Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Hiệu Lực Cầu Nguyện
Chương 4. Thiền Và Trị Liệu
Thiền, nói cho đủ là
thiền-na (tiếng Phạn là Dhyāna) là phần thực tập nòng cốt của đạo Bụt.
Thiền có mục đích
giúp người hành giả đạt tới một cái thấy sâu sắc về thực tại. Cái thấy này có
khả năng giải phóng cho mình ra khỏi sự sợ hãi, lo âu, phiền muộn; có khả năng
chế tác chất liệu trí tuệ và từ bi, nâng cao phẩm chất của sự sống, đem lại cho
mình và cho kẻ khác nhiều thảnh thơi và an lạc.
Bản chất của thiền là
niệm, định và tuệ, ba nguồn năng lượng được chế tác trong khi thực tập thiền.
Thực tập thiền không phải chỉ trong tư thế ngồi (thiền ngồi, tiếng Hán Việt: tọa
thiền) mà còn trong các tư thế khác như tư thế đi (thiền di, tiếng Hán Việt:
hành thiền), tư thế đứng, tư thế nằm, trong những lúc làm việc như giặt áo, bổ
củi, gánh nước, tưới rau hoặc lái xe. Bất cứ trong tư thế nào, bất cứ đang làm
gì và ở đâu mà trong thân tâm mình có được ba loại năng lượng ấy là mình đang
thực tập thiền. Sự thực tập này, nếu được chỉ dẫn đúng mức, có thể đem lại sự
thoải mái và an lạc ngay trong lúc thực tập.
Thực tập thiền có tác
dụng nuôi dưỡng và trị liệu cho cả thân và tâm, đem lại nguồn vui sống cho người
thực tập và cho những người xung quanh. Không phải chỉ đi vào chùa hoặc thiền
viện mới thực tập được thiền. Sống trong xã hội, đi làm, chăm sóc gia đình, ta
cũng có thể tập thiền được.
Vài Hiểu Biết Căn Bản Về Thiền Và Trị Liệu - Niệm
Niệm là nguồn năng lượng
giúp ta ý thức được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại trong thân,
tâm và trong hoàn cảnh của ta. Tiếng Phạn, niệm là smrti. Nói cho đầy đủ là
chánh niệm (samyaksmrti).
Những điều đang xảy
ra trong giờ phút hiện tại trong lĩnh vực thân, tâm và hoàn cảnh thì nhiều lắm,
ta không thể nhận diện được tất cả một lượt. Nhưng ta có thể nhận diện những gì
những gì nổi bật nhất, hoặc nhận diện những gì mà ta cần nhận diện nhất. Nếu ta
để ý tới hơi thở vào và hơi thở ra và nhận diện được đấy là hơi thở vào hoặc hơi
thở ra, đó gọi là phép niệm hơi thở. Nếu ta để ý tới bước chân và nhận diện được
từng bước chân ta đặt lên sàn nhà hoặc mặt đất, đó gọi là phép niệm bước chân.
Ta có thể gọi đó là chánh niệm về hơi thở hoặc chánh niệm về bước chân. Niệm
bao giờ cũng là niệm một cái gì, nghĩa là niệm luôn luôn có đối tượng của niệm.
Nếu đang giận mà ta có ý thức được là ta đang giận, đó gọi là niệm cơn giận.
Trong lúc ta thực tập như thế, có hai loại năng lượng đang biểu hiện trong ta:
năng lượng đầu là cái giận, năng lượng thứ hai là chánh niệm do ta chế tác bằng
bước chân hoặc bằng hơi thở chánh niệm. Năng lượng thứ hai nhận diện và ôm ấp
năng lượng thứ nhất. Nếu sự thực tập kéo dài năm bảy phút thì năng lượng chánh
niệm sẽ đi vào trong năng lượng giận hờn, và sẽ có sự thuyên giảm và chuyển
hóa.
Năng lượng niệm mang
theo nó năng lượng định (chú tâm) và năng lượng này có thể làm phát sinh năng
lượng tuệ (tuệ giác) có thể chuyển hóa được cơn giận thành năng lượng của hiểu
biết, chấp nhận, xót thương và hòa giải. Trong đời sống hàng ngày tâm ta thường
có khuynh hướng nhớ tưởng về quá khứ hoặc lo lắng cho tương lai. Thân ta có mặt
nhưng tâm ta không có mặt. Chánh niệm là năng lượng giúp ta đưa tâm về lại với
thân để ta có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại. Có mặt như thế để có thể
tiếp xúc với những nhiệm mầu của sự sống trong ta và chung quanh ta. Theo tinh
thần thiền, sự sống chỉ có mặt đích thực trong giây phút hiện tại. Bụt dạy:
"Quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, sự sống chỉ có thể được tiếp xúc
trong giây phút hiện tại" (Kinh Bhaddekaratta, Trung Bộ 131). Tiếp xúc được
với những gì nhiệm mầu có mặt trong giây phút hiện tại là để được nuôi dưỡng và
trị liệu.
Nếu năng lượng chánh
niệm đã trở nên vững vàng, ta có thể sử dụng nó để nhận diện và ôm ấp những nỗi
khổ niềm đau của ta (như giận thù, tuyệt vọng, tham đắm, bạo động, ghen
tuông...) để có thể chuyển hóa chúng từ từ. An trú được trong hiện tại có thể
đưa đến sự trị liệu mầu nhiệm: Một lần an trú được trong hiện tại là ta có thể vượt
thoát ra ngoài những nanh vuốt của sự tiếc thương và vương vấn về quá khứ hoặc
những lo lắng và sợ hãi về tương lai. Những năng lượng tiêu cực thường đưa tới
các chứng bệnh tâm thần.
Có bốn lĩnh vực làm đối
tượng cho sự tu tập chánh niệm; thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý
(danh từ chuyên môn là thân, thọ, tâm, và pháp, gọi chung là Tứ niệm xứ) (Kinh
Niệm Xứ, Trung A Hàm 98).
Năng lượng chánh niệm
khi nhận diện thân thể (body) giúp ta trở về thân thể với niềm ưu ái: Trong khi
theo dõi phép quán niệm hơi thở ta chiếu cố tới thân thể ta, giúp cho thân thể
được buông thư (danh từ chuyên môn: an tịnh thân hành). Phép thực tập này rất hữu
hiệu để đối phó với sự căng thẳng của thần kinh và của cơ thể (stress). Ta có thể
thực tập phép an tịnh thân hành trong tư thế nằm cũng như tư thế ngồi. Sự thực
tập này giúp cho cơ thể của chúng ta tự trị liệu một cách tự nhiên mà không cần
thuốc thang (Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Trung Bô, 118). Trong trường hợp ta đang
chữa trị bằng thuốc men thì phép an tịnh thân hành này có thể giúp cho ta bình
phục mau chóng hơn, ít nhất là ba lần.
Thực tập phép niệm
thân ta cũng sẽ biết ăn uống và tiêu thụ trong chánh niệm để đừng đưa vào cơ thể
những thức ăn, thức uống có độc tố gây nên tật bệnh. Thực tập niệm thân còn
giúp ta đi, đứng, hành xử và làm việc một cách thảnh thơi và nâng cao phẩm chất
của sự sống hàng ngày.
Sự thực tập chánh niệm
hướng về cảm thọ (feelings) giúp ta nhận diện những cảm thọ đang có mặt: Cảm thọ
dễ chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khổ thọ) và cảm thọ trung tính (xả thọ). Nếu
đó là một cảm thọ dễ chịu, ta biết được là cảm thọ đó phát xuất từ đâu và sẽ có
tác dụng lâu dài như thế nào vào thân tâm, tác dụng nuôi dưỡng hoặc tàn phá. Nếu
đó là một cảm thọ khó chịu, ta cũng biết được là nó đã phát xuất từ đâu, và
năng lượng chánh niệm sẽ làm dịu lại cảm thọ đó, và cuối cùng với năng lượng định
và tuệ ta có thể chuyển hóa nó. Nếu cảm thọ ấy là trung tính thì với chánh niệm
nó sẽ trở thành một cảm thọ dễ chịu. Ví dụ: Khi nhức răng, ta có khổ thọ. Ta
nghĩ nếu hết nhức răng ta sẽ có lạc thọ. Nhưng thường thường trong giờ phút
không nhức răng ta chỉ có xả thọ mà ta ít thấy vui vì không nhức răng. Ý thức về
điều này, sẽ giúp ta chuyển xả thọ thành lạc thọ (sensation du bien-être, the
feeling of well-being).
Thực tập chánh niệm
hướng về tâm ý giúp ta nhận diện được tất cả các hiện tượng tâm ý thường phát
hiện trong tâm thức như vui, buồn, thương, ghét... Theo tâm lý học đạo Bụt, ta
có 51 loại hiện tượng tâm ý (gọi là tâm hành, cittasamskara), gồm có những tâm
ý tích cực như thương mến, bao dung; những tâm ý tiêu cực như giận hờn, tuyệt vọng;
và những tâm ý bất định như tư duy, hối tiếc.
Nhận diện là để tìm tới
cội nguồn của những tâm hành ấy để biết rõ bản chất của chúng và để chuyển hóa
chúng. Ví dụ chứng trầm cảm (depression). Nhận diện trầm cảm với năng lượng
chánh niệm, ta có cơ hội nhìn thấu bản chất và cội nguồn của nó để biết được những
nguyên do xa gần đã làm cho nó có mặt. Với năng lượng của niệm, định và tuệ ta
có thể khám phá ra được bản chất của khối trầm cảm.
Dùng chánh niệm để
chăm sóc trầm cảm, để đưa tâm ý tiếp xúc với những hiện tượng tươi mát có hiệu
năng nuôi dưỡng và trị liệu, ta có thể làm thư nhẹ chứng trầm cảm. Dùng chánh
niệm để đừng sử dụng, tiếp xúc và tiêu thụ những hình ảnh, âm thanh và ý tưởng
có công dụng đưa tới những sự căng thẳng, lo lắng và buồn phiền, không cho chứng
trầm cảm được tiếp tục nuôi dưỡng bởi những độc tố đó, ta có thể chuyển hóa được
trầm cảm.
Hiện nay trên thế giới,
nhất là ở Tây phương, đã có nhiều nơi áp dụng phép thực tập chánh niệm để đối
trị các chứng đau nhức, trầm cảm và giải tỏa tình trạng căng thẳng trong thân
tâm. Tại Trung Tâm Y học trường Đại Học Massachusetts chẳng hạn, có giáo sư Jon
Kabat-Zinn, một giáo sư y khoa giỏi về thiền chánh niệm, đang điều khiển một chương
trình trị liệu gọi là The Program of the Stress Reduction Clinic, chữa trị cho
các chứng đau nhức, stress và tật bệnh khá hữu hiệu. Chương trình này sử dụng
phép thiền chánh niệm. Tại các phân khoa Y Học thuộc các trường đại học lớn như
Harvard, UCLA... cũng có những cơ sở nghiên cứu và áp dụng thiền tập vào sự chữa
trị tâm bệnh và thân bệnh.
Tại trường Đại Học Y
Khoa Harvard có Viện Tâm/Thân Y Khoa (Mind/Body Medical Institute) do giáo sư
Herbert Benson sáng lập và điều hành, cũng đang nghiên cứu, truyền dạy và áp dụng
thiền trong việc chữa trị. Viện này đã liên tục hoạt động từ 35 năm nay. Giáo
sư Benson báo cáo: "Trong viện chúng tôi có nhiều nhà khoa học, y học, tâm
lý học, giáo dục học và y tá đã từng được đào tạo tới mức khá cao: các vị ấy
sau khi hướng dẫn những cuộc nghiên cứu, tìm tòi và thực nghiệm trong nhiều
lĩnh vực khác nhau, đã công nhận rằng thiền tập có thể đem lại được rất nhiều mặt
trị liệu. Chúng tôi đã phát triển được những chương trình y tế có thể đem tới
những phương thức chữa trị có hiệu năng làm thuyên giảm những triệu chứng bệnh
hoạn do sự căng thẳng tâm trí tạo ra. Trên 30 năm qua, các phòng thí nghiệm của
trường Đại Học Y Khoa Harvard đã nghiên cứu một cách có hệ thống những lợi ích
của sự hỗ tương ảnh hưởng giữa thân và tâm. Những cuộc nghiên cứu ấy đã chứng
nghiệm rằng mỗi khi ta lặp lại liên tiếp nhiều lần một câu kinh, một câu thiền
ngữ hay một âm thanh (linh chú, dharani) để cho trạng thái tán loạn của tâm ý
không thể xâm nhập, thì trong những lúc ấy sẽ có những biến chuyển sinh lý thuận
lợi xảy ra. Những biến chuyển này đi ngược chiều với những biến chuyển đã từng
mang lại sự căng thẳng tâm trí. Những cuộc nghiên cứu ấy đã chứng minh rằng các
biến chuyển do thiền tập đem lại là rất lợi lạc, bởi vì chúng có hiệu năng giúp
cho sự chữa trị những triệu chứng như huyết áp cao, nhịp đập trái tim không đều,
các chứng đau nhức kinh niên, chứng mất ngủ, chứng đánh mất khả năng sinh dục,
những triệu chứng của bệnh ung thư và còn nhiều triệu chứng khác nữa".
Thực tập chánh niệm
hướng về đối tượng tâm ý (objects of mind). Hướng về những đối tượng của tri
giác như núi, sông, cây, cỏ, người, vật, xã hội... ta sẽ có cơ hội nhìn sâu để
thấy được tự tính vô thường và liên hệ sinh khởi và tồn tại của mọi hiện tượng.
Khi năng lượng của niệm, định và tuệ đã hùng hậu, ta đạt tới một cái thấy sâu sắc
về thực tại và ta đạt tới sự tự do lớn, không còn vướng mắc vào nỗi lo âu, hoặc
sự thèm khát, hận thù và tuyệt vọng. Bụt và các vị hiền thánh đã đạt tới cái thấy
ấy cho nên họ có tự do lớn, gọi là giải thoát.
Thực tập thiền, chúng
ta cũng đạt được tới tự do, và dù tự do của ta tuy chưa lớn, nhưng chúng ta
cũng đã tháo gỡ được rất nhiều tri giác sai lầm và thành kiến, do đó ta không
còn đau khổ nhiều như trước. Ngược lại, ta có thể có nhiều an lạc trong đời sống
hiện tại. Niệm (smrti), Định (samadhi) và Tuệ (prajna) là những năng lượng chế
tác ra do sự thực tập thiền Thiền học đã có mặt tại Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ
ba với thiền sư Khương Tăng Hội [1]. Thiền sư Tăng Hội đã được học đạo tại Giao
Châu và đến năm 255 đã sang Bành Thành (Nam Kinh bây giờ), kinh đô nước Đông
Ngô thời đó, để truyền bá thiền học. Thầy đến nước Ngô gần 300 năm trước ngày
thầy Bồ Đề Đạt Ma tới nước Lương.
Nước ta từ xưa đến
nay đã từng có nhiều vị thiền sư nổi tiếng [2]. Ngoài những thiền sư xuất gia,
ta cũng đã có những thiền sư tại gia cự phách như Trần Cảnh (tức là Vua Trần
Thái Tông, tác giả sách Khóa Hư Lục) và Tuệ Trung Thượng Sĩ (Trần Quốc Tung,
anh cả của tướng Trần Hưng Đạo)...
Thiền đã là một viên
đá nền tảng cho nền văn minh Việt Nam. Văn chương, triết lý và nếp sống đạo đức
tâm linh người Việt chứa đựng rất nhiều yếu tố thiền. Thực tập thiền giúp ta
xóa bỏ thái độ cố chấp, hết bám víu vào những giáo điều, trở nên bao dung, độ
lượng, biết hiểu, biết thương sâu sắc hơn và chuyển hóa được nhiều đau khổ trong
tâm như thèm khát, vướng mắc, kỳ thị, hận thù, nhỏ nhen, ích kỷ, sợ hãi, tuyệt vọng...
Người Tây phương từ cuối thế kỷ 20 đã bắt đầu chú ý tới thiền và rất đông người, nhất là giới trẻ và giới trí thức, đã tìm tới để học hỏi và thực tập thiền. Những tiện nghi vật chất không đủ để làm ra hạnh phúc. Những sầu khổ ưu tư và thắc mắc của ta chỉ có thể được giải đáp bằng một đời sống tâm linh. Đạo Bụt và sự thực tập thiền hiện đang đáp ứng cho đông đảo quần chúng về những nhu yếu đó. Đạo Bụt có khả năng đi đôi với tinh thần khoa học, hợp tác với khoa học trong lĩnh vực khám phá những sự thực tâm linh, sinh học và vật lý học. Đạo Bụt rất chuộng thực nghiệm và Bụt Thích Ca thường khuyên dạy đệ tử không nên mất thì giờ luận thuyết về những chuyện siêu hình.
Kết Sử
Kết sử (tiếng Phạn là
samyojana) là những gút thắt hoặc những khối đam mê, đè nén, sợ hãi, lo lắng...
đã kết tụ lại trong chiều sâu tâm thức (đạo Bụt gọi là Tàng thức), có khả năng
trói buộc và sai sử ta làm, nói và nghĩ những điều ta thật sự không muốn làm,
muốn nói, và muốn nghĩ đến. Kết sử được gieo trồng và nuôi lớn bằng nếp sống không
chánh niệm hàng ngày. Chánh niệm có khả năng nhận diện chúng mỗi khi chúng phát
hiện trên bề mặt của tâm thức (đạo Bụt gọi là Ý thức). Những kết sử này đã được
hình thành trong quá khứ, có khi dưới dạng thói quen (tập khí) do ông bà cha mẹ
trao truyền lại trong gia sản di truyền. Ta không cần đi về quá khứ để tìm kiếm,
không cần phải đào bới trong ký ức (như trong Phân tâm liệu pháp) để tìm ra
nguyên do của những rối nhiễu về tâm trí.
Năng lượng chánh niệm
có khả năng nhận diện những kết sử khi chúng phát hiện và nhìn sâu vào chúng,
ta đã có thể thấy được cội nguồn của những rối nhiễu kia. Thiền pháp chánh niệm
chú trọng tới giây phút hiện tại, thấy rằng nhìn sâu vào hiện tại ta có thể thấy
được cả quá khứ và tương lai.
Mười loại kết sử chính là: đam mê (tham), thù hận (sân), tri giác lầm lạc (si), tự cho mình là hơn người, kém người hay bằng người (mạn), nghi ngờ (nghi), cho rằng hình hài này là ta (thân kiến), nhận thức nhị nguyên (biên kiến), có những cái thấy sai lầm (tà kiến), cố chấp, không có khả năng buông bỏ nhận thức hiện tại để có thể vượt tới một nhận thức cao hơn (kiến thủ), và mắc kẹt vào các tư tưởng mê tín, dị đoan và hình thái nghi lễ (giới cấm thủ kiến). Sức khỏe và hạnh phúc của ta tùy thuộc rất nhiều vào sự chuyển hóa mười kết sử nói trên.
Mạn
Thiền tập giúp ta thấy
được tính tương quan tương duyên của vạn vật. Không có hiện tượng nào (người
hay vật) có thể tự mình sinh khởi và tồn tại độc lập. Cái này phải nương vào
cái kia mà sinh khởi và tồn tại. Đó là cái thấy duyên sinh, có khi gọi là tương
tức hoặc vô ngã. Vô ngã nghĩa là không có một thực tại biệt lập và vĩnh hằng
nào nằm trong lòng sự vật. Tất cả đều chuyển biến (vô thường) từng phút từng
giây. Cha và con chẳng hạn, họ không phải là hai thực tại biệt lập. Cha có
trong con và con có trong cha. Con là sự tiếp nối của cha (về tương lai), cha
là sự tiếp nối của con (về nguồn cội). Hạnh phúc của con có liên hệ tới hạnh
phúc của cha; nếu cha không có hạnh phúc thì hạnh phúc của con cũng không thể
nào toàn vẹn. Vì cái này liên hệ tới cái kia, cái này nằm trong cái kia, không
có cái kia thì cái này không có ("Thử hữu cố bỉ hữu, thử vô cố bỉ
vô", kinh Tạp A Hàm) cho nên bản chất của vạn hữu là vô ngã. Người có tuệ
giác không thấy có những cái ta riêng biệt và độc lập.
Trong giới tâm lý trị
liệu, có mặc cảm mình thua kém người (low selfesteem) là một chứng bệnh. Trong
thiền học, có mặc cảm hơn người hay có mặc cảm bằng người cũng vẫn còn là bệnh.
Bởi vì cả ba thứ mặc cảm đều được xây dựng trên ý niệm về một cái ta riêng biệt.
Cả ba thứ mặc cảm đều được gọi là mạn (Ưu mạn, liệt mạn, đẳng mạn, Kinh Tam Di
Đề, Tạp A Hàm, 1078). Những khổ đau do giận hờn, ganh tỵ, thù hận, tủi hổ... chỉ
có thể được hoàn toàn chuyển hóa khi ta đạt tới cái thấy vô ngã. Đây là nền tảng
sự thực tập trị liệu của thiền.
Tàng Thức
Thiền sư Thường Chiếu
(đời Lý) dạy rằng nếu biết được đường lối vận hành của tâm thì sự thực tập thiền
sẽ trở nên dễ dàng. Tâm lý học đạo Bụt rất phong phú. Duy Thức Tông của đạo Bụt
nói tới tám thức:
Năm thức cảm giác
[3], ý thức, mạt na thức và tàng thức. Mạt na là năng lượng bám víu vào ý tưởng
có một cái "ta" riêng biệt, độc lập và thường tại, đối lập với những
cái "không ta". Tàng thức (alaya) là phần sâu thẳm nhất của tâm thức,
chứa đựng tất cả những hạt giống (chủng tử, tiếng Phạn là bija) của tất cả các
tâm hành như buồn, vui, giận ghét... Những hạt giống này khi được tưới tẩm hoặc
tiếp xúc thì phát hiện lên ý thức thành những vùng năng lượng. Tàng thức giống
như một mảnh vườn chứa đủ các loại hạt giống, còn ý thức thì giống như người
làm vườn.
Trong công phu thiền
tập, ý thức làm việc nhưng tàng thức cũng làm việc âm thầm ngày đêm. Vô thức của
tâm lý học Tây phương chỉ là một phần của tàng thức. Nhận diện và chuyển hóa những
kết sử nằm sâu trong tàng thức đưa tới sự giải thoát và trị liệu. Đó gọi là
chuyển y (asrayaparavritti) nghĩa là sự chuyển hóa thực hiện ngay ở cơ sở hạ tầng
của tâm thức.
Sự Lưu Thông Của Tâm Hành
Khi những ước muốn, sợ
hãi hoặc uất ức bị dồn nén, sự lưu thông của các tâm hành có thể bị tắc nghẽn
và nhiều biến chứng có thể xảy ra trong lĩnh vực thân và tâm. Tuy bị dồn nén,
chúng vẫn có tác dụng sai sử và ràng buộc ta, vì vậy chúng là những khối kết sử
quan trọng. Ta có thói quen lẫn tránh chúng, làm như chúng không có mặt, và vì
vậy để cho chúng không có cơ hội trồi lên hoặc phát hiện trên ý thức, ta đi tìm
sự quên lãng trong tiêu thụ. Ta không muốn trở về với ta, vì ta có cảm tưởng
khi trở về với ta, ta sẽ phải đối diện với những nỗi khổ đau và những niềm thất
vọng ấy. Ta muốn cho vùng ý thức của ta (được ví như là phòng khách) được chiếm
cứ để các nỗi khổ niềm đau (nằm dưới nhà kho) trong ta không có chỗ phát hiện.
Vì vậy ta xem truyền hình, nghe truyền thanh, xem sách, đọc báo, nói chuyện,
đánh cờ, bài bạc, uống rượu... để tìm lãng quên. Có thể ta không ý thức rằng ta
tiêu thụ, và "giải trí" như thế chỉ là để cho ý thức bên trên luôn
luôn bận rộn và để cho các kết sử bên dưới không có dịp trào lên. Kỳ thực đó chỉ
là một sự dồn nén các tâm hành. Sự dồn nén này sẽ tạo nên tình trạng thiếu lưu
thông của các tâm hành.
Khi máu huyết không
được lưu thông thì nhiều triệu chứng bệnh hoạn xuất hiện nơi cơ thể. Cũng vậy,
khi các tâm hành bị dồn nén, không lưu thông thì các triệu chứng tâm bệnh (và cả
thân bệnh) cũng bắt đầu xuất hiện. Vì vậy ta phải biết cách chấm dứt sự dồn
nén, để các tâm hành ước muốn, sợ hãi hoặc uất ức được dịp phát hiện, được dịp
nhận diện và được dịp chuyển hóa. Nếu không thực tập thiền, nếu không có năng lượng
của chánh niệm thì ta không thể làm việc này.
Chế tác chánh niệm bằng
thiền tập hàng ngày sẽ giúp ta nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa được những nỗi khổ
niềm đau của ta. Nếu không có năng lượng chánh niệm thì ta không có khả năng đối
diện và xử lý chúng, và ta sẽ bị chúng làm cho tràn ngập. Mỗi lần nhận diện và
ôm ấp (chứ không phải đè nén hoặc đàn áp) thì những năng lượng tiêu cực kia sẽ
yếu bớt đi một chút, và năm bảy phút sau (có khi lâu hơn) chúng sẽ trở về tàng
thức, dưới dạng những hạt giống. Lần sau phát hiện, chúng cũng sẽ được nhận diện
ôm ấp như thế và cũng sẽ trở về tàng thức. Thực tập như vậy ta không còn sợ hãi
chúng, đàn áp chúng, dồn ép chúng như xưa, nhờ đó mà tình trạng lưu thông của tâm
ý ta sẽ được thiết lập trở lại, và những biến chứng tâm lý về cơ thể kia sẽ
không còn.
Mũi Tên Thứ Hai
Chánh niệm trước hết
là khả năng nhận diện đơn thuần (mere recognition) về sự có mặt của một đối tượng,
không phê phán, không xét xử, không tham đắm vào đối tượng ấy, cũng không chán
ghét xua đuổi đối tượng ấy, và nhất là không xem thường hoặc không quan trọng
hóa nó. Ví dụ ta có một vùng đau nhức trong cơ thể. Ta chỉ đơn thuần nhận diện
sự đau nhức ấy. Với năng lượng của định và tuệ ta có thể thấy và hiểu được tầm
quan trọng và nguyên do đích thực của sự đau nhức ấy, và phương cách chữa trị sẽ
được căn cứ trên tuệ giác mà niệm và định đem lại.
Nếu ta lo lắng nhiều
quá, nếu ta tưởng tượng nhiều quá, thì những lo lắng và những tưởng tượng ấy sẽ
làm cho tâm ý ta căng thẳng, và sự đau nhức sẽ tăng lên. Nó không phải là ung
thư mà ta tưởng tượng nó là ung thư và ta có thể lo lắng và sầu não đến mất ăn,
mất ngủ.
Khổ đau vì thế tăng
lên gấp bội và sẽ đưa tới một tình trạng nghiêm trọng hơn. Trong kinh Tạp A
Hàm, Bụt đưa ra ví dụ về mũi tên thứ hai. Nếu một mũi tên thứ hai bay tới và cắm
đúng ngay vào vết thương gây ra do mũi tên đầu, thì sự đau nhức sẽ không tăng lên
gấp đôi mà tăng lên gấp mười lần! Vì thế ta đừng để cho một mũi tên thứ hai hay
một mũi tên thứ ba (do sự tưởng tượng và lo lắng) bay đến và làm hại ta thêm.
Tai Họa Của Dục
Theo thiền quán, hạnh
phúc chân thật là sự có mặt trong giây phút hiện tại, khả năng tiếp xúc được với
những mầu nhiệm của sự sống có mặt trong giây phút ấy và khả năng hiểu biết,
thương yêu chăm sóc và làm hạnh phúc cho những người chung quanh. Đeo đuổi theo
những đối tượng của dục như tiền tài, danh vọng, quyền hành và sắc dục, người
ta đã không tạo dựng được hạnh phúc chân thật mà còn tạo ra nhiều khổ đau cho bản
thân và cho kẻ khác.
Con người đầy dẫy ham
muốn và ngày đêm chạy theo dục là con người không có tự do. Không có tự do thì
không có thảnh thơi, không có hạnh phúc. Ít ham muốn (thiểu dục), bằng lòng với
một nếp sống giản dị và lành mạnh (tri túc) để có thì giờ sống sâu sắc từng
phút giây của sự sống hàng ngày và chăm sóc thương yêu cho những người thân, đó
là bí quyết của hạnh phúc chân thật.
Trong xã hội bây giờ,
quá nhiều người đang đi tìm hạnh phúc trong đường hướng của dục, vì vậy chất lượng
của khổ đau và tuyệt vọng đã tăng trưởng rất nhiều. Kinh Ở Rừng (Samyutta
Nikaya 194) nói tới dục như một chiếc bẫy. Bị sập vào bẫy dục, ta sẽ sầu khổ mất
hết tự do, và không thể nào có được hạnh phúc chân thật. Sợ hãi và lo lắng cũng
đóng một vai trò quan trọng trong sự tạo tác khổ đau. Nếu ta có đủ tuệ giác để
chấp nhận một nếp sống thiểu dục và tri túc thì ta sẽ không cần phải lo lắng và
sợ hãi nữa. Chỉ vì nghĩ rằng ngày mai ta có thể mất công ăn việc làm và sẽ
không thể có được lương bổng hàng tháng như bây giờ nên ta thường trực sống
trong sự lo lắng phập phồng. Do đó con đường tiêu thụ ít và có hạnh phúc nhiều,
được xem là con đường thoát duy nhất của nền văn minh hiện tại.
Vài Bài Tập Có Công Năng Nuôi Dưỡng Và Trị Liệu
Sau đây là năm bài
thiền tập có hướng dẫn rất dễ hành trì. Ta có thể tập thử để thấy tính chất thực
tiễn của thiền. Bốn bài đầu có tác dụng nuôi dưỡng. Bài thứ năm có tác dụng trị
liệu, tất cả được trích từ trong sách Sen Búp Từng Cánh Hé [4].
Bài tập thứ nhất: An Tịnh Tâm Hành
1. Thở vào, tâm tĩnh lặng. Tĩnh lặng
Thở ra, miệng mỉm cười. Mỉm cười
2. Thở vào, an trú trong hiện tại. Hiện tại
Thở ra, giây phút đẹp tuyệt vời. Tuyệt vời
Nhiều người bắt đầu
thực tập thiền bằng bài tập này. Có nhiều người dù đã thực tập bài này trong
nhiều năm nhưng vẫn còn tiếp tục thực tập, bởi vì nó tiếp tục đem tới nhiều lợi
lạc cho hành giả.
Thở vào, ta chú tâm tới
hơi thở: Hơi thở vào tới đâu ta cảm thấy tĩnh lặng tới đó, giống như khi ta uống
nước mát; nước đi tới đâu thì ruột gan ta mát tới đó. Trong thiền tập, hễ tâm
tĩnh lặng thì thân cũng tĩnh lặng, bởi vì hơi thở có ý thức đem thân và tâm về
một mối.
Khi thở ra ta mỉm cười,
để thư giãn tất cả các bắp thịt trên mặt (có khoảng 300 bắp thịt trên mặt ta).
Thần kinh ta cũng được thư giãn khi ta mỉm cười. Nụ cười vừa là kết quả của sự
tĩnh lặng do hơi thở vào đem lại, vừa là nguyên nhân giúp ta trở nên thư thái
và cảm thấy sự an lạc phát hiện rõ ràng thêm lên.
Hơi thở thứ hai đem
ta về với giây phút hiện tại, cắt đứt mọi rang buộc với quá khứ và mọi lo lắng
về tương lai, để ta có thể an trú bây giờ và ở đây. Sự sống chỉ có mặt trong
giây phút hiện tại, cho nên ta phải trở về giây phút ấy để tiếp xúc với sự sống.
Hơi thở này giúp ta đạt được sự sống chân thật. Biết mình đang sống và biết
mình có thể tiếp xúc với tất cả mọi mầu nhiệm của sự sống trong ta và chung quanh
ta, đó là một phép lạ. Chỉ cần mở mắt nhìn hoặc lắng tai nghe là ta tiếp nhận
được với những mầu nhiệm của sự sống. Vì vậy cho nên giây phút hiện tại có thể
là giây phút đẹp nhất và tuyệt vời nhất, nếu ta thực tập sống tỉnh thức bằng
hơi thở. Ta có thể thực tập hơi thở thứ nhất nhiều lần trước khi đi sang hơi thở
thứ hai.
Bài này có thể thực tập
bất cứ ở đâu: trong thiền đường, trên xe lửa, trong nhà bếp, ngoài bờ sông,
trong công viên, trong các tư thế đi, đứng, nằm, ngồi và ngay cả lúc đang làm
việc.
Bài Tập Thứ Hai: An Tịnh Thân Hành
1. Thở vào, biết thở vào. Vào
Thở ra, biết thở ra. Ra
2. Hơi thở vào càng sâu. Sâu
Hơi thở ra càng chậm. Chậm
3. Thở vào, ý thức toàn thân. Ý thức
Thở ra, buông thư toàn thân. Buông thư
4. Thở vào an tịnh toàn thân. An tịnh
Thở ra, lân mẫn [5] toàn thân. Lân mẫn
5. Thở vào, cười với toàn thân. Cười
Thở ra, thanh thản toàn thân. Thanh thản
6. Thở vào, cười với toàn thân. Cười
Thở ra, buông thả nhẹ nhàng. Buông thả
7. Thở vào, cảm thấy mừng vui. Mừng vui
Thở ra, nếm nguồn an lạc. An lạc
8. Thở vào, an trú hiện tại. Hiện tại
Thở ra, hiện tại tuyệt vời. Tuyệt vời
9. Thở vào, thế ngồi vững chãi. Vững chãi
Thở ra, an ổn vững vàng. An ổn
Bài này tuy dễ thực tập
nhưng hiệu quả to lớn vô cùng! Những người mới bắt đầu thiền tập, nhờ bài này
mà nếm ngay được sự tịnh lạc của thiền tập. Tuy nhiên những người đã thiền tập
lâu năm cũng vẫn cần thực tập bài này để tiếp tục an tịnh và nuôi dưỡng thân
tâm, hầu có thể đi xa hơn trên con đường thiền trị liệu.
Hơi thở đầu (vào, ra)
là để nhân diện hơi thở. Nếu đó là hơi thở vào thì hành giả biết đó là hơi thở
vào. Nếu đó là hơi thở ra thì hành giả biết đó là hơi thở ra. Thực tập như thế
vài lần tự khắc hành giả ngưng được sự suy nghĩ về quá khứ, về tương lai và chấm
dứt mọi tạp niệm. Sở dĩ được như thế là vì tâm hành giả đã để hết vào hơi thở để
nhận diện hơi thở, và do đó mà tâm trở thành một với hoi thở. Tâm bây giờ không
phải là tâm lo lắng hoặc tâm tưởng nhớ mà chỉ là tâm hơi thở (the mind of
breathing).
Hơi thở thứ hai (sâu,
chậm) là để thấy được rằng hơi thở vào đã sâu thêm và hơi thở ra đã chậm lại.
Điều này xảy ra một cách tự nhiên, không cần sự cố ý của hành giả. Thở và ý thức
mình đang thở (như trong hơi thở đầu) thì tự nhiên hơi thở trở nên sâu hơn, chậm
hơn, điều hòa hơn, nghĩa là có phẩm chất hơn. Mà khi hơi thở đã trở nên điều
hòa, an tịnh và nhịp nhàng thì hành giả bắt đầu có cảm giác an lạc trong thân
và trong tâm. Sự an tịnh của hơi thở kéo theo sự an tịnh của thân và tâm. Lúc bấy
giờ hành giả đã bắt đầu có pháp lạc, tức là có thiền duyệt.
Hơi thở thứ ba (ý thức
toàn thân, buông thư toàn thân): hơi thỏ vào đem tâm về vói thân và làm quen lại
với thân. Hơi thở là cây cầu bắc từ thân sang tâm và từ tâm sang thân. Hơi thở
ra có công dụng buông thư (relaxing) toàn thân. Trong khi thở ra hành giả làm
cho các bắp thịt trên vai, trong cánh tay và trong toàn thân thư giãn ra để cho
cảm giác thư thái đi vào trong toàn thân. Nên thực tập hơi thở này ít nhất là
mười lần.
Hơi thở thứ tư (an tịnh
toàn thân, lân mẫn toàn thân): bằng hơi thở vào, hành giả làm cho an tịnh lại sự
vận hành của cơ thể (Kinh Niệm Xứ gọi là an tịnh thân hành); bằng hơi thở ra,
hành giả tỏ lòng lân mẫn săn sóc toàn thân. Tiếp theo hơi thở thứ ba hơi thở thứ
tư làm cho toàn thân lắng dịu và giúp hành giả thực tập việc đem lòng từ bi mà
tiếp xử với chính thân thể của mình.
Hơi thở thứ năm (cười
với toàn thân, thanh thản toàn thân): nụ cười làm thư giãn tất cả các bắp thịt
trên mặt. Hành giả gởi nụ cười ấy đến với toàn thân như một giòng suối mát.
Thanh thản có nghĩa là làm cho nhẹ nhàng và thư thái (easing). Hơi thở này cũng
có mục đích nuôi dưỡng toàn thân bằng lòng lân mẫn của chính hành giả.
Hơi thở thứ sáu (cười
với toàn thân, buông thả nhẹ nhàng): tiếp nối hơi thở thứ năm, hơi thở này làm
cho tan biến tất cả những gì căng thẳng (tensions) còn lại trong cơ thể.
Hơi thở thứ bảy (cảm
thấy mừng vui, nếm nguồn an lạc): trong khi thở vào, hành giả cảm nhận nỗi mừng
vui thấy mình còn sống, còn khỏe mạnh, và có cơ hội săn sóc, nuôi dưỡng cơ thể
lẫn tinh thần mình. Hơi thở ra đi với cảm giác hạnh phúc. Hạnh phúc luôn luôn đơn
sơ và giản dị. Ngồi yên và thở có ý thức, có thể đã là một thứ hạnh phúc rồi.
Biết bao nhiêu người đang quay như một chiếc chong chóng trong đời sống bận rộn
hàng ngày và không có cơ hội nếm được pháp lạc này.
Hơi thở thứ tám (an
trú hiện tại, hiện tại tuyệt vời): hơi thở vào đưa hành giả về an trú trong
giây phút hiện tại. Bụt dạy rằng quá khứ đã đi mất, tương lai thì chưa tới, sự
sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại. Trở về an trú trong hiện tại là thực
sự trở về với sự sống, và chính trong giây phút hiện tại mà hành giả tiếp xúc
được với tất cả những mầu nhiệm của cuộc đời. An lạc, giải thoát, Phật tính và
niết bàn... tất cả đều chỉ có thể tìm thấy trong giây phút hiện tại. Hạnh phúc
nằm trong giây phút hiện tại. Hơi thở vào giúp hành giả tiếp xúc với những mầu
nhiệm ấy. Hơi thở ra đem lại rất nhiều hạnh phúc cho hành giả, nhờ vậy mà hành
giả có được cái cảm giác "hiện tại tuyệt vời".
Hơi thở thứ chín (thế
ngồi vững chãi, an ổn vững vàng): hơi thở này giúp hành giả thấy được thế ngồi
vững chãi của mình. Nếu thế ngồi chưa được thẳng và đẹp thì sẽ trở nên thẳng và
đẹp. Thế ngồi vững chãi đưa đến cảm giác an ổn vững vàng trong tâm ý. Chính
trong lúc ngồi như vậy mà hành giả làm chủ được thân tâm mình, không bị lôi kéo
theo những thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có tác dụng làm đắm chìm.
Bài Tập Thứ Ba: Nuôi Dưỡng
1. Thở vào, biết thở vào. Vào
Thở ra, biết thở ra. Ra
2. Hơi thở vào càng sâu. Sâu
Hơi thở ra càng chậm. Chậm
3. Thở vào, tôi thấy khỏe. Khỏe
Thở ra, tôi thấy nhẹ. Nhẹ
4. Thở vào tâm tĩnh lặng. Lặng
Thở ra, miệng mỉm cười. Cười
5. An trú trong hiện tại. Hiện tại
Giây phút đẹp tuyệt vời. Tuyệt vời
Bài này có thể thực tập
bất cứ ở đâu, trong thiền đường, ngoài phòng khách, ở nhà bếp hay trong toa xe
lửa.
Hơi thở đầu là để đưa
thân và tâm về hợp nhất, đồng thời giúp ta trở về an trú trong giây phút hiện tại,
tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm đang xảy ra trong phút giây ấy. Sau khi ta thở
như thế trong vài ba phút, tự nhiên hơi thở ta trở nên nhẹ nhàng, khoan thai,
êm hơn, chậm hơn, sâu hơn và cố nhiên ta cảm thấy rất dễ chịu trong than cũng
như tong tâm. Đó là hơi thở "sâu, chậm" thứ hai. Ta có thể an trú với
hơi thở ấy bao nhiêu lâu cũng được. Rồi ta đi qua hơi thở "khỏe, nhẹ".
Ở đây ta ý thức được tính cách nhẹ nhàng (khinh an) và khỏe khoắn (tịnh lạc) của
thân tâm, và thiền duyệt tiếp tục nuôi dưỡng ta.
Trong thiền môn có
câu Thiền duyệt ví thực có nghĩa là niềm vui của thiền tập được sử dụng như thức
ăn để nuôi dưỡng hành giả. Hơi thở tiếp theo là "lặng, cười" và
"hiện tại, tuyệt vời" mà ta đã thực tập trong bài thứ nhất.
1. Thở vào, tôi biết
tôi thở vào. Vào
Thở ra, tôi biết tôi thở ra. Ra
2. Thở vào, tôi thấy tôi là bông hoa. Là hoa
Thở ra, tôi cảm thấy tươi mát. Tươi mát
3. Thở vào, tôi thấy tôi là trái núi. Là núi
Thở ra, tôi cảm thấy vững vàng. Vững vàng
4. Thở vào, tôi trở nên mặt nước tĩnh. Nước tĩnh
Thở ra, tôi im lặng phản chiếu trời mây đồi núi. Lặng chiếu
5. Thở vào, tôi trở nên không gian mênh mông. Không gian
Thở ra, tôi cảm thấy tự do thênh thang. Thênh thang
Bài này có thể được
thực tập vào buổi đầu của tất cả các giờ thiền tọa, hoặc có thể được thực tập
trong suốt buổi thiền tọa để nuôi dưỡng thân tâm, tĩnh lặng thân tâm và đạt tới
buông thả tự do. Hơi thở đầu có thể được thực tập nhiều lần cho đến khi ta đạt
tới trạng thái thân tâm là một, kết hợp thân và tâm thành một khối nhất như.
Hơi thở thứ hai đem lại
sự tươi mát. Con người đáng lý phải tươi mát như một bông hoa, bởi chính con
người là một bông hoa trong vườn hoa vạn vật. Chúng ta chỉ cần nhìn các em bé
xinh xắn là thấy điều đó. Hai mắt trong là những bông hoa. Khuôn mặt sáng với vầng
trán hiền lành là một bông hoa. Hai bàn tay là bông hoa... Chỉ vì lo lắng nhiều
mà trán ta nhăn, chỉ vì khóc nhiều và trải qua nhiều đêm không ngủ nên mắt ta mờ.
Thở vào để phục hồi tính cách bông hoa của tự thân. Hơi thở vào làm sống dậy
bông hoa của tự thân. Hơi thở ra giúp ta ý thức rằng ta có thể và đang tươi mát
như một bông hoa. Đó là tự tưới hoa cho mình, đó là từ bi quán thực tập cho bản
thân.
Hơi thở thứ ba, thấy
được ta là núi vững vàng sẽ giúp ta đứng vững được trong những lúc ta bị xúc động
vì những cảm thọ quá mãnh liệt. Mỗi khi lâm vào trạng thái thất vọng, lo lắng,
sợ hãi hoặc giận dữ, ta có cảm tưởng ta đang đi ngang qua một cơn bão tố. Ta
như một thân cây đang đứng trong cơn lốc. Nhìn một cây đứng trong cơn bão, ta thấy
ở ngọn cây cành lá oằn oại như có thể bị gẫy ngã hoặc cuốn theo cơn lốc bất cứ
lúc nào. Nhưng nếu nhìn xuống thân cây và nhất là cội cây, biết rằng rễ cây
đang bám chặt vững vàng trong lòng đất, ta sẽ thấy cây vững chãi hơn và ta sẽ
an tâm hơn. Thân tâm ta cũng thế.
Trong cơn lốc của cảm
xúc, nếu ta biết dời khỏi vùng bão tố (tức là vùng não bộ) mà di chuyển sự chú
ý xuống bụng dưới, nơi huyệt đan điền và thở thật sâu thật chậm theo công thức
là núi vững vàng ta sẽ thấy rất khác. Ta sẽ thấy ta không phải chỉ là cảm xúc của
ta. Cảm xúc đến rồi đi và ta sẽ ở lại. Dưới sự trấn ngự của cảm xúc, ta có cảm tưởng
mong manh, dễ vỡ, ta nghĩ ta có thể đánh mất sự sống của ta.
Có những người không
biết xử lý những cảm xúc mãnh liệt của họ. Khi khổ đau quá vì thất vọng, sợ hãi
hay giận hờn, họ có thể nghĩ rằng phương pháp duy nhất để chấm dứt khổ đau là
chấm dứt cuộc đời mình. Vì vậy nhiều người, trong đó có những người rất trẻ, đã
tự tử. Nếu biết ngồi xuống trong tư thế hoa sen mà thực tập hơi thở là núi vững
vàng, họ có thể vượt thoát được giai đoạn khó khăn đó.
Trong tư thế nằm
buông thư, ta cũng có thể thực tập hơi thở này. Ta có thể theo dõi sự lên xuống
(phồng, xẹp) của bụng dưới và hoàn toàn chú tâm vào bụng dưới. Như vậy là ta
đang thoát khỏi sự tàn hại của cơn bão tố và không bị cơn lốc cuốn đi. Thực tập
như thế cho đến khi tâm hồn lắng dịu và cơn bão tố qua đi là ta vừa thoát nạn. Tuy
nhiên ta không nên đợi đến khi có tâm trạng khổ đau rồi mới thực tập. Nếu không
có thói quen, ta sẽ quên mất sự thực tập và sẽ để cho cảm xúc trấn ngự và lôi
kéo. Ta hãy thực tập hàng ngày để có thói quen tốt, và như thế mỗi khi những cảm
xúc khổ thọ kéo đến, ta sẽ tự nhiên biết thực tập để xử lý và điều phục chúng.
Ta cũng nên chỉ bày cho những người trẻ thực tập thiền trị liệu để giúp họ vượt
thoát những cơn cảm xúc quá mạnh của họ.
Nước tĩnh lặng chiếu
là hơi thở thứ tư có mục đích làm tĩnh lặng thân tâm. Trong kinh Quán Niệm Hơi
Thở, Bụt có dạy: "Thở vào, tôi làm tĩnh lặng tâm tư tôi". Đây chính
là bài thực tập ấy. Hình ảnh hồ nước tĩnh lặng giúp ta thực tập dễ dàng hơn. Mỗi
khi tâm ta không tĩnh lặng, tri giác ta thường sai lầm: những điều ta thấy,
nghe và suy nghĩ không phản chiếu được sự thật, cũng như mặt hồ khi có sóng
không thể nào phản chiếu được trung thực những đám mây trên trời. "Bụt là vầng
trăng mát, đi ngang trời thái không, hồ tâm chúng sanh lặng, trăng hiện bóng
trong ngần" là ý ấy. Những buồn khổ và giận hờn của ta phát sinh từ tri
giác sai lầm, vì vậy để tránh tri giác sai lầm, ta phải tập luyện cho tâm được
bình thản như mặt hồ thu buổi sáng. Hơi thở là để tạo cho ta sự an tịnh ấy.
Không gian thênh
thang là hơi thở thứ năm. Nếu ta có quá nhiều bận rộn và ưu tư, ta sẽ không có
thanh thản và an lạc, vì vậy hơi thở này nhằm đem không gian về cho chúng ta,
không gian trong lòng và không gian chung quanh ta. Nếu ta có nhiều lo toan,
nhiều dự án quá thì ta nên bỏ bớt. Những đau buồn oán giận trong ta cũng vậy,
ta phải tập buông bỏ. Những loại hành lý ấy chỉ làm cho cuộc đời thêm nặng.
Nhiều khi ta nghĩ rằng
nếu không có những hành lý kia (có thể là chức tước, địa vị, danh vọng, cơ sở,
người tay chân...), ta sẽ không có hạnh phúc. Nhưng nếu xét lại, ta sẽ thấy rằng
hầu hết những hành trang đó là chướng ngại vật cho hạnh phúc của ta, buông bỏ
được chúng thì ta có hạnh phúc.
Hạnh phúc của Bụt rất
lớn. Có một hôm ngồi trong rừng Đại Lâm ở ngoại ô thành Vaisali, Bụt thấy một
bác nông dân đi qua. Bác nông dân hỏi Bụt có thấy mười mấy con bò của bác
không. Bác nói những con bò ấy đã sổng đi mất, và hai sào đất trồng cây vừng của
bác năm nay cũng bị sâu ăn hết; bác bảo bác là kẻ khổ đau nhất trên đời, có lẽ bác
phải tự tử! Bụt bảo bác đi tìm bò ngã khác. Sau khi bác nông dân đi rồi, Bụt
quay lại tươi cười nhìn các thầy khất sĩ đang ngồi với Bụt và nói: "Các thầy
có biết là các thầy có hạnh phúc và tự do không? Các thầy không có một con bò
nào để mà mất cả." Thực tập hơi thở này giúp ta buông bỏ những con bò của
ta, những con bò trong tâm cũng như những con bò ở ngoài thân ta.
Bài Tập Thứ Tư: Trị Liệu
1. Thở vào, tôi thấy tôi là em bé năm tuổi. Thấy em bé
Thở ra, tôi cười với em bé năm tuổi là tôi. Cười với em bé
2. Thở vào, tôi thấy em bé năm tuổi là tôi, rất mong manh, rất dễ
bị thương tích. Em bé rất mong manh, rất dễ bị thương tích
Thở ra, tôi cười với em bé trong tôi với nụ cười hiểu biết và
xót thương. Cười hiểu biết và xót thương
3. Thở vào, tôi thấy cha tôi là một em bé năm tuổi. Cha như em
bé năm tuổi
Thở ra, tôi cười với cha tôi như một em bé năm tuổi. Cười với
cha như em bé năm tuổi
4. Thở vào, tôi thấy em bé năm tuổi là cha tôi, rất mong manh, rất
dễ bị thương tích. Em bé là cha, rất mong manh, rất dễ bị thương tích
Thở ra, tôi cười với em bé là cha tôi với nụ cười hiểu biết và
xót thương. Cười với cha với nụ cười hiểu biết và xót thương
5. Thở vào, tôi thấy mẹ tôi là một em bé năm tuổi. Mẹ như em bé năm
tuổi
Thở ra, tôi cười với mẹ tôi như một em bé năm tuổi. Cười với mẹ như
em bé năm tuổi
6. Thở vào, tôi thấy em bé năm tuổi là mẹ tôi, rất mong manh, rất
dễ bị thương tích. Em bé là mẹ, rất mong manh, rất dễ bị thương tích
Thở ra, tôi cười với em bé là mẹ tôi với nụ cười hiểu biết và
xót thương. Cười với mẹ với nụ cười hiểu biết và xót thương
7. Thở vào, tôi thấy những nỗi khổ của cha tôi hồi năm tuổi. Cha
khổ hồi năm tuổi
Thở ra, tôi thấy những nỗi khổ của mẹ tôi hồi năm tuổi. Mẹ khổ hồi
năm tuổi
8. Thở vào, tôi thấy cha tôi trong tôi. Cha trong tôi
Thở ra, tôi cười với cha tôi trong tôi. Cười với cha trong tôi
9. Thở vào, tôi thấy mẹ tôi trong tôi. Mẹ trong tôi
Thở ra, tôi cười với mẹ trong tôi. Cười với mẹ trong tôi
10. Thở vào, tôi hiểu được những nỗi khó khăn của cha tôi trong
tôi.
Khó khăn của cha trong tôi
Thở ra, tôi nguyện chuyển hóa cho cả cha tôi và tôi. Chuyển hóa cả
hai cha con
11. Thở vào, tôi hiểu được những khó khăn của mẹ tôi trong tôi.
Khó khăn của mẹ trong tôi
Thở ra, tôi nguyện chuyển hóa cho cả mẹ tôi và tôi. Chuyển hóa cả
hai mẹ con
Bài tập này đã giúp
cho nhiều người trẻ thiết lập lại được liên lạc tốt đẹp giữa bản thân và cha mẹ,
đồng thời chuyển hóa được những nội kết được hun đúc từ tấm bé. Có những người
không thể nghĩ đến cha hoặc mẹ mà không có niềm oán hận và sầu khổ trong lòng.
Hạt giống thương yêu luôn luôn có sẵn trong lòng cha mẹ và trong lòng những người
con, nhưng vì không biết tưới tẩm những hạt giống ấy và nhất là vì không biết
hóa giải những nội kết đã được gieo trồng và không ngừng phát triển trong tâm,
cho nên cả hai thế hệ đều thấy khó khăn trong việc chấp nhận lẫn nhau.
Trong bước đầu, hành
giả quán tưởng mình là một em bé năm tuổi. Vào tuổi đó, ta rất dễ bị thương
tích. Một cái trừng mắt nghiêm khắc, một tiếng nạt, hoặc một tiếng chê cũng có
thể gây thương tích và mặc cảm trong ta. Khi cha làm khổ mẹ hoặc mẹ làm khổ
cha, hoặc khi cha mẹ làm khổ nhau, hạt giống khổ đau được gieo vào và được tưới
tẩm trong lòng em bé. Cứ như thế, lớn lên em bé sẽ mang nhiều nội kết khổ đau
và sống với sự oán trách cha hoặc mẹ, hoặc cả hai.
Thấy được mình là một
em bé dễ bị thương tích như thế, ta sẽ thấy tội nghiệp cho ta, ta sẽ thấy xót
thương dâng lên và thấm vào con người của ta. Ta cười với em bé năm tuổi bằng nụ
cười của từ bi, của xót thương. Đó tức là ta thực tập bi quán hướng về chính
ta.
Sau đó, hành giả quán
tưởng cha, hoặc mẹ mình là em bé năm tuổi. Thường thì ta chỉ có thể thấy cha ta
là một người lớn, nghiêm khắc, khó tính, chỉ biết sử dụng uy quyền để giải quyết
mọi việc. Nhưng ta biết rằng trước khi thành người lớn, ông cũng đã từng là một
chú bé con năm tuổi, cũng mong manh dễ bị thương tích như ta. Ta thấy cậu bé ấy
cũng đã từng khép nép, nín im thin thít mỗi khi cha cậu nổi trận lôi đình. Ta
thấy cậu bé ấy cũng đã là nạn nhân của sự nóng nảy, cau có và gắt gỏng của cha
cậu ấy, tức là ông nội của ta. Nếu cần, ta có thể tìm tập ảnh gia đình ngày trước
để khám phá lại hình ảnh của cậu bé năm tuổi ngày xưa tức là cha ta, hay cô bé
năm tuổi ngày xưa tức là mẹ ta. Trong thiền quán ta hãy làm quen và mỉm cười
thân thiện với cậu bé hoặc cô bé ấy, ta thấy được tính cách mong manh và dễ bị thương
tích của họ. Và ta cũng sẽ thấy xót thương dâng trào lên. Khi chất liệu xót
thương xuất hiện từ trái tim ta, ta biết rằng sự quán chiếu bắt đầu có kết quả.
Thấy được và hiểu được thì thế nào ta cũng sẽ thương được. Nội kết của ta sẽ được
chuyển hóa dần với sự thực tập này. Với sự hiểu biết, ta bắt đầu chấp nhận, và
ta sẽ có thể dùng hiểu biết và tình thương của ta để trở về giúp cha hoặc mẹ ta
chuyển hóa. Ta biết ta có thể làm được việc này bởi vì sự hiểu biết và lòng xót
thương đã chuyển hóa ta, và ta đã trở nên dễ chịu, ngọt ngào, có them nhiều
bình tĩnh và kiên nhẫn.
Xem Tiếp Chương 5 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá