Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 57. Chiếc Bè Đưa Người
Mùa Đông năm ấy trong
khi Bụt nhập thất gần giảng đường Trùng Các ở Vesali, có mấy vị khất sĩ rủ nhau
tự sát ngay trong tu viện. Sau thời hạn nhập thất Bụt được báo tin nầy. Người hỏi
nguyên do. Các thầy trả lời là các vị khất sĩ ấy vì quán sát tính vô thường và
tàn hoại của thân thể cho nên đã sinh lòng chán ghét thân thể và không muốn sống
nữa. Bụt cho triệu tập tất cả các vị khất sĩ trong tu viện lại. Người nói:
- Các vị khất sĩ,
quán vô thường là để thấy được tự tính chân thực của vạn pháp và đừng bị vạn
pháp thao túng và làm cho khổ đau. Quán tính tàn hoại của thân thể cũng có mục
đích ấy. Người ta không đạt tới giải thoát và tự do bằng cách trốn chạy vạn
pháp. Người ta chỉ đạt tới giải thoát và tự do bằng cách thấy được thực tính của
vạn pháp. Có một vài người trong quý vị đã không hiểu được điều đó và đã tìm
con đường dại dột của sự trốn chạy và đã phạm vào giới sát.
Này các vị! Người giải
thoát là người không kẹt vào sự tham đắm mà cũng không kẹt vào chán ghét. Tham
đắm và chán ghét đều là những sợi dây ràng buộc. Người tự do là người vượt thoát
cả tham đắm lẫn chán ghét. Do sự vượt thoát đó, người ấy an trú trong tịnh lạc.
Niềm hạnh phúc của người đó không thể nào đo lường được. Những cố chấp về vô
thường và vô ngã cũng không có mặt nơi người ấy. Này các vị khất sĩ! Các vị hãy
học và hành theo giáo lý tôi dạy một cách thông minh và trong tinh thần phá chấp.
Về lại Savatthi, Bụt
lại có dịp dạy các vị khất sĩ thêm về vấn đề phá chấp. Tại Savatthi có một vị
khất sĩ tên là Arittha cũng đã vì không hiểu được chân ý của lời Bụt dạy mà bị
kẹt vào những cố chấp. Trước đại chúng các vị khất sĩ tại tu viện Jetavana. Bụt
dạy:
- Hiểu giáo pháp một cách
sai lạc, người ta có thể đi vào cố chấp, từ cố chấp người ta đi sâu vào sai lầm,
gây đau khổ cho mình và cho người. Nầy các vị! Hãy nghe, hiểu và hành giáo pháp
một cách thông minh. Như thế giáo pháp mới đưa đến một lợi ích thiết thực. Một
người bắt rắn giỏi biết cách dùng một cái cây có nạng và chặn vào phía cổ của
con rắn và cuối cùng nắm bắt được rắn ở chỗ cổ của nó. Nếu không biết bắt rắn
mà nắm lấy rắn ở lưng hay ở đuôi thì người có thể bị rắn quay lại cắn tay. Học
hỏi giáo lý, cũng phải học hỏi thông minh như là bắt rắn vậy. Này các vị! Giáo
lý là phương tiện chỉ bày chân lý, đừng chấp phương tiện là chân lý. Ngón tay
chỉ mặt trăng không phải là mặt trăng. Không có ngón tay ấy thì quý vị không biết
hướng của mặt trăng, nhưng nếu quý vị nhận lầm ngón tay là mặt trăng, thì vĩnh
viễn quý vị không thấy được mặt trăng. Giáo lý là chiếc bè đưa người sang sông.
Chiếc bè rất cần thiết, nhưng chiếc bè không phải là bờ bên kia. Một người
thông minh khi sang tới bờ bên kia rồi không bao giờ dại dột đội chiếc bè lên đầu
mà đi. Này quý vị! Giáo pháp tôi dạy là chiếc bè đưa quý vị vượt qua bờ sinh tử.
Quý vị phải sử dụng chiếc bè để qua bờ sinh tử mà không nên nắm giữ chiếc bè.
Quý vị cần hiểu rõ ví dụ này để đừng bị kẹt vào giáo pháp, để có khả năng buông
bỏ được giáo pháp. Này quý vị! Giáo pháp còn cần được buông, huống hồ là giáo
pháp hiểu sai. Giáo pháp hiểu sai không phải là giáo pháp.
Nầy quý vị, tất cả những giáo pháp mà quý vị đã học như tứ diệu đế, bát chánh đạo, tứ niệm xứ, thất giác chi, vô thường, vô ngã, khổ, không, vô tướng, vô tác... tất cả những giáo pháp quý vị phải học hỏi và thực tập một cách thông minh và khôn khéo. Hãy sử dụng những giáo pháp ấy để đi tới giải thoát, nhưng đừng bị kẹt vào những giáo pháp ấy.
Trung tâm tu học của
ni chúng tại Savatthi đã có đến năm trăm vị nữ khất sĩ. Trung tâm này thường thỉnh
Bụt và các vị cao đức từ Jetavana tới giảng dạy. Đại đức Ananda được Bụt giao
cho trách nhiệm công cử các vị giảng sư cho ni chúng. Một hôm đại đức đề cử đại
đức Bhanda. Đại đức Bhanda là người có thật tu, có chứng đắc, nhưng đại đức
không rành về chuyện diễn giảng, nhưng đã được chỉ định, đại đức phải vâng lời.
Ngày hôm sau, sau khi đi khất thực, đại đức ghé vào một cụm rừng để thọ trai.
Thọ trai xong, đại đức đi về phía nữ tu viện. Đại đức được các ni sư đón tiếp
niềm nở. Ni sư Gotami thỉnh đại đức lên pháp tọa. Lên pháp tọa, đại đức Bhanda
chỉ đọc vỏn vẹn một bài kệ:
An trú trong tĩnh mặc
Thấy Pháp, trở về nguồn
Không hận thù bạo động
Niềm an lạc trào tuôn
Điều phục được kiêu mạn
Sống an hòa chân thật
Vượt ra ngoài ái nhiễm
Là niềm vui lớn nhất.
Đọc xong bài kệ, đại
đức im lặng đi vào đại định. Bài thuyết pháp của đại đức chỉ có mấy chục tiếng
nhưng đạo phong của đại đức Bhanda đã làm cho các ni sư hoan hỷ. Một số các vị
ni sư còn trẻ thấy bài thuyết pháp ngắn quá, liền bạch với ni sư Gotami xin đại
đức nói thêm. Ni sư Gotami chìu họ, tiến lên làm lễ đại đức Bhanda và chuyển lời
thỉnh cầu của các ni sư trẻ. Nhưng đại đức chỉ lặp lại một lần nữa bài kệ trên
rồi bước xuống pháp tọa.
Câu chuyện nầy mấy
hôm sau được trình lên Bụt. Có vị đề nghị là nếu cần cử vị giảng sư cho ni
chúng thì nên cử những vị có biện tài nhiều hơn đại đức Bhanda. Bụt dạy: thực
chứng là điều căn bản nhất. Vị giảng sư có thể ít dạy bằng lời nhưng dạy nhiều
bằng đạo phong của mình, và người căn dặn là vị giảng sư cho ni chúng phải được
công cử bởi đại chúng.
Một buổi trưa đi khất
thực về, Bụt không thấy Ananda đâu cả. Người hỏi đại đức Rahula xem thầy có biết
thầy Ananda ở đâu không. Rahula trả lời là không biết. Một vị khất sĩ cho biết
là thầy thấy thầy Ananda đi khất thực ở một xóm nghèo trong giới những người hạ
tiện không giai cấp. Thầy lại nói lâu nay thầy vẫn thấy đại đức Ananda lui tới
xóm ấy để khất thực. Nghe nói thế, Bụt nhờ vị khất sĩ này đi tìm thầy Ananda.
Vị đại đức đi hỏi
thăm và tìm được thầy Ananda về. Đại đức cũng đem về theo những vị thí chủ của
thầy Ananda. Đó là cô Prakriti và bà mẹ của cô. Thầy Ananda đã được mời lại thọ
trai tại nhà này, và hai mẹ con đã tìm cách lưu thầy ở lại. Bà mẹ của Prakriti
đã cho thầy uống một thứ nước lá cây lạ khiến đầu óc thầy choáng váng, tay chân
thầy như bủn rủn và thầy không còn đủ sức đứng dậy ra về nữa.
Lúc ấy Bụt đang nói
pháp thoại cho các vị khất sĩ. Đại đức Ananda thuật lại cho Bụt nghe là cô
Prakriti đã đem lòng thương đại đức, và đại đức đã tìm mọi cách giảng giải để
cô từ bỏ mối tình tuyệt vọng đó đi, nhưng đại đức chưa thành công. Đại đức cầu
xin Bụt giúp đỡ đại đức.
Theo thầy Ananda kể
thì một hôm trên đường đi khất thực về, cảm thấy khát nước, thầy đã ghé vào một
cái giếng trong xóm để giải khát. Hôm ấy chỉ có một mình cô Prakriti đang múc
nước ngoài giếng. Prakriti tuy là một cô gái thuộc dòng hạ tiện, nhưng nhan sắc
rất mặn mà. Thầy Ananda ngỏ ý xin cô nước uống. Cô không dám đưa nước cho thầy,
nói rằng cô thuộc về ngoại cấp, không có quyền cúng dường nước cho thầy, sợ làm
ô uế thầy. Ananda bảo:
- Tôi đâu cần xin địa
vị hay giai cấp trong xã hội. Tôi chỉ cần xin nước uống thôi. Cô cứ cho tôi uống
nước đi, đừng sợ.
Prakriti liền đưa nước
cho thầy Ananda uống. Cô chưa thấy một người đàn ông nào đẹp trai, hiền hậu và
ăn nói dịu dàng như thầy. Từ giờ phút đó cô đem lòng thương thầy. Tối đến cô
không ngủ được, cứ nằm nghĩ đến thầy. Cô thường ra giếng nước ngồi đợi hàng giờ,
mong mỏi được gặp thầy cho đỡ bớt nỗi nhớ niềm thương.
Prakriti đã từng bàn
với mẹ mời thầy Ananda về nhà thọ trai mấy lần. Thầy đã nhận lời tới thọ trai tại
đây hai lần, nhưng sau đó thấy được niềm đam mê của cô nên thầy đã tránh và đã
từ chối. Cô Prakriti đau khổ vì tình, người cô càng ngày càng ốm xanh đi. Bà mẹ
hỏi mãi, cô mới thú thật là cô yêu thầy Ananda và muốn thầy Ananda ra đời để cưới
cô. Bà mẹ la cô, nói đó chỉ là cuồng vọng, nhưng cô nhất quyết nói rằng nếu
không lấy được thầy Ananda thì cô sẽ chết.
Cuối cùng bà mẹ của
cô, vốn thuộc về dòng Matanga có biết ít nhiều về bùa chú và ma thuật, đã tìm
cách cho thầy uống nước một thứ là lạ để cho thầy mất minh mẫn mà đáp lại mối
tình nồng nhiệt của con gái mình.
Sáng hôm nay bà đã
đón đường thầy, và cầu khẩn thầy ghé nhà thọ trai một lần chót. Thầy đinh ninh
hôm nay sẽ có cơ hội giảng rõ cho hai mẹ con về đạo lý để họ buông bỏ thầy,
nhưng chưa kịp làm việc ấy thì thầy đã uống nhằm thứ nước trà quái đản kia. Uống
xong thầy biết ngay là mình cần phải ngồi lại để thực hành phép quán niệm hơi thở.
Thầy ngồi yên trong tư thế kiết già như thế rất lâu, dùng khí công để giải tỏa
chất ma tuý cho đến khi được Bụt phái người đến triệu về.
Bụt gọi Prakriti tới
gần. Người hỏi, giọng rất hiền lành:
- Con thương thầy
Ananda lắm phải không?
Prakriti bạch:
- Con thương thầy
Ananda lắm.
- Con thương cái gì
nơi thầy Ananda? Con thương hai mắt, cái mũi hay là cái miệng của thầy?
- Con thương hết những
gì nơi thầy Ananda. Mắt con cũng thương, mũi con cũng thương, miệng con cũng
thương, giọng nói con cũng thương, dáng đi con cũng thương. Bạch sa môn, con
thương hết tất cả những gì nơi thầy ấy.
- Ngoài hai con mắt,
cái mũi, cái miệng, giọng nói, dáng đi và cái nhìn, thầy Ananda có nhiều cái đẹp
khác mà ta nghĩ là con chưa biết và con chưa thương.
- Bạch sa môn, ví dụ
như cái gì?
- Ví dụ như lòng
thương của thầy Ananda, con có biết thầy Ananda thương gì không?
- Con không biết. Con
chỉ biết là thầy Ananda không thương con.
- Con lầm rồi. Thầy
Ananda có thương con, nhưng không thương theo kiểu con muốn thầy Ananda thương.
Con biết không, thầy Ananda thương cuộc sống giải thoát, tự do và an lạc. Do sự
giải thoát và tự do mà thầy Ananda thường mỉm cười và thầy thương được mọi người
và mọi loài, và thầy muốn đem đạo lý giải thoát để dạy cho mọi người, để mọi
người có thể có tự do và an lạc như thầy. Thầy Ananda thương lý tưởng giải
thoát của thầy, thầy ấy cũng thương mọi người và mọi loài, vì tình thương ấy đi
đôi với giáo pháp giác ngộ và giải thoát cho nên thầy Ananda tuy thương mà
không bị sầu khổ và thất vọng như con thương. Nếu con thật sự thương thầy
Ananda, thì con cũng thương cái tình thương ấy của thầy, để cho thầy có thể tiếp
tục sống đời sống phạm hạnh giải thoát và tiếp tục soi sáng được cho mọi người.
Nếu con biết thương như thế thì con đâu có bị sầu khổ và thất vọng. Sở dĩ con
thất vọng và sầu khổ vì con chỉ muốn chiếm thầy Ananda cho riêng một mình con.
Tình thương ấy ích kỷ. Con phải học thương như thầy Ananda thương mới được.
Prakriti ngước lên
nhìn Bụt:
- Bạch sa môn, con phải
học thương như thế nào?
- Thương như thế nào
để con có hạnh phúc mà thầy Ananda cũng có hạnh phúc. Thầy Ananda như một cơn
gió mát. Nếu con cố ý nhốt cơn gió mát ấy lại trong cái ngục tù của tình thương
nhỏ bé thì cơn gió mát ấy sẽ chết và không ai được hưởng sự mát mẻ của nó,
trong đó có cả con. Vậy con thương một ngọn gió mát như thế nào thì con cũng
thương thầy Ananda như thế đó. Prakriti, nếu con biết thương thì chính con, con
cũng có thể trở thành một cơn gió mát. Làm dịu đi nỗi nóng bức của bao nhiêu người.
- Bạch sa môn, xin
người chỉ dạy cho con.
- Con có thể làm như
đại đức Ananda, con có thể sống cuộc sống giải thoát an lạc như thầy và con
cũng có thể đem niềm vui tới cho mọi người như thầy. Con có thể xuất gia tu học
như thầy Ananda.
- Thật như thế hả, bạch
sa môn? Con có thể đi xuất gia hả? Con là người hạ tiện, không có giai cấp...
- Điều đó, ở trong
giáo đoàn khất sĩ không có ai nghĩ tới cả. Trong giáo đoàn ta, có những vị khất
sĩ xuất thân từ giới ngoại cấp. Đại đức Sunita mà quốc vương Panesadi rất trọng
vọng đó là một người xuất thân từ giới ngoại cấp. Nếu con xuất gia tu học thì con
sẽ là vị nữ khất sĩ đầu tiên xuất thân từ giới không có giai cấp. Nếu con bằng
lòng, ta sẽ nhờ ni sư Khema làm lễ thế phát cho con.
Prakriti sung sướng lạy
xuống. Cô cầu Bụt cho cô được xuất gia tu học. Bụt phú thác Prakriti cho ni sư
Khema, hôm ấy cũng có mặt trong buổi pháp thoại. Ni sư Khema đưa Prakritit đi rồi.
Bụt nhìn Ananda rồi bảo đại chúng:
- Các vị khất sĩ, giới thể của thầy Ananda còn nguyên vẹn, nhưng tôi muốn các vị cẩn thận hơn trong lúc giao tiếp. Nếu chúng ta luôn an trú trong chánh niệm thì chúng ta có thể thấy được rất sớm những gì đã và đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Nếu thấy được sớm, ta sẽ sớm có những biện pháp để đối trị và tiếp xử với hoàn cảnh. Trường hợp của Ananda chỉ là trường hợp của định lực còn non yếu. Thực hiện chánh niệm trong từng giây phút của đời sống hàng ngày đó là phương cách nuôi dưỡng định lực hay nhất. Một khi định lực đã vững mạnh thì cái thấy của ta sẽ sáng và hành động của ta sẽ kịp thời. Định và tuệ đi với nhau, định và tuệ bao hàm nhau, định và tuệ là một.
Các vị khất sĩ! Đối với
giới phụ nữ, các vị nên tập quán sát như sau. Với những người lớn tuổi, ta xem
họ như mẹ, hoặc như chị của chính ta, với những người nhỏ tuổi hơn, ta xem họ
như em hoặc như con của chính ta. Những vị khất sĩ còn nhỏ tuổi mới bước vào đường
đạo nên cẩn thận hơn nữa trong lúc tiếp xử với phụ nữ. Sự dịu dàng của người phụ
nữ có thể đưa đến những trở ngại của sự tu học. Hãy hạn chế sự tiếp xúc. Cần tiếp
xúc mới tiếp xúc, khi tiếp xúc chỉ nên trao đổi những lời thật sự cần thiết có
liên hệ tới sự học hỏi và hành trì giáo pháp.
Được Bụt chỉ dạy cặn
kẽ, các thầy khất sĩ đều hoan hỷ phụng hành.
0 Đánh giá