Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Trái Tim Của Bụt
Phật Pháp Căn Bản
Bài 15. Quán Pháp Trong Pháp
Hôm nay là ngày 13
tháng giêng năm 1994, chúng ta ở tại Xóm Thượng và học tiếp về chánh niệm trong
bát chánh đạo. Hôm nay chúng ta đi sang lĩnh vực thứ tư của bốn niệm xứ, là
quán niệm về pháp.
Trong Kinh Quán Niệm
Hơi Thở, Bụt dạy chúng ta bốn bài tập dùng hơi thở để quán chiếu về thân, bốn
hơi thở khác để quán chiếu về thọ, bốn hơi thở quán chiếu về tâm, và cuối cùng
là bốn hơi thở để quán chiếu về các pháp. Nói đến Pháp có người hiểu là giáo
pháp của Bụt, tuy không sai nhưng không đúng hẳn. Pháp ở đây là một từ để chỉ tất
cả mọi hiện tướng gồm sắc pháp và tâm pháp, cố nhiên có giáo pháp ở trong đó.
Pháp ở đây gồm pháp thế gian, pháp xuất thế gian, tất cả các đối tượng của tâm.
Chúng ta biết có 51 tâm hành, vậy cũng có 51 loại pháp là đối tượng của các tâm
hành.
Thí dụ các tâm hành
xúc, tưởng và tác ý. Tác ý tức là chú tâm để ý tới, ví dụ nghe tiếng chim hót,
ta nhìn lên, đó là tác ý. Những đối tượng làm cho ta tác ý là pháp. Xúc cũng vậy.
Khi con mắt ta tiếp xúc với trời xanh thì con mắt là căn mà trời xanh là trần.
Cặn và trần tiếp xúc với nhau phát sinh ra thức, vậy xúc cũng có đối tượng của
xúc. Xúc luựôn luôn là xúc một cái gì. Tưởng cũng vậy. Tưởng là tri giác. Khi
ta nhìn vào đèn, hình ảnh của đèn trong mắt ta là một tri giác, đèn là đối tượng
của tri giác. Đối tượng của tưởng thường gọi là tướng. Trong từ Hán Việt, chữ
tướng (laksana) viết thêm chữ tâm bên dưới thành chữ tưởng. Chúng ta tạo tác ra
các tướng về sự vật ở trong tâm. Núi, sông, trời, biển đều là những tướng, đều
là đối tượng của tưởng, và đều thuộc về phạm vi của pháp. Tất cả những gì mà
chúng ta nhận thức được trong thế giới đều được gọi là pháp. Chúng ta có những
tâm hành như giận, sợ, hay là buồn. Đối tượng của các tâm hành cũng đều gọi là
pháp. Tóm lại, pháp là một từ bao hàm tất cả mọi hiện tượng do thân và tâm ta
tiếp xúc, kể cả những hiện tượng không phải sinh lý và vật lý, gọi là các pháp
Không Tương Ưng, mà ta sẽ nói tới sau.
Quán Pháp Trong Pháp
Quán chiếu về pháp tức
là lấy hơi thở có chánh niệm rọi sáng vào đối tượng hiện đang ở trong tâm, gọi
là quán pháp ở trong pháp (contemplation of dharmas in dharmas). Đạo Bụt có
danh từ trạch pháp, có nghĩa là khảo sát, nhìn sâu, tìm cho ra bản chất của các
pháp (investigation of dharmas). Trạch pháp là một trong thất bồ đề phận, còn gọi
là thất giác chi, bảy yếu tố đưa tới giải thoát (the seven factors of
enlightenment-bodhyanga). Quán niệm pháp trong pháp tương đương với trạch pháp
của thất bồ đề phận.
Có danh từ nữa là ngũ
đình tâm quán tức là năm phép quán có tác dụng làm lắng lại cái tâm rong ruổi của
mình. Trong ngũ đình tâm quán trước hết ta có Sổ tức quán là phép đếm hơi thở.
Nhân duyên quán là quán về tính cách tương tức tương nhập của sự vật. Từ bi
quán, còn gọi là niệm Phật quán, nhất là trong các truyền thống tu tịnh độ. Niệm
Phật cho đúng thì thế nào cũng phát hiện và nuôi dưỡng được chất liệu từ và bi.
Bất tịnh quán có nghĩa là quán về tính chất bất tịnh, mặt trái của những chiếc
huy chương. Sự vật có thể là danh, có thể là lợi, có thể là tài, là sắc. Nhìn một
bên ta thấy hấp dẫn nhưng phía sau ta thấy bất tịnh. Sau chót là Giới phân biệt
quán. Giới là các hiện tượng, các pháp. Phân biệt là tìm hiểu, quán sát hay quyết
trạch.
Vậy thì quán pháp ở
trong pháp tương đương với giới phân biệt quán của Ngũ đình tâm quán và trạch
pháp giác chi trong bảy giác chi. Trong bộ Trung A Hàm có Kinh Đa Giới
(Bahudhatuka sutta). Bhahu là đa, dhatuka là giới. Kinh này cũng có mặt ở Trung
Bộ Kinh (Majjhima nikaya).
Trong Kinh này Bụt dạy
rằng tất cả những sợ hãi, những lo âu và những hoạn nạn của chúng ta đều phát
xuất từ sự ngu dốt. Ngu dốt tức là vô minh, sự kiện không thấy được chân tướng
của sự vật. Nếu chúng ta khiếp đảm, nếu chúng ta lo âu, nếu chúng ta thấy đời đầy
hoạn nạn thì đó là do ta không thấy rõ được chân tướng của vạn pháp. Nếu quán
chiếu và quyết trạch được các giới, chúng ta có thể chuyển hóa vô minh và sẽ
không còn có cảm giác sợ hãi và bấp bênh nữa.
Một hôm, trong khi ngồi thiền, thầy A Nan phát kiến ra rằng tất cả những sợ hãi, lo âu và hoạn nạn của mình đều đã được phát sinh từ sự không thấu hiểu các tâm pháp và sắc pháp. Thầy A Nan lên thưa Bụt điều đó, Bụt bảo thầy nói rất đúng. Muốn vượt thoát khỏi lo sợ và sầu bi thì ta phải quán chiếu về giới và Bụt dạy thầy A Nan thế nào là giới. Trước hết giới tức là mười tám lĩnh vực của hiện hữu.
Con mắt là một giới
(gọi là nhãn giới), đối tượng của mắt là một giới (gọi là sắc giới). Cái thấy,
là giới thứ ba, nhãn thức giới. Trong lĩnh vực của thấy, vùng đất thứ nhất là
con mắt, vùng đất thứ hai là đối tượng của con mắt và vùng đất thứ ba là cái biết
phát sinh từ sự tiếp xúc giữa nhãn giới và sắc giới. Đó là ba giới. Rồi đến
nghe: nhĩ giới, thanh giới và nhĩ thức giới; ta tiếp tục tính như vậy với tỷ,
thiệt, thân và ý, tất cả là sáu căn. Rồi đến sáu trần là sắc, thanh, hương, vị,
xúc và pháp. Sau đó là sáu thức : nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức,
thân thức và ý thức. Cộng lại là mười tám giới. Có thể nói là mọi hiện hữu
trong vũ trụ đều bao gồm trong mười tám giới. Bụt dạy nếu chúng ta quán chiếu về
mười tám giới và thấy được bản chất của mười tám giới thì chúng ta có thể vượt
thoát vô minh và mọi sợ hãi, hoạn nạn và lo buồn.
Thầy A Nan hỏi: ‘‘Có
thể có một định nghĩa khác về giới hay không?’’ Bụt nói: ‘‘Có thể. Chúng ta có
thể quán chiếu về sáu giới: địa, thuỷ, phong, hoả, không và thức.’’
Trước hết là địa, thủy,
hỏa, phong: đất, nước, lửa và không khí, gọi là bốn đại (mahabhuta). Giới thứ
năm là không, tức là không gian, giới thứ sáu là thức. Nếu quán chiếu từng giới,
chúng ta có thể thấy mỗi giới chứa đựng tất cả năm giới khác. Trong địa có thủy,
hỏa, phong, không và thức. Trong thức cũng có địa, thủy, hỏa, phong và không,
v.v.. Quán chiếu địa, thủy, hỏa, phong, không và thức ở trong tự thân ta, rồi
quán chiếu địa, thủy, hỏa, phong, không và thức ở ngoài. Thấy rằng không có
biên giới giữa lục xứ bên trong và lục xứ bên ngoài, chúng ta thoát khỏi ý niệm
về sống chết.
Thầy A Nan lại hỏi:
‘‘Bạch đức Thế tôn, ngoài cách quán chiếu giới qua mười tám loại và qua sáu loại,
có thể quán chiếu về giới bằng cách khác nữa không?’’ Bụt nói: ‘‘Có thể được. Lạc,
khổ, hỷ, Ưu, xả và vô minh, cũng là sáu giới.’’
Nhìn cho kỹ lĩnh vực
của lạc, của hạnh phúc, chúng ta tiếp xúc, nhận thức cho thấu đáo; nhờ công phu
quyết trạch và tìm tòi, ta biết được bản chất của lạc. Quán chiếu sâu sắc để
tìm ra bản chất của lạc, ta biết rằng có những thức trước kia chúng ta nghĩ là
nhu yếu cần thiết mà kỳ thực chỉ là những ràng buộc làm cho ta mất hạnh phúc
chân thật. Biết như vậy thì chúng ta sẽ tự giải thoát khỏi những nhu yếu đó. Về
Khổ cũng vậy. Quán chiếu nỗi khổ, không sợ hãi, không chạy trốn, đi sâu vào
quán chiếu, ta thấy được bản chất của khổ. Đó gọi là trạch pháp, là giới phân
biệt quán. Ưu là sự lo lắng. Lo lắng là chứng bệnh của thời đại chúng ta. Hỷ là
niềm vui (having fun, having a good time). Chúng ta nhìn sâu, để xem đó có phải
là niềm vui chân thật, có tính cách nuôi dưỡng và chuyển hóa ta không, hay chỉ
là những hiện tướng bên ngoài cốt để che lấp sầu đau. Có cô thiếu nữ người Pháp
trong một khóa tu ở Paris nói: ‘‘Bạch Thầy, có khi giữa một buổi dạ hội nhảy
múa quay cuồng, đang cười cười, nói nói với các bạn, tự nhiên con khựng lại.
Con thấy chuyện nhảy múa cười cợt chẳng qua chỉ là một lớp màn mỏng dùng để che
đđay những khối lo lắng và buồn khổ nằm ở trong lòng con mà thôi.’’ Cái hỷ này
không phải là chân hỷ, không phải là niềm vui đích thực. Xả tức là sự buông bỏ.
Quán chiếu sâu xa, ta thấy rằng xả là điều kiện tất yếu của hạnh phúc. Trong trại
tỵ nạn Song Kla có một bà than rằng vàng dấu trong người bị hải tặc lấy hết cả.
Bà chỉ còn giữ được có một chỉ vàng, lên tới bờ bà khóc: ‘‘Còn mỗi một chỉ vàng
làm sao tôi sống được đây?’’ Một ông khác cũng bị cướp hết, chỉ còn cái quần
đùi. Ông cười, nói: ‘‘Bây giờ chỉ còn cái quần sà-loỏng tôi làm sao sống đây?’’
Ông ta vừa nói vừa cười rất vui vẻ, trong khi bà kia, vẫn còn có một chỉ vàng,
rất đau khổ. Chúng ta có hạnh phúc khi không bị vướng mắc vào những thứ mà ta
tưởng là điều kiện thiết yếu của hạnh phúc. Điều kiện thiết yếu của hạnh phúc
là tự do. Xả là tự do. Khi trong tâm còn ôm ấp, tham đắm, vướng mắc, ta không
có tự do, mà không có tự do thì không có hạnh phúc.
Bụt lại dạy phương
pháp quán chiếu về sáu giới khác là dục, ly dục, sân, vô sân, hại, và bất hại.
Trước hết là sự quán chiếu về dục, tức là về sự thèm khát và đối tượng của thèm
khát. Rồi quán chiếu ly dục, để đạt tới tự do lớn hơn. Vướng vào năm dục thì ta
trở nên nô lệ cho năm sự thèm khát là: tài, sắc, danh, thực và thụy. Rồi ta
quán chiếu về giới thứ ba là sân. Khối lửa sân hận cháy thầm suốt ngày suốt đêm
trong người làm ta đau khổ. Ôm ấp một mối giận hờn và oán trách trong lòng thì
ta là người đau khổ trước, còn kẻ được xem là đối tượng của cơn giận, ta không
biết họ có đang khổ hay không. Vô sân (the absence of anger) là nền tảng cho từ
bi. Lĩnh vực thứ năm, hại (harming) tức là làm hư hoại, tan nát, hại mình, hại
người, hại thiên nhiên và những hình thái khác của sự sống xung quanh. Ăn chay
là thực tập bất hại. Có người ăn chay chỉ vì muốn thêm sức khỏe, vì sợ ăn chất
béo. Nhưng trong khi ăn chay ta có thể nuôi dưỡng đức từ bi. Thấy cắt cổ một
con thú để máu chảy ra mà làm tiết canh, ta không chịu nổi. Lúc đầu có thể ta
đã chịu nổi, vì khi sinh ra và lớn lên ta đã thấy sát sinh nên thành quen mắt.
Nhưng khi tập quán chiếu, ta thấy rằng trong trường hợp ta bị cứa cổ như vậy,
thì ta đau khổ lắm. Do đó ta nhìn vào con vịt, con gà hay con cá đang bị giết,
ta thấy trong lòng không an ổn. Khi thấy người ta đẩy từng con bò, con này rồi
tới con kia vào lò sát sinh, hoặc khi thấy hàng trăm, hàng ngàn con gà đang bị
đẩy vào máy để bị cắt cổ và nhổ lông, tự nhiên ta thấy lòng đau sót. Nhiều người
thấy một lần như vậy thì phát nguyện ăn chay luôn. Thế giới đầy dẫy những căm
thù, bạo động. Chiến tranh là do chúng ta không nuôi dưỡng lòng từ bi. Ăn chay
là một trong những phương pháp nuôi dưỡng lòng từ bi của chúng ta. Ăn chay là
thực tập bất hại (non harming). Ngoài ra chúng ta phải nhìn cây cối, sông nước,
bầu không khí để thấy rằng cây cối, sông nước, địa cầu cũng cần phải được bảo vệ,
vì tất cả đều có sự sống. Bất hại (ahimsa) là một đức rất lớn trong đạo Bụt.
Khi chúng ta thiếu tâm bất hại, chứng kiến sự giết chóc và tàn hại đời sống mà
không động lòng, thì chúng ta không có hạnh phúc. Không có tình thương thì
không có hạnh phúc.
Ngày xưa có một thi
sĩ viết về bát canh thịt :
Thiên bách niên lai uyển lý canh
Oán thâm như hải, hận nan bình
Dục tri thế thượng đao binh kiếp
Thí thính đồ môn dạ bán thanh.
dịch :
Ngàn năm qua một bát canh
Oán sâu biển cả hận thành non cao
Muốn hay nguồn gốc binh đao
Lắng nghe quán thịt tiếng gào thâu đêm.
Chỉ cần nhìn vào
trong bát canh và miếng thịt trong đó, ta sẽ thấy niềm oán hận của các loài bị
tàn sát; nỗi oán hận này sâu như biển, lớn như núi. Nếu muốn biết được bản chất
của chiến tranh ở trên thế giới, chỉ cần nửa đêm thức dậy lắng nghe tiếng gào
thét của những con vật đang bị sát hại ở nhà đồ tể. Cho nên nếu có nhiều người
biết thực tập ăn chay đàng hoàng thì chiến tranh sẽ giảm. Có rất nhiều nhà
chính trị, kinh tế và khoa học đang nghiên cứu những cách thức làm giảm bớt chiến
tranh. Nhưng chúng ta phải biết rằng chiến tranh chỉ có thể giảm bớt khi tâm từ
bi của chúng ta phát triển. Ăn chay để tâm từ bi và tâm bất hại phát triển
trong lòng từ trẻ em đến người lớn, đó là một trong những phương pháp hay nhất
để mang lại hòa bình. Có người nói rằng: ‘‘Trời sinh con cá để cho người ăn, tại
sao không ăn?’’ Người ta sẽ hỏi lại: ‘‘Trời sinh con người để làm thức ăn cho
vi trùng, hay cọp beo, tại sao không để cho vi trùng hay cọp beo ăn?’’
Bụt lại nói với thầy
A Nan rằng ta có thể quán chiếu về ba giới, là dục giới, sắc giới và vô sắc giới,
tức là ba cái lĩnh vực của hiện hữu. Đừng tưởng rằng ta chỉ sống trong dục giới.
Chúng ta cũng đang sống trong sắc giới, đồng thời cũng sống trong vô sắc giới.
Ba yếu tố đều có mặt trong giây phút, trong cảnh sống hiện tại. Vì vậy phải
chuyển hóa thân tâm thì mới vượt thoát khỏi khổ đau của tam giới. Kinh dạy rằng
‘‘tam giới bất an do như hỏa trạch’’, nghĩa là trong ba cõi không có sự yên ổn,
giống như một cái nhà đang cháy. Tam giới là ba cõi, tạo tác bằng tâm chúng ta.
Khi tâm của chúng ta có dục, có sân, có hại thì chúng ta tạo ra căn nhà lửa
cháy. Tâm chúng ta ly dục, vô sân và bất hại là chúng ta tạo ra một hồ sen tươi
mát, dập tắt được những khổ đau của ba cõi.
Sau đó Bụt dạy thầy A
Nan rằng ta cũng có thể quán chiếu về hai giới, tức là hữu vi giới và vô vi giới.
Có thể hiểu hữu vi giới là bình diện tích môn, còn vô vi giới là bình diện bản
môn. Hữu vi tức là lĩnh vực của những hiện tượng tương đối, có sinh, có diệt,
có trước, có sau, có trong, có ngoài, có lớn, có nhỏ. Và vô vi giới tức là lĩnh
vực của tự do, thoát khỏi những ý niệm sinh, diệt, tới, lui, trước, sau, lớn,
nhỏ. Hữu vi giới như là sóng, vô vi giới là nước, không phải là hai thể tính biệt
lập. Nói về sóng, chúng ta thấy có cao, có thấp, có sinh, có diệt, nhưng nhìn về
phương diện nước, chúng ta thoát khỏi các ý niệm cao, thấp, sinh, diệt. Quán
chiếu về hai mặt của thực tại, hữu vi và vô vi, chúng ta cũng có thể vượt thắng
sợ hãi, lo buồn và các hoạn nạn. Vì trong Kinh này Bụt dạy về nhiều loại giới để
quán chiếu, nên Kinh được gọi là Kinh Đa Giới. Kinh này là Kinh thứ 115 của
Trung Bộ và Kinh thứ 181 của Trung A Hàm. Trong Hán Tạng cũng có một Kinh khác
tương đương, đó là Kinh Phật Thuyết Tứ Phẩm Pháp Môn Kinh (Đ.C.776)
Chánh Tinh Tấn
Tinh tấn có nghĩa là
sự siêng năng, là sự có mặt của một nguồn năng lượng, một sức sống trong ta.
Năng lượng để làm gì? Năng lượng để đưa chúng ta đi tới chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm, và chánh định. Đó là
Chánh Tinh Tấn. Còn năng lượng đẩy chúng ta đi về nẻo khác, đó tà tinh tấn. Có
những người có đức siêng năng có nhiều năng lượng, nhưng đó không phải chánh
tinh tấn. Họ được tác động bằng những ước muốn không chân chính, như tài, sắc,
danh, v.v.. Càng tinh tấn đi về các nẻo ấy chừng nào thì càng vướng mắc, càng mất
tự do. Có khi tuy không bị danh, lợi, tài và sắc thúc đẩy, vì trong lòng chất
chứa quá nhiều khổ đau, nhưng người ta không thể ngồi yên được vì ngồi yên thì
những đau khổ ngấm ngầm sẽ hiện lên khuấy trộn. Cho nên họ luôn tay làm bất cứ
việc gì để quên lãng khổ đau. Không có khả năng đối diện với bất an, đau khổ, họ
tìm lãng quên trong công việc, có thể được khen rằng: ‘‘Anh này siêng năng
quá!’’. Siêng năng này không phải là chánh tinh tấn. Có nhiều người vùi đầu vào
sách cũng vì họ thiếu bình an và hạnh phúc. Nhìn vào thì thấy anh này siêng
năng quá, tinh tấn quá. Nhưng kỳ thực không phải. Có trường hợp trong đó ta cần
mẫn và tu tập rất đều đặn, nhưng có thể là ta đang đi sai đường mà ta không biết.
Đó cũng không phải là chánh tinh tấn. Đôi khi tập thiền, ta đi theo một lối tập
càng ngày càng làm cho ta xa lìa cuộc sống thực tế chung quanh. Năng lượng thực
tập đó cũng không phải là chánh tinh tấn. Dầu có hành trì chuyên cần đến mấy đi
nữa, năng lượng ấy cũng không đưa ta tới chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm và chánh định.
Chánh tinh tấn phải
được nuôi dưỡng bằng những chi phần khác của bát chánh đạo. Nếu không có chánh
kiến, thì không có chánh tinh tấn. Khi biết con đường tu tập đưa ta tới an lạc
đích thật thì tự nhiên trong lòng ta phát sinh niềm hân hoan và phấn khởi. Niềm
hân hoan phấn khởi đó tạo ra năng lượng, đưa ta tới chánh tinh tấn. Hơn nữa,
trong khi thực tập ta thấy được kết quả của sự chuyển hóa ở chính mình, thấy được
kết quả chuyển hóa nơi những người chung quanh, và niềm tin của ta lớn mạnh.
Sau khi đi thiền hành một giờ đồng hồ, ta thấy thân tâm khỏe hơn trước. Ta nghĩ
phương pháp thiền hành này ta phải nắm vững, mỗi khi trong lòng có sự bất an
thì ta phải mang ra dùng. Tin tưởng phương pháp thiền hành, ta khuyên một người
bạn tu ‘‘anh nên đi thiền hành đi, một giờ đồng hồ sau về ta sẽ nói chuyện!’’
Người đó đi một giờ đồng hồ về, con người tươi mát hơn và nói chuyện với ta dễ
dàng hơn. Ta càng tin vào phương pháp thiền hành. Cho nên ta thấy chánh tinh tấn
được nuôi dưỡng bằng chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh niệm và chánh định.
Chúng ta đã có kinh
nghiệm là sau khi nghe một bài pháp thoại ta có thể hân hoan, hặng hái và niềm
tin của ta nơi pháp môn vững vàng hơn. Nhưng có những người nghe giảng mà dù cố
gắng hết sức cũng vẫn thấy buồn ngủ như thường. Trong thính chúng một trăm người,
chỉ có mấy người không buồn ngủ. Mấy người này nghe rất chăm chú, bởi vì họ
nghe đúng phương pháp. Bài giảng không hào hứng, không hay. Nhưng những người
này trong khi nghe họ biết quán chiếu để nhìn cho thấu suốt. Họ thấy rõ được
tâm của người giảng, nên họ khám phá ra được những điều mà người khác không thấy.
Cũng như khi xem một phim dở, nếu ta xem với tư cách một nhà phê bình nghệ thuật,
hay một nhà tâm lý học, ta có thể nhìn thấu rõ kỹ thuật, học vấn, gốc gác và cả
tâm địa của người làm phim, nhờ đó ta thấy việc coi phim cũng rất hào hứng. Khi
có những điều kiện tâm lý như thế, thì tuy không có ai nhắc mà ta vẫn tinh tấn,
vì có một niềm vui đã xuất phát tự bên trong ta.
Nghe một bài giảng
hay thì tự nhiên dễ dàng đạt tới định. Định ấy được tạo thành, được nuôi dưỡng
bằng niềm vui, bằng cái hay, cái đẹp. Nhưng quanh ta có rất nhiều cái có dáng dấp
nhỏ bé, tầm thường, mà thật ra rất mầu nhiệm và vơi đại. Thế mà có khi sống cả
một đời chúng ta cũng không nhìn thấy. Hãy nhìn những người quay phim chuyên
môn chụp lấy những hình thái sinh hoạt nhỏ bé của sự sống. Họ chụp những bông
hoa rất nhỏ, họ quay phim đời sống của loài kiến, hoặc loài ong. Con mắt của họ
nhận xét rất tinh tường và họ dùng ống kính để chỉ cho chúng ta thấy biết bao
nhiêu chi tiết mầu nhiệm của sự sống xung quanh ta. Chúng ta cũng có mắt như họ
nhưng không thấy được những cái ấy, vì ta không kiên nhẫn, không thao thức tìm
tòi để tiếp xúc với những mầu nhiệm đó.
Tóm lại, khi sự tu học
của chúng ta được dẫn dắt bởi cái thấy đúng, khi chúng ta đạt tới được những kết
quả tốt đẹp, chứng nghiệm được những niềm vui trong ta và nơi người xung quanh,
thì tự nhiên ta có năng lượng của chánh tinh tấn.
Chánh tinh tấn có thể
hiểu theo nội dung của tứ chánh cần. Chữ cần có nghĩa là chăm chỉ (samyak
prahàna). Và chúng ta nên hiểu tứ chánh cần theo một quá trình tâm lý. Trước hết,
chúng ta tu tập chánh tinh tấn bằng chánh niệm. Khi có một niệm bất thiện khởi
lên thì chúng ta phải thực tập thế nào để nó đừng phát hiện trở lại trong tương
lai. Trong tâm, chúng ta biết dưới phần ý thức là phần tàng thức. Trong tàng thức
đang có những hạt giống bất thiện, không lợi ích cho sự giải thoát. Khi một hạt
giống bất thiện được tưới tẩm, nó phát hiện trên mặt ý thức thành một tâm hành
bất thiện. Nếu chúng ta để tâm hành ấy y nguyên như vậy, hay tiếp tục nuôi dưỡng
nó, thì nó càng ngày càng lớn, và chiếm chỗ thật lâu trong cái phòng khách ý thức.
Đến khi rời khỏi ý thức, chìm xuống lại tàng thức và trở lại thành hạt giống
thì hạt giống ấy đã được nuôi lớn thêm.
Thấy rõ quá trình đó,
để đối trị, ta phải dùng chánh niệm chuyển hóa hạt giống từ trước khi nó phát
khởi. Thực tập tứ chánh cần là mỗi khi có một tâm niệm bất thiện, như tham,
sân, si, mạn, nghi, hoặc kiến khởi lên thì chúng ta phải biết cách sử lý chúng
bằng chánh niệm. Nhận diện một tâm niệm không an lành vừa mới phát khởi : ‘‘Tôi
đang bực bội và tôi biết là có sự bực bội trong tôi’’. Đó là cách nhận diện đơn
thuần. Chỉ cần nhận mặt thôi, ta cũng có thể làm cho tâm niệm đó tan đi, trở về
lại tàng thức, nằm yên nơi gốc của nó. Có trường hợp tâm niệm bất thiện không
chịu tan đi. Trong Kinh Song Tầm (Dvedhavitaka), thuộc Trung Bộ 19 (Majjhima
nikaya), Bụt dạy chúng ta một phương pháp gọi là thay chốt.
Khi người thợ mộc muốn
gắn hai cái đà gỗ với nhau, người ấy đục lỗ và cho một con chốt xuyên qua từ
thanh gỗ này sang thanh gỗ kia. Lâu ngày, con chốt bị mục, người thợ muốn rút nó
ra, thay nó bằng một con chốt mới. Nếu không thì các cây đà sẽ long ra và nhà sẽ
sập đổ. Phương pháp của người thợ mộc ở Ấn Độ thời đó là dùng một cái chốt thứ
hai, còn tốt, đóng vào đúng nơi đầu cái chốt thứ nhất. Cái chốt mới sẽ đẩy cái
chốt cũ đi ra ngoài để tự mình thay thế. Đó gọi là phương pháp thay chốt. Nếu
biết làm phát khởi và nuôi dưỡng một tâm niệm thiện thì ta có thể đẩy tâm niệm
bất thiện đi ra, giống như người thợ mộc thay chốt. Chúng ta cũng có thể giúp
nhau phát khởi tâm niệm thiện, giúp bạn tu của ta thoát khỏi tâm trạng không
lành bằng cách khích lệ, nuôi dưỡng những tâm niệm lành nơi người ấy.
Phương pháp thứ hai
là ta quán chiếu để nhận diện những hạt giống bất thiện, khi chúng đã phát hiện
lên cũng như khi chúng còn ẩn nấp trong tàng thức. Phép đó gọi là bất tịnh
quán, trong ngũ đình tâm quán. Giả dụ một người vừa mới tắm, có ai mang tới xác
một con rắn chết mà quàng vào cổ thì người đó biết ngay. Tâm niệm bất thiện
cũng giống như vậy. Phải quán chiếu và nhận diện ý niệm bất thiện ngay khi nó mới
sinh khởi.
Ngũ căn và ngũ lực là
tín, tấn, niệm, định và tuệ, trong đó có tín, là niềm tin. Ta tin vào Bụt, vào
Pháp, vào Tăng, tin vào con đường ta đi. Niềm tin đó từ chánh kiến và chánh tư
duy mà phát sinh ra. Nhờ niềm tin đó nên chúng ta có năng lực, có niềm vui, có
nguồn năng lượng gọi là chánh tinh tấn. Tin nơi con đường ta đang đi, đó gọi là
Bồ đề tâm, là ước muốn sâu xa muốn đem an lạc và hạnh phúc để hiến tặng con người
và mọi loài. Niềm tin đó đưa tới sự tinh tấn.
Hai yếu tố khác trong
bảy giác chi là hỷ mà khinh an cũng góp phần tạo nên chánh tinh tấn. Hỷ là niềm
vui, niềm vui trong đời tu học, phát hiện khi ta thấy thành quả tu học của mình
và của người khác, khi ta thấy được con đường sáng đang đi. Khinh an là sự
thanh thản nhẹ nhàng. Nếu không có niềm vui, không có sự nhẹ nhàng thì chúng ta
không thể có tinh tấn. Cho nên chánh tinh tấn chuyên chở trong bản thân các yếu
tố khinh an, hỷ và tín.
Chánh niệm và chánh định
cũng vậy. Nhờ thực tập chánh niệm mà ta có tín, hỷ và khinh an nghĩa là tinh tấn,
và chánh niệm của ta sẽ vững mạnh. Khi biết sống ý thức từng giây phút, tự
nhiên ta có định trong đời sống hàng ngày. Định không phải chỉ có nghĩa là trạng
thái tâm nhất cảnh khi ngồi thiền, nghĩa là khi đã đi vào định rồi thì trời mưa
gió sấm sét ta cũng không nghe. Định còn có những nghĩa khác. Sống đời sống
hàng ngày, nấu bếp, quét dọn, giặt giũ mà ta vẫn ở trong định, vì ta đang biết
sống trong chánh niệm. Mỗi giây phút có chánh niệm là mỗi giây phút có chánh định.
Và đối tượng của định có hai loại. Đối tượng đầu là những gì đang xẩy ra trong
giờ phút đó. Ví dụ khi quét nhà thì ta có định trong việc quét nhà, khi rửa
chén thì ta có định trong việc rửa chén. Khi chim hót mà ta có định thì đối tượng
của định là tiếng chim hót. Khi thông reo thì đối tượng của định là thông reo.
Thứ hai là khi ngồi thiền, ta có thể chọn đối tượng của định. Ví dụ trong hai
mươi phút hay là bốn mươi phút đồng hồ ta chỉ chuyên chú vào một đối tượng như
hơi thở, hoặc một tâm hành, hoặc phát khởi tâm xót thương những loài đang bị giết
chóc. Trong khi thực tập, ta không cho những đối tượng khác lọt vào. Đó là Nhất
điểm hành (ekagata), tâm ý ta chỉ nhắm vào một đối tượng duy nhất mà thôi.
Xem Tiếp Bài 16 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá