Read more
Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đạo Phật Qua Nhận Thức Mới
Chương 5. Vấn đề khổ vui trong đạo Phật

Trong bài thuyết pháp
đầu tiên tại vườn Lộc Uyển, đức Phật Thích Ca giảng giải giáo lý Tứ Ðế và có đề
cập đến vấn đề khổ cùng phương pháp diệt khổ.
Danh từ "Dukkham
ariyasaccam" thường được các nhà học giả dịch là"Khổ Ðế", là
"Chân lý về sự khổ" thành thử mọi người cứ an trí rằng đạo Phật chủ
trương cuộc đời chỉ toàn là khổ đau. Lối phiên dịch ấy không được chính xác lắm
và đã làm cho nhiều người hiểu lầm. Bởi vì chỉ nhận chữ "dukkha" với
cái nghĩa hẹp của nó như thế, nên lắm kẻ cho đạo Phật là bi quan yếm thế.
Thực ra, đạo Phật
không phải bi quan, cũng như không phải lạc quan. Ðạo Phật nhìn cuộc đời một
cách khách quan, thực tại. Ðạo Phật không ru người trong giấc mơ thiên đường.
Ðạo Phật không phủ nhận
những cái vui (lạc thọ) của cuộc đời, và trái lại, còn công nhận nhiều hình thức
của cái vui vật chất hay tinh thần, quy định cho giới tại gia và cho cả giới xuất
gia nữa. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ (khổ thọ) đều nằm gọn
trong dukkha cả. Dù cho con người có thể đạt đến những trạng thái thiền định
cao siêu khoái lạc ở tận "Không vô biên xứ thiên" hay "Thức vô biên
xứ thiên" đi nữa, thì những cái lạc thọ siêu thoát ấy cũng vẫn còn nằm ở
trong dukkha như thường, bởi vì con người chưa thoát được tam giới vô thường và
hư giả.
Vậy bản ý của đức Phật khi dạy giáo lý Tứ Diệu Ðế không phải là mong cho con người trốn tránh khổ thọ để đi tìm lạc thọ. Khổ thọ và lạc thọ đều nằm trong dukkha. Giải thoát là giải thoát khỏi cái dukkha ấy, chứ không phải trốn khổ tìm vui một cách quá tầm thường. Dukkha cũng có thể gọi là khổ, nếu ta hiểu chữ "khổ" không phải là khổ thọ. Và giải thoát cũng có thể được gọi là vui nếu nếu ta hiểu chữ vui không phải là lạc thọ.
Ta lấy một câu chuyện
là thí dụ cho dễ hiểu: Hai con gà đang cãi nhau về vui và khổ ở trong lồng.
Chúng đàm luận về cái ngon, dỡ của những lúa ngô mà người ta đem tới cho chúng
ăn, và cho rằng ăn ngô là vui, ăn thóc là khổ... nhưng chúng không biết rằng một
lát nữa chúng sẽ bị đem đi làm thịt.
Cái vui và cái khổ mà
chúng ta đang bàn ấy chỉ là thứ "vui khổ trong lồng", một thứ vui khổ
giả ảo, không đáng gọi là vui khổ. Vì sao? Chúng nó sắp bị ăn thịt; gọi là
"vui, khổ" những cái mỏng manh chốc lát ở trong lồng thì có nghĩa lý
gì? Vậy cái khổ mà chúng phải tránh, không thể chỉ là cái khổ nhỏ nhặt kia, mà
là một cái khổ to lớn: cái khổ bị nhốt trong lồng và sắp bị đem làm thịt. Cái
khổ này cũng như dukkha vậy, nghĩa là bao gồm những khổ thọ và lạc thọ giả ảo,
nhất thời, xây dựng trên vô thường, vô ngã. Cái vui chân thật của hai con gà phải
tìm đến, không thể chỉ là cái vui nhỏ nhặt trong lồng, mà là một cái vui to lớn:
cái vui được sổ lồng và khỏi bị đem làm thịt. Cái vui này cũng như cái vui giải
thoát vậy.
Vấn đề khổ vui của
con người cũng thế. Những khổ thọ và lạc thọ đều xây dựng trên sự vật vô thường
vô ngã, cho nên đều gọi là dukkha. Ðạo Phật chủ trương phải giải thoát dukkha.
Giải thoát dukkha tức là tìm đến cái vui hoàn toàn, cái vui không bao giờ sợ
tan biến vì vô thường, cái vui khác hẳn những lạc thọ mong manh.
Ðã có một quan niệm
như thế về dukkha, bây giờ ta mới tạm dung chữ khổ để thay cho chữ dukkha, và
xét về chữ khổ, chữ khổ gồm có những nghĩa vô thường vô ngã, hư ngụy và hổ
tương đối kháng, chữ khổ bao gồm cả khổ thọ và lạc thọ.
Khổ (Dukkha) có ba
hình trạng sau đây:
1. Khổ-khổ (dukkha -
dukkha);
2. Hoại-khổ
(viparinama - dukka); và
3. Hành-khổ (sankhara
- dukkha).
Tất cả những khổ thọ
của kiếp sống như sinh, già, bệnh, chết, ghét nhau mà bị gần nhau, yêu nhau mà
bị xa nhau, ưa muốn mà không được toại nguyện... tóm lại những đau khổ về thể
xác và tâm linh đều được liệt vào loại khổ-khổ (dukkha = khổ thọ).
Những cảm giác lạc thọ
của đời sống không thể nào còn mãi được, vì thế đều rất vô thường. Trước sau,
chúng cũng tan mất. Khi chúng tan mất thì phát sinh một khổ thọ. Vậy sự chuyển
biến diệt hoại này, nguyên do của khổ-khổ, cũng nằm trong Dukkha và được liệt
vào hạng hoại khổ (Dukkha = biến hoại).
Hình trạng thứ ba là
hành khổ, quan hệ hơn nhiều. Ở đây, chúng ta phải tìm hiểu thế nào là một
"chúng sinh", một "cá nhân", hay một "cái ta".
Theo đạo Phật, cái mà con người gọi là "Cái Ta" (le moi) ấy, vốn là sự
tổng hợp của năm uẩn (ngũ uẩn: les cinq khandhas).
Phật dạy: "Tóm lại,
ngũ uẩn là khổ." (Sankhittena pancupa danakkhandha dukkha.) Cần phải hiểu
rằng: Ngũ uẩn và khổ (Dukkha) không phải là hai việc khác nhau. Chính ngũ uẩn
là dukkha vậy. Uẩn có nghĩa là những yếu tố của sinh tử, ngăn che chân lý.
Uẩn thứ nhất là vật chất,
gọi là sắc uẩn (Rupak - khandha). Trong sắc uẩn, có bốn yếu tố gọi là tứ đại chủng
và những chuyển hóa vật do bốn yếu tố ấy cấu thành. Bốn yếu tố đó là:
- Yếu tố cứng
(éléments de solidité)
- Yếu tố lưu động
(éléments de fluidité)
- Yếu tố năng lực (énergie)
và
- Yếu tố chuyển động
(mobilité).
Trong đại tạng Trung
Hoa, người ta thường gọi tạm là địa, thủy, hỏa, phong.
Trong những chuyển
hóa vật (dérivés) của tứ đại chủng, ta thấy có: ngũ căn (năm cảm quan), ngũ trần
(đối tượng của năm cảm quan ấy). Tóm lại, tất cả vật chất đều nằm trong sắc uẩn.
Uẩn thứ hai là cảm
giác, gọi là thọ uẩn (vedanak - khandha). Thọ uẩn gồm những cảm giác vui (khoái
lạc), khổ (đau khổ) và không vui không khổ (xã thọ), phát sinh do sự tiếp xúc
giữa cảm quan và ngoại cảnh.
Uẩn thứ ba là tri
giác, gọi là tưởng uẩn (sannak - khandha). Tưởng uẩn là những tri giác của con
người khi giác quan và ý thức tiếp xúc ngoại cảnh.
Uẩn thứ tư là sự suy
tư tác động của tâm lý, gọi là hành uẩn (sankharak - khandha). Ðó là những hoạt
động tâm lý của con người, có thể là thiện, là ác, và có thể tạo nên nghiệp
nhân, nghiệp quả. Ví dụ như sự giận dữ, sự tham muốn, sự kiêu căng, sự tin tưởng,
sự quyết định... Có tất cả 51 "Hành" như vậy, mà duy thức học gọi là
"Tâm sở" (propriétés mentales).
Uẩn thứ năm là tác dụng
nhận biết, tri thức, gọi là thức uẩn (vinnanak - khandha). Thức uẩn là tác dụng
phân biệt, hiểu biết, chấp ngã, duy trì ảnh hưởng, kinh nghiệm, và duy trì sinh
mạng.
Giải nghĩa về ngũ uẩn
như thế là giải nghĩa một cách rất sơ lược. Vậy thì cái "Ta" được cấu
tạo nên do năm "uẩn" ấy. Năm uẩn đều vô thường, chuyển biến, sinh diệt
biến di trong từng giây phút. Vạn vật nối tiếp nhau để sinh diệt, không có thực
thể (substantiatité). Vậy không có gì đáng gọi là "Ta" trường tại và
bất biến cả.
Ai cũng phải công nhận
rằng trong năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành và thức không có uẩn nào gọi được là
"Ta" cả. Nhưng khi năm uẩn ấy, gồm có hai phần vật chất (sắc pháp) và
tinh thần (tâm pháp) – tương quan, tương duyên, tác động và hòa hợp lẫn nhau
thành như một cá thể sinh lý tâm lý, ta liền có ý tưởng về một cái
"TA" trường tồn bất biến ấy chẳng qua chỉ là một sự mê lầm cố chấp mà
Duy thức học gọi là "Ngã si" và "Ngã kiến".
Năm uẩn kia chính là
bản thân của Dukkha, của khổ, và ở đây, ngũ uẩn được gọi là hành khổ (Dukkha =
ngũ uẩn vô ngã).
Lời giải thích về khổ
đế này chẳng khác gì lối biện giải về giáo lý vô thường vô ngã. Lý vô thường vô
ngã là một lý rất thực, đúng với những xét nghiệm của mọi người. Không phải vì
thấy vạn vật là vô thường vô ngã mà tất cả những người Phật tử đều sinh ra buồn
rầu chán nản. Trái lại. Một Phật tử có được nhận thức và chứng nghiệm được lý
vô thường vô ngã, là một người sung sướng nhất đời. Người ấy sẽ nhìn cuộc đời với
đôi mắt bình tĩnh, an lạc. Sự thành hoại, sinh diệt của vạn vật không lay chuyển
được tâm hồn người, không làm cho người phải đau khổ, lo lắng, bồn chồn, băn
khoăn, thắc mắc. Ðức Phật và các vị đệ tử chứng ngộ thường có một nét mặt trầm
tĩnh, tươi vui, an lạc. Nụ cười bất diệt của các pho tượng ngày xưa đã nói lên được
những cái vui an nhiên giải thoát ấy.
Trên phương diện nhân
sinh, đạo Phật không dạy người chỉ rời bỏ khổ thọ mà đi tìm lạc thọ, nhất là thứ
lạc thọ do dục vọng gây nên. Cũng không phải đạo Phật chủ trương rằng lạc thọ
cũng chỉ là khổ thọ. Ðạo Phật chỉ dạy con người diệt trừ những nguyên nhân gây
nên khổ thọ. Những khoái lạc dục vọng cũng là nguyên nhân gây nên khổ thọ.
Diệt dục vọng, thêm từ
bi để làm vơi bớt đau khổ của kiếp sống. Nhưng mục đích cao cả của đạo Phật phải
là được giải thoát, nghĩa là chứng nghiệm được lý vô thường vô ngã, thoát ra
ngoài những rang buộc và lung lạc của sự vật đang thành hoại biến dị và nhìn những
thành hoại ấy với một tâm trạng an lạc, hồn nhiên.
0 Đánh giá