Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Trái Tim Của Bụt
Phật Pháp Căn Bản
Bài 6. Quá Trình Văn Tư Tu
Hôm nay là ngày mùng
9 tháng 12 năm 1993, chúng ta ở tại Xóm Thượng và học tiếp về tứ diệu đế. Chúng
ta đang nói về chánh kiến, tức là cái thấy chính xác, trước hết là cái thấy về
bốn sự thật là khổ, tập, diệt và đạo. Hôm nay chúng ta quán chiếu về sự thật thứ
tư là đạo.
Đạo tức là con đường
(marga). Có con đường đưa chúng ta thoát khổ đau, có con đường chuyển hóa khổ
đau. Dịch ra tiếng Anh một cách đơn giản thì khổ là ill hay là ill-being
(duhkha). Tập là sự tập hợp của những nguyên do đưa tới khổ, có thể dịch là
arising (samudaya). Diệt là cessation, tức là chấm dứt, không tạo tác ra khổ nữa.
đạo là the way. Có thấy đạo thì mới có chánh kiến.
Chúng ta đã biết rằng
khi quán chiếu về khổ một cách sâu sắc ta có thể thấy tập, thấy diệt và thấy đạo.
Khi nhìn vào tập, chúng ta cũng thấy khổ, thấy diệt và thấy đạo. Nhìn vào diệt,
chúng ta cũng thấy khổ, thấy tập và thấy đạo. Và bây giờ nhìn vào đạo, chúng ta
cũng thấy rõ khổ, tập và diệt. Cho nên đạo chỉ có thể thấy được từ sự đau khổ.
Nếu không nhận ra khổ thì không thể nào tìm ra đạo.
Người ta thường không
hiểu đúng về đạo. Họ nghĩ rằng có một con đường tu hành, nhưng bây giờ còn trẻ,
mình chưa tu làm gì vđoi. Đợi khi nào 60 hoặc 70 tuổi rồi tu cũng không muộn.
Hoặc nghĩ rằng đạo là để dành cho những người già cả và những kẻ chán đời. Họ
không biết rằng đạo là con đường chuyển hóa, giúp mọi người thoát khổ. đạo vốn
có nghĩa là con đường đi. Ở Đông Phương chúng ta nói đến đạo làm người, đạo làm
cha, đạo làm thầy. Người con có đạo làm con, người vợ có đạo làm vợ, người chồng
có đạo làm chồng, v.v.. Trong sách Minh Tâm Bảo Giám có câu ‘‘mạc đãi lão lai
phương học đạo, cô phần đa thị thiếu niên nhânì, nghĩa là đừng có đợi đến già rồi
mới học đạo, tại vì cứ nhìn vào nghĩa địa thì biết, ở trong ấy có rất nhiều nấm
mồ của những thiếu niên. Như vậy dù ở tuổi tác nào, ở vị trí nào chúng ta cũng
cần học đạo. Và đạo mà Bụt dạy là đạo giải thoát, đạo sống an lạc.
Nhầm lẫn quan trọng hơn
nữa là nhiều người nói về đạo như một lý thuyết, hay những hý luận cho vui.
Nghĩ rằng về già mới cần học đạo, đó không phải là chánh kiến. Hý luận về đạo lại
là một tà kiến khác. Nhiều người nói về đạo rất lưu loát, nhưng các lý thuyết họ
nói không dính líu gì đến đời sống của họ cả. Trong giới Phật tử Việt Nam có rất
nhiều người nói tới đạo một cách rất say mê, nhưng đạo ấy không được thể hiện
trong đời sống và trong sự tu học của họ. Bài hát đạo ca: ‘‘Tôi là thiền sư buồn,
ngồi tụng dưới ánh trăng… ì dùng những danh từ đạo Bụt, kỳ thực không có nội
dung đạo, chẳng qua chỉ là những ý tưởng uỷ mị, lãng mạn về thiền, về đạo mà
thôi. Có rất nhiều trường hợp trong đó chúng ta hiểu lầm về đạo như vậy.
Quá Trình Văn Tư Tu
Cái nhìn về đạo chân
chính bắt đầu từ văn, tư và tu, gọi là tam học. Vặn là học hỏi. Những đệ tử của
Bụt gọi là thanh văn (sravaka), là người nghe giáo lý để tu học. Khi nghe giảng
dạy về giáo lý, khi đọc Kinh, khi pháp đàm, ta thực tập văn học. Vặn học tức là
học nghe. Học nghe, ta phải có thái độ cởi mở, phải thao thức muốn hiểu, muốn
thực hành, như thế mới gọi là văn học. Còn nếu nghe để đàm luận, nghe chỉ để
phê phán và chỉ trích, nghe để chứa chấp kiến thức rồi khoe khoang, đó chưa phải
là văn học.
Tư là suy gẫm, tư
duy, quán chiếu những điều mình nghe. Ta nghe một điều gì, dù điều đó từ một vị
đạo sư nổi tiếng nói ra ta cũng phải tư, tức là phải thẩm xét giá trị ứng dụng
của những điều đó. Ta không mù quáng nghe theo vô điều kiện. Sau khi nghe rồi,
phải tư. Trong khi đang nghe, không tư, nghe là nghe mà thôi. Nghe xong rồi lúc
đó mới quán chiếu, mới suy tư (reflecting). Tư là đem kinh nghiệm, đem trí tuệ,
đem khổ đau của mình ra để mà xét nghiệm. Xem thử những điều mình nghe có thể
trả lời được những nỗi đau khổ, những thắc mắc, những thao thức của đời mình
hay không, như thế gọi là tư học.
Nghe giống như gieo hạt
giống vào đất. Thực tập là tưới tẩm cho hạt giống có thể nẩy mầm. Thực tập là
tu, giai đoạn thứ ba gọi là tu học. Nếu không đem ra thực tập thì việc nghe
không có lợi ích nào cả. Trong quá trình văn, tư, tu về đạo ta sẽ thấy được bản
chất của đạo là làm bằng khổ, ta thấy khổ ở trong đạo. đạo Bụt phát sinh là vì
cuộc đời khổ đau, cho nên cuộc đời khổ đau là chất liệu làm ra đạo. Sự tỉnh thức,
sự thương yêu phát sinh từ khổ đau. đạo và khổ tương tức. Trong quá trình văn,
tư và tu chúng ta thấy khổ và tập ở trong đạo. Chúng ta biết rằng tập, những
nguyên do làm ra khổ, nếu chuyển hóa được, thì khổ sẽ vắng mặt. Ba yếu tố khổ,
tập và diệt có thể nhìn thấy trong đạo. Tâm Kinh nói: ‘‘Không đạoì, có nghĩa là
đạo không có ở ngoài khổ, tập và diệt. Không có cái này thì không có cái kia.
Năm chữ ‘‘không khổ, tập, diệt, đạoì thuộc về chân đế, đó là sự thật vô lậu.
Ngay trong quá trình tiếp xúc với mặt tục đế, ta đã thấy được bản chất của đạo,
và chuyển hóa được tập. Nếu thấy cho rõ thì ta ngừng lại ngay, tự nhiên đi tới
diệt. Chuyển hóa tập, thành tựu diệt sẽ làm vơi khổ, khiến cho cái khổ biến đi.
Nhờ quá trình văn, tư
và tu mà lời nói và hành động của ta mỗi lúc mỗi tương ứng. Ví dụ một người giảng
giải rất hay về năm giới, nhưng vẫn chưa thực tập năm giới một cách vững chãi.
Nhờ quá trình văn, tư và tu nên sự thực tập năm giới càng ngày càng vững; và lời
nói của ta đi đôi với hành động, ngôn hành tương ưng. Nói theo Vương Dương Minh
là tri hành hợp nhất.
Đạo Vượt Ngoài Ngôn Ngữ
Đạo bắt đầu bằng văn,
tức là nghe, đọc và thâu nhận một số kiến thức. Rồi nhờ quán chiếu, suy gẫm và
áp dụng trong đời sống hàng ngày nên những kiến thức và ý niệm ban đầu biến dần
thành tuệ giác thực sự. Vì vậy chúng ta tránh nói tới đạo như là một chủ thuyết.
Nhìn vào một con người có văn, có tư và có tu thì ta thấy sự thể hiện của đạo.
Ta thấy người đó sẽ đạt tới diệt, buông bỏ được tập, và chuyển hóa được khổ.
Quá trình tu học lúc đầu dựa vào ngôn ngữ, dựa vào ý niệm. Nhưng sau khi thực
chứng, chúng ta sẽ không còn kẹt vào ngôn từ và ý niệm, sẽ tiếp xúc trực tiếp với
bản môn. đạo siêu việt ngữ ngôn, như trong đạo Đức Kinh có câu: đạo khả đạo,
phi thường đạo, (đạo mà có thể đàm luận thì chưa phải đạo chân thường). Có những
người tới hỏi đạo cốt để chất vấn và cãi lý về đạo, ta chỉ nên mỉm cười. Lý luận
về đạo mất thì giờ, không có lợi ích gì. Ngồi uống trà với nhau còn có đạo vị
hơn.
Bước đầu học đạo cần
phải có những khái niệm về vô thường và vô ngã, về khổ, tập và diệt. Ban đầu ta
cũng có thể dùng lý luận để dẹp trừ những tà thuyết. Nhưng sau đó ngôn từ và lý
luận cũng được vượt luôn và lúc đó người tu học sử dụng chính sự sống của mình.
Ta sống đời sống hàng ngày cách nào để cho người khác thấy chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh định và chánh kiến trở nên có mặt.
Kinh thường kể những câu chuyện về những nhà triết học cứ muốn đàm luận và cãi
lý với Bụt về những đề tài như vô thường, vô ngã, và niết bàn. Mỗi lần Bụt thấy
một nhà triết học tới ngồi sẵn sàng để đấu lý như vậy thì Ngài chỉ mời ngồi uống
trà. Hỏi thì Ngài không nói. Chúng ta nhớ lại câu chuyện một nhà triết học tới
hỏi Bụt về vấn đề có ngã hay không có ngã. Bụt ngồi im không nói gì. Sau đó ông
ta đi mất. Thầy A Nan thắc mắc, thì Bụt bảo: ‘‘Ông ấy đi tìm một học thuyết để
chống đối hoặc ủng hđo, chứ không đi tìm pháp môn tu học. Nói không có ngã, ông
sẽ bị kẹt, mà nói có ngã ông cũng bị kẹt. Không nói là đỡ cho ông ta hơn."
Đạo vượt lên trên ngữ
ngôn, ý niệm và lý luận. Nói như vậy không có nghĩa là ngữ ngôn và khái niệm
không có ích lợi. Khi người ta thao thức học hỏi để tu tập thì ngữ ngôn và khái
niệm là những bảng chỉ đường có thể sử dụng được. Cũng như bản đồ của một thành
phố tuy không phải là thành phố nhưng có thể giúp ta đi trong phố xá mà không lạc
đường. Khi đạo đã là sự thật trong đời sống hàng ngày rồi thì sự tu học trở
thành rất tự nhiên, rất nhẹ nhàng, không nặng về hình thức. đạo có tính cách vô
hành. Vô hành là không làm gì cả. Kinh Tứ Thập Nhị Chương, xuất hiện ở Việt Nam
vào thế kỷ thứ ba, có câu: ngã pháp hành vô hành hạnh, tu vô tu tu, chứng vô chứng
chứng, (cái pháp của ta là hành cái hạnh vô hành, tu cái tu vô tu và chứng cái
chứng vô chứng). Ý nghĩa câu đó là đạo vượt thoát các hình thức và ý niệm.
Đạo đế cũng có phần hữu
lậu và phần vô lậu. Phần hữu lậu là thế gian (lokya), là phần hướng thượng, dần
dần bớt khổ thêm vui. Phần vô lậu là xuất thế gian (lokottara) là phần vượt
thoát hoàn toàn biên giới của ngôn từ, ý niệm, khổ và vui.
Kinh Chánh Kiến
Chánh kiến thường được
diễn tả là thấy được tam bảo, thấy được thiện ác, v.v.. Nhưng trước hết chánh
kiến là phải thấy được bản chất về bốn sự thật. Cái thấy về bốn sự thật là căn
bản của chánh kiến. Trong tam tạng kinh điển có nhiều Kinh nói về chánh kiến,
cái thấy chân thật (samyak dr3/4sti). Có một Kinh do thầy Xá Lợi Phất giảng, gọi
là Kinh Chánh Kiến (Samaditthi sutta). Kinh này là kinh thứ 9 ở Trung bộ (M.
9). Thầy Xá Lợi Phất đã nói nhiều Kinh về đề tài tứ diệu đế, trong đó có Kinh gọi
là Dấu Chân Voi, Tượng Tích Diệu Kinh. Con voi chúa đi trước để lại những dấu
chân rất lớn. Những con đi sau có thể bước lên trên dấu chân đi trước; nhưng
không có dấu chân con thú nào lớn bằng dấu chân con voi. Giáo lý tứ diệu đế
cũng vậy, bao gồm tất cả các giáo lý khác. Kinh Chánh Kiến ở Trung Bộ có một
Kinh tương đương bằng Hán văn, đó là Kinh 344 ở Tạp A Hàm. Học Kinh này ta thấy
thầy Xá Lợi Phất dạy một sư em tên là Ma Ha Câu Thi La và một số các thầy khác
về cái thấy chân chính.
Theo thầy Xá Lợi Phất
chánh kiến trước hết là sự phân biệt những gốc rễ lành và những gốc rễ không
lành, thiện căn và bất thiện căn (wholesome roots anh unwholesome roots). Quán
chiếu thì chúng ta sẽ thấy có ba loại gốc rễ lành là: vô tham (absence of
greed), vô nhuế (absence of anger) và vô hại (absence of violence), tức là cái
rễ không tham đắm, cái rễ không giận hờn và cái rễ bất bạo động. Bất bạo động
(ahimsa) tức là vô hại. Vô hại tức là không muốn gây đổ vỡ cho mình, cho người
và cho thiên nhiên). Những gốc rễ bất thiện là tham, nhuế và hại. Chữ tham có
nhiều nghĩa. Nó có nghĩa là vướng mắc, là thèm khát, không bao giờ thỏa mãn.
Ngược lại với tham là tri túc, tức là bằng lòng với tình trạng vừa đủ, để có an
lạc cho thân tâm.
Các thầy khác hỏi: Có
chánh kiến về các phương diện khác không? Thầy Xá Lợi Phất trả lời: Có chứ, ví
dụ chúng ta nói đến chánh kiến về phương diện các loại thức ăn. Chúng ta phải
phân biệt bốn loại thức ăn.
Bốn Loại Thức Ăn
Loại thức ăn thứ nhất
là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng
là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại. Chúng
ta phải biết những thức ăn và thức uống nào gây tàn phá và làm mất sự điều hòa
trong cơ thể. Khi chúng ta ăn những món hiền lành và bổ dưỡng thì chúng ta cũng
biết. Đó gọi là chánh kiến. Ta thực tập chánh kiến ngay trong đời sống hàng
ngày, trên bàn ăn và trong khi nấu ăn, chứ không phải chỉ thực tập trong thiền
đường mà thôi. Trước khi ăn chúng ta nói: ‘‘chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng
nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnhì, đó là chánh kiến áp dụng khi ăn và khi nấu
ăn.
Nói về đoàn thực, Bụt
đã dùng hình ảnh của hai vợ chồng nhà kia ăn thịt con. Hai vợ chồng này mang đứa
con trai duy nhất đi qua sa mạc. Họ nghĩ rằng số lương thực đem theo là đủ cho
chuyến đi. Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ đã hết thực phẩm. Hai vợ chồng biết rằng
cả ba người sẽ chết đói. Cuối cùng họ phải đành tâm ăn thịt đứa con để có thể sống
mà ra khỏi sa mạc. Họ vừa ăn thịt con vừa khóc. Bụt hỏi rằng: ‘‘Này các thầy,
khi hai vợ chồng đó ăn thịt đứa con thì họ có thấy thích thú gì không?ì Các thầy
thưa: ‘‘Bạch đức Thế Tôn, làm sao thích thú được khi biết mình đang ăn thịt
con. ì Bụt dạy: ‘‘Trong đời sống hàng ngày, trong khi tiêu thụ, chúng ta cũng
phải biết thức ăn của mình đã có thể được tạo ra bằng sự đau khổ cùng cực của kẻ
khác, của những loài sinh vật khác. ì Hai tay nâng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt
đắng cay muôn phần.
Ăn không có chánh niệm,
ta tạo khổ đau cho mọi loài và khổ đau cho chính bản thân ta. Khi ta hút thuốc,
uống rượu, ăn nhiều thức béo vào, là ta đang ăn bộ phổi của ta, đang ăn buồng
gan, trái tim của ta, tự đang ăn thịt ta. Nếu là cha, là mẹ thì lúc đó ta đang
ăn thịt con ta tại vì các con cần có cha mẹ mạnh khỏe, tươi vui. Và nếu cha mẹ
trong khi ăn uống mà tàn hại thân thể của chính mình thì chính cha mẹ đang giết
con. Thành ra ăn như thế nào để đừng tạo ra những khổ đau cho các loài và đừng
tạo khổ đau cho chính mình, đó là chánh niệm và chánh kiến. Đạo Bụt trong cả
Nam Tông và Bắc Tông đều tin rằng chúng sanh từ đời này sang đời khác thay
phiên lần lượt làm cha làm mẹ của nhau. Vì vậy mỗi khi ăn thịt, chúng ta hãy có
ý thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay con cái của ta. Do đó chúng ta đã
tập ăn chay và tập không sát sanh.
Loại thức ăn thứ hai
là xúc thực. Chúng ta có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Chúng tiếp
xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Ta phải thấy rằng việc tiếp xúc đó
có đem chất độc vào người hay không. Ví dụ như khi ta xem truyền hình, mắt ta
tiếp xúc với hình sắc. Phải thực tập chánh kiến xem chương trình truyền hình
kia có đưa vào trong tâm ta những độc tố như sợ hãi, căm thù và bạo động hay
không. Có những phim mang lại cho lòng ta sự hiểu biết, lòng từ bi, chí quyết
tâm muốn giúp người, quyết tâm không làm những điều lầm lỗi. Ta biết ta có thể
xem phim đó. Đây là ta thực tập chánh kiến. Người lớn cũng như trẻ em, trong
khi xem phim, phải biết thực tập chánh kiến. Phải biết rằng có những chương
trình truyền hình chứa đựng rất nhiều độc tố như bạo động, căm thù và dục vọng.
Ngay cả những phim quảng cáo cũng khơi động thèm khát, dục vọng hay sợ hãi của
người ta. Khi xem một tờ báo không có chánh niệm, chúng ta có thể tiếp nhận rất
nhiều độc tố. đọc xong ta có thể mệt nhoài vì những điều ta đọc có thể khiến
chúng ta chán nản, lo lắng và ghê sợ. Chính những câu chuyện hàng ngày cũng có
thể mang nhiều độc tố. Đó là xúc thực.
Chánh kiến phát sinh ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh chánh kiến. Tôi biết rằng nhìn, nghe và tiếp xúc với những gì thì thân tâm tôi sẽ khỏe khoắn, nhẹ nhàng và an lạc và tôi quyết định mỗi ngày tiếp xúc với những chất liệu đó. Còn những thứ làm tôi mệt, tôi buồn, tôi lo, tôi giận thì tôi sẽ tránh không tiếp xúc. Đó là chánh niệm về xúc thực, có được nhờ chánh kiến về xúc thực.
Bụt dạy rằng con người
rất dễ bị thương tích, trên cơ thể cũng như trên tâm hồn. Bụt đã dùng hình ảnh
một con bò bị lột da dẫn xuống sông. Dưới sông có hàng vạn loài sinh vật li ti
bu lại hút máu và rỉa thịt con bò. Và khi ta đưa con bò tới đứng gần một bức tường
hay một thân cây cổ thụ, cũng có những sinh vật li ti sống trên bức tường và
trong cây cổ thụ bay ra, bám vào con bò để hút máu. Nếu chúng ta không giữ gìn
thân và tâm bằng chánh kiến và chánh niệm thì các độc tố trong cuộc đời cũng
bám lại và tàn phá thân tâm ta. Năm giới mà chúng ta tiếp nhận và hành trì là bộ
da bao bọc thân thể và tâm hồn ta. Nếu không hành trì năm giới là chúng ta
không thực tập chánh kiến. Và trong mỗi chúng ta vốn đã có hạt giống của chánh
niệm. Thực tập chánh niệm cũng như tạo ra những kháng thể để chống lại sự thâm
nhập của các độc tố kia.
Loại thức ăn thứ ba
là tư niệm thực. Đó là những nỗi ước ao ta muốn thực hiện cho đời ta. Mong muốn
làm giám đốc một hãng buôn lớn, hay mong muốn đậu bằng tiến sĩ, những mong muốn
như thế thâm nhập vào người ta giống như một thức ăn. Mong muốn là một loại thực
phẩm gọi là tư niệm thực. Ước muốn mạnh sẽ giúp ta năng lượng để thực hiện hoài
bão. Nhưng có những loại tư niệm thực làm cho ta khổ đau suốt đời. Như danh, lợi,
tài và sắc. Muốn được mạnh khỏe và tươi vui, muốn được giúp đỡ cho gia đình và
xã hội, muốn bảo vệ thiên nhiên, tu tập để chuyển hóa, để thành một bậc giác ngộ
độ thoát cho đời v.v.. thì đó là loại tư niệm thực có thể đưa tới an lạc, hạnh
phúc. Về tư niệm thực, Bụt kể chuyện một người bị hai lực sĩ kéo xềnh xệch trên
mặt đất để đi tới một hầm lửa. Hai lực sĩ khiêng người kia ném xuống hầm lửa
đang bốc cháy. Bụt nói rằng khi ta bị những tư niệm thực bất thiện chiếm cứ, bị
danh, lợi, tài và sắc lôi cuốn thì cũng như ta bị những chàng lực sĩ kéo đi liệng
xuống hầm lửa. Do đó người tu học phải có chánh kiến, phải nhận diện được tư niệm
thực trong ta là loại nào.
Loại thức ăn thứ tư
là thức thực. Chúng ta là sự biểu hiện của thức, gồm có y báo và chánh báo.
Chánh báo là con người gồm năm uẩn của ta và y báo thuộc hoàn cảnh chung quanh
ta. Vì hành động tự nhiều kiếp xưa nên bây giờ ta có chánh báo này, với y báo
này. Chánh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức. Khi làm công việc nhận
thức, tâm cũng giống như cơ thể đón nhận các món ăn. Nếu trong quá khứ tâm thức
ta đã tiếp nhận những thức ăn độc hại, thì nay tâm thức ta biểu hiện ra y báo
và chánh báo không lành. Những gì ta thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc, suy tư,
tưởng tượng, tất cả những thứ ấy đều như muôn sông chảy về biển tâm thức. Và những
vô minh, hận thù và buồn khổ của ta đều trôi về biển cả của tâm thức ta. Vì vậy
ta phải biết mỗi ngày chúng ta nhận vào tâm thức của ta những món ăn nào. Chúng
ta cho tâm thức ăn Kinh Kim Cương, Kinh Pháp Hoa hay là chúng ta cho nó ăn
tham, sân, si, mạn, nghi và tà kiến? Chúng ta cho nó ăn từ, bi, hỷ, xả hay là
chúng ta cho nó ăn trạo cử, hôn trầm, giãi đãi, phóng dật?
Về thức thực, Bụt đã
dùng hình ảnh một người tử tù và ông vua. Buổi sáng vua ra lệnh lấy 300 lưỡi
dao cắm vào thân thể của một tử tội. Tới buổi chiều vua hỏi: ‘‘Người tù đó bây
giờ sao?” – ‘‘Tâu bệ Hạ, nó còn sống.” - ‘‘Vậy thì đem nó ra, lấy 300 lưỡi dao
đâm qua người nó một lần nữa. ì Và buổi tối, vua hỏi: ‘‘Kẻ đó bây giờ ra sao?” -
‘‘Còn sống.” - ‘‘Hãy lấy 300 mũi dao đâm qua thân thể nó một lần nữa!” Bụt dùng
ví dụ đó để nói chúng ta cũng đang hành Hạ tâm thức của ta y như thế. Mỗi ngày
chúng ta đâm 300 mũi dao của độc tố vào trong tâm thức ta. Những mũi dao của
tham lam, giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh.
Bốn ví dụ kể trên được
chép trong Kinh Tử Nhục. Tử Nhục là thịt của đứa con. Bốn ví dụ nghe rất ghê sợ,
có tác dụng rặn bảo chúng ta phải tỉnh táo giữ gìn chánh kiến.
Thầy Xá Lợi Phất nói:
‘‘Người có chánh kiến là người hiểu được bản chất của bốn loại thực phẩm như
trên.” Nếu anh chưa biết được cái bản chất của bốn loại thực phẩm là anh chưa
có chánh kiến. Sau khi thầy Xá Lợi Phất nói về bốn loại thực phẩm, các thầy
khác lại hỏi tiếp: ‘‘Có thể nói về chánh kiến dưới một phương diện khác nữa hay
không?” Thầy Xá Lợi Phất trả lời: ‘‘Có, chánh kiến là cái thấy của chúng ta về
bốn sự thật, gọi là tứ đế. Phải thấy được khổ, phải thấy được tập, phải thấy được
diệt, phải thấy được đạo.” Các thầy hỏi thêm, thì thầy Xá Lợi Phất nói tiếp về
chánh kiến qua mười hai nhân duyên. Các thầy lại hỏi thêm nữa, và thầy Xá Lợi
Phất nói rằng chánh kiến có thể nhìn dưới khía cạnh hữu lậu và vô lậu. Phần hữu
lậu là thế gian và phần vô lậu là xuất thế gian. Phần thứ nhất là hướng thượng,
phần thứ hai là lậu tận. Khi nào diệt hết phiền não thì gọi là lậu tận, tức là
vượt ra khỏi biên giới của khổ đau. Những điều này cũng được nói tới trong nhiều
Kinh khác *.
Chúng ta phải bắt đầu
bằng phần thế gian. Chánh kiến (right view) là cái đi ngược lại với tà kiến
(wrong view). Tà kiến là nói rằng không có nhân quả, không có thiện ác, không
có cha mẹ, không có tình nghĩa. Chánh kiến là biết có nhân có quả, có phân biệt
thiện ác, có đời trước đời này, có cha có mẹ, có tình có nghĩa, v.v.. Chúng ta
phải bắt đầu từ phần đạo đức thế gian, theo lời thầy Xá Lợi Phất dạy. Chánh kiến
gồm khả năng nhận diện những thiện căn và những ác căn ở trong ta, khả năng thấy
được bản chất của tứ diệu đế, khả năng có thể thấy được bốn loại thực phẩm, và
khả năng có thể thấy được mười hai duyên khởi.
Tưới Tẩm Hạt Giống Chánh Kiến
Làm thế nào để đạt được
chánh kiến? Trước hết chúng ta phải học. Quá trình văn, tư, tu (nghe- suy nghiệm-
thực tập) bắt đầu bằng văn, nghĩa là phải học, phải tập lắng nghe. Chánh kiến
có thể trao truyền được không, hay là tự mình phải đạt lấy? Ta nhớ rằng chánh
kiến đã có sẵn hạt giống ở trong mỗi người. Thầy giỏi và bạn giỏi là những người
có thể khơi động được hạt giống của chánh kiến ở trong ta. Người dạy ta có
chánh kiến không, và đã chứng đạt tới mức nào? Chánh kiến của người ấy đã vững
chãi chưa hay chỉ là một số khái niệm học được từ các thầy khác hay trong Kinh
sách? Học không phải là thâu thập kiến thức. Học lý thuyết mà không chứng nghiệm
thì cũng như con tằm ăn lá dâu mà không làm được tơ, không có ích lợi gì cả.
Chánh kiến có thể thụ
nhận, có thể trao truyền. Nhưng việc trao và nhận cần nhiều điều kiện. Người dạy
ta về chánh kiến, cuốn sách ta đọc, cuốn Kinh ta tụng phải có khả năng thức động
những hạt giống chánh kiến trong ta. Hạt giống chánh kiến có sẵn. Bụt dạy tất cả
mọi người đều có hạt giống của tuệ giác. Cho nên khi được nghe, được tiếp xúc với
những dấu hiệu của chánh kiến thì tự nhiên ta sẽ hiểu. Những kinh nghiệm khổ
đau của ta cũng giúp ta tiếp nhận chánh kiến. Chánh kiến chỉ có thể trao truyền
trong những thời gian và địa điểm thích hợp, bằng ngôn ngữ từ ái, khế cơ, những
ngôn ngữ có khả năng đánh thức được hạt giống chánh kiến có sẵn trong người
nghe. Người nghe lúc đầu có thể chỉ hiểu bằng trí óc thôi, điều nghe chưa thấm
vào tâm thức hoặc chưa thể nghiệm được, vì còn thiếu kinh nghiệm sống. Nhưng hạt
giống chánh kiến chứa sẵn trong tâm một ngày kia sẽ nẩy mầm. Khi kinh nghiệm
đau khổ đã chín mùi thì chỉ cần nghe một câu nói hay một bài pháp thoại là người
ấy đã có thể chuyển hóa. Cho nên tạo ra những điều kiện giúp ta tiếp nhận chánh
kiến là điều rất quan trọng.
Nhiều người thấy mình
đã sẵn sàng để tiếp nhận chánh pháp, nhưng vẫn phải chuẩn bị một thái độ thích
đáng. Nghe một bài pháp, phải để cho giáo pháp có cơ hội thấm sâu trong tâm thức
để tiếp xúc, đánh thức và tưới tẩm những hạt giống chánh kiến ở trong mình. Nếu
chỉ dùng trí năng để tiếp nhận chánh kiến thì sẽ không có kết quả bao nhiêu.
Tôi thường nói với thiền sinh là nghe pháp thoại (văn) là một phép thực tập mà
việc thực tập thì không phải chỉ cần đến trí năng. Phải thực tập với thân, tâm
và cả tàng thức của mình. Tàng thức như mặt đất, gọi là đất tâm (tâm địa).
Trong đất tâm của ta có những hạt giống của chánh kiến. Khi nghe pháp đừng dựng
lên những bức tường trí xảo. Không suy đoán, không so sánh, không bình luận.
Trong giai đoạn văn
ta chưa cần tư. Khi nghe pháp thoại hãy khoan dùng trí năng phân biệt, mà phải
đưa cả thân tâm ra. Khi nghe pháp, ta phải để mặt đất tâm mở rộng thênh thang
cho mưa pháp thấm nhuần. Mưa xuân nhẹ hạt đất tâm ướt, hạt đậu năm xưa hé miệng
cười. Đất tâm thấm ướt thì hạt giống tuệ giác ở trong ta mới nẩy mầm được. Cho
nên ngồi nghe pháp thoại phải như ngồi thiền, phải ngồi cho chững chạc, thanh
thản, và chỉ lắng nghe thôi. Mở rộng tấm lòng không thành kiến để tiếp nhận lời
pháp thoại. Nghe mà đã có định kiến rồi thì không tiếp nhận được nữa. Lúc nghe
chúng ta đừng đem so sánh những lời đang nghe với ý kiến có sẵn của mình. Đừng
vừa nghe vừa phê phán: giống, khác, đúng, sai và lấy các định kiến của mình làm
tiêu chuẩn. Bị bức tường trí não và thành kiến ngăn chặn, những điều ta nghe
không thấm vào lòng ta được nữa. Cho nên bí quyết của nghe (văn) là lòng trống,
là không tâm. Nghe, tiếp nhận và thấu hiểu rồi, sau đó mới tư và tu, nghĩa là mới
suy ngẫm, chiêm nghiệm và đem vào cuộc sống.
Vào thời Bụt còn tại
thế, nhiều người tới nghe Bụt giảng lần đầu, trong khi nghe đã tỉnh thức ngay.
Họ giác ngộ tức thời trong khi nghe Bụt nói, nhờ họ đã từng đau khổ và đã dầy
công tu tập. Chỉ văn thôi là đã chứng. Ba việc văn, tư và tu diễn ra trong cùng
một khoảnh khắc. Vì ở trong con người của những kẻ ấy những cơ năng của giác ngộ
đã đầy đủ rồi, chỉ còn một chỗ nào đó còn bị kẹt mà thôi. Bây giờ nghe một bài
pháp thoại thì tự nhiên chỗ bị kẹt đó được tháo gỡ, và sự thật bung ra.
Chánh kiến có thể được
nói tới như là nhân hay là quả. Chánh kiến tiếp nhận vào là nhân. Tư và tu lại
mang chánh kiến tới như kết quả của sự thực tập. Khi tiếp thụ chánh kiến như là
nhân, thì phần ý niệm và danh từ còn quan trọng. Khi thành tựu kết quả thì
chánh kiến là tuệ giác, vượt khỏi danh từ và khái niệm, chánh kiến tức là giác
ngộ, là bồ đề.
Vào buổi khuya thành
đạo, Bụt đạt tới cái thấy hoàn toàn, vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì cái
thấy của Ngài là tuệ giác xuất thế gian. Nhưng khi bắt đầu giảng cho các thầy về
tứ diệu đế là Bụt bắt đầu phải dùng ý niệm và ngôn từ. Ý niệm về khổ, về tập, về
diệt, về đạo. Đọc trong Kinh chúng ta thấy rằng sau khi Bụt thành đạo Ngài đã ở
lại bờ sông Ni Liên Thuyền 49 ngày. Trong 49 ngày đó, Ngài sống trong vô ngôn
và vô niệm, nhưng đồng thời Ngài cũng bắt đầu thiết lập các ngôn từ và ý niệm để
chuẩn bị giảng dạy. Chúng ta thấy bài thuyết pháp đầu tiên về tứ đế và bát
chánh đạo đã được xây dựng một cách rất kỹ lưỡng, rất đẹp đẽ và rất thích hợp với
năm người đệ tử đầu. Nhưng đó chỉ là cái bình để đựng nước thôi. Nước chánh kiến
đã có sẵn rồi. Muốn hiến nước cho người, phải đem tặng trong một cái bình. Và tứ
diệu đế, bát chánh đạo là bình nước tuệ giác đầu tiên mà Bụt đem chia sẻ cùng
nhân loại.
Thầy Thái Hư, sống đầu
thế kỷ này bên Trung Quốc đã dùng các danh từ giáo lý bản chất và giáo lý ảnh
tượng. Giáo lý ảnh tượng là giáo lý được trình bày qua ngôn từ và khái niệm,
còn cái giáo lý mà ta sống là giáo lý bản chất. Thầy dùng hình ảnh của một thân
cây. Trời nắng, cây chiếu bóng trên mặt đất. Chỉ cho người kia cái bóng cây:
đây là bóng cây, nếu anh tìm tới gốc và nhìn lên anh sẽ thấy cây. Giáo lý ảnh
tượng như bóng cây, giáo lý bản chất là cây. Cây là tuệ giác chân thật, bóng
cây là khái niệm và ngôn từ diễn tả tuệ giác. Nhất thiết tu đa la giáo như tiêu
nguyệt chỉ, tất cả giáo lý trong các kinh điển đều là ngón tay chỉ mặt trăng.
Ngón tay chỉ mặt trăng không phải là mặt trăng nhưng nếu không có ngón tay chỉ
thì ta không biết phương hướng nhìn về mặt trăng. Khi nương vào giáo lý ảnh tượng
để tu tập, một ngày kia ta thấy được giáo lý bản chất.
Duy Biểu Học (thường
gọi là Duy Thức Học) nói về các phiền não như tham, sân, si, mạn, nghi và kiến.
Không cần dùng chữ tà kiến, vì kiến đã có nghĩa là cái thấy sai lầm rồi. Kiến
nghĩa là một cái thấy phiến diện, thấy một mặt. Đứng về phương diện thế gian mà
nói thì có chánh kiến, có tà kiến, chánh kiến đối lập với tà kiến. Nhưng khi đạt
trình độ xuất thế gian thì tất cả mọi kiến đều là tà kiến. Ví dụ như vô thường
là chánh kiến, thường là tà kiến; ngã là tà kiến, vô ngã là chánh kiến. Nhưng đứng
về phương diện xuất thế gian thì thường là tà kiến mà vô thường cũng trở thành
tà kiến. Vô thường là thứ thuốc trị bệnh giúp ta khỏi vướng mắc vào cái thấy về
thế giới mà ta nghĩ là trường tồn. Nhưng nếu ta lại vướng mắc vào ý niệm vô thường
thì vô thường cũng là một cái thấy (kiến) sai lầm. Vô thường là cái ta chứng
nghiệm trong đời sống, không phải chỉ là một khái niệm. Học Phật, chúng ta hay
bị vướng vào những ý niệm vô thường và vô ngã. Với tuệ giác siêu việt thì ý niệm
về thường phải được vượt qua mà ý niệm về vô thường cũng phải được vượt qua. Ý
niệm về ngã phải vượt mà ý niệm vô ngã cũng phải vượt. Cũng như trong Kinh Bảo
Tích nói: ‘‘thà rằng bị kẹt vào ý niệm hữu, còn hơn là bị kẹt vào ý niệm
khôngì. Không là một thứ thuốc để trị bệnh hữu nhưng nếu ta bị bệnh không thì
không còn thuốc nào để chữa. Tóm lại, tu tập chánh kiến trước hết là học hỏi và
tiếp nhận những ngôn từ và những khái niệm chuyên chở tuệ giác. Rồi nhờ quá
trình văn, tư và tu mà tuệ giác đó lớn lên dần dần. Và khi đã đạt được tuệ giác
thì không những tất cả các khái niệm về tà kiến mà cả những khái niệm về chánh
kiến cũng được thắng vượt. Kinh Pháp Môn Căn Bản (Mula pariyaya, Trung bộ 1)
nói rất rõ về sự vượt thắng ý niệm và tà kiến, đứng trên lập trường xuất thế.
Không những ý niệm ‘‘ta có tự ngãì là một tà kiến mà cả ý niệm ‘‘ta không có tự
ngãì cũng là một tà kiến.
Tuệ giác đạt được nhờ
chánh kiến càng lớn thì hành động của chúng ta càng sáng. Chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh định v.v.. , tất cả đều tùy theo chánh
kiến. Phẩm chất của bảy phần kia trong bát chánh đạo đều tùy thuộc phẩm chất của
chánh kiến. Cho nên Kinh Tạp A Hàm 785 cũng như trong Kinh Thánh Đạo, Majjhima
Nikaya 117, đều nói rằng chánh kiến đứng hàng đầu. Việc tu tập chánh kiến lúc đầu
giúp ta phân biệt chánh kiến và tà kiến. Cuối cùng nhờ chánh kiến ta biết rằng
tất cả các kiến đều là tà kiến. Cho nên chánh kiến tức là vốn liếng tu học, vốn
liếng hành trì của chúng ta. Nếu vốn liếng đó phong phú thì tất cả những sự
hành trì trong các lãnh vực chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định cũng sẽ giàu có. Học hỏi như thế nào để
cho những hạt giống chánh kiến trong tâm được đánh thức, được nẩy mầm, thì lúc
đó những điều chúng ta học hỏi mới thật sự là chánh kiến.
Chú Thích
* Các Kinh căn bản nói về bát chánh đạo đều phân biệt hai mặt của
bát chánh đạo. Hai mặt ấy là hữu lậu và vô lậu. Xin tham khảo Kinh Thánh đạo
(Trung A Hàm 189), Kinh Tạp A Hàm 785 và Kinh Maha cattarisaka (Trung Bộ 117).
Kinh Tạp A Hàm 785 rõ nhất.
Theo gốc chữ, lậu tức là cái sự rỉ chảy, sự trôi lăn. Vô lậu tức là chấm dứt sự rỉ chảy, sự trôi lăn. Lậu có thể dịch là sự đi vòng, asrava. Lậu do đó có nghĩa là phiền não, thành ra asrava là klesa (phiền não). Khi nào mà chúng ta diệt hết tất cả phiền não thì gọi là lậu tận, tức là hoàn toàn giải thoát, vượt ra khỏi biên giới của khổ đau. Xuất thế gian thì mới gọi là lậu tận. Trong sáu phép thần thông thì lậu tận thông là cao nhất. Lậu tận thông tức là gột sạch hết tất cả phiền não, còn các thần thông khác như thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông thì không quan trọng bằng.
Xem Tiếp Bài 7 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá