Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Trái Tim Của Bụt
Phật Pháp Căn Bản
Bài 3. Pháp Thoại Đầu
Bài 03A. Pháp Thoại Đầu
Hôm nay là ngày 28
tháng 11 năm 1993, ở tại Xóm Hạ, chúng ta học về Tứ Đế, tức là bốn sự thật. Tứ
đế có khi gọi là tứ diệu đế hay là tứ thánh đế, tứ chân đế. Chữ PHạn satya là Đế.
Aryasatya là chân đế hay là thánh đế hoặc diệu đế. Chữ arya nghĩa là cao quý.
Chữ Đế trong chữ Hán gồm chữ ngôn, lời nói, và chữ đế nghĩa là vua. Diệu đế có
nghĩa là sự thật mầu nhiệm. Tứ Diệu Đế (catvary aryasatyani) là bốn sự thật rất
quan trọng, mầu nhiệm và chân thật. Tứ Diệu Đế là đề tài giảng pháp chính thức
đầu tiên của Bụt sau khi thành đạo mà nay còn chép lại. Và chúng ta sẽ thấy, đó
là những điểm căn bản của đạo Bụt.
Pháp Thoại Đầu
Sau khi thành đạo dưới
gốc cây bồ đề, Bụt nghĩ đến chuyện đi giảng dạy. Vì Ngài biết việc tu hành
không nhắm giải thoát cho riêng mình, mà còn giải thoát cho mọi người và những
loài chúng sinh khác. Bụt lưu lại nơi cây bồ đề một thời gian khá lâu, nhiều tuần
lễ, để chứng nghiệm trạng thái an lạc, tự do của người đạt đạo. Đồng thời Ngài
cũng nghĩ cách mang tuệ giác của mình hiến tặng cho mọi người, trong đó sẽ có
cha mẹ, có những người thân, và những người đang đau khổ hoặc sẽ đau khổ. Trong
thời gian đó Bụt ở trong Xóm Uruvela, tiếp xúc với người dân trong Xóm, người lớn
cũng như trẻ con. Ngài chia sẻ những điều chứng ngộ của mình với các thí chủ
nuôi Ngài trong những tuần lễ đó.
Bài pháp thoại chính
thức đầu tiên Ngài đã giảng ở một khu vườn gọi là Vườn Nai, Lộc Uyển, phía bắc
thành Ba la nại (Benares). Ngài giảng cho năm người bạn tu khổ hạnh cũ của
Ngài, trong đó có Kiều Trần Như, Kondanna. Lúc đầu Ngài muốn tìm gặp hai vị thầy
cũ của mình. Vì Ngài nghĩ nếu gặp những vị thầy từng dạy mình về tứ thiền, tứ
vô sắc định, thì có thể giúp họ đạt tới quả vị A La Hán rất nhanh chóng. Nhưng
sau khi thặm hỏi, Ngài biết cả hai vị thầy đều viên tịch, cho nên Ngài nghĩ tới
năm người bạn đã cùng tu khổ hạnh với Ngài trước đây. Trước đây khi thấy Ngài bỏ
lối tu khổ hạnh và bắt đầu ăn uống trở lại bình thường thì họ rất buồn. Họ cho
là Ngài đã thoái chí, bỏ cuộc, nên họ lìa bỏ Ngài mà đi. Nghĩ có thể giúp họ được
nên Ngài vượt sông lên miền Bắc tìm tới Vườn Nai. Khi Bụt tới, năm người bạn cũ
không muốn gặp. ‘‘Chính Siddhatta này trước đã bỏ cuộc, bây giờ còn tới đây làm
gì?’’ Vì thế họ không chào đón, niềm nở như ngày xưa. Nhưng lúc nhìn thấy dáng
điệu, phong thái của Ngài khi bước vào, họ không thể tiếp tục thờ ơ được. Rồi
người nào cũng tự động ra tiếp đón vồn vã. Người thì lấy nước cho Ngài rửa
chân, người thì cầm giúp bình bát cho Ngài, người thì đỡ áo cho Ngài, và mọi
người ngồi xuống chung quanh Ngài. Lúc đó Ngài mới nói rằng:
– Này các bạn, tôi sẽ
dạy cho các bạn đạo giải thoát. Năm người bạn hỏi: – Siddhatta, làm sao anh có
thể dạy đạo cho chúng tôi trong khi anh đã bỏ lỡ dở đời tu học? Bụt nói: – Tôi
đã giác ngộ đạo giải thoát và tôi có thể dạy lại cho các bạn. Những người kia hỏi
lại để biết chắc Bụt đã chứng ngộ thật hay không, thì Bụt nói: – Này các bạn,
các bạn biết tôi rất nhiều, tôi đã từng nói dối các bạn lần nào chưa? – Chưa,
Siddhatta chưa bao giờ nói dối chúng tôi cả. – Ngày xưa đã bao giờ tôi nói là
tôi giác ngộ chưa? Bây giờ tôi nói tôi đã đạt đạo, tôi đã giác ngộ, và tôi sẽ dạy
cho các bạn. Nghe xong câu đó tất cả năm người bạn cũ đều quỳ xuống sẵn sàng
nghe lời Bụt.
Bài giảng này được
coi là bài thuyết pháp đầu tiên, nói về tứ diệu đế, chép trong Chuyển Pháp Luân
Kinh, Đại Chuyển Pháp Luân Kinh hay Tam Chuyển Pháp Luân Kinh. Pháp luân là cái
bánh xe giáo pháp, và chuyển pháp luân có nghĩa là bắt đầu quay bánh xe pháp.
Bánh xe giáo pháp vốn có sẵn rồi nhưng cần phải chụyển. Bụt nói bài thuyết pháp
đầu tiên, giống như hành động nắm lấy bánh xe giáo pháp mà xoay mạnh, và từ giờ
phút đó thì bánh xe pháp tiếp tục quay. Cho đến ngày hôm nay bánh xe pháp vẫn
quay. Và những người học trò của Bụt có bổn phận phải giúp cho bánh xe pháp đó
tiếp tục xoay chuyển. Pháp Luân Thường Chuyển nghĩa là bánh xe Pháp luôn luôn
chuyển động.
Bốn Sự Thật
Kinh này có nhiều bản,
bằng tiếng Pali, chữ Hán, chữ PHạn. Một trong những bản chữ Hán là Phật Thuyết
Tam Chuyển Pháp Luân Kinh, kinh số 110 trong Đại Tạng Đại Chánh. Trong Đại Tạng
Đại Chánh có thể đọc thêm kinh số 109 tức là Chuyển Pháp Luân Kinh và Kinh 99 tức
là Kinh Tạp A Hàm. Trong Tạp A Hàm thì kinh thứ 379 là kinh nói về Tứ đế. Trong
tạng Pali, ta có thể đọc Samyutta Nikaya số 420.
Chuyển Pháp Luân Kinh
là Dharma-cakra pravartana (Pravartana tức là chuyển, Dharma-cakra là bánh xe
Pháp). Kinh này nói về bốn sự thật mầu nhiệm, bốn sự thật cao quý. Tiếng Anh gọi
là The Four Noble Truths. Trong Kinh này Bụt nói về bốn sự thật là khổ, tập, diệt
và đạo (duhkha, samudaya, nirodha, marga). Khổ tức là sự thật thứ nhất mà chúng
ta phải nhận ra, phải tìm hiểu. Tập tức là những nguyên do đưa tới khổ, những
thức ăn vật chất, tinh thần đã được tiêu thụ và đã đưa tới đau khổ. Đó là sự thật
thứ hai cần phải nhận diện, cần phải chuyển hóa. Sự thật thứ ba là Diệt. Diệt ở
đây là sự vắng mặt, sự trừ diệt của các nguyên do đã đưa tới khổ. Và sự thật thứ
tư là Đạo. đạo tức là con đường, là thức ăn, là các phương pháp thực tập dẫn tới
cái sự vắng mặt của những nguyên nhân gây khổ. Theo văn pháp chữ Hán, Khổ là sự
thật thứ nhứt, duhkha. Sự thật thứ hai là Tập, nói cho đủ là khổ-tập. Khổ-tập tức
là những nguyên do, những gốc rễ, những thực phẩm đã tập thành, dẫn tới đau khổ,
PHạn ngữ là duhkha samudaya (the making of the suffering). Và Diệt là khổ-tập-diệt,
tức là sự vắng mặt, sự tiêu diệt của những nguyên do đưa tới khổ đau. Và sự thật
thứ tư là Đạo, con đường. Con đường nào? Con đường đưa tới sự tiêu diệt của những
nguyên nhân gây đau khổ, nói đầy đủ theo văn pháp Hán là khổ-tập-diệt-ữạo. Vậy
muốn nói cho đầy đủ, ta nói: Sự thật thứ nhứt là khổ. Sự thật thứ hai là khổ-tập.
Sự thật thứ ba là khổ-tập-diệt. Sự thật thứ tư là khổ-tập-diệt-ữạo.
Bốn Sự Thật Tương Tức
Tiếng PHạn cũng có thể
viết như vậy: duhkha, duhkha samudaya, duhkha samudaya nirodha, duhkha samudaya
nirodha marga. Khi trình bày như vậy chúng ta thấy được tính nhất quán của tứ
diệu đế, tức là bốn sự thật liên hệ với nhau. đạo có liên hệ tới khổ. Mà nếu sự
thật về đạo không liên hệ tới sự thật về khổ thì đó không phải là cái đạo mà Bụt
đã nói. Dầu hay cách mấy nhưng nếu không có khả năng chuyển hóa đau khổ thì đạo
đó ta không cần. Mà hễ đạo liên hệ tới khổ thì tất liên hệ tới khổ-tập, tức là
những nguyên do gây ra đau khổ. Và nếu liên hệ tới khổ-tập thì tất liên hệ tới
khổ-tập-diệt, tức là ước muốn làm cho khổ đau vắng mặt. Muốn cho khổ đau vắng mặt
thì những nguyên do của khổ đau phải vắng mặt. Vì vậy Diệt có nghĩa rõ ràng là
sự vắng mặt của khổ đau và của những nguyên do đưa tới khổ đau. Muốn hết khổ mà
cứ tiếp tục duy trì những nguyên nhân gây khổ thì làm sao khổ hết được? Cho nên
sự tiêu diệt, sự vắng mặt của những nguyên do gây đau khổ sẽ đưa tới sự vắng mặt
của khổ. Và Bụt dạy có một con đường, có các phương pháp dẫn đến sự vắng mặt của
những nguyên nhân tạo khổ đau, gọi là Đạo. Do đó, pháp thoại về Tứ Đế, về Chuyển
Pháp Luân, là một tiếng nói của hy vọng, của tinh thần lạc quan. Giáo lý Tứ Diệu
Đế xác nhận sự có mặt của đau khổ, nhưng đồng thời xác nhận sự có mặt của an lạc,
xác nhận khả năng chuyển hóa đau khổ để dẫn tới hạnh phúc. Vì sự vắng mặt của
khổ đau chỉ có nghĩa là sự có mặt của an lạc mà thôi. Hai diệu đế Khổ, Tập miêu
tả tình trạng hiện thực; hai diệu đế Diệt, đạo miêu tả tình trạng lý tưởng, niềm
hy vọng cho ta hướng tới. Sự thật về Khổ đối chiếu với sự thật về Diệt, tức là
an lạc, sự vắng mặt của khổ. Tiếp theo là Tập, nguyên do đưa tới khổ, đối chiếu
với Đạo, con đường thực tập giáo lý đưa tới diệt khổ và khởi sinh an lạc. Trong
Tứ Đế có hai cặp nhân quả. Sự thật thứ hai là nhân của sự thật thứ nhứt. Sự thật
thứ tư là nhân của sự thật thứ ba. Ngay trong bài pháp thoại đầu tiên, chúng ta
đã thấy giáo lý đạo Bụt tích cực và lạc quan, đầy tin tưởng vào khả năng giải
thoát của con người.
Bài pháp đầu tiên này
nói về bốn sự thật mầu nhiệm và con đường của tám sự hành trì chân chính. Cho
nên bài thuyết pháp này đã chứa đựng những tinh ba tuệ giác của Phật giáo rồi,
không cần đợi tới hàng trăm hàng ngàn bộ Kinh mà Bụt nói sau này. Và trong những
kinh kế tiếp, nói ra trong suốt 45 năm hành đạo của Bụt, tứ diệu đế vẫn là
nguyên tắc chỉ đạo cho sự tu học của giáo đoàn. Và con đường của tám sự hành
trì chân chánh, bát chánh đạo, vẫn là con đường căn bản cho việc tu tập. Do đó
kinh này chúng ta phải học rất kỹ lưỡng.
Trung Đạo
Trong Kinh Chuyển
Pháp Luân, chúng ta cần nhấn mạnh vài điểm. Thứ nhất là Bụt đã nêu ra giáo lý
Trung đạo. Đây là một điểm cần thiết để gỡ rối cho năm đệ tử đầu tiên thoát khỏi
quan niệm cố hữu là phải sống khổ hạnh thì mới tu tập đàng hoàng được. Trước họ
vẫn nghĩ người nào không khổ hạnh, người nào tu mà còn vui cười là không tu
đàng hoàng. Bụt đã có kinh nghiệm về sự tu khổ hạnh với năm thầy kia rồi. Bụt
thấy rằng cách sống ép xác và khổ hạnh đó không đưa tới đâu cả. Và Ngài biết rằng
nếp suy tư của năm người bạn vẫn còn kẹt ở ý tưởng tự hành xác, nên Bụt muốn
giúp họ thoát ra. Vì vậy khi mở đầu pháp thoại, Bụt nói rằng:
Này các thầy, có con đường trung đạo. Con đường trung đạo đó giúp chúng ta khỏi kẹt vào hai thái cực. Thái cực thứ nhất, đắm mình trong dục lạc, thì đạo nghiệp không bao giờ thành tựu được. Chỉ lo hưởng thụ các dục lạc, chôn lấp cuộc đời trong tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống và ngủ nghê (tài, sắc, danh, thực, thụy) là kẹt vào một cực đoan. Cực đoan thứ hai là ép xác, khổ hạnh, hủy hoại sức khỏe và năng lượng tinh thần của mình, cũng không thể thành đạo. Cho nên người tu hành phải tránh xa hai cực đoan trên. Đó gọi là trung đạo.
Tính Cách Nền Tảng
Điểm thứ hai nên chú
ý là giáo lý về bốn sự thật và về bát chánh đạo có tính cách nền tảng, phổ
quát, bao trùm tất cả Phật Pháp, vượt cả thời gian. Suốt 45 năm hành hóa, giáo
lý về tứ diệu đế và bát chánh đạo tiếp tục được xiểng dương như xương sống của
đạo Bụt. Hồi Bụt sắp nhập diệt, Ngài nằm dưới hai cây sala, có một người tên là
Subadha tới tỏ ý muốn trở thành đệ tử xuất gia của Ngài. Subadha đến nặn nỉ thầy
A Nan. Thầy A Nan nghĩ Bụt gần tịch diệt mà còn có người tới muốn xin xuất gia
thì mệt cho Ngài quá, thầy không muốn cho vào. Trong khi thầy A Nan và ông
Subadha nói qua nói lại thì Bụt nghe thấy. Bụt bảo thầy A Nan cho ông ấy vào,
và Subadha được Bụt cho xuất gia. Subadha hỏi: ‘‘Bạch đức Thế tôn, con muốn biết
các vị đạo sư nổi tiếng đương thời tại các nước Ma Kiệt Đà, hay Kosala, các vị
đó đã thật chứng ngộ chưa?ì Chúng ta nhớ rằng lúc đó thời giờ của Bụt còn rất
ngắn, có thể chỉ mấy chục hơi thở nữa thôi, vậy mà ông ta lại hỏi những câu như
vậy. Bụt trả lời: ‘‘Này Subadha, chuyện mấy ông đó có giác ngộ hay không, nó
không quan trọng, vấn đề quan trọng là thầy có muốn giác ngộ hay không? Nếu thầy
muốn tu hành để giác ngộ thì thầy phải thực tập con đường bát chánh đạo. Vì ở
đâu có bát chánh đạo thì ở đó có tuệ giác và an lạc.
Câu nói đó chứng tỏ
bát chánh đạo, giáo lý giảng trong bài pháp thoại thứ nhất, được nhắc lại trong
pháp thoại sau cùng của Bụt. Bài pháp thoại cuối cùng rất ngắn, chỉ mấy phút
trước khi Bụt nhập niết bàn mà thôi. Cho nên chúng ta hiểu và nhớ rằng con đường
của tám sự hành trì chân chính, bát chánh đạo, là xương sống của giáo lý đạo Bụt.
Tính Cách Nhập Thế
Điểm thứ ba chúng ta
để ý trong bài pháp thoại đầu tiên là tính cách nhập thế của đạo Bụt. Trong bát
chánh đạo có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, v.v.. Chánh ngữ tức là sử dụng
ngôn ngữ từ bi, trung thực. Chánh mạng tức là sử dụng các phương tiện sinh sống
chân chính, không vi phạm đức từ bi. Nếu Bụt tính chỉ dạy đạo cho một số người
sống ở trong rừng, xa lìa thế tục, không cần nói chuyện với ai, không phải làm
nghề nghiệp gì để sống ở đời, thì chắc Bụt không cần dạy về chánh ngữ và chánh
mạng. Nhưng Bụt đã giảng giáo lý chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Nghĩa
là giáo lý này không phải chỉ để dành cho mấy vị thầy tu sống với nhau trên
núi, giáo lý này là cho cả thế gian. Vì sống trong xã hội nên ta phải sử dụng
ngôn ngữ, phải có nghề nghiệp sinh sống chân chính. Người xuất gia cũng phải có
phương tiện sinh sống chân chính, là sự tu học, và công việc hoằng hóa, cứu độ
của mình. Đi bộ trong hình thức thiền hành để xin ăn, đó là phương tiện sinh sống
và hoằng hoá của người xuất gia. Người tại gia cũng phải có những phương tiện
sinh sống hợp pháp, phù hợp với từ bi và trí tuệ. Bát chánh đạo có chánh ngữ,
có chánh mạng, chứng tỏ rằng đạo Bụt là để dạy cho tất cả mọi người trong xã hội.
Và như vậy đạo Bụt là đạo đi vào cuộc đời, đạo nhập thế, chứ không phải là đạo
của người chán đời, từ bỏ cuộc đời. Đó là những điều ta phải thấy được trong
Kinh Chuyển Pháp Luân, bài pháp thoại đầu tiên của Bụt.
Nghệ Thuật Nghe Pháp Thoại
Khi học Kinh chúng ta
phải cẩn thận lắm. Chúng ta phải dùng trí tuệ, dùng kinh nghiệm, dùng khổ đau của
chính ta để học, chứ đừng dùng trí năng (intellect) mà thôi. Trí năng mà chúng
ta thường dùng để học tại các trường trung học, đại học, nếu tiếp tục đem dùng
thì không thể hiểu được Kinh. Chúng ta phải để cho lời Kinh thấm sâu vào trong
tâm thức thì mới có thể thâm nhập kinh tạng được. Nghe pháp thoại là tu tập. Có
người nghĩ rằng nghe pháp thoại là học giáo lý, còn thực tập là việc khác để
làm sau. Sự phân biệt đó không đúng. Nói pháp thoại cũng vậy. Có những người giảng
pháp nhưng không nói từ những khổ đau có thật, từ các điều chứng đắc, từ kinh
nghiệm riêng của chính họ. Những bài pháp thoại nếu chỉ hoàn toàn dùng trí
năng, chỉ gồm kiến thức sách vở, thì người nghe cũng chỉ tiếp nhận bằng trí
năng của họ mà thôi. Một người nói pháp thoại chân thật phải nói từ kinh nghiệm
của mình, từ khổ đau của mình, từ tuệ giác của mình. Nói như vậy có thể khơi động
những hạt giống khổ đau, những kinh nghiệm sống, những hạt giống tuệ giác có sẵn
trong người nghe. Người nghe cũng phải nghe bằng phương pháp đó. Không chỉ dùng
đến trí năng. Người nghe phải để lời pháp thoại như hạt mưa rơi xuống và thấm
vào mạch đất tâm của mình. Lời pháp thoại khơi mở những khổ đau, kinh nghiệm,
và các hạt giống tuệ giác nơi mình. Mưa xuân nhẹ hạt đất tâm ướt, hạt đậu năm
xưa hé miệng cười. Hạt đậu năm xưa tức là những hạt giống của khổ đau, của tuệ
giác, của kinh nghiệm. Cho nên tại Làng Hồng, chúng ta ngồi nghe pháp thoại như
một phép thực tập, chứ không phải dự một lớp học lý thuyết. Vì nếu chúng ta biết
nghe, biết phơi mở mảnh đất tâm của mình cho pháp thoại thấm vào như những giọt
mưa, thì những hạt giống của kinh nghiệm, của khổ đau và của tuệ giác sẽ được
tưới tẩm. Chúng ta có thể thấy, có thể được chuyển hóa ngay trong khi nghe.
Trong thời của Bụt đã có những người biết nghe như vậy, nên được chuyển hóa, đạt
tới giác ngộ ngay trong khi nghe pháp. Vậy chúng ta không nên nghĩ rằng nghe
pháp thoại là học lý thuyết, sau khi nghe lý thuyết rồi mới bắt đầu tu.
Nghe lại bài pháp thoại
đầu tiên của Bụt ta thấy ba đặc tính nêu trên rất rõ. Thứ nhất là Bụt đưa ra
con đường trung đạo. Tu học không phải là do ép xác mà thành công. Tu học cũng
không phải hưởng thụ dục lạc. Nét thứ hai là giáo lý về bốn sự thật mầu nhiệm
và con đường của tám sự hành trì chân chính có tính cách vượt thời gian, bao
trùm tất cả đạo Bụt. Và nét thứ ba là giáo lý đạo Bụt ngay từ đầu đã có tính
cách nhập thế, áp dụng cho tất cả mọi người. Và qua những đặc tính đó, chúng ta
thấy được tấm lòng từ bi của Bụt. Bài pháp thoại này chứng tỏ Bụt đã quán chiếu,
đã thấy rõ tâm ý của năm người bạn cũ, nên Ngài nói rất sát với tâm lý của họ.
Lòng từ bi ấy chúng ta thấy rất rõ trong bài pháp thoại này. Tính cách khế cơ của
giáo pháp, chúng ta cũng thấy ngay trong bài pháp thoại này. Cố nhiên Bụt thấy
những hạt giống tiềm ‘‘n trong lòng năm người đệ tử đầu tiên, cho nên khi nói
Ngài biết rằng cơn mưa chánh pháp sẽ thấm vào tâm họ.
Khổ Và Lạc
Học mà không cẩn thận
chúng ta có thể có khuynh hướng lý thuyết hóa giáo pháp của Bụt. Lý thuyết hóa
giáo pháp là một điều không có lợi cho đạo, cho bản thân mình hay cho người
khác. Rất nhiều người trong chúng ta thích lý thuyết hóa. Chúng ta muốn chứng
minh giáo lý này là đúng, là hay, là chân lý, chứ không thao thức tìm hiểu và
hành trì giáo lý ngõ hầu đem lại an lạc cho mình và cho người. Chúng ta chỉ muốn
làm những nhà truyền giáo. Chúng ta chỉ muốn khoe với người khác rằng ta có một
tôn giáo rất đặc biệt, rất hay ho; rồi tìm mọi cách để chứng minh rằng tất cả
những điều Bụt nói đều là chân lý tuyệt đối cả. Ví dụ Bụt nói sự thật thứ nhất
là khổ. Ta bèn dùng tất cả tài năng của mình, ngôn ngữ của mình để chứng minh rằng
tất cả đời này đều là khổ hết. Và cứ thế, tốn biết bao nhiêu giấy mực, bao
nhiêu thời giờ để chứng minh một sự thật mà Bụt không cần chứng minh, là cuộc đời
này có khổ. Nhưng đời có khổ mà cũng có vui. Bụt cũng nói có khổ thọ và có lạc
thọ. Các lý thuyết gia mới tìm cách chứng minh thêm rằng cái lạc thọ đó chẳng
qua cũng chỉ là khổ thôi. Khuynh hướng muốn giải thích, chứng minh, biện luận
và bênh vực này nằm trong tất cả chúng ta, và nhiều thế hệ liên tiếp đã làm
công việc lý thuyết hóa đó.
Có sự phân biệt ba loại
khổ là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Có người không hiểu chữ khổ khổ, nói rằng
đã khổ rồi lại chồng chất thêm cái khổ nữa, cuộc đời chỉ có khổ thôi, không có
gì là niềm vui nữa. Thực ra đây chỉ là một cách phân loại có thể giúp ta dễ tìm
căn nguyên của khổ. Loại đầu tiên, khổ khổ (duhkha duhkhata) có nghĩa là một cảm
thọ khó chịu (unpleasant feeling), chữ Hán là khổ thọ. Như đau răng, cảm giác
đau nhức vì răng hư, hoặc khi bị người ta chọc giận, chúng ta đỏ mặt tía tai, tức
muốn vỡ ngực, đó là những khổ thọ. Trời lạnh quá mà không có đồ ấm, không có lò
sưởi, ta run lên cầm cập, cảm thọ đó là một khổ thọ. Khổ thọ là loại khổ thứ nhất,
khổ khổ.
Loại khổ thứ hai là
hoại khổ (viparunamam duhkhata). Hoại khổ nghĩa là có những thứ vốn không khổ,
nhưng khi tiêu hoại thì sẽ tạo ra khổ. Ví dụ lá gan của ta, bây giờ không có bệnh,
nhưng thế nào cũng sẽ yếu, sẽ già, cũng sẽ mất khả năng làm tiêu chất
cholesterol, thì lá gan đang hàm chứa hoại khổ. Từ ý tưởng này người ta dễ đưa
tới những cách nhìn bi quan. Những thứ bây giờ tốt cách mấy cũng mang sẵn mầm
khổ ở trong, vì đó cũng là hoại khổ. Bây giờ anh cười đó, anh vui đó, nhưng một
ngày kia anh cũng khóc, cho nên nỗi vui của anh không có thật, chỉ nỗi khổ có
thật mà thôi. Đó gọi là hoại khổ. Tất cả các pháp có sinh có diệt, cho nên khổ
là tính chất phổ biến của vạn pháp.
Thứ ba là hành khổ
(samskara duhkhata). Hành là các hiện tượng kết tập mà thành, dịch tiếng Anh là
formation. Chúng ta đã học ‘‘chư hạnh vô thường’’ (all formations are
impermanent). Vô thường, thay đổi thì thế nào cũng đưa tới sự tan rã, vì vậy
nên khổ. Trong các hành, các hiện tượng, đều chứa sẵn hạt giống của khổ đau cả,
đó gọi là hành khổ.
Cắt nghĩa như vậy thì
người ta thấy tất cả đều là khổ, và những thứ mà chúng ta gọi là lạc, là không
khổ, đều không có thật. Cách giải thích đó đem một đám mây u Đm tới che phủ cả
giáo lý tứ diệu đế. Khổ bao trùm tất cả. Nhưng nếu đem bó đuốc của đạo lý duyên
khởi mà soi chiếu, thì chúng ta thấy thế nào? Ta sẽ thấy rằng khổ cũng là một
hiện tượng được tập thành, được kết tạo bởi những thứ không phải là khổ. Trong
những thứ đó tất nhiên có lạc. Chúng ta đã biết, nếu không có bên trái thì
không có bên mặt, nếu không có trên thì không có dưới, đó là lý duyên khởi. Làm
sao chúng ta có thể công nhận chỉ có mặt khổ thôi, và bỏ mặt không khổ? Nguyên
lý duyên khởi sửa chữa nhận thức sai lầm này. Khổ cũng do duyên sinh. ‘‘Thử hữu
tức bỉ hữu, thử vô tức bỉ vôì, nếu không hề có cái không khổ thì làm sao có cái
khổ? Nếu không có ngày thì làm sao có đêm? Nếu chưa bao giờ biết ấm thì ta biết
thế nào là lạnh? Chưa bao giờ no cả thì làm sao biết thế nào là là đói? Vì vậy
sự có mặt của khổ chứng tỏ có tình trạng không khổ. Đó là giáo lý duyên khởi, rất
đơn sơ và rõ ràng.
Hơn nữa, sau khi nói
sự thật thứ nhất là khổ, Bụt lại nói sự thật thứ ba là Diệt. Diệt là sự vắng mặt
của khổ đau, tức là không khổ. Tại sao người ta lại muốn bảo hoàng hơn vua, và
nói tất cả chỉ có khổ thôi? Sự thật thứ ba là hết khổ, tức là an lạc. Bụt có
nói về an lạc rất nhiều. Ngài nói tới hiện tại lạc trú, nghĩa là trú trong an lạc
ngay ở đây, ngay giờ phút hiện tại. Đó là một lời tuyên bố rất mạnh mẽ. Cho nên
chúng ta phải dẹp bỏ khuynh hướng tìm cách lý luận, chứng minh tất cả chỉ là khổ,
là một điều Bụt không chủ trương. Bụt chỉ muốn nói rằng ta phải công nhận sự có
mặt của những đau khổ, phải tiếp xúc trực tiếp với những đau khổ, phải quán chiếu
chúng thì mới tìm ra đường thoát. Bụt không bao giờ nói rằng: ‘‘Tất cả đều là
khổ, anh không có đường thoát!’’
Về sự thật thứ nhất,
Bụt nói khổ cần phải được nhận thức, cần phải được công nhận. Đây không phải chỉ
là một lời diễn tả thực tại, mà chính là một ánh đuốc soi đường. Kinh Chuyển
Pháp Luân nói: đây là khổ, cái này là khổ. Nghĩa là phải nhận diện cái khổ. Đây
là một lời khuyên thực tập chứ không phải là một lý luận. Nếu anh khổ mà không
nhận diện được thực trạng đau khổ thì anh làm sao đi xa hơn được. Nếu anh bị ho
lao mà không biết rằng anh có cái khổ ho lao thì bệnh lao sẽ càng trầm trọng.
Vì vậy, việc đầu tiên là phải nhận thức tình trạng khổ của anh. Nỗi khổ của anh
là nỗi khổ nào, anh phải nhận diện. Người say thường nói rằng: ‘‘Tôi đâu có say!’’
Người đang giận thì nói: ‘‘Tôi đâu có giận!’’ Thái độ thông thường của chúng ta
là như vậy. ‘‘Việc gì đâu mà tôi phải giận? Tôi như thế này mà anh nói tôi say
à?’’ Thường thường chúng ta cũng không mấy ai công nhận nỗi đau khổ của mình.
Muốn nhận diện khổ đau chúng ta phải sử dụng năng lượng của chánh niệm. Chúng
ta phải sử dụng tuệ giác. Chúng ta phải nhờ đến tăng thân. Chúng ta phải biết
nương vào thầy, vào bạn và vào sự quán chiếu của chúng ta, để có thể nhận diện
niềm đau, nỗi khổ của chúng ta. Phải biết đó là niềm đau, nỗi khổ nào. Đó là
hành động đầu tiên để chuyển bánh xe pháp.
Bài 03B. Pháp Thoại Đầu
Tam Chuyển
Đối với mỗi sự thật
có ba bước hành động, trong kinh gọi là tam chuyển. Thứ nhất là thị chuyển,
nghĩa là nhận diện cái khổ : Đây đích thực là cái khổ của tôi! Nếu muốn giúp đỡ
một người bạn, ta nói: ‘‘Đây đích thực là cái khổ của anh. Anh nhìn lại xem có
phải không?’’ Công việc đầu tiên của bác sĩ là chỉ cho bệnh nhân biết anh ta có
bệnh. Và bệnh nhân phải công nhận anh ta có bệnh thì bác sĩ mới có thể cộng tác
được. Không phải tự dưng mà nhận diện được cái khổ. Phải có kiến thức, phải có
kinh nghiệm, phải thực tập. Phải lắng nghe, phải nhìn kỹ thì mới nhận diện được
cái khổ thật của mình.
Hành động thứ hai là
khuyến chuyển, nói rằng: Nỗi khổ này tôi muốn được liễu tri. Liễu tri là hiểu
thấu. Ta biết rằng mình có chứng bệnh đó rồi, cần phải thấy rõ bản chất của bệnh.
Hành tướng của bệnh như thế nào? Bệnh nặng tới cấp độ nào rồi? Căn bệnh phát
tác buổi sáng như thế nào? Buổi trưa như thế nào? Buổi chiều như thế nào? Trong
giấc ngủ, bệnh phát hiện ra sao? Đó là liễu tri về cái khổ. Đã nhận diện rồi
nhưng phải tìm hiểu rõ hơn. Đó là hành động thứ hai để bánh xe pháp quay thêm,
gọi là nhị chuyển.
Và thứ ba là chứng
chuyển, là chứng nghiệm rằng cái khổ này đã được liễu tri. Chứng ở đây có nghĩa
là đã tu tập, đã thấy được, đã liễu tri được cái khổ. Chuyển thứ nhất đưa tới
cái chuyển thứ hai, chuyển thứ hai đưa tới cái chuyển thứ ba.
Tóm lại, đối với sự thật thứ nhất ta phải đi qua ba giai đoạn hành trì. Giai đoạn hành trì đầu tiên là nhận diện. Giai đoạn hành trì thứ hai là phải phát tâm sâu sắc muốn hiểu, muốn chuyển hóa. Và thứ ba là hiểu được bản chất, hành tướng của niềm đau khổ. Đó là tam chuyển.
Đối với sự thật thứ
hai là khổ tập, cũng có tam chuyển. Trước hết là thực tập nhận diện những
nguyên do xa gần đã đưa tới khổ. Phải quán chiếu mới thấy được các yếu tố kết tập.
Có thầy có bạn giúp đỡ thì ta quán chiếu được rõ hơn. Đây là sự hình thành của
khổ đau: vì tôi ăn, tôi uống món đó, vì tai tôi nghe tiếng đó, mắt tôi nhìn ngắm
cái đó, tôi hấp thụ những thực phẩm đó hàng ngày, nên bây giờ tôi có căn bệnh
này, niềm đau khổ này. Phải thấy đây là một việc thực tập.
Khuyến chuyển tức là
phát khởi tâm niệm đoạn trừ những căn nguyên trên. Tôi biết thân thể tôi bệnh
hoạn đau đớn như vậy là vì tôi đã ăn như vậy, đã uống như vậy, đã ngủ như vậy,
đã làm việc như vậy. Bây giờ phải ngưng đừng ăn như vậy, đừng uống như vậy, đừng
sống đời sống hàng ngày theo kiểu đó nữa. Tập này cần phải đoạn, đó là khuyến
chuyển của sự thật thứ hai. Nếu ước muốn đó không đủ mạnh thì không bao giờ thực
hiện được chuyện diệt khổ. Ý muốn tiêu diệt mầm mống của đau khổ phải rất mạnh.
Phải cương quyết chấm dứt. Tiếp theo, chứng chuyển là thực chứng Tập này đã được
đoạn.
Diệt cũng có ba chuyển.
Diệt là sự vắng mặt của đau khổ, tức là hạnh phúc, là xác nhận sự có mặt của an
lạc. Trước đây, ta không mang nỗi đau khổ mà ta đang mang bây giờ. Chung quanh
ta có những người không mang nỗi đau khổ này. Đó là xác nhận có trạng thái
không bệnh, có tình trạng giải thoát, an lạc, có hạnh phúc. Nếu không nhận diện
được nỗi khổ thì ta không có năng lực diệt khổ. Người mắc bệnh nhức đầu, biết
xác nhận mình có đau đầu, đó là sự thật thứ nhất. Rồi xác nhận nguyên do vì sao
mình bị nhức đầu là sự thật thứ hai. Xác nhận rằng có tình trạng không đau đầu
chính mình đã hưởng trong quá khứ và mình sẽ được hưởng trong tương lai nếu
mình chịu chữa bệnh, xác nhận có những người không đau đầu xung quanh mình đó
là sự thật thứ ba. Sự an lạc này, sự thật về diệt này, cần phải được chứng, cần
phải được thực hiện. Tôi muốn trở lại trạng thái an lạc cũ, tôi muốn sống trong
trạng thái an lạc như anh, vì anh đang không có căn bệnh như tôi, đó là khuyến
chuyển. Và thứ ba, chứng chuyển, là trạng thái diệt bệnh đã được chứng nghiệm.
Đây, tôi đã đạt tới an lạc rồi, tôi không còn đau đầu nữa.
Và đạo cũng có ba
chuyển. Chuyển thứ nhất là nhìn thấy đây là con đường, đây là phương pháp diệt
khổ. Xác nhận có một con đường, một phương pháp, nhận rõ con đường đó và phương
pháp đó giúp cho ta thoát khổ đau và đạt tới an lạc. Chuyển thứ hai là đạo này
cần được tu tập, đó là khuyến chuyển. Thao thức, ước muốn thực tập, vì ta biết
rằng chỉ có thực tập mới đưa tới chuyển hóa. Không thể cầu một đấng thiêng
liêng nào tu hộ cho mình chuyển hóa, ta phải tự mình tu. Nếu muốn tới thì ta phải
đi bằng hai chân của ta. Thứ ba là tu chứng đạo. đạo đã thực tập rồi thì cố
nhiên diệt đã chứng, tập đã đoạn và khổ đã liễu tri.
Trong bài pháp thoại
đầu tiên của Bụt, chúng ta thấy ngay đạo Bụt không phải là một tôn giáo thờ
cúng. Không cầu xin một đấng thiêng liêng nào ban hạnh phúc và cởi bỏ khổ đau
cho mình, ta phải tự đi bằng hai chân ta trên con đường diệt khổ. Mỗi diệu đế
có ba hành động, nhân với bốn sự thật thành mười hai. Gọi là Tam chuyển và Thập
nhị tướng.
Bụt nói với năm vị đệ
tử rằng: ‘‘Các thầy, ngày xưa khi tôi chưa rõ diện mục của khổ, tập, diệt và đạo,
thì tôi chưa nói tôi là người hoàn toàn giác ngộ. Nhưng giờ đây, tôi đã nhận rõ
được diện mục của khổ, tôi đã liễu tri khổ. Tôi đã nhận diện được tập, tôi đã
đoạn trừ tập. Tôi đã nhận diện được diệt, tôi đã chứng được diệt. Tôi đã nhận
diện được đạo, tôi đã tu thành đạo. Bây giờ tôi mới nói tôi là người chứng ngộ.”
Đó là một câu trong Kinh Tam Chuyển Pháp Luân. Phật lại nói: ‘‘Này năm thầy khất
sĩ, vì tôi có thể thấy được bằng thực chứng ba chuyển và mười hai tướng trong bốn
sự thật này, cái thấy và sự tu chứng đó đã đem lại trí tuệ, đem lại ánh sáng,
cho nên tôi mới tuyên bố trước tất cả các chư thiên, các loài ma, các bậc sa
môn, các vị bà la môn trong tất cả các thế gian, là tôi đã diệt hết phiền não
và đã được giải thoát, chứng ngộ quả vị giác ngộ hoàn toàn.” Câu nói đó cũng ở
trong Kinh Tam Chuyển Pháp Luân. Ta có thể thấy ban đầu năm vị đệ tử không tin
Bụt đã giác ngộ, nhưng sau họ phải tin rằng Bụt đã giác ngộ vì Bụt đã nhận thức
sâu sắc về bốn diệu đế. Không phải Ngài nhận thức bằng trí năng, mà bằng kinh
nghiệm và thực chứng, vì Ngài đã đi qua tam chuyển, thập nhị tướng.
Muốn giảng về tứ diệu
đế, chúng ta cũng phải trải qua tam chuyển và thập nhị tướng. Như vậy thì người
nghe không những tin ngay mà có thể giác ngộ ngay. Câu này được lặp lại hai lần:
‘‘Này quý vị, khi tôi chưa thấy biết thực sự tam chuyển và thập nhị tướng của bốn
sự thật thì tôi chưa bao giờ nói rằng tôi giác ngộ hoàn toàn. Nhưng giờ đây tôi
đã thấy biết thực sự được tam chuyển và thập nhị tướng của bốn sự thật, cho nên
tôi mới tuyên bố trước mặt tất cả mọi loài rằng tôi là bậc giác ngộ hoàn toàn.”
Thấy biết thực sự là một câu trong Kinh, như thực tri kiến. Tri là biết, kiến
là thấy. Biết không phải bằng trí năng, mà biết bằng kinh nghiệm, biết bằng cái
thấy của mình. Understanding and seeing things as they are, gọi là như thực tri
kiến. Như thật là yathabhutam.
Tứ Diệu Đế Là Phép Thực Tập
Tứ diệu đế không phải
là một lý thuyết, tứ diệu đế là một công trình thực tập. Khi chúng ta nói ‘‘cái
khổ có thật’’ chúng ta không đưa ra một lời tuyên bố suông. Đây là cái khổ, đây
là hành tướng của cái khổ. Cái khổ này cần phải được nhận diện, cái khổ này cần
phải được liễu tri. Cái khổ này tôi muốn thấy rõ và hiểu rõ bản chất, nội dung
và hành tướng của nó. Cái khổ này tôi đã thấy rõ, tôi đã thấy được hành tướng,
nội dung và bản chất của nó. Đó là những bài thực tập chứ không phải là những lời
tuyên giảng. Nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ chỉ lặp lại những lời nói suông,
chúng ta có thể sẽ nẩy sinh ý muốn chứng minh và lý luận rằng trong đời tất cả
đều là khổ. Việc đó tốn thì giờ, tốn cả cuộc đời chúng ta, và phí công Bụt dạy.
Sự thật thứ nhất, khổ
đế, là một phép thực tập. Sự thật thứ hai, tập đế, là một phép thực tập. Sự thật
thứ ba, diệt đế, là một phép thực tập. Sự thật thứ tư, đạo đế, là một phép thực
tập. Và Bụt đã thực tập qua ba chuyển và mười hai tướng cho nên Bụt nói bài
pháp thoại này với tất cả sức mạnh của một người giác ngộ.
Trong một Kinh khác,
Kinh Tập Sanh, Bụt nói như sau: ‘‘Cái gì đã xảy ra cho ta, nếu ta quán chiếu
sâu sắc vào tự thân nó, là ta đã bắt đầu đi trên đường giải thoát.” Câu này có
nghĩ là khi ta nhận diện khổ, khi thấy được khổ tập rồi, là con đường đưa tới
an lạc đã bắt đầu. Khổ có chứa đựng tập, khổ chứa đựng diệt, và khổ chứa đựng đạo.
Đó là nguyên tắc tương tức ta phải dùng vào bài học tứ diệu đế.
Đạo Bụt nói tới khổ,
duhkha, nhưng chữ khổ nói tới trong đạo Bụt không giống ý niệm khổ những người
khác nói. Vì cái khổ Bụt nói liên hệ tới tập, diệt và đạo. Có thể nhiều tôn
giáo và truyền thống khác cũng nói tới khổ. Nhưng nghĩa chữ khổ họ nói tới
không cùng nghĩa với chữ khổ trong đạo Bụt. Nếu không hiểu gì về tập, diệt và đạo
thì ta chưa hiểu được chữ khổ mà Bụt nói đến. Đó là nguyên tắc tương tức phải nắm
vững trong khi học giáo lý. Khi giảng dạy về khổ đế mà không làm cho người ta
thấy được trong khổ đế có chứa đựng hạt giống của diệt, của đạo và của tập đế,
thì cái khổ đó không phải là cái khổ mà Bụt nói đến. Ta phải dùng ngọn đuốc
nhân duyên soi vào để hiểu được giáo lý chân thật của Bụt.
Chúng ta phải hiểu rằng
khổ đế được trình bầy trong quá trình tu tập và chuyển hóa chứ không phải là để
than thở. Rất nhiều kinh điển như Kinh Tập Sanh đã nói rõ, là diệt và đạo nằm sẵn
trong sự quán chiếu về khổ và khổ-tập. Một sự thật chứa sẵn đủ ba sự thật kia,
hiểu như vậy mới đúng nguyên tắc duyên khởi của đạo Bụt. Ngày xưa khi còn trẻ,
tôi nói rằng tứ đế là nguyên tắc của sự thực tập, theo nguyên tắc trị liệu của
y khoa. Điều đó đúng. Nhưng nay tôi thấy tứ diệu đế không phải chỉ là nguyên tắc
của sự thực tập. Tứ diệu đế là bản thân của sự thực tập.
Nhị Đế
Chúng ta mới chỉ dùng
tới ngọn đuốc duyên khởi để soi sáng bốn sự thật. Còn ngọn đuốc thứ hai nữa là
nhị đế. Những điều chúng ta vừa nói ở trên về tứ diệu đế nằm trong phạm vi tục
đế. Đó là lãnh vực của sự thật tương đối, trong đó có khổ, có lạc, trong đó ý
tưởng, khái niệm và ngôn từ được sử dụng. Đứng trên phương diện chân đế thì
chúng ta phải hiểu tứ diệu đế cách khác. Trong thế giới của sự thật tuyệt đối
thì không có khổ mà cũng không có lạc. Nói cách khác, cái vui của chân đế không
phải là cái vui của tục đế. Nhưng chúng ta đã biết chân đế không trái ngược với
tục đế. Khi thực tập trong phạm vi tục đế một cách sâu sắc rồi, ta sẽ thấy chân
đế tự nhiên hiển lộ.
Trong phạm vi tục đế,
sự thực có giá trị tương đối. Khổ là ngược lại với vui, cái vui đó có thể trở lại
thành khổ, rồi khổ đó trở lại thành vui, v. v… Trong phạm vi tục đế, chúng ta
thường nói sinh ra là khổ, già là khổ, chết là khổ, thương nhau mà không được gần
nhau là khổ, ghét nhau mà cứ phải nhìn mặt nhau mỗi ngày là khổ, đó là những
cách diễn tả về cái khổ. Nhưng đó là thuộc lãnh vực tục đế. Chúng ta nên nhớ tục
đế chỉ là những sự thật có giá trị tương đối. Ví dụ sinh là khổ. Đó là một sự
thật khi chúng ta nhìn vào cuộc đời một con người từ khi sinh ra cho đến khi chết.
Nhưng ngược lại, ta cũng thấy khi một người mẹ sinh con ra thì cả nhà cả họ đều
mừng vui. Khi một người như là Siddhata được sinh ra là cả hoàng cung làm lễ ăn
mừng. Như vậy thì sinh cũng có thể là vui chứ không phải chỉ là khổ và sinh nhật
vốn là một ngày vui. Trong phạm vi tục đế, tùy theo cái cách nhìn của chúng ta
mà một hiện tượng được nhận thức là vui hay là khổ.
Trời lạnh có thể làm
chúng ta bị cảm, chúng ta khổ, chúng ta chết, thì ta nói lạnh là khổ. Nhưng nếu
chúng ta biết đốt lò sưởi, biết cách mặc áo cho ấm, thì không khí lạnh kia sẽ
trở thành dễ chịu, có thể làm cho ta vui. Cũng một câu nói kia mà người này nổi
sùng, còn người khác mỉm cười, thì không phải câu nói đó gây khổ, mà cách tiếp
nhận làm cho ta khổ hay không khổ. Thành ra khổ không phải chỉ là những thực tại
khách quan mà còn là những thực tại chủ quan. Có những điều chúng ta cho là khổ
nhưng người khác không coi là khổ. Có những điều chúng ta cho là vui nhưng người
khác không cho là vui. Đó là phạm vi của tục đế, của sự thật tương đối.
Đứng trong phạm vi
tuyệt đối, cái vui và cái khổ có một kích thước khác. Ví dụ hai con gà sắp bị
nhốt trong lồng để đem làm thịt. Ở trong lồng, hai con đang tranh nhau những hạt
ngô, hạt lúa. Con này nói với con kia: ‘‘Ăn cái hạt lúa này ngon hơn. Hạt bắp
này hôi quá.” Hai anh bàn nhau cái gì là vui, cái gì là khổ, không biết cái khổ
thật sự của cả hai là sắp bị cắt tiết. Mà đối với một con gà thì sự kiện không
bị đem ra làm thịt là niềm vui lớn nhất. Triết lý về khổ vui của hai con gà nằm
trong giới hạn tương đối. Chúng ta nhìn từ quan điểm khác để thấy được cái mà
hai con gà không thấy. Thoát ra khỏi lồng, không bị làm thịt, đó mới là niềm
vui thật sự.
Tịch Diệt
Chúng ta đọc lại những
câu kệ:
chư hạnh vô thường
thị sinh diệt pháp
sinh diệt diệt dĩ
tịch diệt vi lạc
Các hiện tượng đều là
vô thường, đều là những hiện tượng có sinh và có diệt. Khi cả sinh và diệt đều
được diệt hết, thì trạng thái tịch diệt đó là niềm an lạc chân thật. Trong thế
giới có sinh diệt, trong hiện tượng giới, thế giới của tích môn, sinh là một niềm
vui, diệt tạo ra khổ đau.
Nhưng trên quan điểm
chân đế, khi cả sinh và diệt đều biến mất thì cảnh tịch diệt này mới là niềm
vui đích thực. Chữ diệt trong cặp đôi sinh diệt chắc chắn không cùng nghĩa với
chữ diệt trong tịch diệt. Cái diệt của chân đế vượt ra ngoài cả sinh lẫn diệt,
khác cái diệt trong phạm vi tục đế. Nên chữ diệt ở trong chân đế không cùng một
nghĩa như chữ diệt trong tục đế. Trong phạm vi chân đế, đôi khi ta không thể
dùng ngôn ngữ thông thường. Điều này rất quan trọng, chúng ta phải thấy rõ.
Tâm Kinh Bát Nhã nói
không khổ, tập, diệt, đạo. Kinh Tam Chuyển Pháp Luân nói có khổ, tập, diệt, đạo.
Tâm Kinh nói ngược lại điều Kinh Tam Chuyển Pháp Luân nói vì Tâm Kinh đứng trên
bình diện chân đế mà nói. Như vậy Tâm Kinh không đối nghịch với Kinh Tam Chuyển
Pháp Luân. Kinh Tam Chuyển Pháp Luân nói trong phạm vi tục đế, nhưng khi ta thực
tập sâu sắc thì cũng nhìn thấy như Tâm Kinh, là không có khổ, tập, diệt, đạo.
Chúng ta hãy nhớ khổ
là một cái tướng, một pháp, mà tất cả các pháp tướng đều có tính vô thường và
vô ngã. Hiện tượng khổ không thể có nếu không có hiện tượng tập, không có hiện
tượng diệt, hiện tượng đạo. Chúng ta biết rằng cái khổ nói tới trong đạo Bụt
hàm chứa tập, diệt và đạo. Nếu không có tập, diệt và đạo thì khổ cũng không có.
Cho nên Tâm Kinh đã nói cái khổ tự nó không có, nghĩa là không có cái khổ như
là một thực tại độc lập với diệt, với tập và với đạo.
Chúng ta hãy nhìn
bông hoa. Bông hoa này không thể có mặt nếu không có ánh sáng mặt trời, đám
mây, cơn mưa và trái đất. Mặt trời, đám mây, trái đất và tâm thức của chúng ta
đều có trong bông hoa này. Bông hoa riêng biệt, độc lập, chính nó không thể có,
nên nói là không. Khi nói không khổ, tập, diệt, đạo là Tâm Kinh nói trên bình
diện chân đế.
Nếu chúng ta thực tập
sâu sắc bài học trong tục đế thì tự nhiên sự thật trong chân đế hiện ra. Nếu thực
tập sâu sắc tam chuyển và thập nhị tướng của tứ diệu đế thì ta cũng thấy được sự
thật nói trong Kinh Bát Nhã: không khổ, tập, diệt, đạo, không trí cũng không đắc
vì không có sở đắc.
Đã nhìn rõ về chữ khổ
như vậy, thì hiểu diệt cũng như vậy. Đứng trên bình diện chân đế thì cái diệt
trong tịch diệt không phải chỉ là sự vắng mặt của cái khổ tương đối mà cũng là
sự vắng mặt cả cái vui tương đối. Thực tập sâu xa thì cái diệt nói trong tứ diệu
đế là cái diệt vượt thoát ra cả khổ và không khổ. Diệt đó là tịch diệt, không
phải chữ diệt đối lại với chữ sinh trong câu thứ hai, mà là sự vắng mặt của cả
hai cái sinh và diệt. Tịch diệt vi lạc là chân đế.
Khi học tứ diệu đế và
giảng giải tứ diệu đế, chúng ta có thể bắt đầu bằng tục đế. Rồi trong quá trình
tu học và giải bày, chúng ta từ từ đi sang phạm vi chân đế. Mà chân đế với tục
đế tiếp nối với nhau, chứ không phải trái ngược nhau. Nếu ta thấy có chống đối,
có mâu thuẫn, là tại vì chúng ta chưa thấy được tính cách nhất quán của tục đế
và chân đế.
Học tứ diệu đế mà dùng
đạo lý duyên khởi và nhị đế soi sáng thì ta sẽ không đi lầm đường. Đây là
phương pháp học mới, dù đã truyền lại từ ngàn xưa, một phương pháp rất cần thiết.
Sau này học về bát chánh đạo, ngũ cặn, ngũ lực, thất bồ đề phận ta cũng sẽ học
theo phương pháp đó. Tôi đã học phương pháp này từ những lời Bụt dạy. Kinh Tạp
A Hàm S. N. 5, 436, gọi là Gavampati Sutra, kể chuyện một số vị khất sĩ đang
nói với nhau rằng: ‘‘Người nào thấy được sâu sắc sự thật về khổ thì có thể thấy
luôn được sự thật về tập, về diệt, về đạo.” Khi thầy Gavampati nghe như vậy thì
thầy xác nhận rằng: ‘‘Này các thầy, chính tai tôi nghe đức Thế Tôn nói: ai thấy
rõ được cái khổ thì thấy luôn cả tập, cả diệt, cả đạo. Ai thấy rõ được tập thì
thấy cả khổ, diệt, và đạo. Ai thấy rõ được đạo thì thấy được khổ, tập, và diệt.”
Kinh đó chứng tỏ rằng
duyên khởi là phương pháp ta phải sử dụng trong suốt hành trình học hỏi và tu tập.
Nếu người ta hỏi trong đạo Bụt có nói về khổ, nhưng cái ý nghĩa về chữ khổ như
thế nào thì quý vị đã biết câu trả lời rồi. Không hiểu ý nghĩa của tập, diệt, đạo,
thì không hiểu được ý nghĩa chữ khổ trong đạo Bụt. Đó cũng gọi là phương pháp
tương tức.
Xem Tiếp Bài 4 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá