Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 58. Con Gái Đắc Giá Hơn Con Trai
Một hôm nọ đi khất thực
qua một xóm nghèo Bụt gặp một đám thiếu nhi đang chơi giữa đường. Các bé đang
xúm nhau xây một thành phố bằng đất và cát. Chúng xây thành vua, kho lúa, nhà cửa
và đào một con sông chảy qua thành phố. Bọn nhỏ đông có đến mười lăm đứa. Bụt
và đoàn khất sĩ dừng lại. Một em bé, chừng như là đầu đàn của tất cả bọn nhỏ,
nói:
- Có Bụt và các vị khất
sĩ đi ngang qua thành phố chúng ta.
Chúng ta phải cúng dường
người và các vị đệ tử của người mới được.
Bọn trẻ nhao nhao hỏi:
- Chúng ta lấy gì mà
cúng dường Bụt? Người lớn mới có thể cúng dường chứ chúng ta là con nít mà cúng
dường sao được?
Em bé kia trả lời:
- Tại sao chúng ta lại
không có thể cúng dường? Này các bạn, trong kho lẫm nội thành có bao nhiêu là
thóc lúa. Chúng ta hãy lấy thóc lúa trong kho ra mà cúng dường Bụt và tăng
đoàn.
Bọn nhỏ reo hò vang dậy.
Chúng moi bụi cát trong kho lúa của chúng ra và đặt bụi cát đó trên một chiếc
lá bàng. Em bé đầu đàn nâng chiếc lá bàng có đựng bụi đất trên hai tay, quỳ xuống
trước Bụt và dâng lên Bụt những đất bụi ấy. Bọn trẻ đều bắt chước quỳ xuống, hướng
về Bụt và tăng đoàn mà chắp tay. Em bé đầu đàn nói:
- Dân chúng trong
thành phố chúng con kính dâng lên Bụt và tăng đoàn chút ít lúa gạo trong kho lẫm
của chúng con. Xin Bụt và tăng đoàn nhận cho.
Bụt mỉm cười. Người
đưa tay xoa đầu em bé và nói:
- Cám ơn các con đã
cúng dường lúa gạo cho Bụt và cho các thầy khất sĩ. Các con dễ thương lắm.
Rồi người xoay lại
nói với thầy Ananda:
- Ananda, thầy hãy nhận
lấy bụi đất trong chiếc lá bàng này rồi đem về hòa với nước và trét lên vách đất
của tịnh thất ta.
Thầy Ananda lĩnh mệnh,
thu nhận vật cúng dường của các bé. Bọn trẻ mời Bụt ngồi trên một tảng đá dưới
một cội cây đa, rồi tất cả kéo tới quây quần xung quanh Bụt. Ananda và các vị
khất sĩ cũng xúm lại gần.
Bụt kể cho bọn trẻ
nghe chuyện tiền thân Visvantara. Kiếp xưa, thái tử Visvantara là một người
giàu lòng thương, luôn luôn bố thí tất cả những gì mình có cho những người
nghèo khổ túng thiếu, không tiếc bất cứ một vật gì. Thái tử có một người vợ tên
là Madri rất hiền thục và đảm đang. Nàng biết niềm vui của chàng là cứu giúp kẻ
thiếu thốn và vì vậy nàng không bao giờ tỏ vẻ nuối tiếc một thứ gì mà chồng đem
cho. Hai người sinh được hai đứa con, một đứa trai tên là Jalin và một đứa gái
tên là Krishnajina. Vào những năm đói kém hoàng tử được phép vua cha cho lấy
lương thực và vải vóc trong kho để phát tặng cho những người đói rét. Các kho lẫm
vì thế cạn dần. Một vài vị quan trong triều thấy thế tìm cách chặn thái tử lại.
Một hôm họ tâu vua là thái tử làm sạt nghiệp quốc gia và nhân dịp thái tử lỡ
cho mất của triều đình một con voi quý, họ đề nghị đày thái tử tới một nơi hẻo lánh
trên núi Jayatura để thái tử học sống cuộc đời nghèo khổ và đạm bạc. Bị áp lực
của các quan, vua cha nghe lời. Vợ chồng và hai đứa con vì vậy phải lên đường
đi đày biệt xứ.
Giữa đường có người
nghèo ghé tới xin bố thí. Thái tử cởi chiếc áo quý đang mặc mà cho. Khi có những
người nghèo khác tới xin, vợ thái tử cởi chiếc áo đẹp bên ngoài của nàng, và
khi có những nghèo khác tới nữa. Jalin và Krshjina lại cởi áo và những đồ trang
sức để tặng. Đi mới được hai phần ba đường mà thái tử và gia đình đã cho hết tất
cả những gì có giá có thể bán được để mua gạo. Cuối cùng, họ phải cho luôn chiếc
xe và hai con ngựa. Thái tử ẵm Jalin, Madri ẳm Krishjina; họ đành lòng đi bộ tới
xứ Jayatura để sống thời gian lưu đày của mình. Không còn của cải gì nhưng họ vẫn
vui, vẫn hát, vì lòng họ thanh thản. Họ biết họ đã cho người khác những niềm
vui.
Thái tử và vợ đi mãi
đến khi chân họ rướm máu và chai đi thì mới tơi nơi. Đó là một ngọn núi và những
khu rừng rậm. Leo lên núi họ tìm thấy một túp lều bỏ không. Túp lều mà chắc
ngày xưa đã có một vị đạo sĩ cư trú để tu hành. Hai vợ chồng sửa sang quét dọn
túp lều, bứt tranh bứt lá lót giường cho bốn người, và nghĩ đến việc đi tìm thực
phẩm. Hai người đi tìm các loại trái cây và các loại rau lá mọc hoang trong rừng
có thể ăn được. Hai đứa bé cũng được dạy dỗ cách đi tìm trái cây, hái rau, giặt
áo và phơi áo bên bờ suối, gieo hạt và làm vườn. Ngoài ra các bé còn được học
chữ nữa. Họ dùng lá kè và viết chữ bằng một cái gai nhọn.
Họ sống đơn giản như
thế trên núi được ba năm, và cuộc sống rất vui tươi, nhưng có một hôm nọ, trong
khi Visvantara và Madri đang đi hái trái cây trong rừng thì ở nhà có người tới
bắt cóc mất hai đứa trẻ.
Khi về nhà không thấy
hai con, hai vợ chồng hoảng hốt đi tìm. Họ đi khắp núi rừng và khi không thấy
con, họ tìm về phố chợ. Hai tháng trôi qua nhưng họ vẫn không tìm được con. Họ
trở về túp lều một lần nữa, hy vọng các con đi đâu lạc đã trở về. Về tới nhà, họ
gặp sứ giả của vua cha. Vua cha triệu hai vợ chồng về. Sứ giả cho biết là Jalin
và Krishnajina đã về tới trong hoàng cung và đang sống với ông nội. Hai người mừng
rỡ hỏi thăm. Sứ giả nói:
- Một hôm nọ có người
đem bán hai đứa bé ngoài chợ kinh đô. Có một bà mệnh phụ đi chợ nhận ra hai đứa
này là con của thái tử Vivvantara. Bà liền về báo cho chồng biết. Vị quan này tức
tốc ra chợ. Ông bảo người kia rằng nếu đem hai đứa trẻ vào cung bán thì sẽ được
giá rất cao, và ông tiến dẫn người bán vào cung. Thấy hai đứa nhỏ, dù áo quần tả
tơi và mặt mày lem luốc, vua cha cũng giật mình nhận ra cháu mình. Vua bàng
hoàng. Lòng nhớ thương con cháu sống dậy mãnh liệt nơi vua. Vua truyền:
- Nhà ngươi tìm được
hai này ở đâu thế? Bán mỗi đứa bao nhiêu?
Người kia chưa kịp
tâu bày gì thì vị đại thần đã lên tiếng:
- Tâu hoàng thượng, đứa
con gái bán giá một ngàn lượng vàng và một ngàn con bò, còn đứa trai bán giá một
trăm lượng vàng và một trăm con bò.
Mọi người, kể cả hai
đứa trẻ, đều ngạc nhiên. Vua hỏi:
- Tại sao con gái lại
bán đắt hơn con trai?
Vị đại thần nói:
- Vì hoàng thượng quý
con gái hơn con trai. Các công chúa không bao giờ bị hoàng thượng trừng phạt và
la rầy, cả đến những cung nhân trong cung cấm cũng được đối đãi thật tử tế.
Hoàng thượng chỉ có một đứa con trai duy nhất mà hoàng thượng lại đày lên núi
xa ở với cọp beo, phải đi hái trái rừng để ăn và để nuôi con. Như vậy con gái
không đắt hơn con trai là gì?
Vua rơi nước mắt:
- Thôi khanh đừng nói
nữa, trẫm đã hiểu rõ rồi.
Vua hỏi người kia gặp
hai đứa trẻ ở đâu. Người kia trả lời là đã mua chuộc hai được hai đứa bé từ một
miền núi xa xăm. Vua ban tiền bạc cho người ấy và ra lệnh cho người này cộng
tác với thám tử của vua truy nã người đã bắt cóc trẻ em đem đi bán.
Rồi vua gọi hai cháu
lên và ôm vào lòng. Vua hỏi thăm về cuộc sống trên núi. Sau đó, vua lập tức ban
chiếu chỉ triệu vợ chồng thái tử về. Từ đó về sau, vua rất cưng chiều thái tử
và còn làm hết sức mình để giúp thái tử có thêm lúa gạo và vải vóc để chia tặng
cho những người nghèo khổ.
Bọn trẻ em nghe Bụt kể
chuyện một cách say mê. Bụt nói:
- Thái tử Visvantara
tìm thấy niềm vui khi chia sẻ những gì mình có với những kẻ khác. Này các con,
hồi nãy các con chỉ cho ta một ít bụi đất trong kho lẫm của các con mà ta cũng
đã rất vui rồi.
Các con nên biết: mỗi ngày ta có thể đem lại niềm vui cho kẻ khác bằng cách tặng cho kẻ ấy một món quà. Món quà ấy không cần phải mua. Khi các con hái một hông hoa bên bờ ruộng đem về tặng cho cha mẹ là các con đã cho cha mẹ các con một niềm vui rồi. Nói một câu hiếu thuận hoặc dễ thương cũng là một món quà quý giá. Ôm lấy cha mẹ mà nói rằng mình rất thương quý cha mẹ đã làm lụng khó nhọc để nuôi mình, đó cũng là một tặng phẩm rất quý. Một cái nhìn, một sự săn sóc nhỏ nhặt cũng đưa tới những niềm vui. Đối với cô bác và bạn bè, các con cũng có thể làm cho họ vui bằng những tặng phẩm như thế.
Bây giờ ta với các thầy
phải từ giã các con để tiếp tục đi khất thực, nhưng ta sẽ nhớ mãi những bụi đất
mà các con đã tặng cho ta trong ngày hôm nay.
Bọn thiếu nhi rất
sung sướng được gặp Bụt ngày hôm ấy. Chúng bàn nhau sẽ rủ các bạn tới tu viện
Jetavana để thỉnh thoảng được nghe Bụt và các thầy kể chuyện.
Mùa nắng năm sau, Bụt
về Rajagaha. Thăm hỏi và dạy dỗ đại chúng ở đây xong, người lên núi Linh Thứu.
Y sĩ Jivaka được tin Bụt về Linh Thứu liền lên núi thăm người. Rồi Jivaka thỉnh
Bụt về vườn Xoài của ông dăm bữa. Bụt nhận lời. Thầy Ananda cũng đi theo Bụt.
Y sĩ có một vườn Xoài
rất mát mẻ và xum xuê. Xoài ở đây đã lên tới năm thứ tám. Jivaka đã dựng một tịnh
thất nhỏ để Bụt ở. Hàng ngày ông đem thức ăn chay của ông tự tay nấu để cúng dường
Bụt. Ông xin Bụt nghỉ ngơi ít hôm đừng đi khất thực để có dịp bồi bổ lại sức khỏe.
Ông lại đem thuốc bổ đến để cúng dường Bụt. Thuốc bổ này gồm toàn rễ cây, lá
cây, và trái cây. Một hôm ngồi với Bụt trong vườn Xoài, Jivaka hỏi:
- Lạy Bụt, có người đồn
đãi rằng các vị khất sĩ được phép Bụt cho ăn mặn. Họ còn nói: sa môn Gotama cho
phép giết thú vật, để làm thức ăn cúng dường ông ta và các vị khất sĩ học trò của
ông. Có người than thở: vì sa môn Gotama mà dân chúng phải sát hại sinh vật để
làm thức ăn cho ông và cho đệ tử ông. Bạch Thế Tôn, con thấy những lời đồn đãi
này không đúng, nhưng con muốn nghe Thế Tôn trực tiếp nói về điều này.
Bụt nói:
- Này Jivaka, những
ai nói rằng thầy cho phép giết sinh vật để làm thực phẩm cho thầy và cho các vị
khất sĩ, những người ấy đã không nói đúng sự thật. Jivaka, thầy đã từng nói rõ
nhiều lần: nếu một vị khất sĩ thấy người ta giết thú vật để làm thực phẩm cúng
dường mình, vị khất sĩ ấy phải từ chối không được ăn. Nếu không thấy mà chỉ
nghe nói rằng người ta đã vì mình mà giết thú vật thì vị khất sĩ cũng phải từ
chối không được tiếp nhận thực phẩm, và hơn thế nữa, dù không thấy không nghe nhưng
một khi đã nghi rằng người ta có vì mình mà giết thú vật thi vị khất sĩ cũng phải
từ chối không được ăn.
Jivaka, theo phép khất
thực, người ta cho thức ăn gì thì phải nhận thức ăn ấy, nhưng trong trường hợp
đã thấy đã nghe và đã nghi rằng người ta đã vì mình mà sát hại thú vật thì vị
khất sĩ có quyền từ chối và phải từ chối. Như thế mới nuôi dưỡng và bảo vệ được
lòng từ bi của mình. Jivaka, những thí chủ nào biết Bụt, biết Pháp và biết Tăng
thì mỗi khi sửa soạn vật thực cúng dường họ đều dùng những thức ăn chay tịnh.
Trong trường hợp họ không có sẵn các món chay họ mới chia sẻ cho các thầy khất
sĩ món mặn họ sẵn có mà thôi. Những người lần đầu tiên cúng dường các vị khất
sĩ cũng không biết rằng các thầy ưa thức ăn chay hơn thức ăn mặn cho nên cũng
chỉ cúng dường và san sẻ những thức ăn họ sẵn có. Trong trường hợp này, các vị
khất sĩ có thể thọ dụng thức ăn mặn, để khỏi phụ lòng thí chủ và cũng để thí chủ
có dịp kết duyên từ từ với đạo giải thoát.
Jivaka, một mai kia,
khi tất cả thiên hạ đều biết rằng các vị khất sĩ không ăn thịt thú vật bị giết
vì họ thì thiên hạ sẽ không cúng dường thịt cho các vị khất sĩ nữa. Lúc ấy các
vị khất sĩ sẽ ăn chay hoàn toàn.
Jivaka biện bạch:
- Con thấy ăn chay
làm cho cơ thể nhẹ nhàng và ít bệnh hơn ăn mặn. Thế Tôn, từ mười năm nay, con
đã ăn chay. Con nghĩ rằng ăn chay vừa được khỏe mạnh vừa nuôi dưỡng được lòng từ
bi. Hôm nay con rất vui mừng được thầy chỉ dạy rõ ràng về việc ấy.
Jivaka cũng tỏ ý khen
ngợi Bụt về pháp chế không ăn sau giờ ngọ và không ăn những thức ăn cất giữ từ
ngày hôm qua, trừ trong mùa lạnh. Ông thấy những điều này rất hợp với phép vệ
sinh. Không ăn buổi chiều và buổi đêm thì vừa cảm thấy nhẹ nhàng vừa có thêm
thì giờ tu tập. Thức ăn để lại ngày hôm sau có thể bị hư và làm độc hại cơ thể,
nếu trời nóng quá.
Bụt khen ngợi Jivaka
và ngỏ lời mời ông một hôm nào về tu viện nói cho các vị khất sĩ nghe về các
phép vệ sinh của đời sống hàng ngày.
0 Đánh giá