Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 69. Chim Cút Và Chim Ưng
Tuy chưa bị Bụt gọi
riêng để quở trách lần nào, thầy Svastika vẫn biết rằng mình còn có rất nhiều
khiếm khuyết trong nếp sống phạm hạnh và thầy cũng biết rằng Bụt thấy hết những
khiếm khuyết ấy. Nếu Bụt không rầy hoặc chưa rầy có lẽ là vì Bụt thấy thầy có để
tâm hộ trì sáu căn, tuy sự hộ trì này chưa được nghiêm mật.
Mỗi lần thấy vị khất
sĩ hay nữ khất sĩ nào bị quở trách, Svastika thường xem như chính mình bị quở
trách, vì vậy thầy có nhiều cơ hội để tập thúc liễm thân tâm. Nhất là mỗi khi
thầy Rahula được Bụt gọi lại giáo hóa là thầy Svastika xem như là chính mình được
Bụt gọi.
Thầy Rahula đã bước
những bước thật vững chãi trên con đường tiến tu phạm hạnh và điều nầy là một
trợ duyên cho sự tu học của thầy Svastika. Có một lần thầy Svastika ngồi tâm sự
với thầy Rahula trong một cụm rừng về sự may mắn được xuất gia theo Bụt của
mình. Thầy nói thầy đã được nếm hương vị tịnh lạc và giải thoát rồi thì không
còn thấy nếp sống ngoài thế gian là vui thích nữa. Thầy Rahula bảo:
- Tuy vậy mình không
nên vội quá tin nơi mình. Công trình hộ trì sáu căn là công trình căn bản của nếp
sống phạm hạnh và ngay các vị lớn trong giáo đoàn khất sĩ cũng vẫn không dám
khinh thường công phu thực tập này.
Rồi thầy kể cho thầy
Svastika nghe về thầy Vangisa. Thầy Vangisa nổi tiếng là một vị khất sĩ vừa có
biện tài vừa có khiếu văn chương. Thầy đích thực là một thi sĩ, thầy đã làm nhiều
bài thi kệ ca ngợi Bụt, Pháp và Tăng. Thầy đã từng đọc thơ của thầy cho Bụt
nghe và Bụt đã ngỏ lời khen ngợi.
Hồi mới xuất gia, thầy
Vangisa được theo học với thầy Nigrodhakappa và y chỉ nơi thầy. Hai thầy trò cư
trú tại đền Aggalava miền ngoại ô thành Savatthi. Sau đó trưởng lão Nigrodhakappa
tịch, thầy được về tu viện Cấp Cô Độc.
Một hôm đi khất thực
với thầy Ananda, thầy Vangisa thú thật với thầy Ananda rằng tâm thầy không được
an tịnh và thầy khẩn cầu thầy Ananda hóa giải giùm. Hỏi ra, thầy Ananda biết được
rằng tâm của thầy Vangisa còn đang xao xuyến vì nhan sắc của một số các vị tiểu
thư thường đến cúng dường tại tu viện. Thầy Ananda hiểu rằng thầy Vangisa là một
nghệ sĩ, tâm hồn dễ rung động bởi những cái đẹp và vì vậy đã lấy cái sắc đẹp của
chính giáo pháp và của giác ngộ để giúp thầy Vangisa vượt thoát cái đẹp mong
manh, vô thường và có thể gây tai họa của nữ sắc. Thầy đã dạy thầy Vangisa chiếu
rọi ánh sáng vào đối tượng quán niệm để thấy tính cách bất tịnh và chóng tàn hoại
của các pháp. Thầy Vangisa đã thực tập theo lời giáo huấn của thầy Ananda, đã
thực tập hộ trì sáu căn và đã làm một bài thi kệ tự tính mà nhiều thầy biết đến.
Bài kệ ấy như sau:
Đã khoác áo ca sa,
Tham dục còn đuổi theo
Như trâu nhớ lúa người
Quả thật là hổ thẹn!
Con của nhà đại tướng
Tài giỏi nghề cung tên
Ngàn người bắn tứ phía
Vẫn phá được vòng vây.
Nay giai nhân có đến,
Đông hơn là quân tràn,
An trú nơi chánh pháp
Ta quyết cũng không sờn.
Ta đã theo Thế Tôn
Của dòng họ Mặt Trời
Trên đường về thong dong
Tình ta đã trọn gởi.
Do hộ trì sáu căn
Ta ung dung tiến bước
Não phiền vô lượng
Nào lay chuyển được ta?
Thầy Vangisa là người
thông minh và tài giỏi, vì vậy đã có lần vướng vào tâm trạng tự hào và âm thầm
có ý khinh miệt một số các thầy khác, nhưng may mắn thay, nhờ tu tập chánh niệm,
thầy đã thấy được niềm kiêu mạn khởi ra trong tâm thầy, và thầy bất giác cảm thấy
hổ thẹn. Thầy đã làm ra bài kệ sau đây để tự tỉnh:
Đệ tử Gotama,
Hãy đoạn trừ kiêu mạn!
Con đường kiêu mạn này
Chỉ đưa về khổ thủ!
Kẻ kiêu mạn ngấm ngầm
Cũng đi về địa ngục
Huống chi là những kẻ
Vênh váo nhìn cuộc đời!
Học đạo thấy đường ngay,
Tâm hồn được an lạc
Niềm vui đó rất cao
Ta phải mong đạt tới.
Hãy tập phép chánh niệm
Để đạt phép tam minh,
Kiêu mạn đoạn trừ xong
Mới thành công thật sự.
Nhờ có cảnh giác cao
cho nên thầy Vangisa đã vượt được rất nhiều chướng ngại và đã bước những bước
thật lớn trên con đường chuyển hóa. Thầy đã đạt tới quả vị Bất Sinh, và điều
này đã được trưởng lão Sariputta xác nhận. Ngày tâm tư bừng mở, thầy Vangisa đã
làm một bài thi kệ để tỏ lòng biết ơn Bụt. Bài thi kệ ấy như sau:
Ngày xưa say thơ mộng
Ta phiêu bồng khắp nơi
Cảnh chợ rồi cảnh quê
Cuối cùng được gặp Bụt!
Thế Tôn đã thương xót
Dạy cho ta phép mầu
Nghe xong khởi niềm tin
Khoác áo người khất sĩ.
An trú trong chánh pháp
Kiên cố ta một lòng
Nay chứng được tam minh
Đền ơn bậc tỉnh thức
Hạt giống của mặt trời
Thế Tôn đã gieo rắc
Vì chúng sanh u tối
Người khai mở lối ra
Bốn sự thật nhiệm mầu
Con đường tám nẻo chánh
An lạc và tự do
Nghĩa lời cùng vi diệu.
Phạm hạnh đã cao siêu
Độ sinh càng khéo léo
Niết bàn cứu muôn loài
Ơn sâu người chỉ dạy!
Thầy Sariputta trong
một buổi giảng cho các vị khất sĩ trẻ có đem trường hợp của thầy Vangisa ra để
làm gương. Thầy bảo: Thầy Vangisa trong bước đầu tu học cũng đã từng có những
tình cảm và những tâm trạng yếu đuối, nhưng sau đó nhờ tu học tinh chuyên đã vượt
thắng được mọi phiền não và chứng ngộ được diệu pháp. Biết vậy, người tu không
nên có mặc cảm, dù là mặc cảm tự tôn hay là mặc cảm tự ti. Tu tập chánh niệm,
ta sẽ ý thức được những gì đang xảy ra trong nội tâm và ta sẽ không bị lôi cuốn
theo những gì đang xảy ra. Hộ trì sáu căn vì vậy là phương pháp rất mầu nhiệm để
vững tiến trên đường đạo.
Nghe thầy Rahula kể về
thầy Vangisa, thầy Svastika hình dung lại được vị khất sĩ tài hoa này. Tuy thầy
đã từng được gặp thầy Vangisa nhưng chưa bao giờ có dịp trò chuyện. Thầy định bụng
hôm nào sẽ xin đến làm quen và học hỏi kinh nghiệm tu đạo của thầy Vangisa.
Thầy nhớ có một hôm Bụt
dùng hình ảnh về biển cả để dạy đại chúng về công phu hộ trì sáu căn. Người
nói:
- Nầy các vị khất sĩ,
mắt là một đại dương sâu, trong ấy có đầy những loài thủy quái, có đầy những
con nước xoáy và những đợt sóng ngầm rất nguy hiểm. Nếu không đi trong chánh niệm,
chiếc thuyền của quý vị sẽ bị những loài thủy quái, những con nước xoáy và những
đợt sóng ngầm ấy làm cho đắm chìm trong biển sắc. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý của
quý vị cũng là những đại dương sâu trong ấy có đầy những loài thủy quái...
Nhớ tới những lời dạy
ấy của Bụt, thầy Svastika thấy sâu sắc vô cùng. Quả thật sáu giác quan của thầy
là những đại dương sâu, và những đợt sóng ngầm có thể nổi dậy bất cứ lúc nào và
làm cho thầy chìm đắm. Thầy Rahula nói rất phải: thầy rất không nên khinh thường
và phải thực tập rất nghiêm chỉnh lời Bụt dạy.
Câu chuyện về con
chim Cút mà Bụt kể cho các thầy khất sĩ trẻ nghe trước túp lều của người tại tu
viện Jetavana là một câu chuyện thật dễ nhớ. Câu chuyện này cũng có mục đích nhắc
nhở các thầy giữ gìn sáu căn và đừng buông thả tự thân trong lĩnh vực của thất
niệm.
Bụt kể: Một hôm nọ có
một con chim Ưng thình lình đáp xuống và chụp lấy một con chim Cút rồi bay vút
lên cao. Con chim Cút than khóc, tự trách là mình đã đi ra khỏi vùng mà cha mẹ
nó bảo không nên ra khỏi cho nên mới bị tai nạn. "Nếu ta biết nghe lời cha
mẹ ta thì con chim Ưng này có làm gì được ta." Nghe con chim Cút nói thế, chim
Ưng hỏi: "Vậy vùng mà cha mẹ mầy bảo mầy đừng ra khỏi là vùng nào?"
Chim Cút trả lời: "Đó là vạt đất mới được cày." Chim Ưng lấy làm lạ,
bay đi, bèn mang con chim Cút ra trả về chỗ cũ. Trước khi bay đi, chim Ưng nói:
"Nầy Cút, ta đã thả mầy ra, mầy hãy liệu chừng, ta chỉ thả mầy lần này
thôi. Lần sau nếu bắt được mầy, ta sẽ không thả đâu."
Chim Cút trở về vạt đất
đã được cày, leo lên đứng trên một hòn đất lớn và thách thức chim Ưng:
"Này chim Ưng, mầy hãy xuống đây, xuống đây xem có thể bắt được ta hay
không?"
Chim Ưng nổi giận, xếp
hai cánh vào mình, lao vút xuống với tất cả sức lực của nó. Chim Cút biết thế
nên lập tức chui xuống núp dưới hòn đất. Chim Ưng đã bắt không được chim Cút mà
còn va vào hòn đất thật mạnh đến nỗi bị bể ngực và quay ra dẫy chết. Này các vị
khất sĩ, người tu hành phải an trú trong chánh niệm, hộ trì sáu căn cho nghiêm
chỉnh, rời khỏi lãnh vực chánh niệm tức là đi vào lãnh thổ của ma vương, thế
nào cũng bị tai nạn."
Thầy Svastika nhận thấy
trong giáo đoàn của Bụt có nhiều vị khất sĩ trẻ tuổi có đạo hạnh và tài năng.
Điều này làm cho thầy phấn khởi. Có một hôm thầy được tháp tùng một số các thượng
tọa tới dự lễ trai tăng ở tư thất cư sĩ Citta tại thị trấn Macchikasanda và đã
khám phá ra sự có mặt im lặng của một vị khất sĩ trẻ tuổi như thế. Cư sĩ Citta
là người nổi tiếng tinh thâm giáo lý. Ông là một vị đệ tử cư sĩ có đạo tâm và
cũng được quần chúng ái mộ gần như cư sĩ Anathapindika. Ông thường hay thỉnh
các vị cao đức tới nhà để cúng dường trai phạn và để được học hỏi. Hôm ấy có
trên mười vị khất sĩ cao niên được mời. Chỉ có Svastika và một vị khất sĩ khác
tên là Isidatta là hai người trẻ tuổi. Sau khi cúng dường trai hạn, cư sĩ Citta
đứng ra đảnh lễ các vị tôn túc, xin phép ngồi xuống một chiếc ghé thấp trước mặt
các vị xuất gia và đặt câu hỏi sau đây:
- Kính bạch các vị
tôn túc, con đã được nghe kinh Bramajala, trong đó Bụt nói về sáu mươi hai luận
chấp của các học phái đương thời. Con cũng có nghe những câu hỏi về sinh diệt
và về linh hồn mà các đạo sĩ thường nêu ra như: thế giới là hữu biên hay vô
biên, vĩnh cữu hay phải đoạn diệt, linh hồn và thân xác là một hay là khác, Như
Lai có còn không sau khi nhập diệt, hay là vừa còn vừa không còn, hoặc không
còn cũng không không còn... Bạch các vị tôn đức, do đâu mà có những luận chấp
và những câu hỏi có tính cách siêu hình ấy?
Trước câu hỏi của cư
sĩ Citta, tất cả các vị khất sĩ đều nín thinh, Citta lặp lại câu hỏi này tới ba
lần mà cũng không có vị khất sĩ nào lên tiếng để trả lời cả. Thầy Svastika cảm
thấy bối rối, và cảm thấy nóng bên hai tai. Đột nhiên thầy Isidata lên tiếng,
hướng về phía các vị trưởng lão, thầy hỏi:
- Kính bạch các vị
trưởng thượng, con có thể trả lời câu hỏi đó của cư sĩ Citta được không?
Các vị khất sĩ lớn trả
lời:
- Khất sĩ, ông có thể
trả lời nếu ông muốn.
Hướng về cư sĩ Citta,
thầy Isidatta nói:
- Nầy cư sĩ, sỡ dĩ có
những luận chấp và những câu hỏi ấy vì người ta còn mắc kẹt vào ngã kiến. Nếu
ngã kiến không còn, người ta sẽ không hỏi những câu hỏi như thế và không chủ trương
những luận chấp như thế.
Cư sĩ Citta lộ vẻ ngạc
nhiên và thán phục, song ông lại nói:
- Xin đại đức vui
lòng cắt nghĩa cho rõ thêm.
- Người không được gần
gũi các bậc thiện nhân, không được học hỏi giáo pháp giác ngộ, thường cho rằng
thân thể nầy là ta, hoặc thân thể nầy là của ta, hoặc có ta trong thân thể nầy,
và có thân thể nầy trong ta... Người ấy lại cho rằng cảm thọ là ta, là sở hữu của
ta, hoặc có ta trong cảm thọ nầy và có cảm thọ nầy trong ta...
Người ấy cũng có cùng
một kiến chấp ấy đối với tri giác, tâm hành và nhận thức. Đó là người đang bị kẹt
vào ngã kiến, chính vì bị kẹt vào ngã kiến như thế nên mới chủ trương và tin
vào những luận chấp như sáu mươi hai luận chấp trong kinh Phạm Võng, và mới hỏi
những câu hỏi như những câu hỏi về hữu biên và vô biên, thường và đoạn, một và
khác, còn hay là không còn.
Cư sĩ Citta, nếu học
hỏi và tu tập để phá trừ được ngã kiến thì những câu hỏi và những luận chấp kia
sẽ tự động trở thành vô nghĩa.
Cư sĩ hoàn toàn bị thầy
Isidatta chinh phục. Ông kính cẩn hỏi:
- Bạch đại đức, ngài
từ đâu tới?
- Cư sĩ Citta, tôi tới
từ Avanti.
- Bạch đại đức, tôi
nghe nói ở Avanti có một người trẻ tuổi tên là Isidatta đã xuất gia. Đó là một
thiếu niên anh tuấn, lỗi lạc phi thường, một người mà chúng tôi nghe tên mà
chưa bao giờ từng được gặp. Chẳng hay đại đức có gặp ông ta hay không?
- Cư sĩ Citta, tôi đã
có gặp ông ấy.
- Vậy thưa đại đức, vị
khất sĩ tài đức ấy hiện bây giờ ở đâu?
Đại đức Isidatta im lặng.
Cư sĩ Citta vốn người thông minh. Ông ngờ rằng vị đại đức đang ngồi trước mặt
mình là Isidatta. Ông hỏi:
- Có phải đại đức
chính là đại đức Isidatta đó không?
- Thưa phải, thầy
Isidatta trả lời.
Cư sĩ Citta mừng rỡ:
- Vậy thì quý hóa và
hân hạnh cho tôi biết mấy. Bạch đại đức Isidatta, vườn xoài và tệ xá tại
Macchikasada rất mát mẻ và đầy đủ mọi tiện nghi. Tôi rất mong ước được đại đức
đến viếng chúng tôi thường. Chúng tôi xin nguyện cúng dường đại đức tất cả những
gì đại đức cần đến như thực phẩm, y áo, thuốc men và chỗ ở.
Thầy Isidatta im lặng.
Sau đó các vị khất sĩ từ giã. Thầy Svastika nghe nói là sau đó, thầy Isidatta
không bao giờ trở lại nhà cư sĩ Citta một lần nữa. Và từ đó thầy cũng không còn
được gặp lại thầy Isidatta. Hình ảnh thầy Isidata sáng ngời trong tâm thầy Svastika.
Thầy Isidatta không những thông minh mà còn rất khiêm nhượng nữa. Thầy không
màng tới sự cung kính và cúng dường của người cư sĩ, dù là một vị đại cư sĩ như
Citta. Thầy Svastika thầm nguyện sẽ học theo hạnh của thầy Isidatta và thầm hẹn
là một hôm nào đó có dịp ghé về Avanti, thầy sẽ hỏi thăm để tìm gặp lại vị khất
sĩ ấy.
Thầy Svastika biết Bụt
rất thương yêu những thầy trẻ có chuyên tâm, có tuệ giác và có chí nguyện lợi
tha. Bụt đã từng nói là người trông cậy thật nhiều ở những vị này trong công
trình bồi đắp và trao truyền đạo pháp cho các thế hệ tương lai. Tuy vậy, thầy
thấy Bụt đã và đang đem lòng che chở cho cả các thầy trong giáo đoàn khất sĩ,
và người rất kiên nhẫn trong việc giảng dạy và hóa độ. Có thầy tu không thành công,
ra đời tới sáu lần mà đến khi hồi đầu, Bụt cũng cho phép trở lại giáo đoàn một
lần nữa. Có những vị thiếu thông minh đến nỗi học hoài mà cũng không thuộc được
mười sáu phép thở, vậy mà người vẫn tiếp tục vỗ về và khuyến khích.
Hồi đó, tại tu viện
Jetava, có một thầy tên Bhaddali. Thầy Bhaddali có những khuyết điểm mà Bụt biết,
nhưng người cố tình làm lơ để tạo cho thầy một cơ hội để chuyển hóa. Thầy không
theo kịp đại chúng trong việc chấp tri những quy luật của tu viện. Phép tắc của
tu viện có điều khoản là khi thọ trai, vị khất sĩ chỉ ngồi một lần cho đến khi
ăn xong bữa cơm mà không được đứng dậy để lấy thêm thức ăn hoặc làm những việc
khác. Đó gọi là phép nhất tọa thực. Tuy nhiên, thầy Bhaddali không làm như vậy
được, và sống trong đại chúng, thầy thường gây ra những phiền nhiễu cho người
khác, Bụt có gọi thầy lên nhiều lần và dạy thầy phép tự hỏi câu hỏi: "Tôi
phải làm gì để cho đại chúng hoan hỷ?" mỗi sáng mai. Vậy mà mấy tháng sau,
thầy vẫn chưa thành công. Trong đại chúng có những thầy không đủ kiên nhẫn và có
khi nói nặng thầy. Biết vậy, có hôm Bụt dạy đại chúng:
- Các vị khất sĩ, mọi
cá nhân trong tăng đoàn dù có những khuyết điểm trầm trọng, nhưng thế nào trong
con người ấy vẫn còn lại một ít hạt giống của niềm tin và tình thương. Chúng ta
phải cư xử với vị ấy như thế nào để những hạt giống của niềm tin và tình thương
còn lại trong con người không bị hoàn toàn tiêu diệt. Ví dụ có một người kia vì
bất hạnh mà mù một con mắt, và chỉ còn một con mắt. Bà con và những người thân
thuộc của người này cố nhiên sẽ tìm cách giúp đỡ và bảo vệ con mắt còn lại kia,
vì biết rằng con mắt kia mà mù nữa thì không còn gì là tương lai nữa. Vậy thì
các vị khất sĩ, các vị hãy giúp bảo vệ những hạt giống đức tin và tình thương
còn lại nơi người đồng đạo bằng cách đối xử dễ thương với người ấy.
Hôm ấy, thầy Svastika
có mặt. Thầy rất cảm động vì thái độ và tình thương của Bụt Thầy ngửng lên thì
thấy thầy Ananda đưa tay lau nước mắt, thì ra thầy Ananda cũng cảm động như thầy.
Bụt tuy là một người
rất ngọt ngào, nhưng có khi người cũng rất nghiêm khắc và cũng từng sử dụng những
lời quở trách rất thẳng thắn và rất quyết liệt. Người nào mà Bụt không độ được
hoặc chưa độ được quả thật là người không có tương lai.
Một hôm, Svastika được
chứng nghiệm một cuộc nói chuyện ngắn và rất hào hứng giữa Bụt và một vị điều
mã sư, nghĩa là một người huấn luyện điều phục ngựa. Bụt hỏi vị điều mã sư:
- Ông điều phục ngựa
như thế nào, xin nói cho chúng tôi nghe đi.
Vị điều mã sư:
- Thế Tôn, có nhiều
loại ngựa. Có loại rất dễ, chỉ cần dùng biện pháp ngọt ngào. Có loại khó trị
hơn phải dùng vừa biện pháp ngọt ngào vừa biện pháp mạnh. Có loài khó hơn, chỉ
có thể dùng biện pháp mạnh.
Bụt cười và hỏi:
- Vậy khi gặp loại ngựa
chứng mà cả ba biện pháp đều vô hiệu thì ông làm thế nào?
- Bạch Thế Tôn, trong
trường hợp ấy thì con phải hạ sát nó. Để nó sống chung trong bầy ngựa thì sẽ
làm hư hỏng những con ngựa khác. Bạch đức Thế Tôn, người điều phục các vị đệ tử
như thế nào, xin cho con biết với.
Bụt cười:
- Thì tôi cũng làm
tương tự như ông. Có những người chỉ cần ngọt ngào. Có những người vừa cần biện
pháp ngọt ngào vừa cần biện pháp mạnh. Có những người chỉ có thể dùng biện pháp
mạnh mới có thể trị nổi.
- Vậy trong trường hợp
cả ba biện pháp đều vô hiệu thì đức Thế Tôn làm gì đối với người bất khả trị
đó?
Bụt nói:
- Thì tôi cũng làm
như ông vậy, tôi giết người ấy đi.
Vị điều mã sư tròn
xoe hai mắt:
- Sao? Đức Thế Tôn giết
người à? Đức Thế Tôn dạy người ta giới bất sát...
Bụt nói:
- Tôi nói vậy thôi chứ
đâu có giết người theo kiểu ông giết ngựa. Gặp trường hợp có người không thể sử
dụng được một trong ba biện pháp trên thì tôi từ chối không chấp nhận vào giáo
đoàn khất sĩ, không chấp nhận là học trò của tôi, thế thôi, nhưng đó cũng là điều
bất hạnh lớn. Không được tu tập theo chính pháp trong tăng đoàn, đó là gì nếu
không phải là sự đánh mất cái cơ hội muôn kiếp một lần? Đó là gì nếu không phải
là một cái chết của tâm linh. Nhưng đó không phải chỉ là cho người kia mà là một
niềm đau cho cả tôi, vì tôi rất thương xót người đó, và tôi vẫn mong là một
ngày kia người đó có thể hồi đầu.
Ngày xưa, thầy
Svastika đã có dịp thấy và nghe Bụt quở trách và dạy dỗ thầy Rahula, và thầy
cũng đã từng thấy Bụt trách dạy một vài thầy khác. Bây giờ thầy thấy được sau
hành động quở trách và la dạy ấy cả một tình thương đằm thắm. Thầy Svastika biết
Bụt rất thương thầy dù Bụt chưa nói ra điều đó thành lời, nhưng chỉ cần nhìn
vào mắt người là thầy thấy rõ điều đó.
Đêm nay, đức Thế Tôn
có khách. Thầy Ananda nhờ thầy Svastika đi đun nước nấu trà. Khách là một vị hiệp
sĩ, dáng đi hiên ngang, lưng đeo trường kiếm. Ông cột ngựa ngoài cổng tu viện
Jetavana, gươm bên yên ngựa và được thầy Sariputta hướng dẫn vào chiếc am tranh
của Bụt. Người ông cao lớn, mắt ông sáng quắc và ông bước những bước dài, mắt
sáng quắc nhìn về phía trước. Thầy Ananda cho thầy Svastika biết đó là hiệp sĩ
Rohitassa.
Khi vào dâng trà, thầy
Svastika thấy hiệp sĩ Rohitassa và thầy Sariputta đang ngồi đối diện Bụt trên
những chiếc gỗ kê thấp, còn thầy Ananda thì đứng hầu sau lưng Bụt. Dâng trà cho
Bụt, cho khách và cho hai thầy xong, thầy Svastika cũng đến đứng sau lưng Bụt
bên cạnh thầy Ananda. Mọi người lặng thinh một lúc thật lâu sau khi uống trà. Đột
nhiên, hiệp sĩ Rohitassa mở lời:
- Bạch đức Thế Tôn,
có một cõi nào mà không có sinh, không có già, không có bịnh, và không có chết?
Có một cõi nào mà muôn loại không chịu luật sinh diệt? Ta có thể di chuyển bằng
cách nào để ra khỏi thế giới của sinh diệt để đi tới thế giới không sinh diệt
kia?
Bụt trả lời:
- Này, Rohitassa,
không thể nào ra khỏi thế giới sinh diệt bằng cách di chuyển, dù ta có đi mau
cách mấy đi nữa, dù ta có đi mau hơn cả ánh sáng.
Nghe Bụt nói như thế,
hiệp sĩ chắp hai tay lại:
- Lạy đức Thế Tôn,
người dạy rất chí lý. Quả thật ta không thể đi ra khỏi biên giới của thế giới của
sinh diệt bằng cách di chuyển, dù bằng tốc độ nào. Con nhớ trong một kiếp trước
con đã từng có thần thông và con đã có thể bay trong hư không với tốc độ của một
mũi tên, con chỉ vần một bước là đã có thể từ bờ biển miền Đông con sang tới bờ
biển miền Tây. Con đã cố quyết vượt biên giới của thế giới sinh lão, bệnh, tử,
để đi sang một thế giới khác, một thế giới trong đó ta không còn bị không chế bởi
luật sinh diệt. Con đã đi suốt ngày như vậy, ngày này sang ngày khác, không dừng
lại hoặc để ăn, hoặc để uống, hoặc để nghỉ ngơi, hoặc để ngủ, hoặc để đi đại tiện
hay tiểu tiện... Con đã đi trên một trăm năm với tốc độ ấy nhưng con đã không
đi tới đâu cả và rốt cuộc con đã chết dọc đường... Vi diệu thay, dùng sự thật
thay là lời nói của đức Thế Tôn! Quả thật ta không thể nào vượt được biên giới
của cõi sinh tử bằng cách di chuyển, dù là di chuyển với tốc độ của ánh sáng.
Bụt dạy:
- Tuy vậy, ta không
nói rằng cõi sinh tử nầy không thể vượt được. Này Rohitassa, ông có thể vượt khỏi
cõi sinh tử nầy. Ta sẽ chỉ cho ông con đường để vượt thoát thế giới sinh tử.
Này Rohitassa, chính trong tấm thân dài bảy thước của ông mà thế giới sinh tử
được sinh khởi và cũng trong chính tấm thân dài bảy thước ấy mà ông có thể tìm
thấy được sự chấm dứt của thế giới sinh tử. Hãy quán chiếu thân thể ông. Hãy
quán chiếu thế giới sinh diệt ngay trong tấm thân bảy thước của ông. Quán chiếu
để thấy được thực tướng vô thường, vô ngã, bất sinh và bất diệt của vạn pháp
trong vũ trụ. Rồi ông sẽ thấy thế giới sinh diệt tan biến và thế giới của bất
diệt bất sinh hiển lộ. Ông sẽ được giải thoát khỏi mọi khổ đau và sợ hãi. Để vượt
khỏi thế giới của khổ đau và sinh diệt, ông không cần đi đâu hết. Ông chỉ cần
ngồi lại và nhìn sâu vào tự tánh của thân thể ông.
Thầy Svastika thấy
hai mắt của đại đức Sariputta sáng quắc như hai vì sao. Hiệp sĩ cũng lộ vẻ vui
sướng một cách rõ rệt. Svastika cảm động không cùng, ai dè pháp Bụt mầu nhiệm đến
thế và cũng hùng tráng đến thế. Thật như là một bản đại hùng ca. Chìa khóa của
sự thành công nằm ngay trong lòng bàn tay của mình, thầy Svastika cảm thấy rõ
ràng điều đó.
0 Đánh giá