Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 70. Bụt Từ Đâu Tới Và Sẽ Đi Về Đâu?
Một hôm nọ, khi trời đang cơn mưa tầm tã, có một vị du sĩ tới viếng. Vị du sĩ này tên là Uttiya. Đại đức Ananda tiến dẫn ông vào gặp Bụt. Thầy giới thiệu vị du sĩ, nhắc ghế mời ông ngồi, rồi đi lấy khăn để ông lau khô đầu tóc và mình mẩy. Uttiya hỏi Bụt:
- Sa môn Gotama, thế
giới là còn mãi hay là sẽ có khi bị hoại diệt?
Bụt mỉm cười, nói:
- Du sĩ Uttiya, tôi
xin phép không trả lời câu hỏi đó.
Uttiya hỏi:
- Thế giới là có biên
giới hay không có biên giới?
- Tôi cũng không trả
lời câu hỏi đó.
- Vậy thì thân thể và
linh hồn là một hay là hai?
- Câu hỏi này tôi
cũng xin phép không trả lời.
- Sau khi chết, sa
môn Gotama còn hay là mất?
- Câu hỏi nầy tôi
cũng xin phép không trả lời.
- Hay ngài nghĩ rằng
sau khi chết, ngài vừa còn mà cũng vừa mất?
- Du sĩ Uttiya, câu hỏi
đó, tôi cũng không trả lời.
Uttiya ngạc nhiên.
Ông nói:
- Câu nào tôi hỏi, sa
môn Gotama cũng không trả lời. Tại sao thế?
Vậy hỏi câu nào sa
môn Gotama mới chịu trả lời?
Bụt nói:
- Tôi chỉ trả lời những
câu hỏi về đạo pháp có liên hệ tới công phu tu tập nhằm gạn lọc thân tâm, vượt
thắng lo âu và sầu khổ mà thôi.
- Đạo pháp của sa môn
Gotama có thể cứu độ được bao nhiêu người trên thế giới?
Bụt lặng yên không
nói. Du sĩ Uttiya cũng ngồi yên lặng. Sợ vị du sĩ nghĩ lầm rằng Bụt không thèm
hoặc không đủ sức trả lời những câu hỏi của ông ta, và nghĩ như thế thì tội
nghiệp cho ông ta quá, đại đức Ananda lên tiếng:
- Du sĩ Uttiya để tôi
nói cho bạn nghe một ví dụ này, và bạn có thể hiểu ý của thầy tôi. Giả dụ có một
ông vua kia cư trú trong một thành trì thật kiên cố, có hào sâu và hầm chông
bao quanh, chỉ có một cửa ra vào mà thôi, và ở cửa ra vào ấy vua đã cử một người
thật sáng suốt đứng canh gác. Người gác cửa này chỉ cho vào thành người nào mà
ông ta biết và nhận mặt được, ngoài ra ông ta chặn lại tất cả một người lạ mặt.
Ông ta cũng đã đi tuần tiễu chung quanh thành trì và biết rõ rằng không có một
kẻ hở nào do đó ngoại nhân có thể đột nhập được vào thành, dù cho một cái lỗ nhỏ
đủ để một con mèo con chui qua. Ông vua trấn ngự trong thành không lưu tâm tới
số lượng những người được phép qua lại cổng thành. Ông vua ấy chỉ quan tâm đến
việc làm thế nào cho kẻ gian không đột nhập được vào thành. Thầy tôi cũng vậy.
Sa môn Gotama không quan tâm mấy tới số lượng những người theo đạo. Sa môn
Gotama chỉ quan tâm tới những pháp môn có hiệu lực ngăn chặn và diệt trừ tham dục,
bạo động, và mê vọng để thực hiện an lạc và giải thoát mà thôi. Nếu bạn hỏi thầy
tôi những câu hỏi thật sự hữu ích cho việc điều phục thân tâm và tu tập thiền
quán thì thầy tôi sẽ trả lời bạn, chứ sao không?
Du sĩ Uttiya lĩnh ý,
nhưng vì ông ta quá chú trọng đến những vấn đề thuộc phạm vi lý luận siêu hình
nên ông đã cáo từ Bụt và đại đức Ananda mà không cảm thấy thỏa mãn cho lắm.
Sau đó mấy hôm lại có
một vị du sĩ khác tên là Vacchagota tới viếng Bụt. Ông ta cũng hỏi Bụt những
câu có tính cách tương tợ như những câu hỏi của du sĩ Uttiya. Ví dụ ông hỏi:
- Sa môn Gotama, xin
ngài cho biết là có ngã hay không?
Bụt lặng thinh không
đáp. Sau vài câu hỏi không được giải đáp, Vacchagota đứng dậy và bỏ đi.
Sau khi Vacchagota đã
đi khuất, đại đức Ananda hỏi Bụt:
- Thế Tôn, trong các
buổi pháp thoại, Thế Tôn đã từng có giảng dạy về đạo lý vô ngã. Tại sao hôm nay
Thế Tôn không trả lời những câu hỏi về ngã của du sĩ Vacchagota?
Bụt nói:
- Ananda, đạo lý vô
ngã mà tôi giảng dạy cho các vị khất sĩ là một pháp môn hướng dẫn thiền quán,
mà không phải là một chủ thuyết. Hiểu nó như một chủ thuyết, các vị có thể bị kẹt
vào nó.
Tôi đã chẳng có lần bảo
các thầy là giáo pháp phải được xem như chiếc bè chở ta qua sông, như ngón tay
chỉ mặt trăng, và ta không nên bị kẹt vào giáo pháp hay sao? Du sĩ Vacchagota
chỉ muốn tôi đưa ra một chủ thuyết thì tôi đưa ra sao được. Tôi không muốn cho
Vacchagota kẹt vào một chủ thuyết, dù là chủ thuyết hữu ngã hay là chủ thuyết
vô ngã. Nếu mình nói với ông ta là có ngã, thì là mình ngược lại giáo pháp của
mình. Nếu mình nói với ông ta là không có ngã, để ông ta níu vào đấy như một chủ
thuyết rồi để ông ra bị kẹt vào đấy thì có ích gì cho ông ta? Vậy nên im lặng
là câu trả lời hay nhất trong trường hợp này, thà rằng họ cho là mình
"không biết" còn hơn là họ bị kẹt vào kiến chấp.
Một hôm đại đức
Anuruddha trên đường đi khất thực bị một nhóm du sĩ chặn lại cật vấn. Họ bắt thầy
phải trả lời cho được câu hỏi của họ. Họ nói trả lời được thì họ mới cho đi. Họ
hỏi:
- Chúng tôi nghe đồn
sa môn Gotama là bậc giác ngộ vẹn toàn, và giáo pháp của người rất cao siêu mầu
nhiệm. Thầy là môn đệ của sa môn Gotama, vậy xin thầy cho biết: sau khi chết sa
môn Gotama có còn hiện hữu hay không?
Rồi các vị du sĩ buộc
đại đức Anaruddha chọn một trong những điều sau đây:
1. Sau khi chết, sa
môn Gotama còn.
2. Sau khi chết, sa
môn Gotama mất.
3. Sau khi chết, sa
môn Gotama vừa còn vừa mất.
4. Sau khi chết, sa
môn Gotama vừa không còn vừa không mất.
Khất sĩ Anuruddha biết
rằng trong bốn câu trả lời đó không có câu trả lời nào phù hợp với giáo pháp của
Bụt. Thầy im lặng, nhưng các vị du sĩ không bằng lòng sự im lặng đó. Họ buộc thầy
phải nói một cái gì đó. Cuối cùng, đại đức nói:
- Nầy các bạn, theo
tri kiến của tôi thì bốn mệnh đề đó, không mệnh đề nào diễn tả được sự thật về
sa môn Gotama.
Các thầy du sĩ cười
và bảo nhau:
- Xem bộ vị khất sĩ
này là người mới tu cho nên ông ta mới không trả lời được câu hỏi của mình và
tìm mọi cách để thối thác. Thôi chúng ta nên để cho ông ta đi cho rồi.
Nói xong, họ bỏ đi. Sau
đó mấy hôm, gặp giờ pháp thoại, đại đức Anuruddha đem việc xảy ra trình lên Bụt,
rồi thầy nói:
- Thế Tôn, xin Thế
Tôn soi sáng cho chúng con, để chúng con được học hỏi thêm và để cho chúng con
có khả năng trả lời mỗi khi được hỏi những câu hỏi tương tợ.
Bụt hỏi Anuruddha:
- Này Anuruddha, đi
tìm bắt sa môn Gotama bằng khái niệm rất khó. Sa môn Gotama ở đâu? Anaruddha!
Có thể tìm sa môn Gotama nơi hình sắc không?
- Bạch Thế Tôn,
không.
- Có thể tìm sa môn
Gotama nơi cảm giác không?
- Bạch Thế Tôn,
không.
- Có thể tìm sa môn
nơi tri giác, tâm tư và nhận thức không?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Vậy thì Anuruddha,
có thể tìm sa môn Gotama ngoài hình sắc không?
- Bạch Thế Tôn,
không.
- Có thể tìm sa môn
Gotama ngoài cảm giác không?
- Bạch Thế Tôn,
không.
- Có thể tìm sa môn
Gotama ngoài tri giác, tâm tư và nhận thức không?
- Bạch Thế Tôn, không.
Bụt nhìn Anuruddha:
- Vậy thì tìm sa môn
Gotama ở đâu? Anuruddha, ngay trong giờ phút hiện tại đứng trước sa môn Gotama
mà còn không nắm bắt được sa môn Gotama huống hồ là sau khi sa môn Gotama diệt độ!
Anuruddha, tự thân của sa môn Gotama, cũng như tự thân của bất cứ một pháp nào
trong vạn pháp, không thể nào nắm bắt được bằng khái niệm, bằng những phạm trù
của nhận thức phân biệt. Phải thấy được các pháp trong liên hệ duyên khởi của nó.
Phải thấy được sa môn Gotama nơi những pháp mà ta thường cho là không phải sa
môn Gotama, như thế mới thấy được chân tướng của sa môn Gotama.
Anuruddha! Muốn thấy được tự tánh của một đóa hoa sen, ta phải thấy được đóa sen nơi những pháp mà ta không gọi là đóa sen, như ánh sáng mặt trời, nước hồ, đám mây, bùn đất, hơi nóng... Chỉ có cái thấy đó mới đưa ta vượt thoát được cái lưới biển kế sở chấp, tức là cái lưới phân biệt khái niệm, tức là những phạm trù sinh, diệt, này, kia, có, không, dơ, sạch, thêm, bớt... Muốn thấy được sa môn Gotama cũng thế. Bốn phạm trù: có, không, vừa có vừa không, không có cũng không không, chỉ là bốn cái lưới nhện trong số bao nhiêu chiếc lưới nhện khác, không có đủ sức nắm bắt được con chim đại bàng của thực tại mầu nhiệm.
Anuruddha! Thực tại tự
thân không thể dùng khái niệm phân biệt mà nắm bắt, không thể dùng ngôn ngữ văn
từ mà diễn bày. Chỉ có trí tuệ thực chứng do thiền quán đem lại mới giúp ta nhận
được tự thân thực tại. Anuruddha, một người chưa bao giờ có dịp nếm hương vị của
một trái xoài thì không thể nào biết được hương vị ấy dù người khác có dùng bao
nhiêu ngữ ngôn, văn từ và khái niệm phân biệt để diễn tả hương vị trái xoài cho
người kia nghe. Chỉ có kinh nghiệm chứng đắc trực tiếp mới đưa ta thể nhập được
thực tại. Do đó tôi đã từng nhiều lần nói với các vị là đừng nên đi lạc vào thế
giới của hý luận để đánh mất thời gian quý báu của sự tu tập quán chiếu.
Anuruddha! Vạn pháp
là vạn pháp trong cái tự thân như thật của nó, cho nên ta gọi tự thân của các
pháp là chân như (tathatha). Chân như là tự thân mầu nhiệm của vạn pháp. Đóa sen
từ chân như mà tới, Anuruddha cũng từ chân như mà tới, sa môn Gotama cũng từ
chân như mà tới. Từ chân như mà tới thì gọi là như lai (tathagatha). Từ chân
như tới, vạn pháp đi về đâu? Vạn pháp đi về chân như. Đi về chân như thì gọi là
như khứ (tathagatha). Thật ra vạn pháp không từ đâu tới cả, cũng không đi về
đâu cả, vì tự thân của vạn pháp đã là chân như rồi.
Anuruddha! Nghĩa đích
thực của như lai là không từ đâu tới mà cũng không đi về đâu cả (từng vô sở
lai, diệc vô sở khứ). Anuruddha, từ hôm nay trở đi tôi sẽ tự gọi là như lai (tathagatha).
Như lai ưa từ này, bởi vì từ này tránh được ý niệm phân biệt có thể thấy được
trong các đại danh từ tôi và ta.
Đại đức Anuruddha mỉm
cười:
- Bạch như lai, từ
nay xin người cứ tự xưng là Như Lai đối với chúng con. Chúng con biết rằng
chúng con cũng từ chân như tới, nhưng chúng con không tự xưng chúng con là Như Lai,
chúng con chỉ để Như Lai sử dụng đại danh từ này. Thế Tôn, mỗi lần Thế Tôn tự gọi
mình là Như Lai, chúng con lại có dịp được nhắc để quán chiếu và nhớ rằng chúng
con cũng thuộc về cùng một bản thể chân như, bất sinh và bất diệt.
Bụt mỉm cười:
- Như Lai rất vui
lòng vì đề nghị ấy của thầy Anuruddha.
Đại đức Ananda có mặt
trong buổi tham vấn kỳ diệu hôm ấy. Sau khi cuộc tham vấn chấm dứt, thầy đi
theo đại đức Anuruddha. Thầy đề nghị là ngày hôm sau, hai người sẽ lên trùng
tuyên cho đại chúng nghe nội dung của cuộc tham vấn từ đầu tới cuối, và đại đức
Anuruddha sẽ bắt đầu buổi trùng tuyên bằng cách thuật lại cuộc đối thoại giữa
thầy và các du sĩ ngoại đạo trên đường phố Savatthi. Thầy Anuruddha rất hoan hỷ
về đề nghị nầy.
0 Đánh giá