Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Trái Tim Của Bụt
Phật Pháp Căn Bản
Bài 11. Chánh Niệm Là Tự Làm Chủ
Bài 11A. Chánh Niệm Là Tự Làm Chủ
Hôm nay là ngày 26
tháng chạp năm 1993, chúng ta học tiếp về chánh niệm.
Chữ niệm chúng ta có
thể dịch là nhớ, nhưng ở đây nhớ không có nghĩa là ký ức (memory). Kỳ trước
chúng ta đã biết rằng có chánh niệm tức là tâm ta trú trong giây phút hiện tại
và ta biết được những gì đang xảy ra trong hiện tại. Vì vậy niệm không có nghĩa
là nhớ tưởng quá khứ, nhất là nghĩ tới quá khứ để đánh mất mình trong đó. Chúng
ta có thể định nghĩa chánh niệm là năng lượng có khả năng nhận diện được bất cứ
những gì đang xảy ra bây giờ và ở đây.
Chánh Niệm Là Tự Làm Chủ
Những gì xảy ra cũng
có thể được xếp vào một trong bốn lĩnh vực. Trước hết là lĩnh vực thân thể. Tiếp
theo là lĩnh vực của cảm thọ. Thứ ba là lĩnh vực của các tâm hành (mental
formations) (duy biểu học phân loại 51 thứ tâm hành). Và lĩnh vực thứ tư là các
pháp. Pháp ở đây tức là những hiện tượng làm đối tượng của tâm thức.
Ví dụ trong tâm ta,
trong ký ức ta, có một hình ảnh đã được gieo vào từ 20 năm về trước. Bây giờ
hình ảnh đó hiện trở lại, và hai trường hợp có thể xảy ra. Thứ nhất là chúng ta
có thể bị cái hình cũ lôi kéo vào một cuộc phiêu lưu, và chúng ta sống lại thế
giới của quá khứ. Trong trường hợp này chúng ta đi vào thất niệm. Đó là nhớ
nhưng không phải là nhớ trong chánh niệm. Một hình ảnh có thể áp dẫn chúng ta
trở về quá khứ, hay lôi cuốn chúng ta phiêu lưu tới một tương lai chưa hề xẩy
ra, để mơ tưởng, để phập phồng, lo âu, sợ hãi, và chúng ta quên lãng, không có
mặt trong giây phút hiện tại nữa. Đó là thất niệm.
Trái lại nếu hình ảnh
đó từ tiềm thức hay vô thức (trong tàng thức) phát hiện ra mà chúng ta biết mỉm
cười nhận diện, ta nói: à, chào ngươi, ngươi đã trở lại’’. Trong trường hợp này
chúng ta vẫn còn an trú trong hiện tại. Chúng ta đã khiến việc nhớ lại hình ảnh
quá khứ trở thành một biến cố xảy ra trong hiện tại. Có chánh niệm, ta không cần
phải xua đuổi hình ảnh đó. Nó không kéo ta được về quá khứ, nó không dẫn ta
phiêu lưu tới tương lai. Trường hợp này là có chánh niệm.
Có chánh niệm tức là
tâm ta giữ được chủ quyền, và thất niệm là đánh mất chủ quyền. Có thể nói rằng
chánh niệm giúp cho ta vẫn còn là ta, có mặt trong cuộc đời để tiếp xúc với sự
sống chân thật. Nếu không có chánh niệm thì ta không còn là ta nữa. Chúng ta
hãy tưởng tượng có một ngôi nhà không chủ, ngôi nhà đó sẽ tan hoang. Con người
ta gồm có bốn phần: thân, thọ, tâm và pháp. Nếu chúng ta không có mặt thì chúng
ta để cho ngôi nhà bốn lĩnh vực ấy tan hoang. Cái thân của chúng ta sẽ yếu đuối,
cái thọ của chúng ta sẽ đầy những khổ đau, cái tâm của chúng ta rối ren, và những
pháp của ta đều là phiền não. Vì vậy cho nên khi chúng ta có mặt thì căn nhà của
ta hay khu vườn của ta mới trở nên một căn nhà hay một khu vườn tươi mát có thể
đem lại an lạc. Người Việt Nam hay nói vắng như chùa Bà Đanh. Chắc hẳn chùa Bà
Đanh là cái chùa không ai chăm sóc. Mỗi người tu cũng là một ngôi chùa. Đừng để
ngôi chùa ta biến thành chùa Bà Đanh. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi; trong cảm
thọ vui, buồn, giận, ghét; trong khi ăn, uống, cười, nói ta phải có chánh niệm.
Có chánh niệm thì ngôi chùa chúng ta có một vị trụ trì và ngôi chùa đó không thể
trở thành chùa Bà Đanh.
Quán sát một sư anh,
một sư chị, một sư em trong đời sống hàng ngày: đi, đứng, nằm, ngồi, nấu cơm,
gánh nước, bổ củi, ta thấy được người đó có chánh niệm hay không, ngôi chùa đó
có phải chùa Bà Đanh không, hay đó là một ngôi chùa có chăm sóc đàng hoàng. Một
ngôi chùa được chăm sóc đàng hoàng, cây cảnh tốt tươi, thì đó là nguồn vui lớn
cho rất nhiều người. Nhận ra điều này cũng không khó. Chỉ cần nhìn người đó
quét nhà hay lau bàn là ta có thể biết được cái chùa này đang được chăm sóc hay
đang bị bỏ hoang.
Nhận Diện Đơn Thuần
Chánh niệm là vị trụ
trì của ngôi chùa. Bốn lĩnh vực của quán niệm, thứ nhất là thân thể. Thân thể
ta đang làm gì, có gì đang xảy ra cho cơ thể ta, ta phải biết. Thứ hai là cảm
thọ (sensation, feelings). Khi nào có vui, buồn, hoặc sợ, chán hay giận thì
chúng ta đều biết. Ta nhận diện các cảm thọ đang diễn ra, không cần làm gì
khác. Và chánh niệm chính là khả năng nhận diện được cái gì đang xẩy ra trong
giờ phút hiện tại. Hai lãnh vực vừa kể gồm những hiện tượng trong thân thể và
trong cảm thọ. Tiếp theo là lãnh vực các tâm hành và cuối cùng là lãnh vực những
đối tượng của tâm hành.
Chúng ta cần hiểu
chánh niệm là năng lượng giúp chúng ta nhận diện được những gì đang xảy ra
trong bốn lĩnh vực: thân, thọ, tâm và pháp. Chỉ cần nhận diện thôi, không cần
phải làm gì khác. Thực tập chánh niệm bắt đầu bằng sự nhận diện một cách thuần
túy tất cả những gì đang xảy ra trong ta và xung quanh ta. Nhận diện mà không cần
phê phán. Không cần nghĩ rằng điều đang xảy ra là đáng buồn hay đáng vui. Bông
hoa tươi thì biết là bông hoa tươi, bông hoa héo thì biết là bông hoa héo. Tâm
đang giận hờn thì biết đây là nỗi giận hờn đang ở trong ta. Không cần phải công
phá, không cần phải đè nén. Bí quyết của sự thực tập là ở chỗ này.
Nếu thấy tâm giận hờn phát khởi mà ta xấu hổ, nổi ý muốn dẹp bỏ và đàn áp nó, thì đó chưa phải là chánh niệm. Chánh niệm như một bà mẹ: con của mình tươi vui thì mình thương, mà nó khóc lóc thì mình vẫn thương. Tất cả những gì xảy ra trong bốn lãnh vực đều cần phải được năng lượng chánh niệm ôm ấp như nhau. Đẹp mình cũng săn sóc mà không đẹp mình cũng săn sóc. Thành ra cái gọi là nhận diện đơn thuần rất quan trọng, ta phải nhớ kỹ. Chỉ cần nhận diện và cười với hiện tượng ấy thôi, không cần lên án, không mang mặc cảm, hay khổ đau, trách cứ hoặc giận hờn. Tất cả những phản ứng ấy có thể là chướng ngại cho sự tu tập. Hãy để hạt giống của chánh kiến trong ta hoạt động, cứ để những hạt giống của tình thương và sự hiểu biết trong ta hoạt động. Chúng ta chỉ cần nhận diện mà thôi.
Trong lĩnh vực thân
thể thì trước hết ta nhận diện rằng có cái thân thể đang sống. Thường thường
trước khi sư cô Chân Diệu Nghiêm dạy những động tác thực tập chánh niệm, sư cô
hay nói chúng ta hãy thở vào và thở ra, trong khi phát khởi ý thức về thân thể.
Thở vào, tôi biết là thân tôi đang đứng đây, thở ra tôi biết là thân tôi đang đứng
đây. Đó là nhận diện sự có mặt của thân thể. Có nhiều khi ta xa cách với bản
thân của mình. Trong đời sống, chúng ta có thể như một đứa con đau khổ, bỏ nhà
ra đi. Cái nhà của chúng ta là bốn lĩnh vực: thân, thọ, tâm, pháp. Thân của
chúng ta là một phần căn nhà đó. Nhiều khi ta quên tiếp xúc với thân ta. Khi thở
ra và thở vào để trở về với thân thể, ta làm quen lại với thân thể mình, thấy
được sự có mặt của thân thể mình, đó là một sự thực tập. Đó là thực tập trở về.
Trong lĩnh vực cảm thọ
cũng vậy. Có những cảm thọ làm cho chúng ta đau. Chúng ta chạy trốn những mối
lo, những nỗi buồn, những nỗi giận, những cảnh khổ. Chúng ta cũng không dám trở
về để làm quen, để ôm lấy những cảm thọ của chúng ta. Chúng ta luôn luôn muốn
chạy trốn. Thành ra chánh niệm trước hết là sự trở về, trở về với thân, rồi trở
về với những cảm thọ của ta.
Kinh Thân Hành Niệm nằm
trong Trung Bộ ở tạng Pali (Kayasmrti sutta) và Trung A Hàm nơi Hán tạng. Trong
kinh này Bụt dạy chúng ta trở về với thân, làm quen với thân, nhận diện tất cả
những thành phần và động tác của thân. Trước hết ta nhận diện thân ta trong các
tư thế đứng, ngồi, nằm và đi. Đó là một sự trở về đích thực. Rồi ta nhận diện từng
phần trong thân thể: tôi đang thở vào và tiếp xúc với tóc trên đầu của tôi, tôi
đang thở ra và mỉm cười với tóc trên đầu của tôi. Tóc trên đầu tôi đã bắt đầu bạc
và tôi mỉm cười với màu muối tiêu trên tóc tôi. Tất cả đều là sự trở về để làm
quen trở lại với một người bạn cũ, với ngôi nhà cũ của mình. Đó chính là thân
thể mình. Rồi ta đi xuống trán: tôi đang thở vào và trở về tiếp xúc với cái
trán của tôi, tôi đang thở ra và mỉm cười với trán của tôi. Trán của tôi còn trẻ
chưa nhăn, hoặc là trán của tôi đã bắt đầu có nếp nhăn. Tất cả những thứ đó là
đối tượng chánh niệm, là ánh sáng giúp ta nhận diện được tóc của ta, trán của
ta. Cứ thế đi từ đầu tới chân. Kinh có nói tới 36 bộ phận của cơ thể cần phải
quán chiếu. Ta phải biết tiếp xúc và cười với từng bộ phận. Đó là một sự trở về
để làm quen trở lại, để làm hòa với cơ thể của mình.
Phương pháp này có thể
thực tập trong khi nằm. Chúng ta nằm buông thõng hai tay và hai chân cho thật
thoải mái, và theo dõi hơi thở, bắt đầu chú ý tới tóc ở trên đầu, rồi chú ý tới
trán, và lần lượt đi xuống. Ta dùng chánh niệm của ta như một chùm tia sáng,
chiếu rọi từ trên đầu, di chuyển chùm ánh sáng ấy từ từ xuống chân. Ngang tới
đâu thì ánh sáng chánh niệm cho ta ý thức rõ ràng phần cơ thể đó. Đồng thời hơi
thở có ý thức nuôi dưỡng năng lực của chánh niệm. Miệng mỉm cười với đối tượng
mà ánh sáng ý thức đang rọi tới. Như quán chiếu hai mắt, tiếp xúc hai mắt, nhờ
chánh niệm tiếp xúc được hai mắt thì miệng mỉm cười với hai mắt. Chánh niệm giống
như tia laser trong một chiếc máy scanner ở nhà thương.
Chánh Niệm Là Trở Về
Trong chánh niệm có
hành động trở về, có hành động làm quen trở lại, có niềm thương yêu, chú ý và
chăm sóc. Chánh niệm có rất nhiều tính trị liệu. Chánh niệm là trở về. Ngày sư
chú Pháp Dụng xin xuất gia, sư chú đã đi vào phòng tôi. Quỳ xuống, ôm lấy chân
tôi, sư chú nói: ‘‘Bạch thầy, con đã trở về’’. Tu là trở về, trở về với mình, với
gốc rễ của mình, với cha ông của mình, với gia đình tâm linh của mình trong đó
có thầy, có tổ. Mình là đứa con đã đi lang thang bao nhiêu năm tháng, và tu có
nghĩa là quyết định trở về. Điều này cũng đúng với sư chú Pháp Ứng, cũng đúng với
sư cô Thoại Nghiêm, với tất cả những người xuất gia. Biết rằng trong chuyến đi
hoang mình có thể chỉ làm tan vỡ thêm. Sự nát tan đó có thể xảy ra trong cơ thể,
trong tâm hồn mình, mà cũng xảy ra ở trong gia đình, trong xã hội mình. Tu là
trở về hòa giải với chính thân và tâm mình. Mà trong thân tâm mình, đã sẵn có
ông bà cha mẹ và thầy tổ. ‘‘Bạch thầy, con đã trở về, con xin xuống tóc để thọ
mười giới’’, đó mới chỉ là khởi sự trở về thôi. Việc trở về phải tiếp diễn
trong từng giây, từng phút. Bước đi một bước, ngồi xuống, uống một chén trà, tất
cả những lúc ấy đều là những lúc phải thực tập trở về. Nếu không có năng lượng
của chánh niệm thì việc trở về ấy không thể thực hiện được. Bạch thầy, con đã
trở về, có nghĩa như vậy. Đó là một lời nguyện, đó là một giây phút giác ngộ,
mà cũng là công việc thực tập thường xuyên không ngưng nghỉ.
Có nhiều người chán
ghét thân thể mình, họ cảm thấy thân thể là một chướng ngại vật, họ giận hờn
thân thể họ. Họ nói thân thể là một cái bình chứa đựng tội lỗi, là một nơi tích
tụ khổ đau. Họ muốn đày đọa, dày vò, đánh đập thân thể họ. Đó chỉ là biểu hiện
của sự đi hoang mà thôi. Đã đi hoang rồi, thì không còn nhận ra căn nhà của
mình nữa, không nhận ra được ngôi chùa của mình nữa. Cho nên, đứng về mặt tình
cảm và tâm linh mà nói, ý định muốn hủy hoại thân thể đã bắt nguồn từ chuyện bỏ
nhà ra đi. Khi trở về tiếp xúc với thân thể, mỉm cười với từng bộ phận của thân
thể, đó là bắt đầu trở về để hòa giải và tha thứ.
Bụt dạy: Ví dụ có một
người nông dân leo lên trên gác nhà, khiêng xuống một bao hạt giống. Người nông
dân đặt bao hạt giống trên sàn nhà, mở một đầu bao ra và cầm ngược đầu kia trút
hết hạt giống xuống. Người nông dân nói: đây là hạt bắp, đây là hạt đậu, đây là
hạt vừng, đây là hạt này, đây là hạt kia. Người nông dân nhận ra hạt bắp là hạt
bắp, nhận ra hạt đậu là hạt đậu, nhận ra hạt mè là hạt mè. Chúng ta cũng vậy,
trong khi trở về tiếp xúc với thân thể, chúng ta nhận ra đây là tóc của tôi,
đây là hai mắt của tôi, đây là phổi tôi, đây là tim tôi. Đó là sự nhận diện đơn
thuần. Đây là thân thể của tôi, ta chỉ nhận diện như vậy. Trong ví dụ đó, ta thấy
được lòng từ bi của Bụt. Ta chỉ cần trở về để nhận diện thân thể ta, và nhận diện
cho thật kỹ từng bộ phận của thân thể đó. Chúng ta lâu nay đã lãng quên chính
thân thể chúng ta. Chúng ta lâu nay đã bỏ nhà đi hoang và bây giờ cần phải trở
về. Nếu không trở về được với thân thể thì làm sao trở về được với cảm thọ, với
tâm tư? Cho nên trở về thân thể là quan trọng. Có thể là trong những giờ thiền
tập, mình nằm xuống trong tư thế buông thư, dùng ánh sáng của chánh niệm chiếu
vào từng phần thân thể, để thấy rõ, tiếp xúc và mỉm cười với nó. Đó là một
phương pháp thực tập rất hay.
Tiếp đến là sự dùng
chánh niệm chiếu sáng vào những cử động và những tư thế. Khi đi thì biết là
đang đi. Có một chứng bịnh gọi là thụy du (sleep walking). Ban đêm tự nhiên người
ta nhỏm dậy, mở cửa đi và không biết là mình đi. Đó là biểu tượng của sự vong
thân. Năm ngoái, trong khóa tu chúng ta đã nói về tình trạng cô hồn. Mỗi chúng
ta đều có cái hạt giống cô hồn trong người. Chúng ta thỉnh thoảng lại có khuynh
hướng bỏ nhà ra đi, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ thầy, bỏ bạn mà đi. Hạt giống cô hồn nếu
lớn lên thì chính nó sẽ đẩy chúng ta đi. Chúng ta sẽ làm một kẻ thụy du, đi mà
không biết là mình đi đâu. Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh. Đi đâu cũng
được.
Vũ Hoàng Chương viết:
Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa,
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.
Biển vô tận xá gì phương hướng nữa?
Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh.
Nếu nghe bốn câu đó
mà cảm thấy hay, tức là ta biết trong ta đã sẵn có hạt giống cô hồn. Ít nhiều,
chúng ta đều đã là những đứa con đi hoang. Và quyết tâm tu học tức là quyết tâm
trở về.
Không phải là chỉ lúc
nửa đêm thức dậy chúng ta mới mộng du đâu. Ban ngày cũng vậy. Ban ngày, có lúc
đi ra nhà bếp, đi lên thiền đường, đi xuống phòng riêng, chúng ta cũng đi như mộng
du vậy. Tức là đi không có chánh niệm. Đi mà không ý thức rằng mình đang đi thì
không khác gì thụy du cả. Cho nên người tu, trong mỗi bước chân phải bước đi
trong chánh niệm, mỗi bước chân của anh đều phải đưa anh vào tịnh độ.
Mỗi bước chân đi vào tịnh độ,
Mỗi cái nhìn thấy được pháp thân.
Khi mắt ta nhìn với
chánh niệm, ta thấy được tính mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại.
Khi đi ta biết là mình đi. Chỉ cần có ý thức là mình đang đi thôi, tự nhiên bước
chân trở nên thanh thản, đầy an lạc. Không cần làm gì hết, chánh niệm tự nó sẽ
chuyển hóa tình trạng. Đang đi như bị ma đuổi mà ta vừa trở lại chánh niệm thì
bước chân ta tức khắc trở thành khoan thai; và sự an lạc thảnh thơi sẽ đến, rất
dễ dàng và tự nhiên. Ta chỉ nhận diện đơn thuần: ‘‘A, mình đang đi như bị ma đuổi.’’
Không cần tự trách cứ, không cần tự chê bai, mà tự nhiên những bước chân ta thảnh
thơi trở lại.
Khi đứng ta cũng đứng
trong chánh niệm. Như đứng xếp hàng để chờ đến lượt mình múc một bát canh.
Trong khi đứng, ta không phiêu lưu bay tận trên mây hay trong vùng trời suy tưởng.
Không phiêu lưu trong quá khứ hay ở tương lai. Tôi đang đứng đây và tôi biết rằng
tôi đang đứng đây, chỉ như vậy thôi. Chuyện tôi đang đứng đây giữa các bạn tu của
tôi, trong một khung cảnh thanh tịnh đã giúp tôi trở về. Riêng điều đó đã đủ để
tạo ra an lạc và hạnh phúc rồi, không cần phải làm gì khác.
Đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm.
Vào ra cười nói tướng đoan nghiêm.
Nếu có chánh niệm
trong tâm thì tự nhiên khi đi ra, đi vào, cười, nói thì bên ngoài tướng mạo sẽ
đoan nghiêm. Người ngoài nhìn ta sẽ thấy đây là một học trò của Bụt, không phải
là một bóng ma. Còn nếu trong tâm không có chánh niệm mà ngoài cũng không đoan
nghiêm, thì mình biết đây là một ngôi nhà bỏ hoang, là một con ma. Sống trong đại
chúng tu học ta phải có nhiều cơ hội được nhắc nhở trở về chánh niệm. Cho nên
tiếng chuông điện thoại cũng giúp ta trở về chánh niệm, tiếng chuông đồng hồ
cũng giúp ta trở về chánh niệm, bàn tay chắp lại chào búp sen của người bạn tu
cũng giúp ta trở về chánh niệm. Dáng đi ra hay đi vào của người sư anh hay sư
chị cũng giúp ta trở về chánh niệm.
Đến lượt ta, ta cũng
phải làm mọi việc trong chánh niệm, cống hiến cơ hội trở về chánh niệm cho tất
cả những người ở chung quanh ta. Khi cúi xuống, ta biết rằng ta đang cúi xuống.
Khi ngẩng lên, biết ta đang ngẩng lên. Đó là chánh niệm về tư thế của thân. Khi
cầm một cái ly thì ta biết rằng ta đang cầm một cái ly. Khi đặt ly xuống thì ta
biết rằng ta đang đặt cái ly xuống. Chánh niệm soi sáng các động tác của thân
thể ta. Khi đánh răng, ta biết rằng ta đang đánh răng.
Chúng ta phải học
Kinh Thân Hành Niệm, nhưng các ý chính của Kinh Thân Hành Niệm cũng có ở trong
Kinh Niệm Xứ. Thành ra học Kinh Niệm Xứ cũng như học Kinh Thân Hành Niệm. Kinh
Niệm Xứ là Kinh mà chúng ta không thể không học được, vì Kinh này vào thời của
Bụt các thầy và các sư cô đều học thuộc lòng. Mỗi khi có một người sắp lìa đời,
thường thường người ta đọc Kinh này. Đến bây giờ trong truyền thống Nam Tông,
các thầy phần lớn cũng còn thuộc Kinh Niệm Xứ.
Kinh Niệm Xứ nằm
trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya, kinh số 10), và cũng có trong Hán Tạng.
Tên Pali của Kinh là Satipatthana sutta. Sati tức là niệm. Đây là sách gối đầu giường,
đây là một bảo vật. Tu theo đạo Bụt mà không biết Kinh này, không học Kinh này,
thì không ổn. Giống như người nông phu mà không nhận ra hạt giống hay là không
biết cày bừa vậy. Kinh này tôi đã phiên dịch và chú giải, được xuất bản bằng
nhiều thứ tiếng. Tiếng Anh mang tựa đề là Transformation and healing, còn tiếng
Việt mang tựa đề là Con Đường Chuyển Hóa. Kinh Niệm Xứ dạy cho chúng ta thực tập
quán niệm về thân thể, thực tập chánh niệm về cảm thọ, về tâm hành và về các
pháp. Và trong thiền môn, Kinh Niệm Xứ ít nhất phải được tụng mỗi tuần một lần.
Song song với Kinh Niệm
Xứ là một Kinh khác, tôi nghĩ, không kém phần quan trọng. Đó là Kinh An Ban Thủ
Ý, tức là Kinh Quán Niệm Hơi Thở. Kinh này xuất hiện ở Việt Nam chậm nhất là
vào đầu thế kỷ thứ ba. Thiền sư Tăng Hội, gốc người Khương Cư nhưng sinh ở Việt
Nam, xuất gia ở Việt Nam, học tiếng PHạn và tiếng Hán ở Việt Nam, đã viết tựa
cho Kinh An Ban Thủ Ý vào nửa đầu thế kỷ thứ ba, trước khi Ngài đi sang Đông
Ngô để truyền bá đạo thiền. Thiền sư Tăng Hội sống trước tổ Bồ Đề Đạt Ma tới
300 năm. Ngài là sơ tổ của thiền tông Việt Nam. Bài tựa Kinh An Ban Thủ Ý của
thầy Tăng Hội vẫn còn trong Hán Tạng. Nhờ bài tựa đó nên chúng ta biết rằng thầy
Tăng Hội đã tu học và chứng đạt ở Việt Nam, rồi sau mới sang Trung Hoa hoằng
pháp. Ngôi chùa đầu tiên thầy lập ra ở kinh đô nước Ngô gọi là Chùa Kiến Sơ. Sơ
tức là đầu tiên. Kiến sơ là đầu tiên được thành lập. Vai trò của thầy Tăng Hội
trong đạo Bụt Trung Hoa rất lớn.
An ban, phiên âm từ
tiếng Phạn anapana, là hơi thở ra và hơi thở vào. Còn thủ ý là nắm lấy tâm ý của
mình. Hai chữ thủ ý ngày xưa dùng để dịch chữ niệm. Tên kinh này có nghĩa là
‘‘thực tập chánh niệm về sự thở ra, thở vào.’’ Kinh An Ban Thủ Ý dịch cho sát
nghĩa là Nhập Tức Xuất Tức Niệm Kinh, tức là Kinh quán niệm về hơi thở vào và
hơi thở ra, chữ tức nghĩa là hơi thở. Bây giờ chúng ta dịch là Kinh Quán Niệm
Hơi Thở. Kinh An Ban Thủ Ý tôi đã dịch ra tiếng Việt và đã chú giải rất kỹ lưỡng.
Ngày tôi tìm được Kinh An Ban Thủ Ý, tôi mừng như người tìm được kho vàng. Ta
phải biết rằng ta may mắn lắm, có nhiều phước đức lắm mới gặp được những Kinh
như vậy. Và nhất là khi bản dịch và chú giải đã được in và đưa tới cho mình mà
không biết sử dụng thì thật giống như con nhà giàu mà còn chịu nhịn đói.
Cùng với hai Kinh này
còn có một cái Kinh rất gần, gọi là Kinh Người Biết Sống Một Mình
(Bhaddekaratta sutra). Có bản dịch là Kinh Nhất Dạ Hiền Giả, nhưng dịch như vậy
là sai. Nhất dạ là một đêm, Vị hiền giả một đêm. Biết sống một mình nghĩa là biết
nuôi dưỡng chánh niệm, không tự đánh mất mình. Kinh này có nhiều bản lắm, có tới
năm, sáu bản cùng một ý. Trong Trung Bộ cũng như là trong Trung A Hàm, mỗi bộ
có bốn hoặc năm Kinh nói về chủ đề này, tức là chủ đề biết sống một mình.
Kinh Người Biết Sống Một Mình
Sống một mình là sống
trong chánh niệm. Có những người không thể sống một mình, có những người chỉ có
thể sống khi dựa vào người khác, vật khác. Người khác ở đây có thể là phim chưởng,
có thể là tiểu thuyết, có thể là tivi. Nếu không có một đối tượng bên ngoài nào
dẫn dắt thì người ấy không thể sống được, nếu ở không thì chắc chết, cho nên
người ấy phải cầm điện thoại lên để nói, nói với bất cứ ai, bất cứ chuyện gì.
Hoặc nếu không gọi điện thoại cho ai được thì phải mở truyền hình ra xem. Nếu
trong truyền hình không có gì để xem thì phải đi kiếm một tờ báo. Nếu không có
báo thì đi tìm một cuốn tiểu thuyết. Luôn luôn phải có cái gì đó để giúp cho
mình đứng vững. Nếu không thì ngã lặn ra, không sống nổi.
Biết sống một mình
(ekavihari) nghĩa là sống mà không cần đến những thứ trên. Tự mình đã có đủ niềm
vui, có đủ sự sống. Trong các Kinh ấy, Bụt dạy: Đi vào trong rừng mà sống, xa
cách xã hội, không có ai ở chung với mình, cái đó chưa phải là sống một mình
đích thực. Nếu ở trong rừng mà vẫn nghĩ vọng về quá khứ, vẫn mơ mộng hay lo lắng
tới tương lai, như thế Bụt gọi là sống hai mình (sadutiyavihari). Chữ này là chữ
của Ngài. Dẫu anh ở trong rừng không có bóng người mà không an trú được trong
hiện tại thì anh vẫn sống hai mình như thường. Còn nếu anh đi vào trong chợ mà
có chánh niệm, biết được những gì xảy ra trong giây phút hiện tại, tinh lực của
chánh niệm đang tỏa sáng và cho anh biết anh đang đi, đang đứng, đang nói, đang
cười, lúc đó là anh sống một mình. Đây là một Kinh rất quan trọng. Kinh Người
Biết Sống Một Mình là văn kiện cổ nhất của nhân loại nói về nghệ thuật sống
trong giây phút hiện tại. Kinh này đã được dịch và chú giải. Trong Kinh có bài
kệ rất nổi tiếng:
Đừng tưởng nhớ quá khứ,
Đừng lo lắng tương lai. Quá khứ đã không còn, Tương lai thì chưa tới. Hãy quán
chiếu sự sống Trong giờ phút hiện tại. Kẻ thức giả an trú, Vững chãi và thảnh
thơi. Hãy tinh tiến hôm nay, Kẻo ngày mai không kịp; Cái chết đến bất ngờ,
Không thể nào mặc cả. Người nào biết an trú Đêm ngày trong chánh niệm, Thì Như
Lai gọi là: Người biết sống một mình.
Đó là một bài thơ của
Bụt. Bài này được lặp đi lặp lại nhiều lần ở trong những Kinh có chủ đề Biết Sống
Một Mình. Có Kinh lặp lại bài kệ đó tới hai lần, có Kinh một lần. Có khi đọc
bài kệ xong, Bụt đi vào ngồi thiền. Các thầy chưa hiểu, đi tìm một thầy khác để
hỏi. Có khi đọc xong rồi Bụt giảng giải. Như vậy, ngày xưa Bụt cũng đã dùng thi
ca để mà giảng dạy đạo lý.
Bài 11B. Chánh Niệm Là Tự Làm Chủ
Quán Niệm Thân Trong Thân
Khi thực tập chánh niệm
về thân, chúng ta biết những gì đang xảy ra trong thân thể. Chúng ta nhận diện
những bộ phận của thân thể chúng ta. Chúng ta nhận diện những tư thế và những động
tác của thân thể ta: đi, đứng, nằm, ngồi, cúi đầu xuống, co tay lên, lau nhà, rửa
chén… Và tiếp đến chúng ta nhận diện những yếu tố tạo thành ra thân thể ta như
chất đặc, chất lỏng, hơi nóng và không khí, gọi là tứ đại (maha bhuta): đất, nước,
lửa, gió. Tôi đang thở vào và nhận diện yếu tố đất ở trong tôi. Thở vào như vậy,
ta nhận ra yếu tố đất trong ta. Đất này không phải là đất bám ngoài da khi chưa
đi tắm đâu. Đất nằm ngay ở trong máu, trong tim, trong óc. Sau này ta sẽ nhận
diện yếu tố đất bên ngoài đang nuôi dưỡng ta, để thấy ta không phải chỉ ở bên
trong, ta còn ở bên ngoài. Từ đó ta sẽ đi tới cái thấy về tính chất bất sinh và
bất diệt. Tôi đang thở vào và thấy yếu tố đất trong tôi, tôi đang thở ra và cười
với yếu tố đất trong tôi. Tôi đang thở vào và nhận diện yếu tố lửa trong tôi. Nếu
không có sức nóng thì làm gì có sự sống? Ta phải thấy được sức nóng ở trong ta,
rồi thấy năng lượng mặt trời ở ngoài đang nuôi dưỡng ta. Tôi đang thở ra và tiếp
xúc với yếu tố nước ở trong tôi. Trong thân thể ta, ít nhất bảy mươi phần trăm
trọng lượng là nước. Sau này, ta sẽ nhận diện sự có mặt của yếu tố nước ngoài
thân thể, để thấy rằng ta thật không phải ở trong cũng không phải ở ngoài. Rồi
đến không khí. Tất cả những thực tập đó đều thuộc về lĩnh vực mà trong Kinh dạy
là quán niệm thân thể trong thân thể (the contemplation of the body in the
body).
Quán niệm ở đây không
có nghĩa là nhìn ngắm với tư cách một quan sát viên, mà phải đặt mình vào trong
đối tượng quán chiếu. Người quán niệm với đối tượng quán niệm là một. Nếu ta
đóng vai một quan sát viên thì sự quán sát vẫn có tính cách nhị nguyên, tức là
có sự tách rời giữa người quán sát và vật được quán sát. Thực tập theo Kinh Niệm
Xứ, ta phải quán chiếu như thế nào để ta với đối tượng quán chiếu trở thành một.
Cho nên Kinh nhấn mạnh là quán niệm thân thể trong thân thể. Chúng ta tưởng tượng:
có một anh đi xin việc. Người chủ hãng ngước nhìn anh từ đầu tới chân, đánh
giá. Con mắt nhìn đánh giá đó có tính cách nhị nguyên. Ông chủ hãng và anh xin
việc hoàn toàn khác biệt. Nhưng ta cũng có thể có một cách nhìn khác. Ta nhìn
người ấy, tự đặt ta vào người ấy. Ông chủ biết rằng người xin việc đang run. Một
tiếng ‘‘có’’ hay ‘‘không’’ của ông có thể quyết định số phận của người ấy. Nếu
ta đặt ta vào hoàn cảnh của anh, của gia đình anh, của tâm tư anh, thì ta mới
hiểu được anh. Cách thứ hai này chính là cách Bụt dạy quán chiếu. Khi quán chiếu,
ta đừng dùng cái trí năng, cái intellect của ta, đừng đứng ngoài đối tượng của
sự quán chiếu. Quán chiếu như thế nào để chủ thể và đối tượng trở thành một thì
mới đúng là quán chiếu theo tinh thần đạo Bụt. Đó gọi là vô phân biệt trí. Tiếng
Pháp có động từ comprendre, tức là hiểu. Động từ đó gồm tiếp đầu ngữ com và động
từ prendre. Prendre tức là cầm lấy. Com tức là trở thành một với cái đó. Khi hiểu
một người nào thì mình phải trở thành một với người đó, như vậy mới thật sự là
hiểu. Đó là tinh thần quán chiếu của đạo Bụt.
Quán niệm thân thể
trong thân thể, quán niệm cảm thọ trong cảm thọ, quán niệm tâm hành trong tâm
hành. Luôn luôn Bụt lặp đi lặp lại như vậy. Có lần tôi đặt câu hỏi: ‘‘Tại sao
phải lặp lại quán niệm thân thể trong thân thể?’’ Một vị Phật tử trả lời: ‘‘Như
vậy để người nghe chú ý rằng đây là thân thể chứ không phải là tâm hành hay là
cảm thọ.’’ Nói vậy là không hiểu ý Bụt. Theo phương pháp đạo Bụt, câu trên phải
được hiểu là trong khi quán niệm ta phải xóa bỏ ranh giới giữa chủ thể và đối
tượng.
Trong phần quán niệm
thân thể trong thân thể, Bụt dạy đến việc theo dõi hơi thở. Hơi thở thuộc về
lĩnh vực của thân, vì hơi thở liên hệ tới phổi, tới những bắp thịt của hoành
cách mô. Nhưng hơi thở còn là một cây cầu bắc từ thân sang tâm. Vì vậy, theo
dõi hơi thở giúp ta phát khởi và duy trì chánh niệm một cách kỳ diệu. Người tu
học không nắm vững phương pháp quán niệm hơi thở thì rất khó thành công. Trong
khi quán niệm về thân thể, về các bộ phận, các tư thế, các động tác và về tứ đại
trong thân thể, nếu biết sử dụng hơi thở có ý thức, ta sẽ thành công gấp trăm,
gấp ngàn lần. Hơi thở có ý thức (la respiration consciente) giúp ta duy trì đối
tượng đang quán chiếu, và nuôi dưỡng chánh niệm, không để cho tan loãng.
Hơi thở có thể là đối
tượng đơn thuần của chánh niệm, hoặc cùng đi đôi với một đối tượng khác. Tôi
đang thở vào và tôi biết tôi đang thở vào; tôi đang thở ra và tôi biết tôi đang
thở ra. Tôi đang thở vào một hơi dài và tôi biết tôi đang thở vào một hơi dài;
tôi đang thở ra một hơi dài và tôi biết tôi đang thở ra một hơi dài. Tôi đang
thở vào một hơi ngắn và tôi biết tôi đang thở vào một hơi ngắn; tôi đang thở ra
một hơi ngắn và tôi biết tôi đang thở ra một hơi ngắn. Đó là nhận diện hơi thở,
biết được chiều dài ngắn của hơi thở. Trong trường hợp này, hơi thở là đối tượng
đơn thuần của chánh niệm, gọi là hơi thở chánh niệm (mindfulness of breathing).
Chúng ta nên nhớ chánh niệm luôn luôn là chánh niệm về một cái gì (mindfulness
is always mindfulness of something). Không thể có chánh niệm mà không có đối tượng.
Điều này cũng áp dụng
với tất cả các tâm hành. Niệm là một trong năm mươi mốt tâm hành. Dùng tâm hành
chánh niệm ta quán chiếu các tâm hành khác. Tôi đang thở vào và làm an tịnh sự
vận hành của thân thể tôi; tôi đang thở ra và làm an tịnh sự vận hành của thân
thể tôi. (Breathing in, I calm the activity of my body. Breathing out, I calm
my body). Trong trường hợp này, đối tượng của chánh niệm vừa là hơi thở vừa là
tình trạng của thân thể. Đối tượng chánh niệm không còn thuần là hơi thở nữa.
Những vận hành của thân thể gọi là thân hành. Dùng hơi thở để làm cho thân thể
mình yên tịnh lại, đó gọi là an tịnh thân hành. Đối tượng chánh niệm ở đây tuy
là hơi thở nhưng hơi thở đó chuyên chở cảm thọ về thân thể, giúp cho thân thể
êm dịu lại.
Thân thể ta đôi khi bất
an như trong trạng thái gọi là trạo cử, một trong 51 tâm hành. Trạo cử tức là
chộn rộn, muốn múa máy, muốn cựa quậy, cả thân lẫn tâm, đứng không yên, ngồi
không yên, như trên đống lửa. Thân và tâm đều như đang bốc cháy, ta muốn đứng dậy,
muốn nhảy, muốn làm một cái gì. Tâm hành đó gọi là trạo cử. Tâm có thể bị trạo
cử, và thân cũng vậy. Những lúc có trạo cử ta phải dùng phương pháp quán niệm
hơi thở để làm cho thân tâm an tịnh lại. Theo kinh nghiệm của thiền môn, mỗi
khi tâm hay thân bị trạo cử thì người ngồi thiền tập trung ý niệm vào nơi rốn.
Vừa thở và vừa chú ý tới bụng mình đang lên xuống theo. Tôi đang thở vào và biết
rằng bụng tôi đang phình ra, tôi đang thở ra và biết rằng bụng tôi đang xẹp xuống.
Tôi đang thở vào và làm cho thân tôi an tịnh, tôi đang thở ra và làm cho thân
tôi an tịnh. Khi ta chú ý vào huyệt đan điền nơi bụng thì máu sẽ dồn xuống đó,
và trên đầu sẽ bớt nóng. Thân và tâm ta sẽ bớt lăng xăng. Những lúc buồn ngủ,
ta lâm vào trạng thái hôn trầm (sleepiness). Khi bị hôn trầm thì ta làm ngược lại,
nghĩa là đem sự chú ý của mình lên trên chóp mũi. Thở vào, ý thức rằng hơi thở
đang đi vào cơ thể mình qua lỗ mũi. Thở ra, ý thức rằng hơi thở đang từ hai lỗ
mũi đi ra. Làm như vậy máu sẽ dồn lên phía trên, sau một vài phút ta sẽ thấy tỉnh
táo hơn. Đó là phương pháp các thầy từng sử dụng ở chùa lâu nay. Nếu ngồi thiền
một mình thì ta có thể đứng dậy, đi kinh hành. Còn nếu ngồi thiền với đại
chúng, sợ đứng dậy sẽ làm động chúng, ta nên thực tập theo cách thức trạo cử đi
xuống, hôn trầm đi lên.
Rửa Chén Hay Chép Kinh Trong Chánh Niệm
Kỳ trước chúng ta đã
nói tới như lý tác ý. Như lý tác ý là để ý tới những đối tượng có thể giúp ta
đi về hướng chánh niệm, đi về hướng hiểu biết và thương yêu. Ví dụ khi nghe tiếng
chuông, ta nhớ trở về với hơi thở chánh niệm và mỉm cười. Tiếng chuông trở
thành một yếu tố giúp chúng ta thực tập như lý tác ý. Còn nếu chú ý tới một
hình ảnh hay một âm thanh có công dụng kéo ta đi về quá khứ, đưa ta bập bềnh
trên biển tương lai, hay khiến ta bị giam hãm trong những tâm trạng buồn khổ,
lo phiền, thì đó gọi là phi như lý tác ý.
Sống ở trong một tăng
thân, ta phải tạo cho mình và mọi người những cơ hội để được thức tỉnh, để ai nấy
có thêm những giây phút như lý tác ý. Khi bước vào bếp thấy anh rửa bát, tôi hỏi:
‘‘Anh đang làm gì đó?’’ Đó là một phương cách giúp anh như lý tác ý. Nếu anh chỉ
biết trả lời: ‘‘Thưa thầy, con đang rửa bát.’’ thì anh còn dở quá đi! Tôi hỏi
như vậy với mục đích là giúp anh trở về với hơi thở, để anh thấy được rửa chén
trong chánh niệm là một động tác mầu nhiệm. Nếu ta rửa chén với chánh niệm và nụ
cười thì việc rửa chén trở nên một niềm vui. Còn nếu ta đang rửa chén với sự bực
bội: ‘‘Tại sao người ta đi ngủ hết rồi mà mình còn đứng đây?’’ thì anh đang ở địa
ngục. Câu hỏi của tôi giúp anh thực tập như lý tác ý, trở về với chánh niệm, với
tịnh độ. Còn nếu tôi không có đó thì anh phải tự hỏi mình. Nếu anh tự thấy đang
thất niệm, đang lẩn quẩn trong nỗi buồn bực vì nghĩ rằng mình rửa bát mà người
khác đang ngủ, thì anh phải trở về hơi thở. Hơi bực dọc một chút thì anh tự hỏi:
‘‘Ta đang làm gì đây?’’ Đang rửa bát mà đầu ta suy nghĩ từ chuyện này đến chuyện
khác cũng vậy. Đó không phải là như lý tác ý. Thực tập chánh niệm là khi rửa
bát ta chỉ rửa bát mà thôi. Phải rửa bát như là ta đang ở trong tịnh độ. Rửa
bát với hơi thở và với nụ cười thì cũng giống như ta đang tắm cho một đức Bụt
sơ sinh.
Cho nên lúc nhận ra
là ta đang rửa chén vội vàng, ta chỉ muốn làm cho xong, thì ta phải như lý tác
ý. Ta nói: ‘‘Mình đang làm gì đây?’’ Nếu sư chú không thực tập được như vậy thì
uổng cả cuộc đời tu! Dầu sư chú có rửa được sáu, bảy ngàn cái chén mỗi ngày thì
công đức của sư chú cũng chỉ bằng hạt cát. Cho nên khi vua Lương Vũ Đế hỏi thầy
Bồ Đề Đạt Ma: ‘‘Lâu nay tôi làm được bao nhiêu chùa, tô bao nhiêu tượng, vậy
tôi có công đức không?’’ Thầy Bồ Đề Đạt Ma nói : ‘‘Không có công đức gì hết’’.
Nếu sư chú hay sư cô làm việc quần quật suốt ngày, nghĩ rằng đang đem hết thân
mạng của mình để phụng sự Tam Bảo, nhưng trong khi làm việc sư chú và sư cô làm
không có chánh niệm và an lạc, thì công đức của sư chú và của sư cô cũng rất
ít! Quý vị cũng vậy, quý vị có thể là y tá, là bác sĩ, là người bảo vệ sinh
môi. Nếu quý vị làm quần quật suốt cả đời, nghĩ rằng mình đang cứu vớt nhân loại,
mình đang bảo vệ trái đất, nhưng quý vị không sống đích thực, sống không chánh
niệm, thì quý vị cũng bị thầy Bồ Đề Đạt ma sổ toẹt thôi. Điều quan trọng là
trong giây phút hiện tại ta có sống hay không? Giây phút đó có hạnh phúc, có an
lạc, có ánh sáng của Bụt chiếu tới, hay không?. ánh sáng của Bụt ở đây là chánh
niệm. Mỗi khi có chánh niệm là ta có ánh sáng ấy. Ta không cần phải trở lui hai
ngàn sáu trăm năm trước để gặp Bụt mới có ánh sáng đó. Ta có thể tiếp xúc với Bụt
trong bất cứ giây phút nào, tại vì chánh niệm là Bụt, là giác ngộ.
Chánh niệm nhiều khi
được tạo ra từ thất niệm. Cũng như hoa sen sinh ra tự trong bùn. Muốn có chánh
niệm, muốn nuôi dưỡng chánh niệm, ta có thể sử dụng ngay những chất liệu phiền
não. Những đau buồn và sầu hận của ta, cũng như tất cả những rác rến khác ở
trong ta, nếu biết cách ta có thể ủ chúng làm phân bón. Từ phân bón đó có thể
sinh ra những bông hoa chánh niệm rất tươi đẹp. Đó là Bụt ở trong tự thân của
chúng ta.
Cho nên khẩu quyết
đưa ra rất đơn giản: ‘‘Ta đang làm gì đây?’’ là một tiếng chuông chánh niệm rất
lớn. Ta đang phung phí đời ta vào việc gì vậy? Ngay trong lúc ta chép kinh hay
tụng kinh cũng vậy nữa. Có khi ta chép kinh và tụng kinh trong thất niệm, đó
cũng là làm phí cuộc đời. Đừng tưởng chép kinh thì tự nhiên có công đức. Chép
kinh không chánh niệm thì công đức là số không.
Hiện Pháp Lạc Trú
Câu hỏi: ‘‘Ta đang
làm gì đây?’’ là tiếng chuông chánh niệm đầu. Câu hỏi tiếp theo: ‘‘Ta làm việc
này để làm gì?’’ Rửa bát không phải chỉ là để có bát sạch mà ăn cơm. Nếu quả
như vậy thì công đức rửa chén còn nhỏ lắm. Rửa nồi mà chỉ để cho có cái nồi sạch
thì công đức cũng nhỏ. Nhưng nếu ta biết chùi nồi trong chánh niệm, chùi nồi
như đang ngồi ở cõi tịnh độ nâng niu một đóa hoa sen thì công đức ta sẽ vô lượng.
Hai câu hỏi trên giúp ta an trú trong hiện tại. Tuy rằng công việc ta làm có thể
chậm hơn một chút, nhưng ta trở nên thư thái và có hạnh phúc ngay trong khi làm
việc. Những điều này rất cụ thể, đơn giản, rất thực tế, nếu đem ra thực hành sẽ
thấy.
Đôi khi ta nghĩ ta chỉ
muốn làm những việc rất quan trọng, như thuyết pháp, chép kinh, dịch kinh.
Nhưng nếu ta không sống an lạc và thoải mái trong những giây phút ấy thì công đức
vẫn không có gì.
Tu tức là một cuộc trở
về. Xuất gia là sự trở về nhưng xuất gia chưa phải là tu. Cách đây năm năm, có
một ông ở Xóm Thượng hỏi: ‘‘Đi tu có dễ không?’’ Tôi nói: ‘‘Đi tu thì dễ, chỉ
tu mới khó.’’ Thì đi tu nghĩa là phát nguyện trở về. Và con đường về có đèo, có
suối, ta phải leo, phải vượt. Tuy rằng đường có đèo, có núi, phải leo phải vượt,
nhưng ta vẫn có thể có hạnh phúc. Chúng mình có thể leo núi Linh Thứu với nhau.
Mỗi bước chân đi đem tới bao nhiêu an lạc, bao nhiêu hạnh phúc. Mà leo núi Thứu
ta đâu cần phải qua tận bên Ấn Độ. Núi Thứu là đây. Đi thiền hành với nhau, những
bước chân thảnh thơi, có khả năng đưa ta về an trú trong hiện tại, thì đây là
núi Thứu. Điều quan trọng là chúng ta có ý chí, có nguyện vọng muốn trở về. Trở
về với tư cách một tăng thân thì sẽ dễ dàng hơn.
Từ khi sinh ra đến giờ, chúng ta được huấn luyện phải lo cho tương lai. Mới có ba, bốn tuổi mà đã bắt đầu phải lo cho ngày mai, cái đó đâu chắc đã là hay. Khi mải miết làm việc này hay việc kia, ta bị cái tập khí ‘‘lo cho hạnh phúc ngày mai’’ điều khiển. Và đó là một chướng ngại rất lớn cho sự tu học và cho sự an lạc của mình. Làm cái gì cũng là để xây dựng cho ngày mai hết, còn hôm nay chỉ đáng để hy sinh thôi. Nhan nhản xung quanh ta biết bao nhiêu người dạy ta phải hy sinh hiện tại cho tương lai, ‘‘Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.’’
Câu thơ ‘‘Vui trong
tham dục, vui rồi khổ. Khổ để tu hành, khổ ấy vui’’ ngụ ý tu hành thì phải khổ.
Tại sao tu hành phải khổ? Bụt dạy rằng: ‘‘Pháp của ta là an lạc trong hiện tại
và an lạc trong tương lai.’’ Vì vậy châm ngôn của đạo Bụt là hiện pháp lạc trú.
Hiện pháp lạc trú (drstàdharmasu Khavihara) nghĩa là an trú hạnh phúc ngay
trong hiện tại. Hiện pháp, drstadharma, tức là bây giờ, ở đây. Nếu chúng ta đày
đọa thân tâm trong khi tu học là chúng ta đi ngược lại lời Bụt dạy. Chúng ta phải
cố gắng để thực hiện phương châm tu học đích thực của đạo Bụt cho chúng ta và
cho những người xung quanh. Đó là hiện pháp lạc trú.
Quét nhà, gánh nước,
nấu cơm, rửa nồi, ta phải tổ chức như thế nào, phải sắp đặt như thế nào để có
thể làm được những công tác đó một cách thoải mái, không gấp gáp. Và khi đầu óc
ta miên man lo lắng về những gì phải làm ngày mai, những lúc chúng ta đang có
trạo cử, chúng ta nên thực tập như lý tác ý. Phải lập tức nhớ bài kệ để thực tập.
Đã về, đã tới, bây giờ, ở đây. Nhà của ta là hiện pháp, là bốn lĩnh vực: thân,
thọ, tâm, pháp, trong hiện tại. Phải trở về ngay lập tức. Bước một bước ta thở
vào và ta nói: đã về. Bước một bước khác, thở ra, ta nói: đã tới. Tự nhiên bao
nhiêu phiêu lưu và rong ruổi của tâm ý đều bị cắt đứt hết. Và ta bước những bước
chân thảnh thơi trong an lạc.
Phương pháp này phải
thực tập trong khi ngồi thiền, đi thiền, trong khi ăn cơm, uống nước. Ta thực tập
trong khi làm việc, trong khi ngồi với thầy, với bạn. Và ta thấy rõ ta có khả
năng an trú trong hiện tại. Khả năng sống hạnh phúc trong hiện tại (the
capacity to be happy in the present moment), đó là điều đáng ca ngợi nhất. Người
không có khả năng sống hạnh phúc trong hiện tại, người đó rất nghèo, rất khổ.
Chỉ những người có khả năng ngồi, đứng, đi, nằm, và mỉm cười với những gì đang
xảy ra trong hiện tại, mới là những người có hạnh phúc thực sự. Bụt là một người
như vậy. Ngài chỉ cần bước chân đi thôi, mà đi bước nào là tới bước đó. Đi mà
không cần lo tới, vì mỗi bước chân đều đưa ta tới hết. Mỗi bước chân đưa ta tới
hiện tại, đó là phép thiền hành của chúng ta. Cho nên về Làng Mai mà quý vị nếu
không thực tập thiền hành thì quý vị đâu có thực sự về Làng. Tuy nói là ở Làng
mà kỳ thực quý vị đang ở chỗ khác. Mỗi bước chân, dầu ta đi vào bếp hay đi sang
cầu tiêu, cũng phải bước đi như bước đi trên tịnh độ. Mỗi bước chân đi vào tịnh
độ, bài tụng đó để nhắc nhở ta chứ không phải là một lời cầu nguyện. Chúng ta
phải tu mà đừng nhờ Bụt tu dùm. Khi làm thị giả cho thầy, ta biết rằng cái lợi
lạc nhất là được thấy thầy làm việc này, việc kia. Nếu thầy an trú trong hiện tại,
nếu thầy có hạnh phúc trong hiện tại, thì ta cũng học được phép an trú đó.
Không phải làm thị giả để được học những điều gì khác.
Đâu Chẳng Phải Là Nhà
Đây là một bài thực tập:
Đã về
Đã tới
Bây giờ
Ở đây
Vững chãi
Thảnh thơi
Quay về
Nương tựa
Đã về, đã tới. Thở
vào một hơi, ta nói: Đã về rồi. Không cần phải làm một việc gì khác nữa. Việc
làm quan trọng nhất là sự về nhà. Mỗi bước chân đi đều có an lạc. Mỗi bước chân
đi vào tịnh độ. Cũng trên mặt đất này nhưng có người đang bước đi như bước
trong địa ngục. Còn ta đang bước trên tịnh độ vì ta đã về. Nơi nào cũng là nhà.
‘‘Đại thiên sa giới ngoại, hà xứ bất vi gia?’’ Trong tam thiên đại thiên thế giới
này, chỗ nào chẳng phải là nhà của mình? Đó là hai câu thơ của một thiền sư đời
Lý, tên là Thường Chiếu. Nếu cùng đi với đại chúng mà đi mau hơn, ta có thể
trong khi thở vào, bước hai hay ba bước (đã về, đã về, đã về), thở ra (đã tới,
đã tới, đã tới). Đi thiền hành là một niềm vui. Leo núi Thứu ta bước như vậy,
mà bước trên đồi Meyrac ở Làng Mai, ta cũng bước như vậy. Ta có thể gặp Bụt bất
cứ lúc nào nếu ta thực tập đã về, đã tới. Chỉ thực tập như vậy, cũng đủ mang lại
rất nhiều hạnh phúc rồi, chứ đừng nói là tu tập nhiều hơn.
Sau khi thực tập 5
phút hoặc 10 phút, ta có thể tập đến các câu kế tiếp: bây giờ, ở đây. Khi thở
vào, bây giờ, bây giờ; khi thở ra, ở đây, ở đây, Nhưng ta không được lặp lại những
quán ngữ ấy như một con vẹt: bây giờ, bây giờ, ở đây, ở đây. Ta phải làm sao để
cho ta thực sự an trú ở giây phút hiện tại thì đó mới là bây giờ và ở đây. Có
những người niệm Bụt mà không đủ chánh niệm. Niệm Bụt như một con vẹt thì dù có
niệm 52 vạn tiếng, công đức cũng là số không. Các câu ‘‘bây giờ và ở đây’’, nếu
lặp lại mà thiếu chánh niệm, thì chi bằng ta thâu chúng vào băng cassette để
phát ra cho dễ có công đức! Nhưng chúng ta nhất định không làm cái máy
cassette. Khi thở vào (bây giờ, bây giờ) ta thấy rất rõ ta đang an trú trong giờ
phút hiện tại. Ta an trú ở đây. Ta đang ở Làng Mai thì Làng Mai là tịnh độ. Chừng
nào ta về Úc, thì Úc là tịnh độ. Chừng nào về Houston, thì Houston là tịnh độ.
Còn bây giờ ở Làng thì Làng còn là tịnh độ của ta.
Có khi ta thực tập đã
về, đã tới, mà mới chỉ về chỉ tới được có 30 phần trăm thôi. Vì ta đang còn bị
lôi kéo bởi quá khứ và tương lai. Nhưng càng thực tập ta càng về được nhiều
hơn. Đến khi thực tập sang câu ‘‘bây giờ và ở đây’’, ta có thể đã về tới 80 hoặc
90 phần trăm, có khi 100 phần trăm. Bước chân ta đã thực hiện được sự trở về
100 phần trăm, đó là bước chân của tượng vương, của con voi chúa. Bước chân của
Bụt bước nào cũng như vậy. Mỗi bước chân đều vững chãi như bước chân tượng
vương.
Sau khi thực tập và
biết là mình đang ở đâu rồi, thì hạnh phúc tự nhiên có mặt. Ta sẽ tập tiếp ‘‘Vững
chãi, thảnh thơi’’. Đây là hai thuộc tính của niết bàn. Khi nếm được an lạc của
niết bàn thì ta có sự vững chãi, thảnh thơi. Thảnh thơi tức là không bị ràng buộc,
không làm nô lệ cho quá khứ, cho tương lai, cho sự thèm khát, giận hờn, lo lắng,
buồn phiền. Ta là con người tự do. Chỉ cần đi trong hai điều kiện này thôi là
ta có hạnh phúc tràn trề rồi. Hạnh phúc đó nuôi dưỡng ta và trị liệu những khổ
đau trong ta. Cả những khổ đau đã được truyền lại từ nhiều thế hệ tổ tiên, ta
cũng có thể chuyển hóa. Chúng ta có thể đã tiếp nhận bao nhiêu khổ đau của nhiều
thế hệ. Nhưng nếu ta biết phát khởi chánh niệm và dùng năng lượng chánh niệm để
trở về, để tiếp xúc được với những hạt giống an lạc, hạnh phúc trong bản thân
ta, thì sự vững chãi, thảnh thơi đạt được sẽ chuyển hóa và trị liệu những nỗi
khổ và niềm đau ấy.
Sự thực tập của ta là
quy y, nghĩa là quay về nương tựa. Quay về đây tức là quay về với gốc rễ của
mình. Gốc rễ Bụt, Pháp, Tăng vốn sẵn ở trong lòng ta. Ta không còn sợ hãi nữa.
Như một đợt sóng. Đợt sóng có lên có xuống, nhưng khi đợt sóng quay về với nước,
biết mình là nước rồi, thì không còn sợ hãi nữa. Quay về với bản tánh tự tâm của
mình, với chân như, với giác tính, là ta không còn sợ hãi. Lên cũng được, xuống
cũng được, sống cũng được, chết cũng được. Không có gì thêm, không có gì bớt cả.
Đó gọi là quay về nương tựa. Đây là một bài thực tập rất đơn giản cùng với nhiều
bài thực tập khác mà chúng ta phải nắm cho vững. Bài thực tập này có thể được sử
dụng trong khi ngồi thiền, trong khi đi thiền hành, trong khi làm việc, trong
khi nấu cơm, trong khi ăn cơm. Ăn cơm cho có an lạc, ngồi ăn như ngồi ở tịnh độ.
Nếu ăn cơm mà không có hạnh phúc, không có thảnh thơi thì ta đã thực tập sai. Đừng
nói: ‘‘Ăn cho mau xong để còn đi ngồi thiền.’’ Nói thế là không đúng. Tại vì ăn
cơm cũng có giá trị tương đương với ngồi thiền. Phải ăn cơm trong chánh niệm.
An lạc từng giây phút, đó là thiền. Cho nên chúng ta có thiền đi, thiền ngồi,
thiền trà, thiền ăn, thiền nói. Cái gì cũng có chất thiền. Thiền ở đây chỉ có một
nghĩa thôi, đó là sự có mặt của chánh niệm. Hễ có mặt của chánh niệm thì bất cứ
việc gì ta làm đều trở thành thiền hết. Và nếu có chánh niệm tức là ta đang ở
cõi tịnh độ, ta đang tiếp xúc với gốc rễ tâm linh của ta.
Xem Tiếp Bài 12 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá