Read more
Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đạo Phật Qua Nhận Thức Mới
Chương 4. Vấn đề chân lý trong đạo Phật
Trong một bài trước,
chúng ta đã thấy rằng đạo Phật chủ trương một cái Biết rộng rãi, thấu triệt, và
cao tột (Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác). Cái Biết nầy căn cứ trên những thực
nghiệm tâm linh, trên sự giải thoát giác ngộ của một vị Phật đã siêu xuất vô
minh và sinh tử luân hồi. Cái Biết ấy là cái biết về chân tướng của vạn hữu,
cái Biết về bộ mặt thực của mọi hiện tượng (bản lai diện mục).
Chân tướng ấy, bộ mặt
thực ấy, được gọi là chân như, là bản thể, là Phật; nói tóm lại, là chân lý. Vấn
đề chân lý trong đạo Phật được quan niệm như thế nào?
Ðạo Phật chủ trương rằng
tri thức con người có thể đạt được đến chân lý, với điều kiện là con người phải
chuyển cái tri thức hiện thời thành trí tuệ Bát Nhã. Tri thức của chúng sanh có
một khả năng kém cỏi vì đã bị bao nhiêu mê ám che lấp (vô minh). Nay diệt được
những mê ám ấy thì có thể chuyển Thức (tri thức) thành Trí (Bát Nhã) và với khả
năng nầy, con người mới có thể trực nhận được Bản Thể.
Duy thức học phân biệt
ba loại hiểu biết mà tri thức con người có thể có được:
1. Sự hiểu biết bằng hiện lượng
Lượng tức là sự phân
biệt, so đo, hiểu biết. Hiện lượng là cái biết trực tiếp những sự vật trong thời
gian hiện tại và không gian hiện tại. Sự hiểu biết nầy không cần trải qua một
trung gian suy luận. Tôi thấy trước mặt tôi có một cuốn tự điển. Cái "thấy"
ấy là hiện lượng, khả năng nhận thức trực tiếp không cần suy nghĩ. Có thể tạm
xem như là một lối trực giác được.
Nhưng có trường hợp
hiện tượng đúng và có trường hợp hiện tượng sai. Thấy sợi dây, cho nó là sợi
dây, đó là "chân hiện lượng" (hiện lượng đúng). Thấy sợi dây, hoảng hốt
cho là con rắn, ấy là "tợ hiện lượng" (hiện lượng sai). Tợ nghĩa là
tương tợ như đúng, nhưng kỳ thật là sai lầm.
2. Sự hiểu biết bằng tỷ lượng
Tỷ đây có nghĩa là so
sánh, suy luận, đối chiếu. Nếu ta hỏi "chiều mai có thể có mưa không"
thì hiện lượng của ta không trả lời được vì nó chỉ có thể biết được việc trong hiện
thời và hiện xứ. Chiều mai tức là việc xảy ra ở trong thời gian khác, vậy phải
nhờ vào một khả năng suy luận khác: khả năng ấy là tỷ lượng. Cũng như khi tôi
hỏi: "Có gì trong lòng trái đất không" thì hiện lượng của tôi cũng
không thể trả lời, vì việc ở đây không phải là việc ở hiện xứ, không thể nhận
biết được nếu không có tác dụng suy luận. Vì thế phải cần dùng tỷ lượng. Sau bức
tường kia có gì mà khói lên? Tỷ lượng trả lời rằng có lửa. Bởi về nó suy luận
"có khói tức là phải có lửa". Nếu sau bức tường mà có một đống lửa thực,
thì gọi là "chân tỷ lượng" (tỷ lượng đúng), còn nếu sau bức tường có
một vật khác không phải lửa nhưng cũng có thể làm nguyên nhân cho khói (như một
chiếc xe hơi rồ máy chẳng hạn) thì gọi là "tợ tỷ lượng" (tỷ lượng
sai).
Hiện lượng tuy chỉ cần
nhận thức những sự vật ở hiện thời và hiện xứ nhưng vẫn cứ bị sai lầm luôn
luôn. Tỷ lượng vì phải suy đạt đến những cái ở thời gian khác và ở địa phương
khác nên lại dễ bị sai lầm hơn nữa. Do đó, sự suy tư trắc đạt của tỷ lượng thường
dẫn ta đi xa sự thực một cách đáng sợ. Các nghi vấn lớn lao về cuộc đời, về bản
thể, đã không thể giải quyết nhờ hiện lượng, thì cố nhiên phải nhờ tỷ lượng.
Nhưng tỷ lượng thường dẫn ta đến những biên giới siêu hình xa lăng lắc và thường
biến ảo không lường. Ngọc Hoàng, Thượng Ðế, Nam Tào, Bắc Ðẩu, Táo Quân, Phạm
Thiên... đều là những sản phẩm của tỷ lượng.
Trong phạm vi thực
nghiệm, tỷ lượng còn tỏ ra lắm lúc sai lầm, huống hồ là khi đã vượt ra ngoài thực
nghiệm. Ðôi cánh tự do và táo bạo của tỷ lượng đưa ta đi cùng khắp, nhưng khi trở
về chỉ đem lại những giải thuyết khó tin khó nhận. Thế cho nên tỷ lượng trong rất
nhiều trường hợp đã là tợ tỷ lượng, và con người không thể nương vào đấy để đi
tìm chân lý.
Vậy thì do đâu mà tri
thức của chúng sanh không thể tìm đến chân lý? Chính là do ở tợ hiện lượng và tợ
tỷ lượng. Nhưng tại sao tri thức chúng sanh lại không thuần là chân hiện lượng,
chân tỷ lượng mà lại có xen vào tợ hiện lượng và tợ tỷ lượng?
Ðạo Phật chủ trương:
vì có một yếu tố mê mờ, si ám đã gây nên những thứ "tợ" đó. Thứ mê mờ
si ám kia được gọi là vô minh (avidya).
Các bậc giác ngộ là những người đã phá trừ được vô minh, tiêu diệt được tợ hiện lượng và tợ tỷ lượng, phát triển đến cùng cực chân hiện lượng và chân tỷ lượng. Hai khả năng sau nầy, sau khi vô minh đã bị trừ diệt, có thể đạt đến trạng thái sáng suốt cao nhất của nó là Bát Nhã Trí (Prajna) để có thể trực nhận được chân lý vạn hữu.
Các bậc giác ngộ, sau
khi chứng đạt chân lý, liền nghĩ đến việc giảng giải cho người chưa chứng đạt.
Nhưng chân lý tuyệt đối không thể dùng một khí cụ tầm thường kém cỏi là ngôn ngữ
để có thể thuyên giải, thuyên minh. Thế cho nên dù các bậc giác ngộ có thuyên
giải, thì cũng có thể thuyên giải được ảnh tượng của chân lý và phương pháp đạt
đến chân lý, chứ không thể thuyên giải bản thân của chân lý được.
Ảnh tượng của chân lý
chỉ là một phương tiện để chỉ bày chân lý chứ không phải là chân lý. Chúng sanh
phải nương vào ảnh tượng ấy để tìm dần đến chân lý bằng học tập, bằng thực
hành. Tuy chưa phải là bản thân chân lý, nhưng ảnh tượng kia cũng vượt khỏi những
hình bóng tưởng tượng trắc đạc sai lầm, những vọng tưởng điên đảo về chân lý của
tợ tỷ lượng.
Vì thế, chân lý không
nằm trong kinh điển, và kinh điển chỉ là phương tiện chỉ bày chân lý. Cho nên đức
Phật có dạy: "Chân lý là mặt trăng. Giáo lý của ta là ngón tay chỉ mặt
trăng. Ðừng lầm ngón tay ta là mặt trăng vậy." Nếu y theo kinh điển để giải
nghĩa, để tìm chân lý trong những giòng chữ, thì đó chính là chỉ biết nhìn ngón
tay mà chưa biết nhìn mặt trăng. Nhưng rời bỏ hẳn kinh điển đi thì lại có thể
rơi vào những điên đảo vọng tưởng của tợ tỷ lượng. Thế nên một vị tổ sư đã nói:
"Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh thất tự, tức đồng ma thuyết,"
nghĩa là: "Chấp chặt nơi văn tự mà giải nghĩa, thì oan cho đức Phật, mà rời
bỏ kinh điển thì lại lạc vào những tà thuyết của ma vương."
Vậy ngoài hai loại hiểu
biết là hiện lượng và tỷ lượng, ta còn có một loại hiểu biết thứ ba nữa là
thánh giáo lượng.
3. Sự hiểu biết bằng thánh giáo lượng
Sự hiểu biết nầy có
được là nhờ căn cứ trên lời dạy của các bậc giác ngộ. Ðó chính là những
"ngón tay chỉ mặt trăng" nhờ đấy mà kẻ phàm phu có được những phương
tiện để trở thành bậc thánh nhân giác ngộ.
Nhưng đối với những
thánh giáo nầy, ta cũng phải giữ một thái độ dè dặt tìm hiểu. Vì chưa thấu đạt
trực tiếp, nên ta chưa biết một cách "thực nghiệm" rằng chân lý có thực
là một chân lý không, hay chẳng qua chỉ là một mớ tợ tỷ lượng như bao nhiêu thứ
tợ tỷ lượng khác. Ở đây, phải có đức tin. Nhưng đức tin này cũng phải do những
nhận xét, những chứng nghiệm sơ bộ mới được xây dựng vững vàng.
Ví như trong khi con
người đang cố chấp vạn vật là thường, có bản ngã, mà nghe Phật dạy một chân lý
gồm có chủ trương vô thường vô ngã thì con người phải kiểm soát lại xem có thực
rằng vạn vật là vô thường vô ngã hay chăng. Nếu thực thì đó có thể là một trong
những căn bản cho Ðức Tin vậy.
Ta lấy thêm một thí dụ
trong câu chuyện giả đặt sau đây:
Một vùng kia, người
ta mắc bệnh truyền nhiễm. Một bác sĩ đến nghiên cứu chứng bệnh và trị lành được
nhiều người. Chứng bệnh dần dần bớt hoành hành trong vùng đó. Một bác nhà quê đến
thăm bác sĩ.
Bác sĩ vốn là một nhà
vi trùng học đại tài, bảo bác nhà quê của chúng ta rằng có những sinh vật nhỏ hết
sức, đến nỗi mắt trần (l’oeil nu) không thể trông thấy được; những sinh vật ấy
phá hoại cơ thể con người và làm ra nhiều bệnh truyền nhiễm rất nguy hại như bịnh
lao, bịnh dịch, bịnh đậu mùa...
Khó tin quá, bác nhà
quê lắc đầu. Tin sao được khi mình chưa nghe ai nói đến một "chân lý"
kỳ quái như thế bao giờ. Nếu tin ngay thì là mê tín đấy, dù là tin đúng. Mà
không tin thì không làm sao thấy được sự thực - thấy vi trùng.
Kỳ thực, bác sĩ vốn
là một nhà có thực học, sự thực kia (vi trùng làm bệnh) ông thấy rất rõ ràng,
nhưng chẳng biết làm sao cho bác nhà quê tin! Ông bèn cắt nghĩa một cách tàm tạm
(phương tiện) rằng những con "vi trùng" ấy nó như cái móc câu, hay là
cái phết. Nhưng "sự thực" ấy của nhà bác học nói ra, đối với bác nhà
quê là "siêu hình" quá, khó tin quá. Con trùng gì mà như cái móc câu,
như cái phết? Con trùng gì mà lại không trông thấy được? Không trông thấy được
mà lại biết như cái phết, như cái móc câu?
Trước kia, bác nhà
quê cho rằng bệnh là do ma quỷ, la sát làm hại. "Ma quỷ, la sát"
chính là vọng tưởng điên đảo, là sản phẩm của tợ tỷ lượng. Nay "vi trùng móc
câu" là thánh giáo lượng. Bác nhà quê có thể tin được cái chân lý "vi
trùng móc câu" này chăng?
Ban đầu thì nghi.
Nhưng sau xét nghiệm lại, bác thấy có những điểm sự thực làm bác có thể tin được:
Trước khi bác sĩ đến, người ta đã cúng cấp trừ tà trừ quỷ nhiều, sao bệnh không
bớt hoành hành? Sao bác sĩ chích thuốc cho ai thì người ấy khỏi? Bác sĩ học giỏi
hơn, thong thái hơn mình, ai chối cãi được điều ấy? Nếu không biết rõ, nếu phỏng
đoán mù mờ thì cái chân lý "vi trùng móc câu" kia làm sao có thể làm
nền tảng cho một thứ thuốc hay được? Hơn nữa, được nghe lời giảng giải về vi
trùng, về kính hiển vi, bác nhà quê đã thấy hợp mắt lắm rồi. Vì thế bác nhà quê
tin.
Nhưng tin chưa đủ. Phải
"thấy" cho được mới nghe. Bởi vì nếu có tin, thì chỉ tưởng tượng được
"nó" mà thôi. Nhưng làm sao mà tưởng tượng? Bác nhà quê quyết được
nhìn qua kính hiển vi. Và sau khi "lao tâm khổ tứ" nhiều phen, mới thấy
được các "chân lý vi trùng". Bấy giờ là một sự nhận thức trực tiếp.
Và ống kính kia quả là Bát Nhã Trí, là "vô thượng chính biến tri
giác" vậy.
Bác nhà quê không thỏa
mãn với lời mô tả của bác sĩ, muốn được "thấy vi trùng" một cách trực
tiếp. Bác biết rằng tưởng tượng theo lời mô tả của bác sĩ thì tuy không còn sai
như khi bác vọng tưởng quỷ quái la sát nữa, nhưng cũng vẫn chưa đúng hẳn. Vậy
thì người học Phật cũng không thỏa mãn với những ngón tay chỉ mặt trăng, những bóng
dáng của chân lý, dù bóng dáng đó đã vượt xa vọng tưởng của tợ tỷ lượng.
Người học Phật cần có
đủ năng lực trí tuệ để học hiểu, để nhận thấy những điểm đúng chân lý của thánh
giáo lượng, để tin và bắt tay vào cuộc thực nghiệm lớn lao hàng kiếp, cuộc thực
nghiệm mà thái tử Tất Ðạt Ða đã hoàn thành một cách vẻ vang và rực rỡ dưới cội
Bồ Ðề.
0 Đánh giá