Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Trái Tim Của Bụt
Phật Pháp Căn Bản
Bài 16. Chánh Định
Bài 16A. Chánh Định
Hôm nay là ngày 16
tháng giêng năm 1994, chúng ta ở tại Xóm Hạ, học tiếp về tứ diệu đế.
Hôm trước chúng ta đã
bắt đầu học về chánh tinh tấn và biết rằng năng lượng tinh tấn được phát sinh
là do chất liệu của niềm vui và niềm tin. Nếu thiếu niềm vui và niềm tin, nếu
ta không có hặng hái và niềm an lạc thì dù ta có cố sức đó cũng không phải là tinh
tấn. Tinh tấn không có nghĩa là cố gắng một cách mệt nhọc. Khi việc ta làm đem
lại kết quả tốt, đem lại niềm vui và niềm tin thì chánh tinh tấn sẽ đến một
cách rất tự nhiên. Nếu trong khi thiền hành và thiền tọa mà ta cảm thấy an lạc,
thì tự nhiên ta sẽ thích thiền hành và thiền tọa. Nghe chuông báo giờ thiền
hành hoặc thiền tọa thì tự nhiên trong lòng thấy phấn chấn và hân hoan. Lúc đó
là ta có chánh tinh tấn. Tôi còn nhớ hồi xuất gia ở chùa Từ Hiếu, tôi đã đi tu
với cả một bầu nhiệt huyết. Tôi đã phải tranh đấu lắm mới được gia đình cho đi
tu. Gia đình cứ nghĩ đi tu là khổ, một quan niệm sai lầm của người lớn đã trở
thành thói quen. Trong khi đó thì mình cứ nghĩ rằng chỉ có đi tu mình mới có hạnh
phúc thật sự. Thành ra khi được đi tu mình cũng giống như một con chim được
tung cánh bay lên giữa trời. Và đến giờ đi tụng kinh là tôi mừng lắm, đi tụng
kinh mà thấy giống như đi nhạc hội vậy. Tôi rất thích tụng kinh, rất thích nghe
tụng kinh và rất muốn được tụng kinh với đại chúng. Những đêm trăng từ dưới hồ
bán nguyệt nghe tiếng các thầy tụng kinh ở trên chùa mình có cảm tưởng là nghe
thiên nhạc. Những buổi sáng có trách vụ phải làm, không được đi tụng kinh, từ
xa nghe tiếng tụng Lặng Nghiêm vọng xuống, trong lòng thích thú vô cùng. Những
giờ được vào lớp nghe giảng cũng vậy, giờ ngồi thiền hay khóa tịnh độ cũng vậy.
Tôi đã đi tu trong không khí đó. Khi trong tăng thân mình đã có tình bạn rồi
thì tất cả đều hặng hái trong chuyện tu học.
Nếu trong lúc tham dự
mỗi sinh hoạt ta đều hăng hái, tin tưởng và có niềm vui thì đó là ta đang có
chánh tinh tấn. Còn khi ta vẫn thấy mệt nhọc, thấy cần phải cố gắng tham dự,
thì ta phải xét lại phép thực tập của mình xem có đúng cách hay không. Chúng ta
ngồi thiền theo cách thức nào đó, đi thiền hành theo cách thức nào đó cho nên
chúng ta mới chán. Điều này cũng tự nhiên. Vì thực tập mà không có thầy chỉ dạy,
không có bạn hướng dẫn, lại không tìm thấy những chất liệu nuôi dưỡng thân tâm
trong lúc thực tập, thì sự thực tập trở thành một sự ép buộc.
Nhiều thiếu nhi về
Làng Hồng, thấy các bạn ngồi thiền, đi thiền và ăn cơm im lặng thì cũng làm
theo. Vì người ta làm nên mình cũng phải làm theo thôi, chứ mình không thích
thú gì cả. Đi theo, tuy không thích, nhưng có bạn còn dễ chịu hơn là ra ngoài
chơi một mình. Tình trạng đó có thể kéo dài cả năm, hai hoặc ba năm. Cho đến
ngày nào đó em lớn lên, thấy thiền hành, thiền tọa và ăn cơm im lặng đều mang lại
cho em niềm an lạc, và hạnh phúc. Lúc đó em mới bắt đầu tu thật. Nhiều thiếu
nhi đã nói thật cho sư ông biết là trong những năm đầu các em chỉ làm cho có
hình thức thôi, thấy các bạn làm thì làm theo, chứ không thấy có thích thú nào.
Cháu Thục Hiền đến Làng Mai năm tám tuổi, rất ngoan ngoãn tham dự các sinh hoạt,
nhưng chỉ làm theo hình thức. Bây giờ Thục Hiền đã lớn, cô ta mới cảm thấy sự
thực tập là thiết yếu. Khi lo âu, buồn khổ hoặc bực bội cô ta mới biết rằng những
phương pháp thực tập đó tháo gỡ được những nỗi lo buồn và đem lại thảnh thơi
cho mình. Lúc đó cô ta mới biết quý sự thực tập. Kinh nghiệm đau khổ của chúng
ta nhiều khi giúp chúng ta tới gần sự thật hơn. Những lúc đó ta mới thấy sự
quan trọng của những bài tập nho nhỏ như quay về nương tựa hải đảo tự thân. Nếu
ta thấy chán nản, không có năng lượng tinh tấn, đó là vì hoặc chưa nắm được
phương pháp thực tập đúng, hoặc chưa có nhu yếu tu tập. Lý do khác là chúng ta
không thực sự thích thú trong việc tu tập, hay mới chỉ thực tập hời hợt, chưa
có cơ hội tự chuyển hóa thực sự.
Đây là bài thi kệ đầu
tiên trong cuốn Từng Bước Nở Hoa Sen :
Thức dậy miệng mỉm cười
Hăm bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt thương nhìn cuộc đời.
Bài này để đọc khi mới
thức dậy, đang còn nằm trên giường. Ngày xưa trong các tự viện có một bài khác
bằng chữ Hán:
Thùy miên thỉ ngộ,
Đương nguyện chúng sanh,
Nhất thiết trí giác,
Châu cố thập phương.
Nghĩa là:
Ngủ nghỉ mới dậy
Nên nguyện chúng sanh
Tất cả trí giác
Đoái khắp mười phương
Bài mới bằng tiếng Việt
giàu chất liệu Phật pháp, tươi mát và thực tế hơn. Thức dậy miệng mỉm cười, vì
ta thấy hăm bốn giờ mới tinh khôi là một món quà rất lớn trong đời sống. Thường
thường ta không thấy một ngày của đời mình là châu báu, và cứ để cho hăm bốn giờ
đi qua uổng phí. Thức dậy miệng mỉm cười, hăm bốn giờ tinh khôi. Nụ cười đó đã
là nụ cười của giác ngộ. Thấy hăm bốn giờ đồng hồ là một tăng thân lớn ta trân
quý từng giây phút một. Hăm bốn giờ đó hư uổng hay hăm bốn giờ mầu nhiệm, điều
này tùy thuộc vào chính ta. Nếu để những lo âu, phiền giận và ganh ghét làm hư
hỏng hăm bốn giờ đồng hồ, đó là mình tự tàn phá cuộc đời mình, chứ không phải
là ai khác. Xin nguyện sống trọn vẹn, là lời nguyện không làm hư uổng hăm bốn
giờ đồng hồ này. Mắt thương nhìn cuộc đời là năm chữ trong Kinh Pháp Hoa: từ
nhãn thị chúng sinh. Nếu lấy con mắt của tình thương nhìn cuộc đời thì tự nhiên
lòng thư thái, có hạnh phúc, và trong cái nhìn sẽ không còn có sự khắt khe và
giận hờn nữa.
Buổi sáng thực tập
bài kệ đó ta làm cho thế giới tươi sáng lên. Rồi trong mỗi giây phút, khi rửa
chén, quét nhà, đi thiền hành, ngồi thiền tọa, ta đều hớn hở như mới bắt được
vàng ròng của sự sống. Những người xuất gia được cơ hội gần gũi thầy, gần gũi bạn,
thì luôn luôn có điều kiện hạnh phúc hơn những người không xuất gia. Người
không xuất gia bị các gánh nặng của gia đình và xã hội đè nặng trên vai, không
có nhiều cơ hội bằng. Cho nên người xuất gia phải thể hiện hạnh phúc để tạo hứng
khởi cho người tại gia. Nếu người xuất gia không thấy hạnh phúc thì không gây
được cảm hứng và niềm tin cho người tại gia. Trong bài văn Cảnh Sách của thiền
sư Quy Sơn Đại Viên, có câu: thời quang yếm một, tuế nguyệt ta đà, nghĩa là thời
gian đi qua rất mau, ngày tháng như tên bắn, và nếu sống hời hợt thì ta sẽ đánh
mất cuộc đời của chính mình, rất uổng.
Tóm lại, tu tập là tạo
an vui, mà tu tập càng an vui thì càng thấy phấn khởi, đó là chánh tinh tấn.
Chánh Định
Sau chánh tinh tấn,
chúng ta nói tới chánh định. Năng lượng chánh định đã có mặt sẵn trong chánh niệm,
chánh tinh tấn, chánh nghiệp và chánh ngữ. Chúng ta biết rằng chánh kiến là hoa
trái của chánh định, vì nếu không có định thì sẽ không có tuệ. Tuệ ở đây không
phải một chuyện xa vời. Trong khi ăn cơm chẳng hạn, chúng ta cũng có thể có định
và có tuệ Một trăm người ngồi trong thiền đường cùng ăn cơm với nhau. Có người
ăn cơm với định và có người không. Tất cả đều ngồi đó, nhưng có thể có người
đang ngồi như một cái xác không hồn, họ không thật sự có mặt trong bữa cơm. Họ
vắng mặt, vì những tâm hành trong họ đang kéo họ về nẻo khác. Chúng kéo ta về
quá khứ, tới tương lai, kéo sang châu Mỹ, kéo sang châu Úc…
Lúc mở đầu bữa ăn,
nghe tiếng chuông ta trở về với hơi thở. Ngồi trên tọa cụ nếu ta biết rằng ta
đang ngồi với đại chúng, thì lập tức ta có chánh niệm và chánh định liền. Nghe
người bạn tu đọc lời quán nguyện đầu của năm quán: thức ăn này là tặng phẩm của
đất trời và công phu lao tác, nếu chánh niệm và chánh định của ta vững thì ta
có thể có liền chánh kiến nghĩa là có tuệ giác. ‘‘Thức ăn này là tặng phẩm của
đất trời và công phu lao tác.’’ Ta thấy rõ tính tương quan, tương duyên giữa
mình với tăng thân, mình và thế giới. Ta thấy ta sống bằng thức ăn, mà thức ăn ấy
là do mặt đất, bầu trời, do công phu lao tác của nhiều người. Tự nhiên những
tình cảm thân thiết, biết ơn, hân hoan khởi lên. Đó là tuệ giác phát sinh từ niệm
và định. Xin nguyện sống xứng đáng để thọ nhận thức ăn này. Muốn xứng đáng ta
chỉ cần ăn thức ăn này trong chánh niệm. Ăn trong thất niệm, nghĩa là trong
quên lãng, là vô ơn với đất trời, với công phu lao tác. Xin nhớ ngăn ngừa những
tật xấu trước hết là tật tham ăn. Bụt dạy nhiều lần về tính chừng mực khi ăn uống.
Tham là một trong những tâm sở bất thiện, cùng với, sân, si, mạn, nghi và kiến.
Trong khi ta ăn cơm, ta dặn lòng đừng để những tâm niệm lầm lỗi đó trấn ngự,
thì ta đã xứng đáng để được ăn bát cơm này. Chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng
nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh. Trong khi quán niệm về điều thứ tư này, ta biết
Bụt dạy ta cẩn thận về ăn uống và tiêu thụ. Ngài dạy về bốn loại thức ăn. Có những
thức ăn đem lại độc tố, đem lại sinh, tử, luân hồi. Và có những thức ăn mang lại
khỏe mạnh, niềm vui và giải thoát.
Năm điều quán nguyện
(ngũ quán) đọc trước khi ăn có mục đích giúp ta an trú trong chánh niệm, chánh
định và chánh kiến. Vì muốn thành tựu đạo nghiệp nên thọ nhận thức ăn này. Đó
là hạnh của người tu. Khi ăn một miếng cơm của đàn việt, của tín thí, của đất
trời, ta biết rằng với thức ăn đó ta có thể làm nên tuệ giác, an lạc và hạnh
phúc. Như thế mới xứng đáng. Có người hỏi : ‘‘Xin nguyện sống xứng đáng để thọ
nhận thức ăn này, vậy phải làm thế nào để thực sự xứng đáng?’’ Tôi nói: ‘‘Chỉ cần
ăn trong chánh niệm thôi là đã xứng đáng rồi.’’ Vì chánh niệm đưa tới chánh định,
tức là hoa trái của sự tu học. Chỉ một điều đó thôi, nếu ta không làm được thì
còn làm được điều gì? Có chánh niệm tức là có định. Chúng ta đã biết rằng chánh
niệm trước hết là có mặt thực sự trong giờ phút hiện tại. Trong tác phẩm Lục
Súc Tranh Công có câu: ‘‘ngẩn ngơ như ốc mượn hồn’’, tả tình trạng đang ở đây
và trong giờ phút này mà không thực sự có mặt. Chánh Niệm trước hết là năng lượng
làm cho ta có mặt lúc này và ở đây. Và khi có niệm rồi thì ta có định: Ta biết
mình đang ở đâu, đang làm gì và ta sống được sâu sắc giờ phút đó.
Có hai trường hợp về
Định. Thứ nhất là khi ta có mặt bây giờ và ở đây, tiếp xử với giờ phút hiện tại
một cách sáng suốt, duy trì được chánh niệm thì gọi là định. Ta không cần phải
ngồi trong tư thế kiết già mới có định. Đi, đứng, nằm, ngồi, lau chùi, dọn dẹp,
tiếp xử với người khác trong chánh niệm thì đã là định. Trường hợp thứ hai là Định
mà ta cố tâm duy trì trên một đối tượng duy nhất thôi. Đi thiền hành, ta có thể
hoàn toàn tập trung vào sự tiếp xúc giữa bàn chân với mặt đất, tập trung vào đối
tượng trái đất, thở vào là để tiếp xúc với trái đất, thở ra cũng là để tiếp xúc
với trái đất. Định có thể được thực tập trong tư thế kiết già, tâm chỉ chuyên
chú về một đối tượng trong một thời gian khá dài. Có niệm có định và có tuệ,
càng ngày ta càng sống thảnh thơi, an lạc, không vướng mắc.
Thảnh Thơi
Phong lai sơ trúc, phong khứ nhi trúc bất lưu thanh. Nhạn quá
hàn đàm, nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh. Thị cố quân tử sự lai nhi tâm thỉ hiện Sự
khứ nhi tâm tùy không.
Dịch:
Gió qua lay trúc Gió đi rồi nhưng không lưu luyến âm thanh Nhạn
lướt mặt hồ Nhạn đi mà hồ không nắm bắt hình ảnh Người quân tử cũng vậy Việc xảy
ra tâm mới tiếp xử Việc qua rồi, tâm lại thảnh thơi.
Cơn gió tới thổi qua
lay chuyển khóm trúc, gió đi mà trúc không giữ lại âm thanh. Khi gió xào xạc âm
thanh thì trúc tiếp sử với âm thanh. Nhưng khi gió đi rồi thì trúc không cần tiếc
nuối âm thanh kia nữa. Con chim nhạn bay ngang qua hồ lạnh mùa thu, nhạn qua rồi
thì hồ không cần lưu luyến hình ảnh của chim nữa. Tiếp theo hai hình ảnh trên,
thi sĩ kết luận: cho nên người quân tử, tức là hành giả, khi sự việc tới thì
tâm đón nhận, không chờ đợi, không mong muốn trước; sự việc đi thì tâm lại rảnh
rang, trống không. Sự lai nhi tâm thỉ hiện, tức là chỉ khi sự việc đến thì mới
để tâm nhìn nhận, với tất cả tâm ý. Sự khứ nhi tâm tùy không, tức là sự việc đi
qua rồi thì cái tâm ta theo đó mà trở thành vắng không. Bài thơ thật hay. Hồi
còn làm chú tiểu, tôi đã được đọc bài thơ này treo trên vách thiền viện, nét chữ
của thầy Hoằng Thơ.
Sống đời sống hàng ngày, ta tiếp xử sâu sắc với những gì đang xảy ra với chánh niệm. Nhưng khi những chuyện đó qua đi thì ta không lưu luyến, không bị ràng buộc nữa, dầu đó là một cái gì ngọt ngào, dầu đó là nỗi ngậm ngùi hay cay đắng.
Người tu hay người đời
cũng đều cần phải có định. Sống ở ngoài đời cần có định, sống ở trong tự viện
phải thực tập định nhiều hơn. Người lái xe phải có định. Mạng sống của bao
nhiêu người tùy thuộc vào niệm và định của anh ta. Cho nên muốn tu hay anh
không tu, anh cũng phải có niệm và có định.
Niệm và Định làm cho
đời sống sâu sắc hơn và đẹp đẽ hơn. Các bà mẹ thường khuyên con gái: ‘‘Con là
con gái thì làm cái gì cũng phải có ý có tứ.’’ (Làm như con trai không cần phải
có ý có tứ!) Khi người con gái đi, đứng, nói và cười có ý có tứ thì tự nhiên
người con gái đó đẹp lên bội phần. Cái đẹp đó không phải là do phấn son, áo quần
lượt là bên ngoài; cái đẹp đó ở trong tư cách, là do chánh niệm. Đi, đứng, nói,
cười trong chánh niệm là một món trang sức từ bên trong đi ra. Con trai cũng vậy.
Con trai mà đi, đứng, nói, cười trong chánh niệm thì cũng chắc chắn đẹp hơn. Bà
mẹ Việt Nam tuy không nói ngôn từ Phật học nhưng bà cũng biết chánh niệm là một
mỹ phẩm đích thực của con người. Con bà không có chánh niệm, không có ý tứ thì
nó sẽ đi đứng hấp tấp, ăn nói bộp chộp, vô duyên. Không ý tứ thì không phải là
một thiếu nữ đằm thắm, đoan trang, có thể mang hạnh phúc cho người xung quanh.
Niệm và định càng cao
thì nếp sống của ta càng có phẩm chất. Khi làm một bài toán khó, anh cần phải
có định và có niệm. Anh phải chú tâm vào mới làm toán được. Vừa làm toán vừa
nghe phát thanh vừa xem truyền hình thì anh không thể có định, anh không thể giải
đề toán khó được. Cho nên ngay một cđau học sinh cũng cần phải có niệm và có định.
Nhưng định cũng có lúc chỉ nhắm tới việc làm quên lãng khổ đau, để ta trốn
tránh những vấn đề thật của mình. Đó là tà định. Trong khi ngồi thiền, cái định
của ta làm nên phẩm chất của thiền, nếu không thì chỉ ‘‘ngồi đó như hòn bi,’’ cứng
ngắc.
Bụt Đang Có Mặt
Sự có mặt đích thực của
ta do niệm và định tạo nên. Khi ta thực sự có mặt thì sự sống có mặt, tự nhiên
tuệ giác bừng nở. Ngồi thiền mà không có niệm, và định thì không phải là ngồi
thiền. Đi thiền mà không có niệm và định thì không phải là đi thiền. Ăn cơm im
lặng với đại chúng mà không có niệm và định thì ăn cơm trong hai ngàn năm cũng
uổng thôi, không đi tới đâu hết. Khi ta leo núi Linh Thứu, niệm và định của ta
làm cho Núi Thứu thành ra Núi Thứu đích thực. Có những người đi hành hương mà rất
ham hố, muốn đi cho thật nhiều thật đủ. Cho nên tới đâu họ cũng chạy và họ mệt
nhoài. Họ chỉ chụp cái hình để chứng tỏ mình đã từng có mặt tại chỗ đó. Sự thực
thì họ có thể chưa bao giờ từng có mặt tại chỗ đó. Tuy đứng trên núi Thứu mà họ
không có mặt trên núi Thứu, tuy là đã tới Khổ Hành Lâm, đã lạy sì sụp mười mấy
lạy, mà kỳ thực họ chưa bao giờ có mặt ở Khổ Hành Lâm.
Khi có định và tuệ rồi
thì ở đâu cũng là núi Thứu, ở đâu cũng là Khổ Hành Lâm. Thiền hành một giờ đồng
hồ tại Làng Mai cũng có giá trị tuyệt vời của một huyền sử, mà bất cứ lúc nào
chúng ta cũng có thể thực hiện được. Núi Linh Thứu là đây, mặt trời mà Bụt
Thích Ca nhìn thấy năm xưa, ngày hôm nay chúng ta cũng vẫn còn nhìn thấy được.
Thiền sư Vô Ngôn
Thông, người đã thành lập một phái thiền ở Việt Nam vào thế kỷ thứ chín, trước
khi tịch đã để lại một bài kệ trong đó có mấy câu:
Tây thiên thử độ,
Thử độ Tây thiên,
Cổ kim nhật nguyệt,
Cổ kim sơn xuyên.
Dịch
Đây là tây trúc
Tây trúc là đây
Trời trăng năm xưa
Trời trăng năm nay
Tây thiên thử độ, thử
độ Tây thiên nghĩa là Thiên Trúc là chính nơi đây, nơi đây chính là Thiên Trúc,
đừng nghĩ rằng anh phải đi tận đâu đâu mới qua được tới Thiên Trúc. Ngôn ngữ của
thầy giống như ngôn ngữ tâm kinh Bát Nhã. Nói Tây thiên thử độ đủ rồi, lại còn
láy lại Thử độ Tây thiên, giống như sắc tức thị không, không tức thị sắc. Cổ
kim nhật nguyệt, cổ kim sơn xuyên, mặt trời, mặt trăng của ngày xưa chính là mặt
trời, mặt trăng của ngày hôm nay. Và sông núi cũng vậy, không có gì mất đi cả.
Bụt Thích Ca còn đó và mặt trời Bụt Thích Ca nhìn cũng còn đó. Nếu có niệm và
có định chúng ta cũng có thể khám phá và tiếp xúc được với núi Thứu với mặt trời
trên núi Thứu, ngay khi chúng ta đang ở đây.
Cuộc đời một trăm
năm, hay sáu bảy chục năm, là một cuộc leo núi. Ngọn núi đó là một thế kỷ, người
leo trước, người theo sau. Mỗi bước leo núi của chúng ta phải tạo thành một
truyền kỳ, một huyền sử trong lòng chúng ta và cho con cháu chúng ta. Nếu sống
sâu sắc được một ngày như vậy thì chúng ta cũng có thể sống được một năm như vậy.
Và sau khi leo ngọn núi thế kỷ này rồi, ta vẫn có thể tiếp tục leo ngọn núi thế
kỷ của các thế hệ con cháu chúng ta, tiếp tục hoài hoài không dứt.
Mỗi khi quý vị bước
được một bước chân an lạc là Bụt Thích Ca đang đi trên núi Thứu. Đi mà miệng nở
được nụ cười là ta đang đi cho Bụt. Bụt sống mãi trong sự tu tập của chúng ta.
Có nhiều vị cứ than phiền là chúng ta sinh ra quá trễ, ra đời vào lúc Bụt đã tịch
hai ngàn sáu trăm năm trước mất rồi… ‘‘Khứ thánh thời diêu’’ là cách thời đại của
Bụt xa lắc xa lơ. Than thân trách phận như vậy là vì chúng ta không có niệm và
định.
Vào thời Bụt còn tại
thế, nhiều người có khả năng ngồi với Bụt rất sâu sắc, và chỉ cần ngồi cạnh Bụt
thôi là hạnh phúc đã tràn đầy. Nhiều người tới ngồi cạnh Bụt nhưng vẫn không thực
sự có mặt. Cũng có nhiều người tới để cãi nhau với Bụt. Họ chuẩn bị trước những
câu hóc búa để hỏi. Nhiều khi Bụt cười, nhiều khi Bụt không trả lời. Và có những
người đã từng học với Bụt, tu với Bụt nhưng cuối cùng lại bỏ Bụt mà ra đi.
Thành ra dầu ta có sanh ra cách đây hai ngàn sáu trăm năm, không ở xa thành
Vương Xá, không ở xa thành Ca Tỳ La Vệ bao nhiêu, được ngồi bên Bụt mà chưa chắc
ta đã thật sự gặp Bụt. Có nhiều người đã từng ngồi với Bụt nhưng đã không thật
sự có mặt, và không tiếp nhận được sự có mặt của Bụt. Ngồi như vậy có hơn gì
sanh ra cách Bụt hai ngàn sáu trăm năm đâu? Học được phương pháp ngồi, ngồi một
mình hay với các bạn, trên núi Thứu hay ngay ở Làng Mai, ta có thể ngồi với Bụt
trong giờ phút hiện tại.
Ngay bây giờ, chúng
ta đang có thầy, có bạn và có tăng thân. Đối với nhiều người, Làng Mai là một
truyền kỳ, mà không bao giờ họ có thể tới được. Mà cũng có người đang ngồi ngay
giữa Làng Mai nhưng không tham dự được vào cuộc leo núi. Hành trang của giận hờn,
của ganh tỵ, của bực bội, của lười biếng lớn quá, khiến cho họ không tham dự
vào cuộc hành trình mầu nhiệm.
Chín Định
Định luôn luôn là định vào một đối tượng nào. Khi ta đi thiền hành lấy đối tượng là mặt đất thì mặt đất là đối tượng của định. Khi đi thiền hành lấy hơi thở làm đối tượng thì hơi thở là đối tượng của định. Và chúng ta đừng tưởng tượng có định mà không có đối tượng của định. Nhìn vào đối tượng của thiền quán, chúng ta khám phá ra bản chất chân thật, cội nguồn và gốc rễ của nó. Khám phá ấy gọi là chánh kiến.
Đạo Bụt nói tới cửu
thứ đệ định, tức là chín loại định nối tiếp nhau. Theo thứ tự trước hết là sơ
thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Tiếp theo là không vô biên xứ định, thức
vô biên xứ định, vô sở hữu xứ định, phi tưởng phi phi tưởng xứ định, và thứ
chín là diệt tận định.
Thiền nhất là sơ thiền,
trong ấy còn có tư duy, sau đó dần dần tư duy không còn nữa. Những giáo phái
khác ngoài đạo Bụt cũng thực tập tứ thiền và tứ vô sắc định. Nhưng mục đích và
lề lối thực tập của họ khác. Họ có thể đi tìm những cái khác hơn là mục đích giải
thoát. Có thể họ chỉ tìm cách xoa dịu khổ đau. Nhiều người đau khổ quá muốn tìm
một ít phương thức để làm dịu khổ đau thôi. Họ có thể tìm kiếm sự quên lãng, trốn
tránh chính mình, trốn tránh hoàn cảnh, trốn tránh những vấn đề có thật của
mình. Đôi khi chúng ta cũng cần sự lẩn trốn như vậy trong một thời gian ngắn.
Những phương pháp đó không phải là chánh niệm và chánh định, có thể đó là tà định.
Sự khác nhau giữa định thế gian và định xuất thế gian là phép thiền định của
chúng ta nhắm tới mục đích giải thoát mà không phải là để trốn tránh.
Tới trình độ thứ năm
thì đối tượng của định là không vô biên xứ. Đối tượng này là hư không không có
biên giới. Chúng ta đã học hư không là một trong sáu đại: địa, thủy, hỏa,
phong, không và thức. Chúng ta lấy hư không làm đối tượng, nhưng quán chiếu để
thấy tính cách tương tức tương nhập của hư không với tất cả những yếu tố kia, tức
là địa, thủy, hỏa, phong và thức. Trong thức vô biên xứ định (limitless consciousness)
thì đối tượng của định là thức, chỉ có thức thôi. Nhưng thức cũng tương tức
tương nhập với năm yếu tố kia, là địa, thủy, hỏa, phong và không. Rồi đến Vô sở
hữu xứ, Vô sở hữu là không có gì cả, nhưng không phải là hư không. Tri giác của
chúng ta nhận thấy có các sự vật ở ngoài nhau, độc lập với nhau. Đối tượng của
tưởng (tri giác) là tướng. Nhưng đi sâu vào tính tương duyên tương tức của sự vật,
chúng ta thấy rằng mỗi vật chứa đựng tất cả vạn hữu và vũ trụ. Cái này có vì
cái kia có. Cho nên chúng ta vượt khỏi tướng, thấy được không sự vật nào hiện hữu
riêng biệt, gọi là Vô sở hữu. Định này có công năng hiển lộ sự hiểu biết đó.
Định thứ tám là phi
tưởng phi phi tưởng. Tưởng đây là tri giác. Mọi hiện tượng phát hiện ra qua tưởng,
qua tri giác của chúng ta. Nhưng ta biết tri giác không phản chiếu sự thật. Muốn
vượt thoát vọng tưởng, để có thể tiếp xúc với thực tại, ta không thể nương vào
tưởng nữa. Nhưng nếu bỏ tưởng đi thì ta trở thành vô tri vô giác, như gỗ đá, ở
trạng thái phi tưởng. Cho nên không dựa vào tưởng mà cũng không ở trong phi tưởng,
gọi là phi tưởng phi phi tưởng. Trong Trung A Hàm và Trung Bộ, có nhiều kinh
trong đó Bụt nói với thầy A Nan và thầy Xá Lợi Phất về tưởng. Một lần thầy A
Nan hỏi: ‘‘Bạch đức Thế Tôn, khi chúng ta quán chiếu về đất, quán chiếu một
cách sâu sắc thì chúng ta có thể thấy rằng đất không phải là đất nữa, có đúng
không?’’ Bụt nói: ‘‘Đúng như vậy. Khi quý vị quán chiếu về không, về thức, về địa,
thủy, về hỏa, về phong cũng như vậy. Nếu quán chiếu cho thật sâu sắc thì đất
không còn là đất nữa. Đất cũng là hỏa, là thủy, là phong, là không, là thức. Đất
không phải là một thực thể độc lập đối với những cái khác.’’ ‘‘Bạch đức Thế
Tôn, khi chúng ta quán chiếu về đất, chúng ta có thể nhận thấy là không có đất
nữa chăng?’’ Bụt nói: ‘‘Có thể được.’’ Thầy A Nan hỏi tiếp: ‘‘Nhưng mà vẫn có
tưởng?’’ Bụt nói: ‘‘Vẫn có tưởng.’’ Vì tưởng tức là cái tâm của ta trong đó có
tướng, ở đây tướng là đất. Cái tướng đất biến mất, tuy nhiên vẫn có tưởng,
nghĩa là nhận thức vẫn còn. Trước đó tưởng là một vọng tưởng, nhưng sau đó trở
thành một thứ tưởng khác, tạm gọi là chân tưởng (correct perception), và có thể
gọi là trí (prajna). Cho nên ở mức thiền thứ tám này người ta gạt bỏ tất cả những
tri giác có tác dụng chia cắt thực tại ra từng phần nhỏ. Nhờ thế ta không còn bị
lừa gạt bởi tướng sanh, tướng diệt, tướng nhiều, tướng ít, tướng có, tướng
không... và thoát ly khỏi tưởng (perception), gọi là phi tưởng (non-
perception). Nhưng ta biết rằng đó cũng không phải là trạng thái vô tri vô
giác, cho nên tuy ta gọi nó là phi tưởng mà cũng gọi nó là phi phi tưởng –
không phải tưởng, cũng không phải phi tưởng.
Cuối cùng người tu học
đạt tới một trạng thái gọi là diệt tận định, có khi gọi là diệt thọ tưởng định.
Chúng ta cần phân biệt thật rõ diệt tận định với vô tưởng định. Cả hai đều gọi
là vô tâm định.
Vô tưởng định là định
của thế gian, nhắm mục đích thoát khổ bằng cách triệt tiêu tri giác, tức là tưởng,
để không còn đau khổ nữa, nhưng chưa phải là giải thoát. Vô tưởng thiên là cõi
trong đó có sự sống nhưng không có tri giác. Cõi trời đó ở ngay xung quanh
chúng ta, có hình thái của sự sống mà không có tri giác. Đi từ sự sống phức tạp
như của các loài thú vật, đến sự sống của những sinh vật đơn bào (chỉ có một tế
bào) như con amíp, thì chúng ta thấy rằng tưởng cũng thay đổi từ tình trạng rất
phức tạp tới vô cùng đơn sơ. Tới ranh giới giữa động vật và thực vật, có những
loài có thể gọi là thực vật mà cũng có thể xếp loại vào động vật. Những loài
này có tưởng hay không có tưởng. Vậy sự sống của cõi vô tưởng ở ngay trong cơ
thể chúng ta, ở cả xung quanh chúng ta. Trong cõi vô tưởng có chắc là không còn
khổ não chăng?
Tưởng, hay tri giác,
là một trong những gốc rễ của đau khổ. Cụ Nguyễn Du nói trong cõi người ta nhiều
khổ đau quá, chỉ cần mở mắt ra đã thấy khổ rồi. Mở mắt tức là có tri giác, có
tưởng:
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Cho nên thà rằng
không thấy, không nghe, không có tri giác, cuộc sống chắc khỏe khoắn hơn, như
Nguyễn Công Trứ ước ao:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Đây là một khuynh hướng
tự nhiên, người ta đi tìm một cõi trong đó mình không cần tri giác, đi tìm sự sống
vô tưởng. Một trong những cách để vào cõi vô tưởng là phương pháp thiền định gọi
là vô tưởng định. Không thấy, không nghe gì nữa. vì thấy và nghe chỉ thêm khổ
thôi.
Trong sáu thức: nhãn,
nhơi, tợi, thiệt, thân và ý, thức thứ sáu phối hợp với năm thức đầu có công
năng làm phát khởi tưởng (xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư). Vào cõi trời vô tưởng,
hay trong vô tưởng định, thức thứ sáu ngưng hoạt động. Vì vậy không còn tri
giác, không còn tưởng. Nhưng trong ánh sáng của tâm lý học Phật giáo, và qua
kinh nghiệm tu tập, thì giai đoạn vô tưởng chỉ là một cuộc hưu chiến với đau khổ
mà thôi. Khi chấm dứt trạng thái vô tưởng định, lại trở về sự sống có tưởng,
đau khổ lại hiện hành.
Diệt Tận Định
Để hiểu trạng thái diệt
tận định (còn gọi là diệt thọ tưởng định), cần hiểu chữ diệt theo nội dung diệt
đế của tứ diệu đế, như đã giải thích trong những bài đầu. Để thấy Diệt tận định
khác Vô tưởng định như thế nào, ta cần đi sâu hơn vào phía tàng thức, theo phân
tích của Duy Biểu học.
Trong Duy Biểu học,
trước gọi là Duy Thức học, sau các thức Nhãn, Nhơi, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, còn có
thức Mạt Na (manas) thường được gọi là thức thứ bảy và thức thứ tám, là Tàng thức
(alaya). Khi một người đi vào định vô tưởng tuy rằng thức thứ sáu đã ngưng làm
việc, nhưng các thức thứ bảy và thứ tám vẫn hoạt động. Những vô minh và nội kết
vẫn còn nguyên trong tàng thức và biểu hiện trong Mạt Na bằng sự phân biệt mình
và người. Thức Mạt Na là một năng lượng phân biệt dai dẳng và âm thầm: đây là
ta, đây không phải là ta. Vào định Vô tưởng hay vào cõi trời vô tưởng thì cũng
chỉ hưu chiến được một thời gian thôi. Khi ra khỏi vô tưởng định và vô tưởng
thiên thì tất cả nguồn gốc của khổ đau, từ trong thức thứ tám cũng sẽ hiện hành
trở lại. Chỉ có các vị a la hán đã vượt ra khỏi định thứ tám và đi vào định thứ
chín mới chuyển hóa được mạt na thức và gột sạch được những nội kết ở trong
tàng thức.
Những nội kết trong
tàng thức rất nhiều, nhưng nội kết lớn nhất là vô minh. Vô minh tức là sự si
mê, không biết được tự tánh chân thật về sự vật. Sự vật là vô thường mà nghĩ là
thường, sự vật vô ngã mà nghĩ là hữu ngã. Trên cái vô minh căn bản đó sinh ra
những nội kết tham, sân, si, mạn, nghi, kiến... Người tu học phải tinh chuyên,
quán chiếu để chuyển hóa khối vô minh. Những hạt giống chấp ngã, chấp pháp, những
hạt giống tham, giận và si mê phải được chuyển hóa. Sau khi chúng được chuyển
hóa rồi thì tàng thức được tự do, những khối vô minh tan biến. Lúc đó thức mạt
na không còn tác dụng nữa, trở thành một loại trí tuệ gọi là bình đẳng tánh
trí. Bình đẳng tánh trí là thấy được tính cách tương tức tương nhập của mọi sự
mọi vật, thấy cái ta với cái không ta là một. Khi đó tàng thức (alaya) trở
thành đại viên cảnh trí, một tác dụng trí tuệ chiếu rọi như một tấm gương tròn
sáng lớn, phản chiếu được sự thật. Thức thứ sáu trở thành một tác dụng gọi là
diệu quan sát trí, tức là trí tuệ có thể quan sát được một cách mầu nhiệm tất cả
những hiện tượng mà không còn bị kẹt vào vô minh nữa. Nặm thức đầu (mắt, tai,
mũi, lưỡi và thân) trở nên thành sở tác trí. Có bốn loại trí tuệ. Đại viên cảnh
trí làm bối cảnh soi sáng, bình đẳng tánh trí chiếu rọi tính tương tức của các
pháp, Diệu quan sát trí phân biệt và quyết trạch các pháp mà không kẹt vào kỳ
thị và cố chấp. Thành sở tác trí vận dụng sắc, thanh, hương, vị, xúc mà không bị
nô lệ cho năm trần. Vọng tưởng và vọng thức nhờ tu tập được chuyển hóa thành tứ
trí. Trong trạng thái diệt tận định, tuy gọi là diệt thọ tưởng nhưng với tứ trí
làm căn bản tất cả các thức vẫn còn, vẫn có tưởng, vẫn có thọ, nhưng không là
thọ và tưởng do vô minh tác thành nữa. Diệt hiểu theo nghĩa diệt của tứ diệu đế.
Thọ và tưởng vẫn còn
nhưng hoàn toàn được soi sáng trong tứ trí. Cảm thọ vốn do sự tiếp xúc giữa sáu
căn với sáu trần, thường vẫn đưa tới Đi, đưa tới thủ rồi tới hữu. Ái thường đưa
tới thủ, là sự vướng mắc trôi nổi trong sinh tử. Nhưng trong ánh sáng của tứ
trí, thọ bây giờ đưa tới từ và bi, không vướng mắc. Từ, bi và đại nguyện không
đưa tới thủ, mà đưa tới cứu độ. Cho nên ta phải hiểu diệt thọ tưởng định không
có nghĩa là không còn thọ và tưởng. Phải hiểu là thọ và tưởng không còn là vọng
thọ và vọng tưởng như trước, vì tất cả những khối vô minh trong tàng thức và
trong mạt na thức đã bị quét sạch. Đó mới đích thực là diệt tận định.
Có ba phép quán, ba
trạng thái định rất quan trọng, gọi là tam tam muội. (tam muội là samadhi. )
Tam tam muội có khi gọi là tam giải thoát môn, ba cánh cửa vào giải thoát (the
three gates of liberation). Tam tam muội là không tam muội, vô tướng tam muội
và vô tác tam muội. Chúng ta sẽ có dịp học thêm khi trở lại nói về chánh kiến.
Nói tóm lại, Định không phải là chỉ có mặt trong khi ta ngồi thiền, định có thể đạt được trong mỗi giờ phút của đời sống hàng ngày. Cho nên phương pháp thực tập của chúng ta là khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, cười và làm việc ta đều phải có định. Ta phải có mặt trong giây phút hiện tại, phải xử lý những gì xảy ra trong giây phút hiện tại với chánh niệm.
Làm việc có giỏi cách
nào đi nữa mà nếu trong đời sống hàng ngày không có chánh niệm và chánh định
thì ta không phải là một thành phần tốt của tăng thân. Đóng góp cho tăng thân bằng
cách ngồi cho ra ngồi, đi cho ra đi, giặt áo cho ra giặt áo, ăn cơm cho ra ăn
cơm. Ngồi yên tiếng Hán Việt gọi là tĩnh tọa. Thân ngồi yên ổn và vững chãi được
thì tâm sẽ yên vững được. Nếu thân không yên thì làm sao tâm yên? Không cần phải
có thiên nhãn, chỉ cần nhìn một người đi, đứng, nói, cười là ta biết người đó
có an trú trong niệm và định không. Không có niệm và định là sống hời hợt, rất
uổng phí sự sống.
Không có niệm và định,
tâm ta vẫn còn nguyên những khối giận hờn, buồn bực và ganh tức. Ta sẽ không thực
hiện được hoài bão chuyển hóa thân tâm, đem lại hạnh phúc cho chính mình và cho
những người mình thương yêu. Khi ta sống có chánh niệm và chánh định, tự nhiên
trí tuệ phát sinh, và ta thấy được chân tướng của các pháp là vô thường, vô ngã
và niết bàn. Thấy được tính duyên sinh của sự vật, tự nhiên trí hiểu biết, lòng
khoan thứ và tình thương yêu sẽ tới. Năng lượng của niệm và của định đưa tới
chánh kiến, tức là cái thấy vô thường, vô ngã và niết bàn. Cho nên trong đời sống
hàng ngày nếu ta sống trong chánh niệm, và chánh định thì ba tự tánh gọi là tam
pháp ấn sẽ hiện rõ. Kỳ sau chúng ta sẽ trở lại bàn về chánh kiến, và chúng ta sẽ
hiểu rằng vô thường, vô ngã và niết bàn là những giáo lý Bụt đưa ra để hướng dẫn
chúng ta thiền quán, tiếp xúc, quán chiếu các sự vật ở xung quanh ta và trong
chính bản thân ta. Chúng ta sẽ thấy rằng vô thường, vô ngã và niết bàn là những
phương pháp quán chiếu rất thực tế, rất cụ thể, không phải là những ý niệm và
lý thuyết trừu tượng.
Xem Tiếp Bài 17 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá