Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Trái Tim Của Bụt
Phật Pháp Căn Bản
Bài 14. Quán Chiếu Cảm Thọ
Hôm nay là ngày mùng
9 tháng giêng năm 1994, chúng ta ở tại Xóm Hạ và học tiếp về chánh niệm. Chúng
ta đang chiêm nghiệm về Kinh Quán Niệm Hơi Thở và Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm, tức
là thân, thọ, tâm, và pháp.
Lĩnh vực quán chiếu
thứ hai cảm thọ. Chúng ta phải tập quán chiếu cảm thọ trong những lúc bình thường,
khi cường độ cảm thọ chưa mạnh quá. Có như vậy, lúc gặp cảm xúc mạnh, ta mới có
khả năng quán chiếu thành công. Nếu không, khi những cảm thọ có cường độ mạnh nổi
lên, ta sẽ không đủ sức và có thể bị tràn ngập, áp đảo và tê liệt.
Quán chiếu cảm thọ phải
biết dùng hơi thở. Quán niệm bằng hơi thở phải trở thành một thói quen. Muốn
thuần thục, ta phải thực tập ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng
khác. Cho nên không thể đợi khi có một cảm xúc mạnh ta mới bắt đầu sử dụng phép
quán niệm. Nhờ thực tập, phép quán niệm hơi thở trở thành một vốn liếng có sẵn,
nhờ kinh nghiệm tu tập mà thành.
Biết áp dụng hơi thở
chánh niệm chưa đủ. Ngoài ra ta còn phải biết cách quán niệm tư thế của thân thể.
Trong đời sống hàng ngày, ta luyện cách đi, cách đứng, cách nằm, cách ngồi.
Thân thể là một đối tượng để quán chiếu, nhờ đó ta có thể chăm sóc và điều phục
được các cảm thọ. Hơn nữa, ngoài cơ thể mà ta gọi là nhục thân, ta còn có một
thân khác cần phải chăm sóc và quán chiếu, đó là tăng thân, nghĩa là đoàn thể
tu học của ta. Đó cũng là thân ta.
Nhưng tăng thân không
phải tự nhiên mà có, tăng thân là do chúng ta xây dựng nên. Trong đời sống hàng
ngày, ta phải bồi dưỡng tăng thân ta. Mỗi lời nói, mỗi hành động ta, mỗi cái
nhìn và mỗi nụ cười của ta đều có thể được sử dụng để xây dựng tăng thân. Xây dựng
tăng thân tức là xây dựng bản thân. Người nào cũng có những lúc gặp khó khăn.
Tăng thân là một cái lưới cứu ta khỏi chết đuối trong những lúc khó khăn nhất.
Cho nên ‘‘Con về nương tựa Tăng’’ là một phép thực tập quan trọng. Không cần đó
là một thánh Tăng; tăng thân ta nếu chỉ là phàm Tăng thì cũng đủ quý giá rồi.
Nhờ có sự thực tập chánh niệm, nên Bụt và Pháp có mặt trong Tăng, để Tăng có thể
được xứng đáng gọi là Tăng bảo.
Quán chiếu hơi thở,
quán chiếu thân thể, sử dụng những phương pháp như đi thiền, ngồi thiền, nằm
thiền (total relaxation), tất cả đều có tác dụng đối trị các cảm thọ mạnh. Và
nhất là phải biết sống với tăng thân. Nếu ta sống trong tăng thân mà không hòa
hợp được, nếu ta hành xử như một giọt dầu trong một bát nước, thì tăng thân
không có nghĩa gì. Do đó Kinh và Luật luôn luôn nói tới hình ảnh tăng thân như
nước với sơưa hòa hợp. Nước với sơưa chứ không phải là nước với dầu. Hòa hợp
tăng có nghĩa là một tăng thân đích thực mà bản chất là sự hòa hợp.
Nhận Diện Các Tâm Hành
Cảm thọ chỉ là một
trong số 51 loại tâm hành, tức là những hiện tượng tâm lý (mental formations).
Tâm hành (citta samskara) có khi được gọi là tâm sở. Giận là một tâm hành, lo
là một tâm hành, buồn là một tâm hành, thương, ghét và chán nản là những tâm
hành. Tất cả những tâm hành ấy đều có hạt giống và có gốc rễ trong chiều sâu
tâm thức ta. Những tâm hành nhẹ nhàng có tác dụng giải phóng, chuyển hóa và đưa
chúng ta lên cao là những tâm sở thiện. Có những tâm hành có tác dụng gây đổ vỡ,
gọi là tâm sở bất thiện. Có những tâm hành có tính cách phổ biến, gọi là tâm sở
biến hành và những tâm hành phát hiện trong những trường hợp riêng lẻ, gọi là
tâm sở biệt cảnh. Lại có những tâm hành bất định, có khi thiện, có khi bất thiện,
gọi là tâm sở bất định. Ví dụ như tâm hành miên (buồn ngủ) có khi là tốt, có
khi không tốt. Tâm hành hối cũng có khi tốt và có khi không tốt. Nếu chúng ta
đã làm một hành động gây đổ vỡ, buồn đau cho người khác mà chúng ta biết hối hận
thì tâm hành hối là một tâm hành thiện. Ta tự dặn lòng từ rày về sau sẽ không
nói và không làm như vậy nữa. Nhưng nếu niềm hối hận đó biến thành một Đm ảnh,
gây ra mặc cảm tội lỗi, khiến cho ta tê liệt không tiến thêm được nữa trên đường
đạo nghiệp, thì tâm hành đó trở nên bất thiện. Hối trong trường hợp này được
coi là một tâm hành bất định.
Một tâm hành bất định
khác tên là tầm. Tầm có nghĩa là tư duy. Khi tư duy có thể giúp mình thấy được
rõ ràng hơn thì tâm hành tầm là một tâm hành thiện. Nhưng nếu đầu ta cứ miên
man nghĩ hết chuyện này sang chuyện khác, ta cứ tự để phiêu lưu trong thế giới
tư tưởng suông, không thiền tập, không thiền hành được thì tầm trở thành một
tâm hành bất thiện. Từ cũng vậy. Từ là so sánh, quyết trạch, tư lượng. Từ có
khi có ích lợi, có khi lại là chướng ngại. Từ nhị thiền trở đi các tâm hành ‘‘tầm’’
và ‘‘từ’’ có thể làm cho ta không đi sâu được vào thiền quán. Vì thiền quán là
tiếp xúc sâu sắc để chuyển hóa, để nhìn rõ, mà tư duy có thể kéo những sợi tơ
dài làm cho đầu ta trở thành một cuộn chỉ rối. Lúc đó tầm và từ là một tâm sở bất
thiện.
Có nhiều tâm sở thiện
nằm trong chiều sâu tâm thức ta và có thể đã do các thế hệ cha ông và thầy tổ
trao truyền lại. Ví dụ như tâm hành bất hại (ahimsa, non-harming). Không muốn
gây ra một đổ vỡ và hư hại nào trong sự sống, dù một cành cây nhỏ cũng không muốn
làm gẫy, đó là bất hại. Bất hại là từ bi. Một tâm hành khác là tàm. Tàm tức là
hổ thẹn, mắc cở, biết hổ, biết thẹn nhờ có chánh kiến. Thấy mình không đáp ứng
được sự trông đợi của thầy, của tổ, của cha mẹ, anh em và bằng hữu thì trong
lòng hổ thẹn, đó là tàm. Ví dụ khác là tâm hành vô sân. Vô sân tức là sự vắng mặt
của giận hờn. Ai nói gì cũng cười hề hề không giận, đó là tâm hành vô sân, đó
là sự hoan hỉ nguyên chất. Người học tâm lý học Phật giáo thuộc lòng những tâm
hành thiện: tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, cần, khinh an, bất phóng dật,
hành xả, bất hại.
Có những tâm hành được
gọi là bất thiện, chúng làm cho tâm ta rối lên, mê mờ, đen tối đi, và trói buộc
ta lại. Tâm hành bất thiện cũng gọi là phiền não, có khi gọi là hoặc, chữ Phạn
là klesa. Hoặc là những phiền não, những mê mờ. Mê hoặc là đưa ta đi lầm đường
lạc lối. Thơ Vũ Hoàng Chương có câu trông ra bến hoặc bờ mê.
Hoặc có khi gọi là lậu
(astrava). Lđau là ngược đầu trở lại, là đi vòng trở lại, là quanh quẩn. Lđau
có nghĩa là nứt rạn, như nước ở trong bình nứt rỉ ra gọi là lậu. Những tâm hành
có tác dụng đi xuống, làm cho mình sa xuống thấp, và quanh quẩn trong buồn giận,
sầu đau, v.v.. đều gọi là lậu. Khi được chuyển hóa rồi tình trạng được gọi là
vô lậu. Vô lậu là không còn nứt rạn nữa.
Có những phiền não
căn bản, và có những phiền não thứ yếu. Những phiền não căn bản là tham, sân,
si, mạn, nghi, kiến. Những phiền não nhẹ hơn như vô tàm, vô quý, trạo cử, hôn
trầm, thất niệm, phóng dật, bất chánh tri. Ngoài các tâm hành thiện và bất thiện,
chúng ta phải biết tên năm tâm hành phổ quát gồm có tác ý, xúc, thọ, tưởng và
tư. Những tâm hành đặc biệt là dục, thắng giải, niệm, định và tuệ. Các vị đã học
Duy Biểu Học, xưa gọi là Duy Thức, thì đã biết được tên gọi cũng như là bản chất
của từng tâm hành đó.
Vậy thì trong lĩnh vực
tâm thức, có 51 loại hiện tượng tâm lý có thể phát hiện trong ta. Mỗi khi một
tâm hành phát hiện, ta phải dùng ánh sáng chánh niệm để nhận diện nó. Trước hết
là sự nhận diện đơn thuần. Buồn thì biết mình đang buồn. Chỉ cần tự biết là
mình đang buồn, dùng ánh sáng ý thức để soi rõ và nhận diện nỗi buồn.
Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
Ban đầu thì tôi không
hiểu vì sao tôi buồn. Nhưng nếu là thực tập chánh niệm và phát khởi được niệm,
định và tuệ, thì ta sẽ biết tại sao ta buồn. Rồi chỉ cần mỉm một nụ cười thì nỗi
buồn đó sẽ tan. Quán chiếu tâm hành bắt đầu bằng việc nhận diện đơn thuần, nhận
biết sự có mặt của tâm hành. Nhận diện tâm hành trên ý thức không phải dễ. Nỗi
buồn có thể lôi kéo ta từ bên này sang bên kia, từ suy tư này tới hoài niệm
khác. Tâm hành buồn lại kéo những tâm hành khác tới, như các diễn viên qua lại
trên một sân khấu vắng người. Người tu tập phải có mặt để nhận diện những tâm
hành nào đang xuất hiện, đừng bao giờ để sân khấu tâm ý bị bỏ trống vô chủ. Cho
nên học đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm để biết cái gì đang xảy ra là một
thực tập cần thiết. Phương pháp đơn giản là mỗi khi buồn, ta dùng hơi thở, dùng
bước chân... để phát khởi chánh niệm và nhận diện sự có mặt của tâm trạng buồn.
‘‘Tôi đang buồn và tôi biết rằng tôi đang buồn.’’ Tình trạng có thể đổi khác lập
tức. Thay vì để cho tâm hành buồn độc diễn, ta đưa vào thêm một tâm hành khác,
gọi là niệm. Tâm hành niệm là một trong năm loại tâm hành biệt cảnh. (biệt cảnh
là particular, còn biến hành là universal. ) Đối tượng của chánh niệm bây giờ
là nỗi buồn: ‘‘Tôi đang thở vào và tôi biết rằng tôi đang buồn, tôi đang thở ra
và tôi mỉm cười với nỗi buồn của tôi.’’ Buồn ơi chào mi!
Tu tập là như vậy.
Thay vì tìm cách đàn áp và triệt tiêu cái buồn, ta phát khởi nhận thức về sự có
mặt của cái buồn. Chánh niệm là một vùng năng lượng bao bọc lấy nỗi buồn và rọi
ánh sáng vào đó. Nhà có chủ, chùa không phải là chùa Bà Đanh. Biết chăm sóc các
tâm hành ta sẽ chuyển hóa được những tâm hành bất thiện và nuôi dưỡng được những
tâm hành thiện.
Ý thức là sân khấu,
trên đó những tâm hành được phát khởi. Phần dưới của tâm, cái phần vô thức, tiềm
thức, chúng ta gọi là tâm địa, đạo Bụt gọi là tàng thức. Tàng có nghĩa là cất
giữ. Mọi tâm hành đều ở sẵn trong tàng thức với tính cách những hạt giống, gọi
là chủng tử (bija). Cái buồn, trước khi phát hiện, đã nằm sẵn trong tàng thức rồi.
Nghe đọc một câu thơ: ‘‘trời nổi gió heo may’’ chẳng hạn, thì tự nhiên cái hạt
giống buồn được tưới tẩm, và tâm hành buồn phát hiện.
Tâm địa tức là đất
tâm có chức năng gìn giữ tất cả những hạt giống. Có những hạt giống hạnh phúc bị
chôn vùi từ lâu trong đất. Một buổi sáng hạt giống của niềm vui nẩy mầm. Sự
phát hiện của niềm vui này do công trình thực tập, tưới tẩm của chính ta, của
tăng thân, bây giờ mới gặp hoàn cảnh thuận lợi. Mưa xuân nhẹ hạt đất tâm ướt, hạt
đậu năm xưa hé miệng cười.
Quán niệm tâm hành trước hết là ý thức, nhận diện, và săn sóc tâm hành đó. Chánh niệm cho chúng ta thấy được sự có mặt của tâm hành không những trên sân khấu của ý thức, mà cả sau hậu trường của tàng thức nữa. Tàng thức là phần thâm sâu của ý thức, nói nó là một cũng được, là hai cũng được. Khi nhìn một em bé nói, cười, đi, đứng hoặc nhảy nhót, ta nhìn vào phần hiện tượng. Quán sát kỹ cách em nói, cười, đi và nhảy, ta đi sâu được vào những cội nguồn và gốc rễ, và thấy được những hạt giống mà ban đầu ta chưa thấy. Ta thấy được xã hội em bé đó sống, thấy được cha mẹ, ông bà, chủng tộc của em bé. Nhìn vào hoa trái ta thấy được gốc rễ.
Nghe một bà mẹ hát
câu ru con, ban đầu ta chỉ cảm thấy man mác buồn thôi, nhưng khi tiếp xúc được
với chiều sâu của tiếng ru rầu rầu đó, ta có thể thấy, trong âm hưởng của nó,
những thế kỷ giặc giã, hàng ngàn năm sống trong áp bức, nô lệ và đói khổ. Ta thử
nghe hai câu của Hoàng Cầm:
Tiếng bà ru cháu buổi trưa, chan chan nắng hạ võng đưa rầu rầu.
Chánh niệm, thiền
quán cho chúng ta thấy và tiếp xúc được với chiều sâu của các tâm hành. Một nỗi
buồn vô cớ, nhẹ nhàng, có thể là dấu hiệu của một nỗi sầu vạn cổ đã được nhiều
thế hệ tổ tiên trao truyền lại.
Quán Chiếu Về Tưởng Để Vượt Thoát Mê Lầm
Tưởng là một tâm hành
rất quan trọng, đã được tách riêng ra một yếu tố của năm uẩn. Chúng ta hãy nhớ
lại năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Sắc là hình hài ta. Thọ gồm những cảm
thọ dễ chịu, khó chịu và trung tính. Tưởng là tri giác. Thọ là một tâm hành, tưởng
là một tâm hành khác. Hành ở đây là tất cả 49 tâm hành còn lại, còn thức là phần
tàng thức, là tâm địa, chỗ chôn giữ hạt giống của tất cả 51 loại tâm hành.
Tưởng là một tâm
hành, cũng có hạt giống ở sâu trong tàng thức. Nghe tiếng bà ru cháu, mười người
nghe có mười cái tưởng khác nhau. Người nghe có thể từ thành phố lại, từ thôn
quê tới, hoặc từ ngoại quốc về thăm. Nếu dùng máy thâu âm, ta có thể xác định
được tính cách khách quan của âm điệu những câu hát ru. Nhưng những người cùng
nghe câu hát ru đó có thể có những nhận thức khác nhau. Có người từng nghiên cứu
về nhạc dân tộc ở Phi châu, từng nghe những tiếng ru của các bà mẹ Phi châu,
bây giờ trong cái tưởng của họ có sự so sánh những điệu hát ru. Chúng ta chỉ
nghe với kinh nghiệm của một người đã từng được mẹ ru. Hoặc ta đã từng nghe tiếng
ru em của một bà mẹ miền Nam, và bây giờ đây ta đang nghe tiếng ru miền Bắc hay
miền Trung. Vậy cái tưởng, cái tri giác của ta về tiếng ru đó, có tính cách chủ
quan. Còn nếu đang nghe lời hát ru mà lòng còn mải lo lắng thì nghe tiếng ru
đó, ta không để ý tới, ta không thấy thấm thía, ta chỉ thấy những âm thanh thoảng
qua.
Tri giác của ta có thể
chứa đựng nhiều sai lầm. Hành động, lời nói và tâm trạng, tất cả đều căn cứ
trên tưởng. Tri giác mang nhiều tính chủ quan, trong đó có những chất liệu phiền
não như thèm muốn, giận dữ, si mê và tà kiến. Căn cứ trên tri giác ấy, ta buồn,
vui, khổ đau hoặc hạnh phúc. Cho nên quán chiếu về tưởng rất quan trọng.
Nếu chúng ta có một ý
niệm về hạnh phúc, thì ý niệm hạnh phúc cũng là một cái tưởng. Trong đầu ta và
cả trong tiềm thức của ta, có một ý niệm là hạnh phúc chỉ có thể có khi ta đạt
được cái này hay cái kia. Trong hầu hết các trường hợp, quan niệm có sẵn của ta
về hạnh phúc chướng ngại đầu cho chính hạnh phúc. Có một anh chàng tin chắc nếu
không cưới được cô gái ấy thì đời anh không còn đáng sống nữa. Anh tin chắc đến
nỗi không ai có quyền nói khác. Mấy năm sau anh có thể sẽ tìm ra sự thật là người
đàn bà kia chỉ có thể làm cho anh đau khổ không ngừng trong quá trình yêu
thương.
Khi vướng vào một
quan niệm về hạnh phúc rồi, ta có thể khổ đau vì quan niệm đó. Nếu không chiếm
được cái này, không thực hiện được cái kia, thì đời ta không có nghĩa gì nữa!
Trong khi có cả hàng ngàn hoặc hàng vạn điều kiện của hạnh phúc ở ngay đây mà
ta không tiếp xúc được, mà ta tiếp tục dẫm đạp lên. Thành ra cái ý niệm về hạnh
phúc, cái tưởng về hạnh phúc của ta, là chướng ngại chặn đường hạnh phúc của
ta.
Tri giác trước hết là
tri giác sai lầm, là vọng tưởng. Trong Phật học, kiến hoặc tà kiến là tiếng
dùng để chỉ cho tri giác sai lầm. Vì vậy tưởng thường được đồng nhất với vọng
tưởng, cũng như kiến thường được đồng nhất với tà kiến. Khi nhìn thấu được bản
chất của tri giác rồi, ta thoát khỏi tri giác, bấy giờ nhận thức ta được gọi là
trí, cái thấy đạt đạo. Trạng thái đó không gọi là tưởng – cũng không phải là
phi tưởng. Chánh niệm soi chiếu để ta nhận diện được cái tưởng của ta. Tiếp tục
quán chiếu các tâm hành, đến một ngày đó ta sẽ thấy được gốc rễ sâu xa của các
tâm hành. Và quá trình tu tập để nhận diện và quán chiếu là đi thiền, ngồi thiền,
ăn cơm im lặng; là công phu, là mỗi bước chân, mỗi hơi thở, từng giây phút đều
được sống trong chánh niệm, trong tỉnh thức. Và điều đó chính ta phải tự mình
làm lấy, người khác không ai làm hộ cho ta được.
Chúng ta hãy tưởng tượng
hai người hàng ngày sống bên nhau, mỗi người có tri giác (tưởng), những nỗi vui
và buồn riêng của mình. Nằm sâu trong tàng thức mỗi người là những hạt giống nhận
thức về hạnh phúc và về khổ đau. Tiếp xúc với hoàn cảnh và với người kia tạo
thành những cái tưởng, và căn cứ trên những cái tưởng ấy mỗi người đoán định và
hành xử đối với người kia. Người kia cũng có những vui, buồn, và những nhận thức
riêng đưa tới những cái tưởng có thể là rất khác và những cái tưởng ấy của hai
người có thể chống đối nhau. Những đau khổ của chúng ta trong đời sống chung
thường được phát sinh ra từ những cái tưởng của ta, từ những hình ảnh và ý niệm
mà mỗi người có về chính mình và về người kia, trong đó có đầy dẫy sai lầm.
Công phu tu học bắt đầu
bằng việc quán chiếu cái tưởng của mình. Cũng như phải buông bỏ quan niệm sẵn
có của mình về hạnh phúc mới có thể đạt được hạnh phúc chân thật. Sự thật là
chúng ta có thể đang có đủ mọi điều kiện để sống hạnh phúc. Nhưng chính vì cái
tưởng cho rằng muốn có hạnh phúc thì phải được thế này, được thế kia, cho nên
ta bị kẹt và không có hạnh phúc. Tất cả nỗ lực tu học của chúng ta đều nhắm tới
phá tan cái tưởng đó. Đối tượng của sự tu học là phá vọng tưởng, vọng tưởng về
sanh và diệt, về có và không, về đến và đi, về nhiều và một; đó là những vọng
tưởng căn bản. Phải dùng nguồn năng lượng chánh niệm của ta trong đời sống tu tập
hàng ngày để phá vỡ những cái tưởng ấy. Đó là giải thoát. Đi thiền, ngồi thiền,
ăn cơm im lặng, học kinh, thực tập hơi thở đều để làm chuyện đó. Tri giác về
mình đầy dẫy sai lầm và tri giác về người đầy dẫy sai lầm. Nếu những tri giác
đó vẫn còn nguyên vẹn không thay đổi gì, thì đó có nghĩa là ta chưa thực tập
quán chiếu về tưởng.
Niềm Tin Phải Vững Mạnh
Trong quá trình tu học,
ta cần hiểu biết về chủ đích và phương pháp, phải vững tin vào mục đích cũng
như phương pháp tu học, phải tin vào thầy và bạn, và phải chuyên cần trong việc
thực tập. Thái độ của người tu không khác gì thái độ của một người vào bệnh viện:
phải tin thầy, tin thuốc. Tôi xin kể cho quý vị nghe chuyện một bệnh nhân theo
phương pháp rửa ruột trong một dưỡng đường bên Đức, để so sánh với sự tu tập của
mình như thế nào.
Mỗi ngày, vào lúc sáu
giờ sáng, bệnh nhân thức dậy uống một ly nước đầy pha một thìa sulphate de
magnesium đã ngâm suốt đêm. Uống xong phải vận động để nước muối đi xuống ruột
già càng mau càng tốt. Cứ một giờ đồng hồ lại uống một cốc nước đầy. Mỗi ngày uống
ít ra là ba lít nước. Người ấy nhịn đói hoàn toàn ít nhất là trong năm ngày đầu.
Sang tới ngày thứ ba, những độc tố lâu nay bám vào thành ruột bắt đầu tan loãng
để bài tiết ra. Người bệnh mệt không thể cựa quậy được, có thể nằm trên giường
mà không thò chân xuống đất đứng dậy được, tưởng như mình sắp chết. Mỗi ngày uống
ba hoặc bốn lít nước là để cho thận và gan lọc cho độc tố được tống ra ngoài bằng
nước tiểu. Nhịn đói là để cơ thể có dịp nghỉ ngơi, để ruột non và ruột già có
cơ hội khôi phục khả năng làm việc của chúng. Bác sĩ cho mình uống thuốc trợ
gan và trợ thận. Nếu người bệnh nói: ‘‘tôi đâu có đau gan mà phải uống thuốc
gan, đâu có đau thận mà phải uống thuốc thận,’’ tức là không hiểu phương pháp của
thầy thuốc. Chữa bệnh phải tin thầy, tin thuốc. Phải hiểu biết tại sao bác sĩ
yêu cầu mình phải uống thuốc trợ thận và trợ gan. Tu học cũng thế. Tại sao ta
nên đi thiền hành chung với đại chúng, tại sao đi riêng một mình không đủ? Vì
khi đi thiền hành chung với tăng thân, tác động sẽ khác. Tại sao cần phải dự
pháp đàm? Nghe thầy dạy ta hiểu rồi, tại sao phải có mặt trong buổi pháp đàm
làm chi? Lý do là ngồi trong pháp đàm, dẫu ta không nói, mà những điều người
khác nói phù hợp với nhận thức ta cũng có tác dụng làm lớn niềm tin của ta và
giúp ta thấy ta rõ hơn lên. Bác sĩ còn bảo bệnh nhân bơm ruột, đi bộ và tập thở
ngoài trời mỗi ngày mấy tiếng. Ăn thì ăn rất ít mà nhai thì phải nhai rất kỹ, một
miếng bánh mì 30 gram mà nhai suốt cả giờ. Tất cả những việc đó đều khó làm
theo, nhưng bệnh nhân phải hiểu tác dụng của từng phương pháp trị liệu, và phải
tin chắc rằng thực tập theo lời thầy thuốc dặn là quan trọng. Có niềm tin, ta sẽ
có rất nhiều chuyển hóa ở trong cơ thể, còn nếu niềm tin bạc nhược, ta sẽ không
làm đúng những lời khuyến cáo và chỉ đạt tới một phần tư hoặc một phần năm kết
quả.
Trong thiền viện cũng
vậy. Các vị giáo thọ biết ta cần phải làm gì. Thí dụ họ đề nghị hai anh em bạn
tu tới gặp riêng nhau ít nhất sáu buổi để trò chuyện, giải tỏa tâm tư theo
phương pháp làm mới (beginning anew). Một sư chú nói: ‘‘Không cần, tới gặp người
ấy làm gì mất công, tôi ở trong phòng một mình quán chiếu còn tốt hơn.’’ Từ chối
không gặp vì ta nghĩ rằng gặp người ấy ta không cảm thấy dễ chịu. Làm sao cảm
thấy dễ chịu được khi cái tưởng của ta về người đó đã có chất chứa ác cảm và
sai lầm? Ta từ chối vì ta không thấy được rằng vị giáo thọ, hay vị thầy của cả
hai người, đã biết rằng hai người thực sự cần gặp nhau. Như thế là người ấy
không có đủ niềm tin nơi pháp môn của thầy. Nếu thầy bảo hai anh em nên thực tập
làm mới với nhau ít nhất là sáu lần thì ta phải đi gặp nhau sáu lần, chứ không
nên ngại mệt.
Mỗi bước chân, mỗi
hơi thở, mỗi thực tập trong đời sống hàng ngày của ta đều có mục đích, và ta phải
có đức tin vững chãi vào sự thực tập thì mới dẫn tới những chuyển hóa chân thật.
Một bước chân thôi, mà bước được đúng theo phương pháp thầy chỉ bảo, cũng đã
đem lại kết quả. Niềm tin vững chãi vào sự thực tập, lùm lùm được biểu lộ ra.
Khi ta đi, người khác nhìn thấy có chánh tinh tấn trong bước chân của ta đi.
Khi ta ngồi, người khác nhìn thấy có chánh tinh tấn trong khi ta ngồi.
Cái tưởng do những điều
kiện trong quá trình phát triển tâm lý và những điều kiện lịch sử trong xã hội
và trong gia đình mình đưa tới. Cái tưởng của mỗi người là con đẻ của những điều
kiện, những nhân duyên, từ tổ tiên, từ giáo dục, từ các thói quen lâu đời. Phải
sẵn sàng chiếu rọi ánh sáng chánh niệm vào trong cái tưởng để thấu hiểu được cội
nguồn và bản chất của nó. Trong thiền viện, phương pháp Làm Mới Tăng Thân nếu
được thực tập đúng cách sẽ chuyển hóa cái tưởng của mỗi người và của mọi người.
Khi hai người ngồi xuống để lắng nghe, mỗi người đã có sẵn cái tưởng đối với
người kia và đối với mình. Cái tưởng nào cũng có thể rất sai lầm. Hai người
cùng ngồi lắng nghe nhau bằng chánh niệm thì cái thấy mới sẽ phát sinh. Cái thấy
đó có thể giải toả được cho chính mình và cho người kia, nhất là khi có người bạn
thứ ba hay một vị giáo thọ có mặt. Đem lòng từ bi, đem nụ cười, đem thêm sự vững
chãi tới để giúp cho hai người bạn có cơ hội nhìn vào cái tưởng của chính họ,
đó là cống hiến quý hóa nhất của một tăng thân.
Làm Mới (Beginning
Anew) không phải là một buổi họp trong đó ta cố tranh đấu cho ý kiến của ta được
mọi người chấp nhận. Nếu trong một buổi họp ta chỉ lo chuẩn bị vận động cho ý
kiến của ta, thì thay vì cái tưởng của ta sẽ tan rã trong môi trường ấy nó lại
sẽ nằm ỳ không chuyển hóa. Làm thế là đi ngược lại với tinh thần ‘‘Làm Mới-
beginning anew’’. Cũng vì sư chú đã chuẩn bị tới họp để bảo vệ một cái tưởng,
trong khi mục tiêu chính của sự thực tập là để phá cái tưởng ấy. Phải xem người
anh, người chị hoặc người em kia là cơ hội giúp cho chính ta chuyển hóa.
Sự thực tập của ta
không phải là sẽ có lợi lạc cho một mình ta, mà cho tất cả mọi người trong đại
chúng và cho những thế hệ Phật tử thực tập trong tương lai. Nếu ta thành công
thì bao nhiêu thế hệ sau này sẽ được thừa hưởng. Khi ta tới với một thiền viện,
tức là ta đã chấp nhận một tăng thân, chấp nhận một gia đình. Khi quý vị tiếp
nhận một Pháp danh hay một Pháp tự, quý vị trở thành con cháu một nhà. Quý vị
tiếp nhận những châu báu, những truyền thống, những tinh hoa của đạo pháp để tự
nuôi dưỡng mình. Quý vị có bổn phận phải trao truyền lại những châu báu ấy cho
các thế hệ tương lai. Sự mong ước của các vị tổ sư và các thầy là trao truyền,
chứ không phải chỉ là chữa trị cho chính bản thân. Sự tiếp nối của đạo pháp, của
tuệ giác và của sự chuyển hóa, đó là nơi nương tựa cho tất cả mọi người. Nếu
không thành công, ta sẽ phụ ơn đức của Bụt, của tổ, của thầy và của tăng thân.
Cho nên ta đừng bỏ phí một giây phút nào trong đời sống hàng ngày. Chỉ có mình
mới có thể đánh mất đời sống của mình mà thôi. Tuần trước tôi có nói rằng sự thực
tập của chúng ta rất cụ thể. Chúng ta sống đời sống hàng ngày như thế nào để mỗi
giây phút của đời sống trở thành một kỳ sử cho chính chúng ta và cho các con
cháu của chúng ta. Chúng ta không cần phải leo lên núi Thứu mới có thể sống được
huyền sử. Chúng ta chỉ cần đi bộ với nhau ở Làng Mai, ngồi ăn cơm với nhau, rửa
chén, quét nhà với nhau trong chánh niệm và an lạc là chúng ta đã có thể tạo nên
huyền sử. Tôi mong rằng tất cả quý vị ở đây đều đang tham dự vào trong huyền sử
đó, đừng có đứng bên ngoài. Bằng bước chân, bằng hơi thở, bằng nụ cười, bằng sự
hành trì tu tập hàng ngày của mình, ta đóng góp một phần xây dựng tịnh độ cho
chính bản thân ta, và cho các thế hệ tương lai.
Xem Tiếp Bài 15 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá