng những thứ
ấy có thể gây tàn hại trên thân tâm con cũng như trên thân tâm của cộng đồng.
Con nguyện thực tập tiêu thụ như thế nào để nuôi dưỡng được lòng từ bi, sự lành
mạnh và niềm vui sống cho thân tâm con cũng như cho gia đình, xã hội và cả cho
Trái đất.
Kinh Tám Điều Giác Ngộ
của Các Bậc Đại Nhân nói rằng: “Vì tâm ta rong ruổi chạy theo danh lợi không
bao giờ biết chán, cho nên tội lỗi ta cũng theo đó mà càng ngày càng lớn. Các bậc
Bồ tát thì khác hẳn, họ luôn luôn nhớ nghĩ đến phép tri túc, an vui sống với đời
đạm bạc để hành đạo và xem sự nghiệp duy nhất của mình là sự thực hiện trí tuệ
giác ngộ.” Trong xã hội hiện đại của chúng ta, sống đơn giản nghĩa là gìn giữ tự
do của chính mình, không để cho những tiêu cực của xã hội, những cơ chế kinh tế
thị trường lôi kéo ta, tránh tình trạng căng thẳng, trầm cảm, nhồi máu cơ tim
và những căn bệnh khác của thời đại. Chúng ta phải cố gắng hết sức để tránh những
áp lực và lo lắng mà hầu hết xã hội hiện đại nào cũng gặp phải. Cách giải quyết
duy nhất là ta phải tiêu thụ ít lại. Có khả năng sống đơn giản và hạnh phúc thì
chúng ta sẽ có khả năng giúp người khác hay hơn và nhiều hơn.
Giới Thứ Sáu: Chăm Sóc Cơn Giận
Ý thức được rằng sân
hận và oán thù có tác dụng cắt đứt truyền thông giữa người với người và tạo ra
nhiều khổ đau cho cả hai phía, con nguyện học hỏi phương pháp chăm sóc năng lượng
sân hận và oán thù khi chúng phát khởi trên ý thức con; cũng như phương pháp nhận
diện và chuyển hóa hạt giống của sân hận và oán thù trong chiều sâu tâm thức
con. Con nguyện tập luyện để mỗi khi cơn giận hoặc sự bực tức phát khởi, con sẽ
không nói gì và làm gì cả mà chỉ thực tập hơi thở chánh niệm hoặc đi thiền hành
để nhận diện và nhìn sâu vào bản chất của các tâm niệm sân hận và oán thù ấy.
Con ý thức rằng gốc rễ của các cơn giận đó không phải ở bên ngoài con mà nằm
ngay trong nhận thức sai lầm của con và nơi sự thiếu hiểu biết về khổ đau của
chính con và của người kia. Bằng phương pháp quán chiếu về vô thường, con sẽ có
thể nhìn lại chính con và nhìn lại người mà con nghĩ đã gây nên tâm niệm sân hận
và oán thù trong con bằng con mắt từ bi và nhận ra rằng mối liên hệ giữa con và
người đó quý giá biết nhường nào. Con cũng nguyện thực tập Chánh Tinh Tấn để
nuôi dưỡng khả năng hiểu biết và thương yêu, khả năng chế tác niềm vui và lòng
bao dung, không kỳ thị trong con. Nhờ đó, con sẽ dần dần chuyển hóa những bạo động,
hận thù, sợ hãi trong con và giúp cho những người khác cũng làm được như vậy.
Chúng ta phải ý thức
được cơn giận và sự bực tức khi chúng phát khởi, và tìm hiểu nguyên nhân của
chúng. Khi hiểu được thì chúng ta có khả năng tha thứ và thương yêu hơn. Quán
chiếu về từ bi nghĩa là quán chiếu về sự hiểu biết. Nếu không hiểu thì chúng ta
không thể thương được.
Trong kinh Pháp Hoa
(Lotus Sutra) chương Bồ Tát Quan Thế Âm có câu: “Nhìn mọi loài bằng mắt thương.”
Chúng ta có thể viết câu này và treo trong phòng khách để thực tập. Câu này tiếng
Hán chỉ có năm từ: “Từ nhãn thị chúng sinh.” Lần đầu tiên đọc kinh Pháp Hoa,
khi đọc đến năm chữ này lòng tôi chấn động. Tôi ý thức rằng năm chữ này đủ để
hướng dẫn tôi đi trọn đời.
Giới Thứ Bảy: Hiện Pháp Lạc Trú
Ý thức được rằng sự sống
chỉ có thể thật sự có mặt trong giây phút hiện tại, con nguyện tập luyện để có
thể sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày của con. Con nguyện
không để cho những hối tiếc về quá khứ, những lo lắng về tương lai và những
tham dục, giận hờn và ganh tỵ đối với những gì đang xảy ra trong hiện tại lôi
kéo con và làm cho con đánh mất sự sống mầu nhiệm. Con xin nguyện thực tập giáo
lý hiện pháp lạc trú, sử dụng hơi thở và nụ cười chánh niệm để tiếp xúc với những
gì đang diễn ra trong giây phút hiện tại và tiếp xúc với những gì mầu nhiệm,
tươi mát và lành mạnh trong con và chung quanh con dù trong bất kỳ hoàn cảnh
nào. Nhờ đó, con có thể nuôi lớn những hạt giống an lành, hiểu biết và thương
yêu trong con để làm động lực chuyển hóa và trị liệu trong chiều sâu tâm thức.
Con ý thức rằng hạnh phúc chân thật được phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn
của con chứ không phải từ những điều kiện bên ngoài, và con có thể sống hạnh
phúc trong giây phút hiện tại bằng cách nhận ra rằng con đã có quá đủ những điều
kiện hạnh phúc.
Giới này là trái tim
của 14 giới, là giới quan trọng nhất: sống với ý thức và an trú trong giây phút
hiện tại. Không có giới này, không có chánh niệm, thì những giới khác không thể
hoàn hảo được. Giống như cái đòn gánh vậy. Ở các nước châu Á người ta dùng đòn
gánh để gánh đồ. Người ta treo đồ đạc trên hai đầu đòn gánh và đặt đoạn giữa
chiếc đòn gánh trên vai mà đi. Giới này cũng giống như phần giữa của chiếc đòn
gánh mà ta gánh trên vai vậy.
Giới Thứ Tám: Xây Dựng Đoàn Thể Tu Học Chân Chính Và Duy Trì Sự
Truyền Thông
Ý thức được rằng những
khó khăn trong việc truyền thông giữa người với người luôn luôn đưa tới ngăn
cách và khổ đau, con nguyện thực tập lắng nghe bằng tâm từ bi và nói năng bằng
lời ái ngữ. Ý thức rằng một đoàn thể chân thật được xây dựng trên nền tảng
không kỳ thị và hài hòa trong quan điểm, tư duy cũng như lời nói, con nguyện thực
tập chia sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm của con với những thành viên khác
trong đoàn thể để cùng nhau đi đến một cái thấy chung.
Con nguyện học hạnh lắng
nghe chăm chú mà không phán xét, không phản ứng, không nói ra bất cứ một lời
nào có thể tạo nên sự bất hòa và có thể làm tan vỡ đoàn thể. Mỗi khi có khó
khăn xảy ra, con nguyện ở lại cùng tăng
thân và thực tập nhìn lại chính mình cũng như nhìn lại những người khác để tìm ra tất cả những
nguyên nhân và điều kiện đã tạo nên tình trạng khó khăn, trong đó có cả những tập
khí của chính con. Con sẽ nhận trách nhiệm về những gì con đã nói và đã làm, những
gì có thể đã góp phần tạo nên sự bất hòa và tìm cách duy trì được sự truyền
thông. Con sẽ không hành xử như một nạn nhân mà sẽ cố gắng hết sức để giải quyết
mọi vụ bất hòa, dù lớn dù nhỏ.
Bây giờ chúng ta đi đến
phần thứ hai của 14 giới liên quan đến lời nói. Bảy giới đầu thuộc về tâm (ý),
hai giới tiếp theo thuộc về lời nói (khẩu) và năm giới sau cùng thuộc về thân
thể (thân). Giới thứ tám này nói về sự hòa giải để đem lại an lạc không chỉ cho
gia đình mà còn cho xã hội. Để giúp hóa giải những cuộc xung đột, chúng ta phải
tiếp xúc với cả hai bên. Chúng ta phải vượt thoát những xung đột trong lòng. Nếu
còn xung đột thì khó mà hòa giải được. Chúng ta phải có cái nhìn bất nhị để lắng
nghe cả hai phía để hiểu được tình trạng của họ. Thế giới cần những con người
như thế, những con người có khả năng hiểu và thương cho công cuộc hòa giải.
Giới Thứ Chín: Ngôn Ngữ Chân Thật Và Từ Ái
Ý thức được rằng lời
nói có thể tạo ra khổ đau hay hạnh phúc, con xin nguyện thực tập sử dụng lời
nói chân thật, từ ái và có tính xây dựng. Con chỉ sử dụng những lời nói nào có
thể mang lại niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có tác dụng
hòa giải và mang lại an lạc cho tự thân con cũng như giữa mọi người với nhau.
Con nguyện thực tập ái ngữ và lắng nghe để giúp con và những người khác chuyển
hóa khổ đau và tìm ra con đường vượt thoát tình trạng khó khăn đó. Con nguyện
không nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không nói những lời gây chia
rẽ và căm thù. Con xin nguyện bảo vệ hạnh phúc và sự hòa hợp của tăng thân bằng
cách tránh nói lỗi của người khác khi họ vắng mặt và luôn đặt câu hỏi về tính chính xác của những
tri giác mà con đang có. Con nguyện chỉ nói với mục đích muốn hiểu rõ và giúp
chuyển hóa tình trạng. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết
chắc là có thật, không phê bình và lên án những gì con không biết rõ. Con nguyện
can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công, dù hành động này có thể
gây khó khăn cho con hay mang lại những đe dọa cho sự an thân của mình.
Lời nói có thể tạo ra
tình thương, niềm tin và hạnh phúc; nhưng lời nói cũng có thể tạo nên địa ngục.
Chúng ta phải cẩn thận với những gì chúng ta nói. Nếu chúng ta có khuynh hướng
nói nhiều thì chúng ta phải ý thức về điều đó và học nói ít lại. Ta phải ý thức
về lời nói của ta và kết quả do lời nói đem lại. Chúng ta có một bài thi kệ, đọc
lên trước khi nhấc điện thoại:
Tiếng đi ngoài ngàn dặm
Xây dựng niềm tin yêu
Mỗi lời là châu ngọc
Mỗi lời là gấm thêu
Chúng ta phải nói những
lời nói có tính cách xây dựng. Khi nói chúng ta phải tránh để đừng tạo ra sự hiểu
lầm, hận thù hay ganh tỵ, trái lại phải làm tăng thêm sự hiểu biết, cảm thông,
thương yêu và chấp nhận. Giới thứ chín cũng đòi hỏi sự thẳng thắn và can đảm.
Có bao nhiêu người trong chúng ta đủ can đảm lên tiếng cho những tình trạng bất
công mà có khi những lời nói của chúng ta có thể đe dọa đến tính mạng của chính
mình?
Giới Thứ Mười: Bảo Vệ Và Nuôi Dưỡng Tăng Thân
Ý thức rằng mục đích
và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ giác và từ bi, con nguyện
sẽ không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các đoàn thể giáo hội vào mục tiêu lợi dưỡng
hoặc quyền bính, không biến các giáo đoàn thành những tổ chức hoạt động chính
trị. Tuy nhiên, con nhận thức rằng một đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ
rõ rệt về tình trạng áp bức, bất công xã hội, và tìm cách chuyển đổi các tình
trạng ấy mà không cần và không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái.
Con nguyện học nhìn với con mắt tương tức để thấy con và những người khác đều
là những tế bào của cùng một tăng thân. Một khi đã là một tế bào thật sự của
tăng thân, có khả năng chế tác ra Niệm, Định và Tuệ để nuôi dưỡng chính mình và
nuôi dưỡng toàn thể tăng thân thì mỗi người trong chúng con cũng đồng thời là một
tế bào của Phật thân. Chúng con nguyện tích cực xây dựng tình huynh đệ, đi với
nhau như một dòng sông và thực tập để làm lớn thêm ba đức là trí đức, ân đức và
đoạn đức, để thực hiện được sự nghiệp giác ngộ tập thể.
Điều này không có
nghĩa là chúng ta phải im lặng trước những bất công xã hội, trái lại chúng ta
phải hành động bằng ý thức sáng tỏ của mình và không đứng về một bên. Chúng ta
phải nói ra sự thật mà không phải chỉ cân nhắc về những hậu quả chính trị. Nếu
đứng về một bên, chúng ta sẽ đánh mất khả năng giúp giải quyết những cuộc xung
đột.
Giới Thứ Mười Một: Chánh Mạng
Ý thức rằng thiên
nhiên và xã hội con người đã bị tàn phá trầm trọng vì bạo động, bất công, con
nguyện không sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây tàn hại cho con người
và thiên nhiên. Con sẽ làm mọi cách có thể để chọn những phương tiện sống nào
có khả năng góp phần vào sự an lành của mọi loài trên Trái đất và có khả năng
cho phép con thực hiện được lý tưởng từ bi và cứu khổ của đạo Bụt. Ý thức được
về hiện thực của thế giới trên các mặt kinh tế, chính trị và xã hội, cũng như mối
tương quan giữa con người với môi trường sinh thái, con nguyện hành xử một cách
có trách nhiệm với tư cách một người tiêu thụ và một công dân. Con nguyện không
đầu tư hay mua sắm những sản phẩm của những doanh nghiệp chuyên làm lợi cho một
nhóm người trong khi tước đoạt môi trường và cơ hội sinh sống của những nhóm
người khác.
Giới này rất khó thực
tập. Nếu chúng ta đủ may mắn có một nghề nghiệp giúp ta thực hiện được lý tưởng
từ bi và cứu khổ của đạo Bụt thì ta cũng vẫn phải tìm hiểu sâu thêm về nó. Nếu
tôi là một người thầy giáo thì tôi rất hạnh phúc được giúp đỡ trẻ em bằng con
đường lương thiện của tôi. Tôi hạnh phúc là mình không phải là một bác đồ tể giết
heo, bò. Tuy nhiên con cái tôi lại ăn thịt do bác đồ tể kia làm và con cái của
bác lại đến trường học với tôi. Con cái bác được thừa hưởng từ nghề nghiệp
chánh mạng của tôi và con cái tôi được thừa hưởng từ nghề nghiệp của bác. Như
thế chúng ta liên hệ rất mật thiết với nhau. Tôi không thể nói rằng nghề nghiệp
của tôi hoàn toàn chánh mạng. Không thể được. Thực tập giới này là ta phải nhận
ra và nâng cao ý thức về nghề nghiệp chánh mạng của cộng đồng.
Có thể chúng ta ăn
chay hay ăn theo chế độ ăn kiêng, chỉ ăn rau quả, giảm bớt việc giết hại súc vật.
Tuy nhiên chúng ta cũng không thể tránh được việc giết hại hoàn toàn. Khi uống
một ly nước trong, có thể chúng ta cũng đã giết hại nhiều sinh vật nhỏ trong
đó. Cho dù dĩa thức ăn của ta có chay tịnh đi nữa thì cũng có rất nhiều sinh vật
bị chết trong ấy. Tôi ý thức rằng dĩa thức ăn chay của tôi không hoàn toàn chay
tịnh, và tôi nghĩ rằng nếu Bụt có ăn chay thì Bụt cũng không thể tránh được điều
này. Vấn đề là ta có nguyện đi theo hướng từ bi hay không. Nếu có thì chúng ta
sẽ có khả năng giảm thiểu khổ đau của các loài sinh vật đến mức tối đa. Nếu tôi
đi lạc đường, tôi phải tìm Sao Bắc Đẩu. Điều đó không có nghĩa là tôi muốn đến
Sao Bắc Đẩu mà tôi chỉ muốn đi về hướng ấy.
Giới Thứ Mười Hai: Tôn Trọng Sự Sống
Ý thức được những khổ
đau do chiến tranh và các cuộc xung đột tạo ra, con nguyện thực tập sống đời sống
hàng ngày của con theo tinh thần bất hại, thương yêu và theo tuệ giác tương tức.
Con nguyện góp phần vào công việc giáo dục hòa bình, làm môi giới trong chánh
niệm và thực tập hòa giải trong phạm vi gia đình, cộng đồng, giữa những nhóm
dân tộc và tôn giáo, quốc gia và quốc tế. Con nguyện không giết hại sinh mạng,
không tán thành sự chém giết. Con nguyện sẽ không yểm trợ bất cứ một hành vi giết
chóc nào trên thế giới, trong tư tưởng hoặc trong cách sống hàng ngày của con.
Con cũng sẽ thường xuyên quán chiếu với tăng thân con để tìm ra những biện pháp
hữu hiệu nhằm bảo vệ sinh mạng, ngăn chặn chiến tranh và xây dựng hòa bình.
Ngân quỹ quốc phòng của
các nước phương Tây lớn. Các cuộc nghiên cứu cho thấy rằng ngưng các cuộc chạy
đua vũ trang chúng ta sẽ dư dả kinh phí để xóa đói giảm nghèo, xóa nạn mù chữ
và nhiều căn bệnh khác trên thế giới. Chúng ta không chỉ áp dụng giới này đối với
loài người mà còn đối với những loài sinh vật khác. Như chúng ta đã hiểu, không
ai có thể thực tập giới này một cách hoàn hảo được, tuy nhiên cái cốt lõi của
giới này là tôn trọng và bảo vệ sự sống tới mức tối đa. Nghĩa là ta không giết
hại, không để kẻ khác giết hại. Điều này hơi khó. Tuy nhiên, những ai thực tập
giới này phải hành động cho hòa bình để có hòa bình trong tự thân. Ngăn chặn
chiến tranh tốt hơn nhiều so với tranh đấu chống lại chiến tranh. Chống lại chiến
tranh đã là quá trễ rồi.
Giới Thứ Mười Ba: Tôn Trọng Quyền Tư Hữu
Ý thức được những khổ
đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin nguyện nuôi dưỡng
lòng từ bi trong cách suy nghĩ, nói năng và hành động của con. Con xin học theo
hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia sẻ
thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con
nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra.
Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ
khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của
con người và của muôn loại.
“Ý thức những khổ đau
do bất công xã hội gây ra,” giới thứ mười ba khuyến khích chúng ta xây dựng một
xã hội lành mạnh hơn để con người có thể chung sống hạnh phúc được với nhau. Giới
này liên quan đến giới thứ tư (Ý thức về khổ đau), giới thứ năm (Nếp sống lành
mạnh và từ bi) và giới thứ mười một (Chánh mạng). Để hiểu được giới này một cách
sâu sắc chúng ta phải quán chiếu cả ba giới kia.
“Ngăn ngừa kẻ khác
không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con
người và của muôn loài” là trách nhiệm của những nhà lập pháp và những nhà
chính trị. Tuy nhiên mỗi người trong chúng ta cũng phải hành động theo hướng ấy.
Đứng về một phương diện nào đó, chúng ta rất gần với những người bị áp bức,
chúng ta có thể bảo vệ quyền sống của họ và giúp họ tự bảo vệ, chống lại những
tình trạng áp bức, bất công. Để cho người khác làm giàu trên sự đau khổ của con
người và của muôn loài là điều mà chúng ta không nên và không thể làm. Là một
tăng thân chúng ta phải ngăn chặn tình trạng ấy. Làm thế nào để đem lại công bằng
cho xã hội là vấn đề mà chúng ta phải xem xét và quán chiếu. Hạnh nguyện cứu đời
của các vị Bồ tát rất rộng lớn. Mỗi người trong chúng ta có thể phát nguyện ngồi
trên những chiếc thuyền cứu nhân độ thế ấy.
Giới Thứ Mười Bốn: Tình Thương Đích Thật
(Dành cho Tiếp Hiện Tại Gia)
Ý thức được rằng tình
dục và
tình yêu là hai thứ khác nhau, rằng
sự phối hợp giữa hai cơ thể do sự thúc đẩy của dục tình không những đã không thể
giải tỏa được nỗi cô đơn mà còn tạo thêm nhiều khổ đau, chua cay và xa cách,
con nguyện không ăn nằm với bất cứ ai không phải là vợ hay chồng của con. Ý thức
được rằng thân và tâm là một, con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để
chăm sóc năng lượng ái dục trong con và nuôi lớn các tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả giúp
làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con ý thức được rằng hành
động tà dâm sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác và cho chính con trong hiện tại và
trong tương lai. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải
biết tôn trọng những điều mà mình và kẻ khác đã cam kết. Con nguyện sẽ làm mọi
cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của
các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con sẽ đối xử với thân thể con một cách
kính trọng và từ bi. Con nguyện thực tập nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm và thường
xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để thực hiện lý tưởng độ đời. Con cũng
ý thức trọn vẹn trách nhiệm của con về sự cho ra đời những sinh mạng mới và thường
xuyên quán chiếu về môi trường sinh hoạt trong tương lai của những sinh mạng
này.
(Dành cho Tiếp Hiện Xuất Gia)
Ý thức được rằng lý
tưởng xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc
đối với ái dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh
của con và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết cô đơn và khổ đau
không thể nào được giải tỏa bằng dục tình mà chỉ có thể đượcchuyển hóa bằng sự
thực tập Từ, Bi, Hỷ, Xả. Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất
gia của con, làm hại đến cuộc đời của kẻ khác và không cho con thực hiện được
lý tưởng cứu độ chúng sanh của mình. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích
ứng để chăm sóc năng lượng ái dục trong con. Con nguyện không ép uổng thân thể
con, không đối xử với thân thể con một cách bạo động và khinh xuất, không xem
thân thể chỉ như là một dụng cụ. Con nguyện bảo trọng thân thể con, nguyện thực
tập nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí,
thần để đi tới trên đường thành tựu đạo nghiệp.
Có thể ta có cảm tưởng
là giới này khuyến khích ta đừng có con, nhưng kỳ thực không phải vậy. Giới này
chỉ khuyến khích ta ý thức những gì ta đang làm. Thế giới của chúng ta có đủ an
toàn để cho những đứa con ta ra đời không? Nếu muốn cho con mình ra đời thì
chúng ta phải làm gì đó cho thế giới, làm gì đó cho cuộc đời.
Giới này cũng liên
quan đến chuyện sống độc thân, không gia đình. Theo truyền thống đạo Bụt thì
người xuất sĩ phải sống đời sống độc thân,
ít nhất là vì ba lý do. Thứ nhất là vì vào thời Bụt các vị xuất sĩ thực
tập hầu như suốt ngày. Các vị xuất sĩ phải
đi khất thực, tiếp xúc với những người trong thôn làng để thuyết pháp cho họ.
Do đó, nếu người xuất sĩ có gia đình thì sẽ bận rộn và không thể thực hiện được
lý tưởng của mình. Lý do thứ hai là người xuất sĩ phải gìn giữ và bảo tồn năng
lượng để thiền định. Theo truyền thống tôn giáo và y học Đông phương thì con
người có ba nguồn năng lượng, đó là tinh, khí và thần. Tinh là nguồn năng lượng
ta tiêu hao khi giao hợp. Khí là nguồn năng lượng tiêu tốn khi mình nói quá nhiều
hay thở quá ít. Thần là nguồn năng lượng tiêu hao khi mình quá lo lắng hay ngủ
không được. Nếu chúng ta tiêu hao quá nhiều ba nguồn năng lượng này thì chúng
ta không đủ sức mạnh để thực hiện lý tưởng và thâm nhập thực tại. Người xuất sĩ
thực tập giới này, sống nếp sống độc thân, không phải vì luân lý đạo đức mà để
bảo tồn năng lượng. Những ai thực tập lâu năm sẽ hiểu được tầm quan trọng của
việc bảo tồn ba nguồn năng lượng ấy.
Lý do thứ ba mà người
xuất sĩ thực tập giới này là vì ý thức về những khổ đau của xã hội. Vào thời đại
đó, mà ngay cả thời đại này cũng vậy, nếu đến Ấn Độ chúng ta sẽ thấy nhiều trẻ
em đói khổ, thiếu thốn. Đói không có thức ăn để ăn, bệnh tật không có thuốc men
để chữa trị. Trong khi đó phụ nữ lại sinh đẻ rất nhiều, có khi đến mười hay mười
hai đứa con trong một gia đình mà lại không có khả năng nuôi dưỡng dù chỉ là
hai hay ba đứa. “Đời là khổ,” đó là sự thật thứ nhất trong giáo lý Tứ Thánh Đế
của đạo Bụt. Cho ra đời một đứa con là trách nhiệm rất lớn của chúng ta. Nếu
chúng ta khá giả thì nuôi con có thể không có vấn đề. Nhưng nếu chúng ta nghèo
khổ, thiếu thốn thì nuôi con quả là mối quan tâm lo lắng thực sự. Tái sinh trước
hết là tái sinh trong con ta, vì con ta là sự tiếp nối của ta. Ta được tái sinh
trong chúng. Chúng ta tiếp tục vòng luẩn quẩn khổ đau. Ý thức được việc cho ra
đời những sinh mạng mới có thể làm cho chúng khổ đau, đức Bụt khuyến khích người
xuất sĩ sống nếp sống độc cư, không gia đình và không có con. Suốt 2.600 năm
qua các vị xuất sĩ trong nhiều nước đã đóng góp rất nhiều vào việc hạn chế gia
tăng dân số. Điều này khá quan trọng.
Giới Thứ Mười Bốn khuyến khích chúng ta tôn
trọng thân thể của mình và duy trì nguồn năng lượng để thực hiện lý tưởng cứu độ
chúng sanh của mình. Nguồn năng lượng này không những chỉ cần cho thiền định mà
bất kỳ ta muốn làm điều gì để thay đổi tình trạng thế giới cũng cần nguồn năng
lượng này.
Theo tôi thì cuộc
cách mạng về tình dục (the liberation of sexual behavior) ở Tây phương đã mang
lại một số kết quả, nhưng cũng gây nên một số vấn đề nan giải. Tự do quan hệ
tình dục của người phụ nữ qua những phương pháp ngừa thai là một cái gì rất thực.
Trong quá khứ những cô gái trẻ ở châu Á cũng như ở Tây phương đã gặp phải những
khó khăn và thậm chí nhiều người đã tự tử khi phải mang thai ngoài ý muốn. Từ
khi người ta khám phá ra được phương pháp ngừa thai thì những thảm kịch này đã
được giảm xuống đến mức đáng kể. Tuy nhiên tự do quan hệ tình dục cũng gây ra
nhiều vấn đề căng thẳng và rắc rối. Nhiều người bị trầm cảm một phần cũng vì lý
do đó. Họ quan hệ tình dục chỉ để lấp đầy những nỗi cô đơn trống vắng trong
lòng mà không phải xuất phát từ một tình yêu thương chân thật. Chúng ta cũng
nên quán chiếu thêm về vấn đề này. Đây là vấn đề quan trọng của xã hội Tây
phương.
Nếu muốn sinh con,
chúng ta phải chuẩn bị một môi trường tốt cho đứa con ta ra đời. Chúng ta phải
làm gì đó cho cuộc đời, phải làm gì đó để đảm bảo cho cuộc đời của chúng sau
khi sanh ra được an toàn và hạnh phúc. Điều này khiến ta trở thành một nhà hoạt
động cho hòa bình dưới bất kỳ hình thức nào.
Xem Chương 7 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá