Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 59. Nhảy Cao Mấy Cũng Rơi Lại Vào Trong Lưới
Vườn Xoài của y sĩ
Jivaka rất rộng rãi và thanh tịnh. Rải rác trong vườn có những tịnh thất nhỏ của
các vị nữ khất sĩ.
Buổi chiều ấy, có một
vị nữ khất sĩ trẻ tên là Subha đến xin tham vấn Bụt. Hồi sáng cô đã bị một
thanh niên đón đường và suýt bị thanh niên ấy xâm phạm đến tiết hạnh. Ni cô xin
Bụt đặt ra một pháp chế để bảo đảm thêm sự an ninh cho giới nữ khất sĩ. Bụt hỏi
đầu đuôi câu chuyện. Ni cô thuật lại với tất cả chi tiết.
Hôm qua đi khất thực
về ngang một khu hẻo lánh, Subha bị một thanh niên đón đường. Biết là mình đang
lâm vào tình trạng khó khăn, ni cô theo dõi hơi thở để duy trì sự bình tĩnh.
Nhìn thẳng vào người thanh niên, cô hỏi:
- Thưa ông, tôi đâu
có làm điều gì lầm lỗi mà ông lại chặn đường tôi? Tôi chỉ là một người xuất gia
tu hành theo giáo pháp của Bụt. Tại sao ông lại ngăn không cho tôi đi về tu viện?
Người kia nói:
- Cô còn trẻ và đẹp lắm.
Tại sao cô lại đi hủy hoại đời mình bằng cách cạo đầu, mặc áo vàng và sống như
những người tu khổ hạnh? Này ni cô, đáng lý cái thân hình xinh đẹp của cô phải được
khoác lên một chiếc sari lụa mua từ Kasi. Tôi chưa thấy ai xinh đẹp bằng cô.
Tôi muốn cho cô nếm mùi dục lạc của thân xác. Cô đi với tôi đi.
Subha vẫn bình tĩnh:
- Ông đừng có nói bậy.
Người tu hành đã quyết tìm niềm vui nơi cuộc sống giải thoát và giác ngộ. Năm
thứ dục lạc chỉ đưa tới tội lỗi và khổ đau. Ông hãy tránh đường cho tôi đi. Tôi
sẽ rất cảm ơn sự hiểu biết của ông.
Người thanh niên kia
nói:
- Cô có hai con mắt rất
đẹp. Tôi chưa thấy người đàn bà nào có đôi mắt đẹp như cô. Tôi dại gì mà để cô
đi. Thôi cô hãy đi với tôi.
Và người thanh niên
đưa tay ra định nắm lấy cô. Subha lùi lại một bước. Cô nói:
- Này ông kia, ông đừng
chạm tới tôi. Ông đừng chạm tới một người tu phạm hạnh. Tôi đã chán ngấy đời sống
dục vọng và hận thù cho nên tôi muốn đi tu. Ông nói tôi có hai con mắt đẹp. Thôi
để tôi móc hai con mắt của tôi đưa cho ông. Thà rằng tôi mù còn hơn là để ông
chạm tới.
Subha nói với giọng
cương quyết. Người thanh niên kia nao núng. Anh ta biết vị ni cô này có thể nói
và làm ngay. Anh ta lùi lại một bước. Subha tấn công thêm:
- Ông đừng vì dục vọng
mà tạo nên tội ác. Ông không biết đức vua Bimbusara đã ra lệnh trừng phạt nặng
nề những kẻ phạm pháp hay sao. Chính tôi, tôi đã chứng kiến những tội phạm bị hành
xử. Nếu ông không tỉnh táo, nếu ông xâm phạm tới phạm hạnh, và sanh mạng của
tôi, ông cũng sẽ bị bắt và hành xử như những tội phạm ấy.
Người thanh niên tỉnh
ngộ. Anh ta hình dung ra được cảnh khổ do dục vọng điên cuồng gây ra. Anh ta
tránh sang một bên đường cho Subha đi. Rồi anh nói vọng theo:
- Tôi xin lỗi sư cô.
Tôi chúc sư cô tu hành cho tới khi thành đạt.
Subha đi thẳng, không
ngoái nhìn trở lại, lòng dặn lòng sẽ trình lên Bụt trường hợp mình.
Sau khi nghe kể chuyện,
Bụt khen ngợi niềm quả cảm và sự thông minh của nữ khất sĩ Subha. Người nói:
- Người con gái đi một
mình ở nơi vắng vẻ thì nguy hiểm lắm. Đó là một trong những lý do tại sao ngày xưa
tôi đã ngần ngại chưa muốn cho giới nữ xuất gia. Này Subha! Từ hôm nay trở đi,
đi đâu vị nữ khất sĩ cũng không được đi một mình. Lội qua một dòng sông, đi vào
thôn xóm, băng qua một cánh đồng hay một khu rừng, vị nữ khất sĩ không được đi
một mình. Ngủ cũng vậy. Trong tu viện, trong tịnh xá, trong thôn lạc hay dưới gốc
cây, người nữ khất sĩ không được ngủ một mình. Phải ngủ với một vị nữ khất sĩ
khác để có thể bảo vệ cho nhau.
Rồi Bụt quay lại nói
với thầy Ananda:
- Ananda thầy nên ghi
nhớ điều này và yêu cầu các vị lãnh đạo ni chúng đưa điều này vào giới luật của
các vị nữ khất sĩ.
Rời vườn Xoài của y
sĩ Jivaka, Bụt lên đường đi Nalanda. Cùng đi với người, có rất đông các vị khất
sĩ. Bụt và các vị khất sĩ đi lặng lẽ và trang nghiêm; ai nấy đều theo dõi hơi
thở và nuôi dưỡng chánh niệm. Phía sau lưng các vị, có hai thầy trò vị du sĩ
Suppiyo cùng đi. Họ nói chuyện vang lên suốt cả dọc đường.
Đệ tử của du sĩ
Suppiyo là thanh niên Bramadatta. Đề tài của câu chuyện là Bụt và giáo pháp của
người. Du sĩ Suppiyo cố ý nói lớn để những vị khất sĩ có thể nghe. Tất cả những
lời ông nói đều nhắm tới sự kích bác Bụt và giáo pháp của người. Trong khi đó
thì lạ thay, thanh niên Bramadatta lại hết lòng bênh vực cho Bụt và giáo pháp của
người. Branmadatta dùng những lý luận và hình ảnh rất khéo léo để tán dương Bụt
và giáo đoàn của người. Khéo léo đến nổi tất cả các vị khất sĩ đi trước đó đều
có cảm tình với chàng.
Chiều hôm ấy Bụt ghé
vào nghỉ đêm ở Ambalatthika. Ambalatthika là một khu vườn rừng rất sum sê và tốt
đẹp, chỗ nghỉ mát của gia đình hoàng gia. Vua Bimbasara đã ngỏ ý là các vị tu
sĩ của bất cứ giáo phái nào nếu cần sử dụng Ambalatthika thì đều có quyền sử dụng
để nghỉ ngơi. Đêm đó hai thầy trò du sĩ Suppiyo cũng nghỉ đêm tại đấy.
Sáng hôm sau các thầy
khất sĩ bàn tán với nhau về thái độ hôm qua của hai thầy trò vị du sĩ. Bụt nghe
được những câu bàn tán ấy. Người bảo:
- Này các thầy, khi
nghe người ta công kích tôi, phỉ báng tôi, công kích và phỉ báng giáo pháp và
giáo đoàn khất sĩ, các thầy đừng buồn, các thầy đừng sinh lòng công phẫn, tức tối
hay phiền muộn. Điều ấy có hại cho các thầy. Khi nghe người ta khen ngợi tôi,
khen ngợi giáo pháp và giáo đoàn khất sĩ, các thầy cũng không nên mừng rỡ,
thích thú và mãn ý. Điều này cũng có hại cho các thầy. Thái độ đứng đắn là xét
xem những điều công kích ấy đúng hay sai, đúng ở chỗ nào, sai ở chỗ nào. Có như
thế quý vị mới có dịp học hỏi để đạt được nhiều tiến bộ.
Này các vị khất sĩ! Phần lớn là những người khen ngợi Bụt, Pháp và Tăng là những người chỉ thấy được những cái đẹp cái hay nhỏ bé của giáo pháp và giáo đoàn thôi. Như là nếp sống phạm hạnh, công phu trì giới, đời sống đạm bạc, thái độ thanh thản của chúng ta. Số người thấy được cái cao siêu mầu nhiệm nhất của giáo pháp mà đem lời ca ngợi thì ít lắm. Tôi muốn nói đến trí tuệ thực chứng của đạo giác ngộ. Trí tuệ này siêu việt, mỹ diệu, mầu nhiệm, vượt khỏi tầm tư duy và ngôn ngữ của người thường. Thấy được, hiểu được và chứng được trí tuệ ấy mới có thể biết và thấy được giá trị thật của đạo giải thoát.
Này các vị khất sĩ!
Trong thế gian có bao nhiêu chủ thuyết và bao nhiêu luận chấp. Người ta không
ngớt công kích và cãi vả nhau vì sự khác biệt của những chủ thuyết và luận chấp
ấy. Các vị khất sĩ, như tôi đã thấy và đã nghe, đã có ít nhất là sáu mươi luận
chấp làm căn bản cho hàng ngàn chủ thuyết hiện giờ có mặt trong các giới tư tưởng
và tôn giáo. Các vị nên biết rằng trước cái thấy của đạo giác ngộ giải thoát, tất
cả sáu mươi hai luận chấp ấy đều có những chỗ kẹt, đều có những chỗ sai lầm.
Hôm ấy Bụt nói kinh
Phạm Võng. Người phân tích nội dung của cả sáu mươi hai luận chấp và vạch ra những
sai lầm của các luận chấp này. Có mười tám luận chấp về quá khứ: bốn chủ trương
thuyết thường trú, bốn chủ trương thuyết vừa thường trú vừa vô thường, bốn chủ
trương thuyết hữu biên và vô biên, bốn chủ trương thuyết ngụy biện và hai chủ
trương thuyết không có nhân quả. Có bốn mươi bốn luận chấp về tương lai: mười
sáu chủ trương là còn tri giác sau khi chết, tám chủ trương là không còn tri
giác sau khi chết, tám chủ trương là không phải còn cũng không phải không còn
tri giác sau khi chết, bảy chủ trương thuyết đoạn diệt và năm chủ trương thuyết
hiện tại là niết bàn.
Trình bày xong những
sai lầm của sáu mươi hai luận chấp, Bụt nói:
- Một người đánh cá
giỏi khi quăng lưới xuống hồ tôm được hết tất cả tôm cá hồ vào trong cái màn lưới
có mắt lưới sít sao, ông ta nhìn những con tôm con cá đang cố nhảy lên cao để rồi
lại rơi mình vào trong lưới, và nói: "dù các ngươi nhảy cao đến mấy các
ngươi cũng vẫn còn nằm trong lưới của ta." Ông ta nói đúng. Hàng trăm hàng
ngàn học thuyết đang hiện hành và tranh chấp lăng xăng trong giới triết học và
tôn giáo này đều nằm kẹt trong cái lưới của sáu mươi hai luận chấp ấy, không thể
nào vượt thoát ra nổi. Các vị khất sĩ! Đừng đi vào trong cái lưới mê hồn ấy để mất
hết thì giờ và cơ hội tu tập đạo giải thoát. Đừng đi vào cái lưới của sự hý luận.
Này các vị khất sĩ! Tất
cả những luận chấp kia đều phát sinh do sự lừa gạt của tri giác và của cảm thọ.
Vì không tu tập chánh niệm, vì không quán chiếu nên người ta không biết được
chân tướng của tri giác và cảm thọ, do đó đã bị tri giác và cảm thọ lừa gạt. Nếu
thấy được nguồn gốc và bản chất của tri giác và cảm thọ, người ta sẽ thấy được
tự tính vô thường và duyên sinh của sự vật, người ta sẽ không bị vướng vào lưới
tham ái, lo âu, và sợ hãi, người ta sẽ không bị vướng vào cái lưới của sáu mươi
hai luận chấp.
Hôm ấy đại đức Ananda
đã nỗ lực ghi nhớ hết những lời Bụt dạy. Thầy đi bách bộ và thầm lặng trùng
tuyên lại những lời Bụt nói. Rồi thầy nghĩ: kinh này quan trọng lắm. Ta sẽ đặt
tên kinh này là kinh Phạm Võng. Phạm Võng là cái lưới vĩ đại thu tóm tất cả những
chủ thuyết sai lạc trong cuộc đời.
0 Đánh giá