Chương 5. Bí ẩn huyền nhiệm của tôn giáo

Chương 5. Bí ẩn huyền nhiệm của tôn giáo

Price:

Read more

Osho - Thiền động (Đi tìm điều huyền bí - Tập 2)
Chương 5. Bí ẩn huyền nhiệm của tôn giáo

Trong bài nói hôm qua Thầy đã nói rằng có thể khoa học đi vào thể thứ năm hay tâm linh. Rồi Thầy nói về khả năng của khoa học trong thể thứ tư. Xin Thầy nói cho chúng tôi về những khả năng của khoa học trong thể thứ năm.
Điều chúng ta gọi là thể vật lí và điều chúng ta gọi là linh hồn, không phải là hai thứ khác nhau và tách rời. Không có đứt quãng giữa chúng; có mối nối. Chúng ta bao giờ cũng nghĩ rằng thân thể là tách biệt và linh hồn là tách biệt, và rằng chẳng có gì nối chúng lại. Cũng vậy, chúng ta đã từng nghĩ không chỉ chúng là tách biệt mà chúng còn đối lập lẫn nhau. Ý tưởng này đã tách bạch tôn giáo với khoa học. Tôn giáo được giả định tìm kiếm những cái khác thân thể, trong khi khoa học được giả định phát hiện mọi thứ về thân thể - tất cả ngoại trừ atman, linh hồn. Cho nên cũng là tự nhiên mà bên này phải phủ nhận bên kia.
Khoa học bị thu hút vào thân thể vật lí và do vậy nó hỏi, "Thân thể là thực, nhưng linh hồn ở đâu?" Tôn giáo đã tìm kiếm cái bên trong và gọi nó là linh hồn. Nó nói, "Linh hồn là thực nhưng thân thể là ảo tưởng." Do đó, khi tôn giáo đã đạt tới đỉnh của nó, nó mô tả thân thể như ảo tưởng, giả tưởng, maya, và nói rằng thực tế nó không tồn tại. Nó tuyên bố atman là chân lí và thân thể là ảo tưởng. Khi khoa học đạt tới đỉnh cao của nó, nó phủ nhận atman. Nó nói, "Khái niệm về linh hồn là sai; đấy là nói dối. Thân thể là mọi thứ." Lỗi này có nguyên nhân đằng sau quan niệm rằng thân thể và atman là hai điều đối lập.
Tôi đã nói về bẩy thể. Nếu thể thứ nhất là vật lí và thể cuối cùng là tâm linh, thế thì nếu chúng ta không xem xét năm thể ở giữa, sẽ không có cầu nối giữa hai thể này. Nó sẽ hệt như bạn định trèo lên một chiếc thang và rồi vứt đi tất cả những bậc ở giữa bậc đầu và bậc cuối. Thế thì chẳng có mối nối nào giữa bước đầu tiên và bước cuối cùng cả.
Nếu bạn thấy chiếc thang đầy đủ bạn sẽ thấy rằng bậc đầu tiên được nối với bậc cuối cùng. Và nếu bạn xem xét nó kĩ càng hơn, bạn sẽ thấy rằng bậc cuối cùng là phần cuối cùng của bậc đầu tiên, và bậc đầu tiên là phần đầu tiên của bậc cuối cùng. Tương tự, nếu chúng ta lấy tất cả bẩy thể, chúng ta sẽ thấy mối nối giữa các thể thứ nhất và thứ hai. Thể thứ nhất là thể vật lí; thể thứ hai là thể ê te - thể xúc cảm. Nó chỉ là dạng tinh tế của thể vật lí và không phải là phi vật chất. Nó chỉ là cái tinh tế đến mức nó vẫn chưa được các phương tiện vật lí nắm bắt hoàn toàn. Nhưng bây giờ các nhà vật lí cũng không phủ nhận sự kiện là vật chất vật lí trở thành ngày càng loãng hơn và phi vật lí hơn trong dạng tinh tế của nó.
Chẳng hạn, khoa học hiện đại nói rằng vật chất khi bị phân tích ra, chung cuộc thu lại thành điện tử, không phải là vật chất mà là hạt điện. Chẳng cái gì giống như chất liệu là còn lại đến cuối cùng cả - chỉ có năng lượng. Cho nên khoa học đã tìm ra một khám phá kì diệu trong ba mươi năm qua. Mặc dầu nó vẫn coi vật chất là một thực tại, nó bây giờ đi tới kết luận rằng vật chất không tồn tại trong khi năng lượng là sự kiện. Khoa học bây giờ nói rằng vật chất là ảo tưởng được gây ra bởi việc chuyển động của năng lượng với tốc độ cao.
Khi cái quạt được làm cho quay với tốc độ cao, chúng ta không thể thấy ba cánh của nó một cách tách biệt. Điều ta thấy là một vòng tròn quay mãi. Cũng thế, không gian giữa các cánh quạt dường như bị lấp đầy. Thực tại, cánh quạt chuyển động nhanh đến mức trước khi phản chiếu của một cánh đi qua mắt chúng ta, cánh thứ hai đã có đó. Thế rồi cánh thứ ba tới mau lẹ, với kết quả là chúng theo sau lẫn nhau để cho chúng ta không thể thấy không gian trống giữa chúng. Cái quạt này có thể làm cho quay với tốc độ mà bạn có thể ngồi lên nó và chẳng bao giờ biết được rằng cái gì đang chuyển động dưới bạn. Khoảng cách giữa hai cánh có thể bị chất đầy mau lẹ đến mức sau khi một cánh lướt qua dưới bạn, cánh thứ hai lập tức thay thế nó; thế thì bạn sẽ không cảm thấy khoảng cách trống rỗng chút nào. Đấy hoàn toàn là vấn đề tốc độ.
Khi năng lượng quay ở tốc độ cao, nó giống như vật chất. Năng lượng nguyên tử, mà toàn bộ nghiên cứu khoa học hiện đại của chúng ta dựa trên đó, chưa bao giờ được cảm nhận một cách trực quan; chỉ các tác động của nó là thấy được. Năng lượng nền tảng là vô hình và vấn đề thấy nó không nảy sinh, nhưng chúng ta có thể quan sát tác động của nó.
Cho nên nếu chúng ta nhìn vào thể ê te như thể nguyên tử, sẽ không sai - bởi vì trong trường hợp này nữa chúng ta chỉ thấy tác động mà không thấy bản thân thể ê te. Do tác động này chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại của nó. Thể thứ hai này là dạng tinh tế của thể thứ nhất; do đó không có khó khăn trong việc nối hai thể này. Theo một cách nào đó chúng được nối với nhau. Một thể là thô và do đó có thể thấy nó được; thể kia, tinh tế và do đó không thể thấy được.
Bên ngoài thể ê te là thể vía. Nó là dạng tinh tế hơn hai thể kia. Khoa học còn chưa đạt tới đây, nhưng nó đã đạt tới một kết luận rằng nếu chúng ta phân tích vật chất, cái cuối cùng còn lại là năng lượng. Năng lượng này có thể được gọi là ê te. Nếu ê te còn bị chia thêm nữa thành những thành phần tinh tế hơn, cái còn lại là vía - và điều này là tinh tế hơn cái tinh tế.
Khoa học còn chưa đạt tới thể vía nhưng nó sẽ đạt tới. Mãi cho tới gần đây khoa học chỉ chấp nhận vật chất và phủ nhận sự tồn tại của nguyên tử. Cho đến hôm qua, gần như vậy, nó còn nói rằng vật chất là cứng rắn. Hôm nay nó nói rằng chẳng có gì là chất liệu cứng rắn và mọi thứ đều không cứng rắn. Bây giờ người ta đã chứng minh rằng ngay cả bức tường, dường như cứng rắn, cũng không cứng rắn như vậy. Nó là xốp và các thứ có thể xuyên ra sau ra trước qua các lỗ hổng của nó. Chúng ta có thể có khuynh hướng nói rằng ít nhất cái bao quanh lỗ hổng phải là cứng rắn, nhưng cái này nữa cũng không cứng rắn: mỗi nguyên tử đều xốp.
Nếu chúng ta khuếch đại nguyên tử tới cùng kích thước như trái đất, chúng ta sẽ thấy rằng có nhiều khoảng cách giữa hai thành phần của nguyên tử như có giữa trái đất và mặt trăng hay mặt trời và các vì sao. Thế thì chúng ta có thể nói rằng ít nhất hai thành phần tại hai đầu là cứng rắn - nhưng khoa học nói rằng cả hai đầu này nữa cũng không cứng rắn nốt; chúng là các hạt điện. Bây giờ khoa học thậm chí không sẵn sàng chấp nhận từ hạt, bởi vì với từ đó có gắn liền với khái niệm vật chất. Hạt có nghĩa là một phần vật chất - nhưng các thành phần của nguyên tử không phải là vật chất, bởi vì vật chất cứng rắn và giữ hình dáng của nó trong khi những thành phần này liên tục thay đổi hình dạng. Chúng giống như sóng, không phải hạt. Khi một con sóng phát sinh trong nước, trước khi bạn thậm chí nói với mình, "Đây là con sóng", nó đã thay đổi, bởi vì sóng là cái tới và đi liên tục.
Nhưng sóng cũng là biến cố vật chất, cho nên khoa học đã phát minh ra một từ mới mà trước đây ba mươi năm còn chưa có. Từ đó là lượng tử quanta. Khó mà tìm ra một từ Hindu tương đương cũng như nhiều từ Hindu không có từ tương đương trong tiếng Anh: chẳng hạn từ Brahman - thực tại vũ trụ. Các từ được tạo ra bởi vì có sự cần thiết diễn đạt về phần những người đã kinh nghiệm qua. Khi Brahman được kinh nghiệm, những người đã kinh nghiệm nó cần phát minh ra một từ để diễn đạt nó, cho nên từ brahman đã được phát minh ra ở phương Đông. Phương Tây còn chưa đạt tới giai đoạn này; do vậy họ không có bất kì từ tương đương nào, bởi vì họ đã không yêu cầu về nó.
Đây là lí do tại sao nhiều thuật ngữ tôn giáo không có từ tương đương trong tiếng Anh. Chẳng hạn, từ aum - từ này không thể được dịch sang bất kì ngôn ngữ nào trên thế giới. Nó là cách diễn đạt về kinh nghiệm tâm linh sâu sắc. Phương Tây không có từ tương đương mà qua đó có thể diễn tả được. Theo cùng cách thức đó, lượng tử là một từ được phát minh ra để diễn tả đỉnh cao khoa học và nó cũng không có từ tương đương trong bất kì ngôn ngữ nào. Nếu chúng ta cố gắng hiểu ý nghĩa của lượng tử, nó có nghĩa là hạt và sóng cùng nhau. Tuy nhiên rất khó để quan niệm về nó. Nó là cái gì đó đôi khi hành xử như hạt, đôi khi hành xử như sóng, và có hành vi không thể nào dự đoán trước được.
Cho đến bây giờ vật chất là tin cậy nhất; có chắc chắn về vật chất. Nhưng phần tối hậu của vật chất, năng lượng nguyên tử mà đã được phát hiện ra, lại rất bất định. Hành vi của nó không thể nào đoán trước được. Ban đầu khoa học đứng vững chãi bởi sự chắc chắn của vật chất. Nó nói rằng mọi thứ đều chính xác và xác định. Bây giờ nhà khoa học không nhấn mạnh vào lời tuyên bố này nữa, vì ông ta biết rằng từ chỗ ông ta đã đạt tới trong nghiên cứu hôm nay, cái chắc chắn này là rất nông cạn. Có bất định sâu sắc bên trong, và sẽ đáng quan tâm để biết cái bất định này nghĩa là gì.
Nơi có cái bất định, nhất định có ý thức; bằng không, không thể có bất định được. Bất định là một phần của ý thức, chắc chắn là một phần của vật chất. Nếu chúng ta để chiếc ghế ở một chỗ nào đó trong phòng, chúng ta sẽ thấy nó đích xác vẫn ở đấy khi chúng ta quay lại, nhưng nếu chúng ta bỏ lại trong phòng một đứa bé, chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy nó ở chỗ chúng ta đã bỏ lại. Bao giờ cũng có hoài nghi, bất định, nó sẽ ở đâu và nó sẽ làm gì. Chúng ta có thể chắc chắn về vật chất, nhưng chẳng bao giờ chắc chắn về ý thức. Do đó, khi khoa học chấp nhận tính bất định trong hành vi của phần tối hậu của nguyên tử, nó cũng chấp nhận khả năng của ý thức trong phần tối hậu của vật chất.
Bất định là phẩm chất của ý thức, nhưng vật chất không thể là không dự đoán được. Không phải là lửa có thể cháy khi nó lựa chọn và không cháy khi nó không lựa chọn việc cháy, cũng không phải là nước có thể chảy theo bất kì hướng nào nó thích hay sôi ở bất kì nhiệt độ nào nó muốn. Sự vận hành của nước là tất định, nhưng khi chúng ta đi vào bên trong vật chất chúng ta thấy rằng chung cuộc nó là không xác định.
Bạn có thể hiểu nó theo cách này: nếu chúng ta muốn tìm ra bao nhiêu người chết ở Bombay, điều này là có thể. Nếu có mười triệu người chúng ta có thể lấy con số chết trong một năm và tìm ra xấp xỉ bao nhiêu người chết trong một ngày, và điều này sẽ gần như là đúng đắn. Nếu chúng ta tính tỉ lệ chết cho toàn bộ đất nước chín trăm triệu người theo cùng cách, con số sẽ gần với số đúng hơn. Nếu chúng ta tính tỉ lệ chết cho toàn thế giới, tính chắc chắn của con số thậm chí sẽ còn lớn hơn. Nhưng nếu chúng ta muốn tìm ra khi nào một người sẽ chết, tính toán của chúng ta sẽ là bất định nhất.
Đám đông càng lớn, mọi thứ càng trở nên nhiều vật chất hơn. Hiện tượng càng cá nhân, chúng ta càng tìm thấy nhiều ý thức hơn. Thực tế, chỉ một mẩu vật chất cũng là đám đông của hàng triệu nguyên tử; do đó, chúng ta có thể dự đoán về nó. Nhưng nếu chúng ta xuyên thấu vào bên trong nguyên tử và bắt giữ lấy điện tử, chúng ta thấy rằng nó là cá nhân: chúng ta không thể xác định tiến trình của nó và dường như là nó quyết định điều đó theo ý riêng của nó. Cho nên về một tảng đá cứng chúng ta có thể chắc chắn: chúng ta sẽ tìm thấy nó ở một chỗ đặc biệt. Nhưng cấu trúc của từng nguyên tử bên trong sẽ không hệt như thế. Vào lúc chúng ta trở lại tảng đá, tất cả các nguyên tử bên trong sẽ thay đổi vị trí của chúng và đã du hành từ chỗ này sang chỗ khác.
Bất định bắt đầu bằng việc đi sâu vào bên trong vật chất. Đây là lí do tại sao khoa học đã thay đổi ngôn ngữ của nó từ chắc chắn sang xác suất. Nó không còn nói, "Đây là cách mà cái này hay cái kia sẽ là." Thay vì thế, nó nói, "Có thể cách này hơn cách kia." Nó không còn nói nhấn mạnh, "Nó là thế này." Trong quá khứ tất cả những tuyên bố của khoa học đều theo ngôn ngữ của chắc chắn: bất kì cái gì nó nói cũng đều nhất định là vậy. Nhưng khi việc tìm kiếm của khoa học đi sâu hơn, tất cả những khái niệm trước đó của nó bắt đầu bị phá vỡ. Lí do là ở chỗ khoa học đã tiến bước không chủ định từ cõi vật lí vào ê te, mà về điều đó nó không có hiểu biết. Chừng nào mà nó còn chưa chấp nhận sự kiện về việc bước từ bình diện vật lí sang bình diện ê te, nó không thể nào có bất kì hiểu biết nào được. Nó đã đạt tới chiều thứ hai của vật chất, chiều ê te, và điều này có những khả năng riêng của nó. Không có lỗ hổng giữa thể thứ nhất và thể thứ hai.
Thể thứ ba hay thể vía thậm chí còn tinh tế hơn nữa. Nó là tinh tế nhất của cái tinh tế. Nếu chúng ta đập vỡ ê te thành nguyên tử - mà điều này vẫn dường như là không có thể, bởi vì chúng ta đã mở trần trụi nguyên tử vật lí, cho nên việc thực nghiệm với ê te sẽ mất thời gian dài. Khi nguyên tử ê te đã được biết, chúng ta sẽ thấy rằng chúng là các hạt của thể tiếp sau - có nghĩa là, thể vía. Khi chúng ta đập vỡ nguyên tử vật lí, các hạt tinh tế nhất của nó được tìm thấy là ê te. Tương tự, nếu chúng ta đập vỡ nguyên tử ê te, các hạt tinh tế nhất sẽ là hạt của thể vía. Cho nên chúng ta sẽ thấy mối nối giữa chúng. Ba thể này được nối rõ ràng với nhau và chính bởi lí do này mà ảnh ma đã được chụp.
Ma không có thể vật lí. Việc che giấu của nó bắt đầu với thể ê te. Có thể chụp ảnh ma, bởi vì khi thể ê te cô đặc lại, máy ảnh nhậy có thể bắt được sự phản xạ của nó. Một điều nữa về ê te là ở chỗ nó tinh tế đến mức nó dễ dàng bị ảnh hưởng bởi hồn. Nếu linh hồn người chết muốn xuất hiện, nó có thể cô đặc hình dạng của nó để cho các nguyên tử đang trải rộng bên ngoài dồn lại gần nhau hơn và tạo ra hình nét mờ ảo. Điều này có thể được máy ảnh bắt giữ.
Vậy, thể thứ hai của chúng ta, thể ê te, bị ảnh hưởng bởi tâm trí hơn thể vật lí nhiều. Thể vật lí nữa cũng tới dưới ảnh hưởng của tâm trí, nhưng không đến được mức độ đó. Thể càng tinh tế, càng bị ảnh hưởng bởi tâm trí và nó sẽ gần tâm trí hơn. Thể vía thậm chí bị ảnh hưởng bởi tâm trí nhiều hơn. Đây là lí do tại sao việc du hành vía là có thể. Một người có thể ngủ trong phòng này nhưng người đó có thể đi tới bất kì đâu trên thế giới bằng thể vía của mình. Bạn phải đã nghe những câu chuyện về người được thấy ở hai ba nơi một lúc. Điều này là có thể. Thể vật lí của người đó sẽ ở một chỗ còn thể vía của người đó ở chỗ khác. Đấy chỉ là vấn đề có chút ít thực hành và điều này có thể xảy ra.
Quyền năng của tâm trí phát triển ngày càng nhiều khi chúng ta đi vào trong và chúng tiêu tan khi chúng ta đi ra ngoài. Đi ra ngoài cũng hệt như thắp một ngọn đèn rồi chụp bóng thuỷ tinh che lên ngọn lửa. Sau khi chụp bóng lên, ngọn lửa sẽ không còn rất sáng nữa. Thế rồi chúng ta lại chụp bóng nữa rồi bóng nữa. Theo cách này chúng ta đặt bẩy bóng bao phủ nó. Sau bẩy lần bao phủ, ánh sáng của ngọn lửa sẽ cực kì mờ và xỉn bởi vì nó phải đi qua bẩy tầng.
Theo cách này năng lượng sống của chúng ta trở nên rất mờ vào lúc nó đạt tới thể vật lí. Đây là lí do tại sao chúng ta dường như không có mấy kiểm soát lên thân thể vật lí. Nhưng nếu ai đó bắt đầu du hành vào bên trong, việc kiểm soát của người đó trên thể vật lí của mình trở nên ngày càng nhiều hơn, đích xác tỉ lệ với chiều sâu cuộc hành trình bên trong của người đó. Dạng tinh tế của thể vật lí là thể ê te và phần còn tinh tế hơn nữa của thể ê te là thể vía. Thế rồi tới thể thứ tư - thể trí.
Cho tới giờ chúng ta vẫn có ấn tượng là tâm trí là một thứ và vật chất là một thứ khác. Tâm trí và vật chất đã bị coi như hai điều tách biệt. Thực tế, không có cách nào xác định chúng. Nếu chúng ta định hỏi, "Tâm trí là gì?" chúng ta sẽ được cho biết, "Cái không phải là vật chất," và ngược lại. Nếu chúng ta định hỏi, "Vật chất là gì?" không có định nghĩa nữa. Và đây là cách thức mà chúng ta bao giờ cũng nghĩ về chúng - là khác biệt và tách biệt. Tuy nhiên bây giờ chúng ta biết rằng âm trí cũng là một dạng tinh tế hơn của vật chất. Đảo lại, chúng ta có thể nói rằng vật chất là dạng cô đặc của tâm trí.
Khi các nguyên tử của thể vía bị phá vỡ, chúng trở thành sóng ý nghĩ. Có một sự xấp xỉ gần gũi giữa lượng tử và sóng ý nghĩ; điều đó còn chưa được xem xét tới. Cho tới nay, ý nghĩ vẫn chưa được coi là có sự tồn tại vật lí, nhưng sự kiện là ở chỗ khi bạn nghĩ về một loại ý nghĩ đặc biệt, rung động quanh bạn thay đổi tương ứng. Điều thú vị cần lưu ý là không chỉ ý nghĩ mà ngay cả lời nói cũng có rung động của riêng nó. Nếu bạn rải các hạt cát lên tấm kính và tụng Aum thật to, dưới kính hình mẫu gây ra bởi rung động của âm thanh sẽ khác với hình mẫu gây ra bởi việc tụng Rama. Nếu bạn thốt ra lời chửi rủa, hình mẫu sẽ lại thay đổi.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng lời nói càng thô lỗ và chửi rủa, hình mẫu được tạo nên càng xấu, và lời nói càng hay, hình mẫu rung động càng đẹp. Lời chửi rủa sẽ tạo nên một hình mẫu hỗn loạn, trong khi các đường của lời hay sẽ được tạo nên rất đẹp và cân đối.
Do đó, trong hàng nghìn năm nghiên cứu đã được tiến hành để tìm ra lời tạo ra những rung động đẹp, và người ta đã xem xét liệu cường độ của chúng có đủ ảnh hưởng tới trái tim hay không. Lời nói là ý nghĩ được biểu lộ. Tuy nhiên, những lời không biểu lộ cũng mang sự vang động và chúng ta gọi chúng là ý nghĩ. Khi bạn nghĩ về điều gì đó, một loại vang động đặc biệt được tạo ra quanh bạn, một loại rung động đặc biệt bao quanh bạn. Đây là lí do tại sao đôi khi bạn thấy rằng khi bạn tới gần một người đặc biệt bạn cảm thấy buồn chẳng nguyên cớ nào cả. Có thể là người này cũng chẳng thốt ra lời tiêu cực nào, và có khi người đó còn cười to và hạnh phúc gặp bạn. Vậy mà nỗi buồn cứ bám riết lấy bạn từ bên trong. Mặt khác, trong toán người khác bạn có thể bỗng nhiên cảm thấy vui vẻ.
Bạn đi vào phòng và bạn có thể cảm thấy thay đổi bất thần bên trong bản thân mình. Cái gì đó thiêng liêng hay không thiêng liêng chiếm giữ bạn. Trong vài khoảnh khắc bạn được bao bọc bởi an bình và tĩnh lặng, và trong khoảnh khắc khác lại bị bao bọc bởi bất ổn. Bạn không thể hiểu tại sao và bạn tự hỏi, "Mình cảm thấy rất an bình. Tại sao cái bất ổn này lại bỗng nhiên nảy sinh trong tâm trí mình?" Tất cả xung quanh bạn đều có sóng ý nghĩ, và chúng cứ đi vào trong bạn cả hai mươi bốn giờ.
Gần đây một nhà khoa học người Pháp đã làm ra một dụng cụ thành công trong việc bắt sóng ý nghĩ. Ngay khi một người tiến lại gần dụng cụ này, nó bắt đầu chỉ ra ý nghĩ gì đang bên trong người đó. Dụng cụ này bắt đầu bắt sóng ý nghĩ. Nếu một kẻ ngốc được đưa tới đứng trước nó, sẽ rất ít sóng được báo ra, bởi vì người như thế gần như chẳng nghĩ gì. Nếu một nhà trí thức được đưa tới đứng trước nó, máy sẽ tiếp quản tất cả những rung động của ý nghĩ của người đó.
Cho nên điều chúng ta biết về tâm trí là dạng tinh tế của thể vía. Khi chúng ta ngày càng đi vào bên trong, các tầng lại ngày càng tinh tế hơn. Khoa học đã đạt tới thể ê te nhưng thậm chí bây giờ nó vẫn khăng khăng gọi đó là bình diện nguyên tử hay bình diện năng lượng nguyên tử. Nhưng khoa học đã đạt tới thể thứ hai của vật chất. Cũng sẽ chẳng lâu lắm để đạt tới bình diện thứ ba, bởi vì bây giờ đã trở nên cần phải làm như vậy.
Công việc cũng đang được tiến hành trên bình diện thứ tư nhưng theo chiều hướng khác. Vì tâm trí được coi như một phần từ thể này, một số nhà khoa học đang làm việc chỉ về tâm trí; họ đã bỏ thân thể ra ngoài hoàn toàn. Họ đã kinh nghiệm rất nhiều điều về thể thứ tư. Chẳng hạn, tất cả chúng ta, theo một cách nào đó, đều là nguồn phát. Ý nghĩ của chúng ta lan toả khắp quanh ta. Ngay cả khi tôi không nói với bạn, ý nghĩ của tôi vẫn cứ tới bạn.
Nhiều công trình đang tiến triển ở Nga trong lĩnh vực viễn cảm. Một nhà khoa học, Fayadev, đã thành công trong việc truyền ý nghĩ cho một người ở khoảng cách xa hàng nghìn dặm hệt như được làm trong việc phát sóng radio. Nếu chúng ta tập trung sự chú ý với toàn bộ sức mạnh ý chí vào một hướng đặc biệt và truyền một ý nghĩ, nó sẽ tới đích đặc biệt đó. Nếu tâm trí ở tại đầu kia cũng cởi mở tương đương và sẵn sàng tiếp nhận vào khoảnh khắc đó và được tập trung theo cùng hướng, ý nghĩ sẽ được nhận.
Bạn có thể thử một thực nghiệm đơn giản tại nhà. Trẻ nhỏ bắt sóng ý nghĩ rất nhanh bởi vì tính tiếp nhận của chúng rất sắc bén. Bảo một đứa trẻ ngồi trong góc buồng tối và bảo nó tập trung vào bạn trong năm phút. Bảo nó rằng bạn sẽ nói cho nó điều gì đó trong im lặng và nó phải cố gắng và lắng nghe. Nếu nó nghe thấy, nó lặp lại điều nó nghe thấy. Thế rồi bạn chọn một từ, Rama chẳng hạn. Bây giờ tập trung vào đứa trẻ và lặp lại từ này bên trong bạn cho tới khi nó vang dội trong bạn. Đừng nói to từ đó. Trong thời gian hai hay ba ngày, bạn sẽ thấy rằng đứa trẻ đã bắt được từ đó.
Điều ngược lại cũng có thể xảy ra. Một khi thực nghiệm này thành công, sẽ dễ dàng tiến hành thêm các thử nghiệm. Bây giờ bạn có thể bảo đứa trẻ tập trung vào bạn. Nó nên nghĩ về một từ và ném từ đó vào hướng của bạn theo cùng cách. Với phần đầu của thực nghiệm, hoài nghi của bạn đã được xoá sạch khi đứa trẻ bắt được từ của bạn. Cho nên bây giờ bạn sẽ tiếp nhận và bắt lấy từ của đứa trẻ. Khi thực nghiệm này thành công, bạn sẽ chấm dứt việc hoài nghi, và tính tiếp nhận của bạn sẽ tăng lên tương ứng.
Giữa bạn và đứa trẻ có thế giới vật lí. Ý nghĩ này về bản chất nên mang tính vật lí trong nội dung của nó bằng không nó sẽ không thể xuyên qua môi giới vật lí. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng Mahavira thậm chí đã định nghĩa nghiệp như vật chất. Nếu bạn giận dữ và bạn giết ai đó, đấy là hành động của sự giận dữ và của kẻ giết người. Mahavira nói rằng các nguyên tử tinh tế của những hành động này bám vào bạn như lớp váng nghiệp và hành động. Cho nên hành động nữa cũng là vật lí, và chúng cũng bám chặt vào bạn như vật chất.
Mahavira gọi việc trở nên tự do với sự lệ thuộc tích luỹ này của nghiệp là nirjara - giải lệ thuộc. Tất cả các nguyên tử của nghiệp này mà đã tụ tập quanh bạn phải bị rũ bỏ hết. Cái ngày mà bạn gạt bỏ tất cả chúng, cái còn lại của bạn sẽ là sự thuần khiết tuyệt đối. Nirjara nghĩa là rũ bỏ các nguyên tử của hành động. Khi bạn giận dữ, đấy là hành động, thế thì giận dữ này vẫn còn với bạn bao giờ cũng trong dạng nguyên tử của nó. Đó là lí do tại sao khi thể vật lí suy sụp, những nguyên tử này không bị tan rã - bởi vì chúng rất tinh tế. Chúng đi cùng bạn tới lần sinh thành tiếp.
Cho nên thể trí là dạng tinh tế của thể vía. Vậy, như bạn có thể thấy, không có lỗ hổng giữa bốn thể này. Mỗi thể lại là dạng tinh tế của thể trước đó. Nhiều công trình đang được tiến hành về thể trí. Các nhà khoa học đang làm việc trong lĩnh vực tâm lí và đặc biệt cận tâm lí, và những qui tắc kì lạ và kì diệu của năng lượng tinh thần đang từ từ tới bên trong hiểu thấu của họ. Tôn giáo đã hiểu thấu chúng từ lâu, nhưng bây giờ nhiều thứ đã trở nên rõ ràng cả cho khoa học nữa.
Có nhiều người ở Monte Carlo không bao giờ bị thua trong trò chơi xúc sắc. Bất kì con xúc sắc nào họ gieo cũng đều đưa lại số họ muốn. Ban đầu người ta cứ ngỡ là có lẽ xúc sắc đã được thiết kế đặc biệt để gieo số mà họ muốn. Thế rồi con xúc sắc được thay đổi, nhưng kết quả vẫn như cũ: con xúc sắc vẫn cứ rơi đích xác chỗ những người này muốn chúng rơi. Nhiều thay đổi xúc sắc đều cho cùng kết quả. Thậm chí khi bị bịt mắt những người này vẫn xoay xở để gieo đúng số. Điều này làm cho những người khác ngôi cạnh phải để ý. Các cuộc điều tra đã bắt đầu để tìm ra nguyên nhân. Thực tại, chính quyết tâm của ý nghĩ của họ đã ảnh hưởng tới con xúc sắc. Họ gieo con xúc sắc với quyết tâm để được số họ muốn. Sóng ý nghĩ của họ đem con xúc sắc về đúng số đó. Điều này có nghĩa là gì? Nếu sóng ý nghĩ có khả năng thay đổi hướng của con xúc sắc, chúng cũng phải là vật chất bằng không điều này không thể có được.
Tiến hành một thực nghiệm nhỏ và bạn sẽ hiểu. Vì bạn nói về khoa học, tôi nói về thực nghiệm. Lấy một cái cốc đổ đầy nước. Bỏ thêm vào cốc một ít glycerine hay bất kì chất béo nào khác để tạo nên một màng mỏng trên bề mặt nước. Đặt một chiếc đinh ghim thẳng nhẹ nhàng trên màng này để cho nó nổi trên bề mặt. Đóng cửa phòng mọi phía. Để bàn tay áp sát xuống đất, tập trung sự chú ý của bạn hoàn toàn vào chiếc kim. Trong năm phút nhìn thẳng vào chiếc kim. Rồi bảo chiếc kim quay sang trái và nó sẽ quay sang trái. Rồi bảo nó quay sang phải và nó sẽ quay sang phải. Bảo nó dừng lại và nó sẽ dừng; bảo nó di chuyển và nó sẽ di chuyển. Nếu ý nghĩ của bạn có thể làm chuyển động chiếc kim, nó cũng có thể làm chuyển động cả quả núi nữa; đấy chỉ là vấn đề tỉ lệ. Về nền tảng, nguyên tắc là như nhau. Nếu bạn có khả năng làm chuyển động chiếc kim thì điều nền tảng đã được chứng minh. Đấy là vấn đề khác nếu núi có thể là một cấu trúc quá khổng lồ không di chuyển được - nhưng nó có thể di chuyển.
Sóng ý nghĩ của chúng ta chạm vào vật chất và làm biến đổi nó. Có những người khi được trao cho chiếc khăn tay của bạn, sẽ có thể nói nhiều điều về bạn gần như thấy bạn. Điều này là bởi vì khăn tay của bạn hấp thu sóng ý nghĩ của bạn. Những sóng này cũng tinh tế đến mức một chiếc khăn thuộc về Alexander Đại Đế vẫn sẽ còn mang những sự kiện về nhân cách ông ta. Những sóng này cũng tinh tế đến mức phải mất hàng triệu năm nó mới ra khỏi vật mang. Đây là lí do tại sao các nấm mồ và samadhi lại được xây dựng.
Hôm qua tôi đã nói với các bạn rằng ở Ấn Độ chúng ta có tục lệ hoả thiêu người chết, nhưng không hoả thiêu sannyasin chết. Thân thể của người thường được đem đi thiêu để cho linh hồn người đó không tiếp tục lởn vởn quanh nó. Nhưng sannyasin không bị đem đi thiêu bởi vì linh hồn người đó đã dừng lởn vởn quanh thân thể mình ngay từ khi người này vẫn còn sống. Bây giờ không phải sợ linh hồn người đó còn có gắn bó với thân thể người đó. Chúng ta muốn gìn giữ thân thể người đó, bởi vì thân thể của người đã trải qua nhiều năm trong kinh nghiệm điều thiêng liêng sẽ khuếch tán cùng những sóng ý nghĩ đó trong hàng nghìn năm. Chỗ chôn cất người đó sẽ là có nghĩa; nó sẽ cho kết quả. Thân thể đã chết, nhưng thân thể này đã gần gũi với linh hồn này đến mức nó hấp thu phần lớn những rung động đã phát ra từ nó.
Các ý nghĩ có những khả năng vô hạn, nhưng dẫu sao chúng cũng là vật lí. Do đó, phải rất cẩn thận về điều bạn nghĩ, bởi vì các sóng ý nghĩ tinh tế sẽ còn lại với bạn ngay cả sau khi thân thể suy sụp. Tuổi vật lí của bạn rất ngắn ngủi nếu so với tuổi của những sóng tinh tế này. Các nhà khoa học bây giờ đi đến kết luận rằng nếu đã có những người như Jesus và Krishna, trong tương lai gần họ cũng sẽ có thể bắt được sóng ý nghĩ của những người này. Thế thì chúng ta sẽ có khả năng biết liệu Krishna có thực đã nói Gita hay không - bởi vì sóng ý nghĩ đã được phát ra từ Krishna vẫn còn hiện diện trong vũ trụ, bật lại từ hành tinh nào đó, tinh tú nào đó.
Cũng hệt như khi chúng ta ném một hòn đá vào biển: khi nó rơi xuống nó tạo nên các vòng tròn nhỏ. Đá sẽ chìm vì nó không thể nào ở lâu trên mặt nước được; nó bắt đầu chìm ngay khi nó chạm vào nước. Các gợn sóng do tác động của nó lên nước bắt đầu tăng lên. Chúng trở nên càng ngày càng rộng và việc mở rộng của chúng là vô tận. Chúng có thể đi vượt ra ngoài đường chân trời tầm nhìn của bạn, và ai biết chúng đạt tới bến bờ xa xôi nào.
Cho nên ý nghĩ, dù được sinh ra như thế nào - không chỉ những ý nghĩ được nói ra mà còn cả những ý nghĩ ở trong tâm trí - cũng lan rộng trong vũ trụ, và chúng cứ lan rộng mãi. Và chúng có thể bị bắt giữ lại. Một ngày nào đó, khi đà của khoa học tăng lên và con người tiến bộ hơn nữa, chúng ta sẽ có thể nghe thấy chúng lần nữa. Bây giờ tin tức radio truyền từ Delhi tới Bombay phải mất một chút thời gian để tới Bombay vì âm thanh mất thời gian để du hành. Vào lúc nó tới Bombay, nó không còn ở Delhi nữa: sóng đã rời khỏi Delhi qua một khoảng cách chỉ trong vài khoảnh khắc. Có lỗ hổng thời gian.
Bây giờ giả sử ở Ấn Độ chúng ta thấy một người ở New York trên ti vi. Khi hình ảnh người này được tạo ra ở New York, chúng ta không thấy được ngay lập tức; có lỗ hổng giữa việc hình thành nó và thời gian khi nó tới chúng ta. Có thể trong khoảng thời gian đó người này đã chết, nhưng người đó vẫn dường như sống với chúng ta.
Cây cối, con vật và con người phản ứng mạnh mẽ lại với môi trường âm thanh. Thế mà ê te do các ý nghĩ tạo ra, lại còn thấm tràn hơn nhiều so với sóng âm thanh. Dạng rất mịn này của năng lượng vật lí sẽ được các nhà khoa học nghiên cứu, đó là điều không hoài nghi gì nữa.
Sóng ý nghĩ từ trái đất, cũng như các gợn sóng của những biến cố khác, đi ra tới vô số các hành tinh. Nếu như chúng ta tiến lên trước chúng và bắt lấy chúng, chúng sẽ vẫn là sống theo một nghĩa nào đó. Con người chết nhưng ý nghĩ của người đó không chết nhanh thế. Cuộc sống của con người rất ngắn; cuộc sống của ý nghĩ rất dài. Nhớ cả điều này nữa, ý nghĩ chúng ta không diễn đạt còn sống lâu hơn ý nghĩ chúng ta diễn đạt bởi vì chúng tinh tế hơn. Vật càng tinh tế hơn, cuộc sống của nó càng dài hơn; vật càng thô hơn, cuộc sống càng ngắn hơn.
Ý nghĩ ảnh hưởng tới thế giới vật lí theo nhiều cách. Chúng ta chẳng có ý tưởng gì về hiệu quả của nó. Các nhà sinh học bây giờ đã kinh nghiệm rằng nếu một bản nhạc tình được chơi bên cạnh một cây, nó bắt đầu nở hoa sớm - thậm chí trái vụ. Nếu nhạc giậm giật, ầm ĩ được chơi gần nó thế thì nó không nở hoa - không nở hoa thậm chí dù đúng mùa vụ. Rung động của âm nhạc chạm tới cây cối. Bò cho nhiều sữa hơn dưới ảnh hưởng của các kiểu âm nhạc khác nhau. Ý nghĩ tạo ra ê te tinh tế hơn mà ê te lại tạo ra hào quang gợn sóng. Mỗi người đều mang quanh mình thế giới riêng các ý nghĩ của mình mà từ đó gợn sóng cứ lan toả liên tục mãi.
Những sóng ý nghĩ này cũng là vật lí. Điều ta biết về tâm trí là một dạng rất tinh tế của năng lượng vật lí. Do đó, không khó khăn cho khoa học đạt tới chúng, bởi vì những sóng này có thể bị bắt lại và được nghiên cứu. Chẳng hạn, mãi đến gần đây chúng ta vẫn không biết con người ngủ say thế nào - tâm trí người đó đi vào độ sâu nào. Bây giờ chúng ta biết; chúng ta có dụng cụ để tìm ra. Khi chúng ta có dụng cụ để đo tỉ lệ xung, chúng ta cũng có dụng cụ để đo giấc ngủ. Một thiết bị được gắn vào đầu suốt cả đêm, và từ đồ thị được tạo nên từ nó chúng ta có thể biết đích xác khi nào giấc ngủ của người này trở nên sâu, người đó ngủ được bao lâu, người đó mơ bao lâu, lúc nào là mơ tốt, lúc nào là mơ xấu, các giấc mơ kéo dài bao lâu, và liệu chúng có mang tính dục hay không dục. Tất cả những điều này đều được đồ thị chỉ ra. Có khoảng mười phòng thí nghiệm ở Mĩ nơi hàng nghìn người được trả tiền để tới và ngủ và giấc ngủ của họ được kiểm tra chặt chẽ. Vấn đề có sự quan tâm lớn là chúng ta vẫn còn chưa quen biết với giấc ngủ.
Một phần ba đời người trôi qua trong giấc ngủ. Ngủ không phải là vấn đề nhỏ. Nếu một người sống sáu mươi năm, người đó ngủ hai mươi năm trong số đó. Nếu thời kì hai mươi năm này vẫn còn không được biết, một phần ba đời người đó sẽ còn không được biết với người đó. Bây giờ sự kiện đáng quan tâm là ở chỗ nếu người đó không ngủ trong hai mươi năm này, người đó sẽ không sống được cho bốn mươi năm. Do đó, giấc ngủ là nhu cầu cơ bản. Một người có thể ngủ mà không tỉnh trong sáu mươi năm, nhưng người đó không thể sống mà không ngủ. Vậy, giấc ngủ là một yêu cầu cơ bản.
Trong giấc ngủ chúng ta ở đâu đó khác; tâm trí ở đâu đó khác. Nhưng tâm trí này có thể được đo. Bây giờ người ta có thể biết một người đi vào giấc ngủ say thế nào. Có nhiều người cứ khăng khăng là mình không mơ. Đây là ý nghĩ tuyệt đối sai lầm, và họ nói điều này bởi vì họ không biết. Rất khó tìm ra người không mơ. Rất khó đấy! Mơ xuất hiện suốt đêm trường. Bạn nghĩ rằng bạn chỉ có một giấc mơ hay hai, nhưng điều đó là sai. Máy móc nói rằng giấc mơ xuất hiện cả đêm nhưng chúng ta không nhớ chúng. Bạn ngủ nên việc nhớ bị thiếu vắng. Giấc mơ bạn nhớ chính là giấc mơ cuối cùng xảy ra khi giấc ngủ gần kết thúc. Khi bạn trở lại từ giấc ngủ, giấc mơ cuối cùng còn lại trong ý nghĩ của bạn. Tiếng vọng mờ nhạt của nó vẫn còn nấn ná bên trong khi bạn tỉnh dậy. Nhưng bạn không nhớ chút nào tất cả những giấc mơ của giấc ngủ say.
Bây giờ vấn đề đã trở thành cần thiết để nghiên cứu giấc mơ nào xuất hiện trong giấc ngủ say, bởi vì cái mà người ta mơ trong chiều sâu của giấc ngủ, để lộ ra nhân cách xác thực của người đó. Thực sự chúng ta trở nên không xác thực khi thức tỉnh. Thông thường ta nói, "Cái gì có đó trong mơ?" Nhưng mơ để lộ ra nhiều chân lí về bản thân chúng ta hơn là trạng thái tỉnh của chúng ta. Trong thời kì có ý thức của mình, chúng ta che đậy bản thân mình bằng áo giả. Nếu một ngày nào đó chúng ta thành công trong việc tạo ra một cửa sổ trong đầu con người để từ đó chúng ta có thể quan sát tất cả các giấc mơ của người đó, tự do cuối cùng của người đó sẽ bị mất. Thế thì người đó sẽ không được tự do ngay cả với việc mơ. Người đó sẽ sợ mơ, bởi vì cũng có giá trị đạo đức với các luật lệ và qui tắc của nó sẽ tạo nên cảnh sát của nó. Nó sẽ nói, "Giấc mơ này là không đúng; anh đang không mơ đúng." Tuy nhiên hiện tại chúng ta không có tự do này. Con người được tự do trong giấc ngủ - nhưng tự do của con người sẽ không kéo dài, bởi vì sự xâm lấn vào giấc ngủ đã bắt đầu. Chẳng hạn, bây giờ Nga đã bắt đầu giáo dục trong giấc ngủ.
Nhiều công trình đang tiếp tục về việc dạy học trong khi ngủ. Trong những giờ thức tỉnh, người ta phải tốn nhiều nỗ lực hơn bởi vì trẻ con cưỡng lại. Khó mà dạy một đứa trẻ điều gì đó, bởi vì về cơ bản nó từ chối bị dạy. Thực tế, mọi người đều từ chối việc học, bởi vì mỗi người đều bắt đầu với ý nghĩ cơ bản rằng mình đã biết. Trẻ con cũng từ chối bằng việc nói, "Thầy dạy gì vậy?" Chẳng có cách nào để cho nó sẵn sàng học. Thế thì chúng ta phải hối lộ nó bằng việc trao giải thưởng sau kì thi, huân chương vàng, vân vân. Chúng ta phải khơi dậy tinh thần tham vọng bên trong nó; chúng ta phải tiếp tục thúc đẩy nó để giáo dục nó. Xung đột này chiếm một thời gian quá dài. Điều mà đứa trẻ có thể học trong hai giờ, chúng ta nhồi vào nó trong hai tháng.
Cho nên phương pháp dạy trong khi ngủ đã được làm tiến hoá, và vấn đề đã trở thành rõ như ban ngày là đứa trẻ có thể được dạy rất tốt trong giấc ngủ. Lí do là giản dị: không có sự cưỡng lại trong giấc ngủ. Một băng ghi âm được bật lên gần đứa trẻ đang ngủ truyền đạt bất kì cái gì cần phải nhồi vào cho đứa trẻ. "Hai cộng hai là bốn; hai cộng hai là bốn," băng cứ lặp đi lặp lại. Hỏi đứa trẻ vào buổi sáng và nó sẽ nói, "Hai cộng hai là bốn."
Bây giờ ý nghĩ này đã được truyền đạt trong giấc ngủ cũng có thể được làm thấm nhuần vào tâm trí bằng phương tiện sóng ý nghĩ, bởi vì bây giờ chúng ta biết về sóng ý nghĩ. Trong quá khứ chúng ta không biết, nhưng bây giờ chúng ta biết rằng bản thân lời không được khắc ghi vào đĩa hát. Thay vì thế thì vết khắc ghi của sóng âm thanh được ghi lại trên đĩa. Khi kim chạm vào đường rãnh mà đã được tạo ra, nó lặp lại cùng sóng vốn gây ra cho đường rãnh được ghi lại.
Như tôi đã nói trước đây, nếu bạn tụng Aum một hình mẫu sẽ được tạo thành trên cát. Bản thân hình mẫu này, không phải là aum - nhưng nếu bạn biết rằng hình mẫu đặc biệt này được tạo nên bởi aum, thế thì một ngày nào đó bạn sẽ có khả năng chuyển đổi hình mẫu này trở lại aum. Tuỳ theo việc hình thành hình mẫu này mà âm thanh của aum sẽ xuất hiện. Hình mẫu và aum có thể được xem như cùng một vật. Trong việc ghi đĩa hát không lời - chỉ có đường rãnh được tạo ra bởi tác động của âm thanh của lời. Khi những đường rãnh này đi vào tiếp xúc với kim, chúng được chuyển đổi thành âm thanh tương ứng.
Trong tương lai rất gần chúng ta sẽ có khả năng tạo ra bản ghi ý nghĩ. Vì tác động của ý nghĩ đã được nhận ra nên con người sẽ không mất thời gian lâu để có khả năng ghi lại nó. Thế thì một điều kì diệu sẽ xảy ra. Sẽ có thể là mặc dầu Einstein đã chết nhưng quá trình suy nghĩ đầy đủ của ông ấy sẽ được ghi lại. Thế thì điều Einstein sẽ nghĩ trong tương lai, nếu như ông ấy vẫn còn sống, cũng sẽ được máy móc cung cấp, bởi vì máy này sẽ bắt giữ tác động của toàn bộ sóng ý nghĩ của ông ấy.
Ngủ, mơ và vô ý thức đã được nghiên cứu đầy đủ. Vậy, tất cả khả năng khoa học của tâm trí bây giờ đều được biết cho con người. Do đó, cũng tốt là hiểu chúng. Chẳng hạn, lấy một người đang giận dữ. Theo tính toán cũ của chúng ta, chúng ta sẽ khuyên anh ta, "Đừng lao vào giận dữ; anh sẽ xuống địa ngục đấy." Chúng ta không có cách nào khác. Nhưng nếu người này nói anh ta sẵn sàng xuống địa ngục, thế thì chúng ta bất lực; chúng ta không thể làm gì cho anh ta được. Và nếu người này còn tuyên bố thêm nữa rằng anh ta nóng lòng muốn xuống địa ngục, tất cả đạo đức của chúng ta thành vô dụng. Chúng ta có thể kiểm soát một người chỉ nếu người đó sợ địa ngục. Đây là lí do tại sao ngay khi nỗi sợ địa ngục rời bỏ thế giới này, nền đạo đức của chúng ta cũng ra đi cùng nó. Bây giờ chẳng ai sợ địa ngục cả. "Địa ngục ở đâu?" ai cũng muốn biết.
Cho nên đạo đức bị kết thúc hoàn toàn, bởi vì nỗi sợ mà nó dựa trên đó đã mất. Nhưng khoa học nói không cần đạo đức vì nó đã xây dựng một công thức khác dựa trên việc chấm dứt những bí mật thân thể nào đó. Khi chúng ta đang giận dữ, một quá trình hoá học đặc biệt xảy ra bên trong thân thể, bởi vì giận dữ là biến cố vật lí. Khi có giận dữ bên trong, tuyệt đối cần hoá chất nào đó được giữ kín trong thân thể. Vậy, công thức của khoa học là thế này: những chất được giữ kín này có thể bị ngăn lại không cho hình thành và thế thì sẽ không có giận dữ. Thế thì chẳng cần phải chấm dứt giận dữ một cách trực tiếp. Nếu chất lỏng này bị dừng lại con người sẽ thấy không thể nào giận dữ được. Nếu chúng ta cố gắng khuyên nam nữ thanh niên tiết chế dục, thực hành vô dục, họ chẳng bao giờ nghe. Khoa học nói, "Chấm dứt tất cả những điều này đi! Nếu chúng ta hạn chế phát triển của tuyến nào đó, chín muồi dục sẽ không tới trước tuổi hai mươi nhăm."
Điều này rất nguy hiểm. Khoảnh khắc tâm trí tới đầy đủ bên trong việc hiểu của khoa học, con người sẽ bắt đầu dùng sai tri thức của mình. Khoa học nói rằng thành phần hoá chất của một người có tâm trí nổi dậy khác với thành phần hoá chất của người với tâm trí chính thống. Phát kiến này chứa những khả năng nguy hiểm. Nếu thành phần của những hoá chất này được con người biết tới, chúng ta có thể làm cho người nổi dậy thành thụ động và người chính thống thành người nổi dậy. Một  khi các thành phần hoá chất đem tới thôi thúc ăn cắp hay giết người là được biết tới, sẽ không còn cần gì tới giam cầm và xử tử nữa. Tất cả những điều cần thiết vậy là cần phẫu thuật hay trị liệu để loại bỏ chất này khỏi người đó. Hoá chất đang xét có thể bị loại bỏ hay hoá chất khác có thể được đưa vào để trung hoà chúng hay có thể cho thuốc giải độc. Tất cả công trình này hiện đang được nghiên cứu.
Tất cả những điều này chỉ ra rằng không còn nhiều khó khăn trên con đường của khoa học để đạt tới thể thứ tư. Vấn đề duy nhất là ở chỗ một phần rất lớn của khoa học đang tham gia vào nghiên cứu vì mục đích chiến tranh. Đó là lí do tại sao loại nghiên cứu này lại không được coi là chủ yếu; nó vẫn còn là vấn đề thứ yếu. Vậy mà đã có tiến bộ lớn và thu được các kết quả bất thường.
Aldous Huxley đã tuyên bố rằng điều đã xảy ra cho Meera hay Kabir có thể đem lại bởi việc tiêm. Đấy là một tuyên bố rất hung hăng, mặc dầu đúng ở mức độ nào đó. Mahavira sẽ nhịn ăn một tháng và tâm trí của ông ấy sẽ trở nên yên tĩnh. Nhịn ăn là hành động vật lí, và nếu tâm trí có thể trở nên an bình bằng hành động vật lí thế thì tâm trí nữa cũng là vật lí. Với việc nhịn ăn một tháng toàn bộ thành phần hoá học của thân thể thay đổi; đó là tất cả những cái có đó cho nó. Chất dinh dưỡng mà thân thể đáng phải có bị phủ nhận cho nó và tất cả chất dự trữ của thân thể đều được dùng hết. Chất béo tan đi và những phần tử không thiết yếu trải qua việc tiêu huỷ trong khi những phần tử thiết yếu được gìn giữ. Theo cách này toàn bộ việc thu xếp hoá học của thân thể trải qua sự thay đổi hoàn toàn.
Khoa học nói, "Cần gì phải trải qua vất vả thế trong một tháng dài? Tỉ lệ hoá chất có thể được thay đổi theo những mô tả ở đây và bây giờ." Nếu thay đổi hoá chất này được khoa học đem tới, bạn sẽ kinh nghiệm cùng an bình mà Mahavira đã kinh qua sau khi nhịn ăn một tháng dài mà chẳng mất thời gian gì cả; nhịn ăn một tháng sẽ là không cần thiết.
Cho nên tôi bảo các bạn trong khi thiền, thở thật mạnh và nhanh. Nhưng cái gì sẽ xảy ra sau một nửa giờ thở mạnh? Đấy chỉ là tỉ lệ các bô níc và ô xi bên trong bạn sẽ thay đổi - nhưng điều này có thể được đem lại bằng các phương tiện bên ngoài nữa. Chẳng cần phải làm cho bạn lao động trong nửa giờ. Tỉ lệ ô xi và các bô níc trong phòng này có thể được thay đổi và tất cả những người ngồi đây sẽ kinh nghiệm an bình và bình thản và sẽ cảm thấy vui vẻ. Vậy, khoa học đã đi vào thể thứ tư từ mọi hướng, và nó vẫn đang thấm vào đó hơn nữa.
Trong thiền những kinh nghiệm khác nhau xảy ra cho bạn. Bạn ngửi thấy tất cả các loại hương thơm, bạn thấy mầu sắc. Tất cả những điều này bây giờ có thể được đem tới mà chẳng cần thiền, bởi vì khoa học đã tìm ra phần nào của bộ não bạn trở nên tích cực trong những kinh nghiệm này. Nếu phần sau của bộ não tôi được kích thích khi tôi thấy mầu đẹp, các cuộc điều tra khoa học sẽ chỉ ra đích xác phần trở nên kích hoạt và chiều dài sóng được tạo ra. Bạn không cần đi vào thiền. Cùng rung động đó có thể được đem lại bên trong bạn với sự trợ giúp của điện và bạn sẽ bắt đầu thấy mầu sắc. Đây là những biến cố song song, bởi vì chúng ta giữ cực nào đi chăng nữa, đầu bên kia cũng lập tức trở nên được kích hoạt ngay.
Tuy nhiên có nguy hiểm trong điều này. Càng nhiều nghiên cứu mới của con người tràn vào bên trong, nguy hiểm của nó càng tăng lên. Chẳng hạn, bây giờ chúng ta có thể tăng tuổi của con người lên theo ý muốn. Điều đó không còn trong tay của tự nhiên nữa; nó là trong tay của khoa học. Cho nên ở châu Âu và Mĩ có hàng nghìn người già kêu la về quyền được chết theo ý chí tự do của riêng mình, nhưng họ bị giữ sống lay lắt trên giường chết. Họ được cấp cho ô xi và có thể được làm cho sống trong một thời gian lâu. Một ông già chín mươi tuổi cầu xin được chết, nhưng bác sĩ nói, "Chúng tôi không thể ủng hộ điều đó được; điều đó là chống lại luật pháp." Thậm chí đứa con của ông già cũng cảm thấy rằng bố mình đang phải chịu đựng quá nhiều và ông ấy bây giờ nên được phép chết, người đó không thể nói một cách cởi mở như vậy được. Có những máy móc để giữ cho một người hấp hối vẫn còn sống và người sắp chết được làm cho sống tiếp. Bây giờ điều này, theo cách này, là nguy hiểm.
Luật cũ của chúng ta đã được làm ra khi chưa có phương tiện để giữ cho con người sống và khi chúng ta cũng có thể giết chết một người. Bây giờ luật cần phải được xem xét lại, bởi vì chúng ta có thể giữ một người hấp hối vẫn sống và kéo dài đủ lâu để người đó cảm thấy, "Điều này là bạo hành, điều này là tàn ác! Tôi không muốn sống thêm nữa. Các ông đang làm gì tôi vậy?" Đã có thời khi chúng ta trừng phạt một người bởi tội ác của người đó bằng cách treo cổ người đó. Sẽ không có gì phải ngạc nhiên nếu năm mươi năm sau chúng ta trừng phạt một người bằng việc không cho phép người đó chết. Và việc trừng phạt này sẽ còn tồi tệ hơn là việc trừng phạt đầu, bởi vì chết là vấn đề của vài giây trong khi sống có thể đến hàng thập kỉ.
Cho nên bất kì khi nào có khám phá mới trong thế giới bên trong của con người đều có hai kết quả: hoặc loài người có thể đau khổ bởi nó, hoặc nó có thể có ích. Bất kì khi nào quyền năng tới, nó bao giờ cũng có hai mặt cả.
Khoa học đã đạt tới bình diện thứ tư bên trong con người. Trong vòng năm mươi năm nữa - đúng hơn, trong vòng ba mươi năm nữa - nó sẽ thâm nhập sâu hơn vào trong thể thứ tư. Có lẽ bạn có thể không biết rằng bất kì cái gì đã được thực hiện trong một thế kỉ đặc biệt đều đạt tới cực đỉnh của nó vào cuối thế kỉ. Mọi thế kỉ đều hoàn thành công việc của nó vào lúc nó đi tới kết thúc. Thế kỉ này đã tiến hành rất nhiều công việc mà sẽ được hoàn tất trong thời gian ba mươi năm. Nhiệm vụ lớn nhất của nó là đi vào trong hồn con người, và điều này sẽ được hoàn tất.
Thể thứ năm - thể tâm linh - thậm chí còn tinh tế hơn thể thứ tư. Tại đây không chỉ có rung động của ý nghĩ mà còn rung động của bản thể. Nếu tôi ngồi hoàn toàn im lặng không một ý nghĩ bên trong, dù thế bản thể của tôi vẫn tạo ra rung động. Nếu bạn tới gần tôi và không có ý nghĩ trong tôi, bạn sẽ vẫn ở bên trong trường rung động của tôi. Và điều thú vị nhất là ở chỗ các rung động của ý nghĩ của tôi, không mạnh hay không thấm sâu như rung động của bản thể của tôi. Do đó, người đạt tới trạng thái vô trí trở nên rất mạnh. Khó mà đánh giá được tác động của sức mạnh của người này bởi vì rung động của sự tồn tại bắt đầu nảy sinh bên trong người này. Rung động năng lượng của thể thứ năm là dạng tinh tế nhất của năng lượng trong toàn bộ tri thức của con người.
Cho nên điều đó đã xảy ra trong nhiều trường hợp, như trong trường hợp của Mahavira, là ông ấy không nói. Tức là, ông ấy hoặc nói rất ít hoặc ông ấy không nói chút nào; ông ấy chỉ ngồi. Mọi người tới, ngồi trước ông ấy, hiểu ông ấy và quay về. Điều này là có thể vào thời ông ấy, nhưng bây giờ không có như thế nữa. Điều ấy bây giờ rất khó bởi vì bạn sẽ chỉ kinh nghiệm sóng sâu của thể tâm linh nếu bản thân bạn sẵn sàng ở trạng thái vô ý nghĩ, và không có điều ngược lại. Nếu bạn đầy tiếng ồn của các ý nghĩ riêng của mình bạn sẽ lỡ những rung động tinh tế này. Chúng sẽ chỉ đi qua bạn và bạn sẽ không thể nào hiểu thấu được chúng.
Nếu những rung động của sự tồn tại tới bên trong sự hiểu thấu của người ta, nếu có trạng thái vô ý nghĩ về cả hai phía, thế thì không cần nói. Thế thì việc trao đổi xảy ra ở mức độ rất thân thiết, và việc trao đổi này đi thẳng vào tim. Thế thì không có giải thích bởi vì không có cách giải thích. Thế thì bạn cũng sẽ không lưỡng lự về liệu điều này hay điều kia sẽ có hay sẽ không có. Bản thể của bạn sẽ biết trực tiếp điều đã xảy ra.
Cũng không nhất thiết chỉ có trường hợp con người bị những rung động của thể thứ năm động chạm tới. Có một hiện tượng kì diệu trong cuộc sống của Mahavira: tương truyền rằng ngay cả con vật cũng cũng tới dự cuộc tụ họp của ông ấy. Các sư Jaina đã không thể nào giải thích được hiện tượng này và họ chẳng bao giờ giải thích nổi. Bây giờ con vật không hiểu ngôn ngữ con người nhưng nó hiểu ngôn ngữ của bản thể rất rõ. Nếu tôi ngồi trong điều kiện vô ý nghĩ gần con mèo, con mèo đã trong trạng thái vô ý nghĩ. Tuy nhiên với bạn, tôi sẽ phải nói. Việc đưa bạn tới trạng thái vô ý nghĩ của con mèo là một cuộc hành trình rất dài. Con vật, cây cối và thậm chí tảng đá cũng hiểu các rung động bắt nguồn từ thể tâm linh; không có khó khăn gì trong đó cả. Cho nên thể này cũng là thâm nhập được, nhưng chỉ sau thể thứ tư. Thể thứ tư đã bị tràn vào từ nhiều mặt trận, và khoa học sẽ sẵn lòng chấp nhận trạng thái tâm linh. Nhưng sau điều này, có một số khó khăn.
Cho nên khi tôi nói rằng mọi thứ có thể rất rõ ràng theo khoa học cho thể thứ năm nhưng sau thể thứ năm khó khăn bắt đầu, có lí do cho điều này. Nếu chúng ta hiểu rõ khoa học, nó là việc đặc thù hoá theo một hướng đặc biệt; nó là chọn lựa đặc biệt. Cho nên khoa học chỉ có thể đi sâu hơn khi nó hạn chế việc tìm kiếm của nó vào ít điều nhất có thể và cố gắng biết nhiều nhất có thể chỉ về chúng. Mục đích của khoa học là biết ngày càng nhiều hơn về ngày càng ít thứ. Công việc của nó có hai phần: nó cố gắng biết nhiều hơn về một vật nhỏ nhất có thể được. Nó làm cho chủ thể của việc tìm hiểu thành nhỏ nhất có thể được và tăng tri thức của nó về điều ấy.
Các thầy lang ngày xưa đều thông thái về toàn thân thể, nhưng bác sĩ ngày nay không thế. Kiểu nhà thực hành tổng quát cũ bây giờ khó mà thấy được. Trong thế giới ngày nay người đó đã trở thành di tích; người đó không còn được tin cậy nữa. Người đó biết về quá nhiều thứ; do đó người đó không thể biết về bất kì một cái gì thật rõ đủ để tin cậy được. Bây giờ có các nhà chuyên môn về mắt và các nhà chuyên môn về tai, và họ có thể tin cậy được vì họ đã thu được tri thức tối đa trong một lĩnh vực đặc biệt.
Chẳng hạn, tất cả sách báo có sẵn về mắt mênh mông đến mức một đời người cũng không đủ để xem hết chúng. Hoàn toàn có thể là trong tương lai gần sẽ có một nhà chuyên môn về mắt phải và một nhà chuyên môn khác về mắt trái, hay có lẽ một nhà chuyên môn về con ngươi và một nhà chuyên môn về võng mạc. Khi tri thức tăng lên, mắt sẽ được phân chia thành nhiều phần cho nghiên cứu đặc biệt, bởi vì mỗi phần bản thân nó cũng là một trường hợp quan trọng rồi. Mục đích của khoa học là tập trung sự hội tụ chú ý của nó vào một đầu ghim nhỏ sao cho nó có thể thấm tràn vào chiều sâu lớn nhất. Đây là cách khoa học có thể đi tới biết rất nhiều.
Cho nên, như tôi đã nói trước đây, khoa học sẽ đạt tới thể thứ năm, bởi vì cho tới thể thứ năm, cá nhân vẫn còn tồn tại; do đó người đó có thể đi vào trong sự hội tụ của nó. Từ thể thứ sáu vũ trụ bắt đầu, và điều này nằm ngoài sự hội tụ của khoa học. Thể vũ trụ có nghĩa là toàn bộ: khoa học không thể vào đó, bởi vì khoa học đi từ cái nhỏ đến cái nhỏ nhất. Cho nên nó chỉ có thể hiểu thấu cá nhân; nó sẽ thấy rất khó khăn để hiểu thấu vũ trụ. Một mình tôn giáo có thể hiểu thấu vũ trụ. Do đó, cho tới atman, cái ta, khoa học sẽ không có rắc rối gì. Khó khăn bắt đầu với Brahman - cái ta vũ trụ. Tôi không nghĩ khoa học sẽ có thể hiểu thấu được Brahman, bởi vì thế thì nó sẽ phải rời bỏ cái đặc thù của nó. Và khoảnh khắc mà nó rời bỏ cái đặt thù của nó, nó không còn là khoa học nữa. Thế thì nó sẽ được tổng quát và mông lung như tôn giáo. Cho nên với sự giúp đỡ của khoa học chúng ta có thể du hành vào thể thứ năm. Tại thể thứ sáu khoa học sẽ bị lạc, và thể thứ bẩy là không thể được cho nó vì tất cả tìm kiếm của nó đều hội tụ chỉ vào cuộc sống.
Thực tại, trung tâm của sự tồn tại của chúng ta là cuộc sống. Chúng ta muốn ít ốm và nhiều mạnh khoẻ; chúng ta muốn sống lâu hơn, hạnh phúc hơn, thoải mái hơn. Mục tiêu của khoa học là làm cho cuộc sống được hạnh phúc sâu sắc hơn, thoả mãn hơn, mạnh khoẻ hơn và vui sướng hơn. Nhưng thể thứ bẩy là việc chấp nhận cái chết: nó là cái chết tối thượng. Tại đây, thiền nhân vượt ra ngoài việc tìm kiếm cuộc sống. Người đó nói, "Tôi cũng muốn biết cả cái chết nữa. Tôi đã biết sự tồn tại và bí ẩn của hiện hữu; bây giờ tôi muốn biết cái không tồn tại, cái không hiện hữu."
Khoa học chẳng có nghĩa gì trong miền này. Các nhà khoa học như Freud sẽ gọi điều này là ước muốn chết và nói rằng đây không phải là trạng thái lành mạnh của tâm trí - rằng đấy là tự tử. Theo Freud, giải thoát và niết bàn chẳng ích lợi gì cho cuộc sống cả và những khái niệm này là bằng chứng về ước muốn của bạn được chết. Ông ta nói rằng bạn muốn chết, đấy là lí do tại sao bạn ốm yếu. Nhà khoa học chống lại ham muốn chết, vì khoa học dựa trên ý chí muốn sống và trên việc mở rộng cuộc sống. Người muốn sống là người lành mạnh, nhưng khoảnh khắc sẽ tới khi ước muốn chết cũng là lành mạnh tương đương. Nếu ai đó muốn chết trước khi khoảnh khắc này tới, đấy dứt khoát là điều không lành mạnh. Tuy nhiên, một khoảnh khắc sẽ tới trong cuộc sống khi một người muốn chết với mục đích chết.
Người ta có thể nói tỉnh thức là lành mạnh và ngủ là không lành mạnh, và dần dần chúng ta ngày càng dành nhiều chỗ cho ngày hơn đêm. Ban đầu đêm bắt đầu lúc sáu giờ, bây giờ nó bắt đầu lúc hai giờ sáng. Chúng ta đã đem thời gian đêm cho ngày. Có một số nhà tư tưởng hiện đại còn đi xa đến mức cảm thấy rằng nếu như người ta có thể loại hẳn đêm khỏi cuộc sống con người, một phần đáng kể của cuộc sống mình có thể được cứu cho khỏi bị phí hoài. Cần quái gì ngủ? Phải vứt bỏ việc ngủ đi, họ biện minh. Nhưng khi có vui trong tỉnh thức, cũng có cả vui trong ngủ nữa. Cũng hệt như ham muốn tỉnh thức là tự nhiên và lành mạnh, ham muốn ngủ cũng vậy. Nếu một người vẫn giữ cái hăm hở sống cho tới hơi thở cuối cùng, người đó không phải là lành mạnh, và nếu một người cứ nuôi dưỡng ham muốn chết từ ngay lúc sinh ra, thế nữa cũng là phi tự nhiên và không lành mạnh. Nếu một đứa trẻ khao khát chết nó ốm yếu, bất thường, và nó nên được điều trị. Nếu một người già còn khao khát sống, người đó nữa cũng nên được điều trị bởi vì người đó cũng ốm yếu.
Sống và chết là hai chi của sự tồn tại. Nếu bạn chấp nhận chỉ một điều, bạn nhất định là què quặt. Chừng nào thời điểm chưa tới để bạn chấp nhận điều kia, tàn tật vẫn cứ còn đấy. Cả hai chi là quan trọng - hiện hữu và vô hiện hữu. Người ôm choàng và chấp nhận cả hiện hữu và vô hiện hữu như nhau có thể được gọi là hoàn toàn lành mạnh. Người nói, "Tôi đã biết hiện hữu là gì; bây giờ tôi muốn biết vô hiện hữu là gì," không sợ cái vô hiện hữu.
Bình diện thứ bẩy chỉ dành cho những người dũng cảm - người đã biết cuộc sống và hăm hở biết cái chết, người hăng say thám hiểm cái chết, trạng thái tuyệt diệt. Họ hăng say biết vô hiện hữu là gì, tuyệt diệt giống cái gì, vô hiện hữu là gì. Họ đã nếm trải cuộc sống; bây giờ họ muốn nếm trải cái chết.
Tại điểm này bạn nên biết rằng cái chết giáng xuống từ bình diện thứ bẩy. Điều chúng ta thường biết như cái chết tới từ bình diện thứ bẩy và điều chúng ta biết như cuộc sống tới từ bình diện thứ nhất. Sinh bắt đầu với thể vật lí; sinh có nghĩa là việc bắt đầu của thể vật lí. Đây là lí do tại sao thể vật lí vào hiện hữu trước nhất trong bụng mẹ và rồi các thể khác theo sau. Cho nên thể thứ nhất là việc bắt đầu của cuộc sống và thể cuối cùng, thể niết bàn, là từ nơi cái chết tới. Cho nên người níu bám vào thể vật lí rất sợ chết, và người sợ chết, sẽ chẳng bao giờ biết tới thể thứ bẩy.
Vậy, khi chúng ta ngày càng dần tách ra khỏi thể vật lí, một thời điểm sẽ tới khi chúng ta cũng chấp nhận cái chết. Chỉ thế thì chúng ta mới biết. Và người biết tới cái chết được giải thoát theo nghĩa thực của từ này, bởi vì thế thì cuộc sống và cái chết trở thành hai phần của cùng một điều và người ta vượt ra ngoài cả hai. Cho nên không có hi vọng nào để cho khoa học đạt tới thể thứ bẩy, mặc dầu có khả năng cho nó đi lên tới bình diện thứ sáu.
Cánh cửa của bình diện thứ tư đã mở ra cho khoa học, và bây giờ thực tế không khó khăn gì cho nó đi lên tới thể thứ năm. Nhưng cần có những người như vậy với tâm trí khoa học và trái tim tôn giáo. Một khi họ xuất hiện, đi vào thể thứ năm sẽ không khó khăn. Tuy nhiên việc tổ hợp này là rất khó, bởi vì việc huấn luyện nhà khoa học ngăn cản người đó không trở nên mang tính tôn giáo theo nhiều hướng. Cũng vậy, theo cùng một cách, việc huấn luyện tôn giáo ngăn cản người ta không trở nên có tính khoa học. Chẳng có ở đâu mà hai nhánh huấn luyện này lại trùng lên nhau, và điều này là khó khăn lớn.
Đôi khi điều này cũng xảy ra, và bất kì khi nào điều này xảy ra trên thế giới, một đỉnh cao mới của tri thức đi vào hiện hữu. Chẳng hạn, lấy Pantajali: ông ấy là một người có tâm trí khoa học, nhưng ông ấy đã đi vào tôn giáo. Ông ấy đã mang yoga tới một đỉnh cao mà mãi cho tới nay còn khó vượt qua được. Bây giờ một thời gian dài từ khi Pantajali chết và rất nhiều công trình nữa đã được tiến hành trong lĩnh vực này, nhưng người ta vẫn chưa tìm ra ai có trí thông minh của nhà khoa học và thế giới bên trong của thực hành tâm linh. Chưa có một ai leo lên đỉnh cao hơn của yoga. Sri Aurobindo đã thử nhưng ông ấy đã không thành công.
Sri Aurobino có tâm trí khoa học - có lẽ còn khoa học hơn Pantajali, bởi vì ông đã được huấn luyện ở phương Tây. Việc huấn luyện của ông ấy thật tuyệt vời. Khi ông ấy mới sáu tuổi, bố ông ấy đã gửi ông ấy đi học bên ngoài Ấn Độ và cấm ông ấy không được trở về chừng nào ông ấy còn chưa hoàn toàn chín chắn. Ngay cả trên giường chết, khi những người khác trong gia đình nói tới việc gọi Aurobindo về, bố ông ấy cũng không cho phép điều đó. Ông ấy nói, "Cũng được thôi nếu tôi không gặp lại nó trước khi chết. Nó phải thấm đẫm văn hoá phương Tây đầy đủ. Đừng để cái bóng của phương Đông trùm lên nó. Thậm chí đừng để nó biết rằng tôi chết." Ông ấy phải là một người cha rất dũng cảm. Vậy, Aurobindo đã hấp thu sâu sắc văn hoá phương tây. Nếu như có một người mang tính chất Tây phương theo nghĩa thực sự của từ này đó là Aurobindo. Ông ấy đã phải học lại tiếng mẹ đẻ sau khi trở về Ấn Độ.
Cho nên tri thức khoa học là đầy đủ trong ông ấy, nhưng tôn giáo là việc khắc ghi về sau và do đó nó không thể được diễn đạt sâu sắc; bằng không, con người này sẽ đạt tới tầm cao lớn hơn là Pantajali. Nhưng điều này đã không như vậy. Theo một cách thức sâu sắc, cách đào tạo của phương Tây đã trở thành rào chắn, bởi vì cách suy nghĩ của ông ấy hoàn toàn giống như cách suy nghĩ của nhà khoa học. Ông ấy đã đem toàn bộ lí thuyết tiến hoá của Darwin vào trong tôn giáo. Ông ấy đã đưa vào trong tôn giáo những tư tưởng mà ông ấy đã đem về từ phương Tây. Nhưng ông ấy không có cái nhìn sáng suốt vào trong tôn giáo, cái mà ông ấy có thể đưa vào trong khoa học. Kết quả là, ông ấy đã tạo ra một khối lượng tài liệu khoa học đồ sộ mà trong đó, tôn giáo lại rất hời hợt, bởi vì bất kì nỗ lực nào để giải thích về những bí ẩn của bình diện thứ sáu và thứ bẩy nhất định là thất bại vì điều đó không thể nào được diễn đạt theo thuật ngữ của khoa học và logic.
Bất kì khi nào cân bằng được đạt tới giữa trí tuệ khoa học và tâm trí tôn giáo, những đỉnh cao vĩ đại cũng được đạt tới. Nhưng có rất ít khả năng cho điều này xảy ra ở phương Đông, bởi vì phương Đông đã đánh mất tôn giáo của mình và khoa học nó chưa bao giờ có. Có nhiều khả năng hơn ở phương Tây, bởi vì ở đó khoa học đã trở thành quá nhiều.
Bất kì khi nào có thái quá, con lắc lại có khuynh hướng đung đưa sang cực điểm kia. Đó là lí do tại sao các siêu trí thức ở phương Tây đọc Gita với hứng thú không thấy có ở đâu trong Ấn Độ.
Lần đầu tiên Schopenhauer đọc Gita ông ấy đã đội cuốn sách này lên đầu và nhảy múa vui sướng. Khi mọi người hỏi ông có việc gì vậy, cái gì gây ra hành vi điên khùng này, ông ấy nói, "Cuốn sách này không chỉ đáng đọc mà còn đáng đội lên đầu và nhảy múa! Tôi chưa bao giờ biết rằng đã có thời người trên trái đất này lại nói theo cách này. Điều mà tôi nghĩ là chẳng bao giờ có thể nói được thành lời, đã được diễn đạt trong cuốn sách này." Bây giờ chúng ta sẽ không tìm ra một người ở đây tại Ấn Độ này, người đặt cuốn Gita lên đầu và nhảy múa. Chúng ta sẽ chỉ tìm thấy những người sẽ đặt Gita vào ghế tầu hoả và ngồi lên nó - nhưng điều này là vô nghĩa.
Đến cuối thế kỉ này một đỉnh cao mới sẽ được chạm tới, bởi vì khi nhu cầu nảy sinh, nhiều lực được kích hoạt trên thế giới. Einstein trở thành người tôn giáo trước khi ông ấy chết. Trong cuộc đời mình ông ấy vẫn còn là nhà khoa học, nhưng khi cuộc sống của ông ấy trôi đến đoạn cuối, ông ấy trở thành người tôn giáo. Đó là lí do tại sao những người về bản chất là khoa học lại nói, "Chúng ta không nên coi lời tuyên bố cuối cùng của Einstein là nghiêm chỉnh. Ông ấy đã mất trí."
Những lời cuối cùng của Einstein là có nghĩa. Ông ấy nói, "Tôi tưởng tôi biết mọi thứ có đó là biết về thế giới này, nhưng khi tôi biết càng ngày càng nhiều, tôi lại thấy rằng điều này là không thể được, bởi vì có cái vô hạn bao la vẫn còn lại để được biết. Tôi tưởng rằng một ngày nào đó tôi sẽ giải quyết được bí ẩn của thế giới khoa học và qui nó về thành phương trình toán học và rằng thế thì nó sẽ không còn là bí ẩn nữa. Nhưng vấn đề toán học lại ngày càng trở nên lớn hơn, và thay vì giải bí ẩn của thế giới, bản thân nó lại trở thành bí ẩn. Bây giờ, không thể nào giải quyết được vấn đề này."
Một vài nhà bác học tiếng tăm nhất của thời hiện đại cũng đang quanh quẩn ở ngoại vi tôn giáo. Những khả năng như thế bây giờ xuất hiện trong khoa học bởi vì khoa học đã đi qua thể thứ hai và đang tiến tới thể thứ ba, và khi nó tiến tới gần thể thứ ba, tiếng vọng của tôn giáo trở thành không tránh khỏi. Chính ý muốn riêng của khoa học là đi vào trong thế giới chưa biết của bất định và xác suất. Đôi khi, ở đâu đó, nó sẽ phải thừa nhận cái không biết. Nó sẽ phải đồng ý rằng còn có nhiều điều nữa bên cạnh cái có thể thấy được bằng mắt trần. Cái không thể thấy được vẫn tồn tại; cái không thể nghe thấy được cũng vẫn tồn tại. Một trăm năm trước đây chúng ta đã nói rằng cái không thể nghe thấy được hay nhìn thấy được hay sờ được là không tồn tại. Bây giờ khoa học nói khác. Nó nói rằng phạm vi sờ thấy được là rất nhỏ nhưng phạm vi không sờ thấy được là rất bao la. Phạm vi âm thanh là rất nhỏ nhưng cái mà không thể nghe được là vô giới hạn. Cái thấy được có đấy nhưng vô cùng nhỏ nếu so với tính vô hạn của cái không thấy được.
Thực tại, cái mà mắt chúng ta nhìn thấy là một phần rất nhỏ của cái đang đấy. Mắt chúng ta bắt được một bước sóng đặc biệt, tai chúng ta nghe được một bước sóng đặc biệt. Trên và dưới những bước sóng này còn vô hạn các bước sóng khác. Đôi khi, bởi ngẫu nhiên, các giác quan chúng ta cũng có thể bắt được những bước sóng này.
Có lần một người bị ngã từ trên núi xuống và tai bị thương. Bây giờ tai anh ta bắt đầu nghe thấy các sóng radio của đài phát thanh thành phố. Khi anh ta vào bệnh viện, anh ta gặp rất nhiều khó khăn; ban đầu anh ta không hiểu điều gì đã xảy ra. Anh ta nghĩ, "Hoặc là mình phát điên hoặc là mình không thể nào hiểu được ý nghĩa của điều đang xảy ra."
Thế rồi mọi thứ bắt đầu dường như rõ ràng và anh ta phàn nàn với bác sĩ. Anh ta hỏi bác sĩ, "Đài phát thanh để ở đâu trong bệnh viện thế?"
Bác sĩ nói, "Anh nghe thấy cái gì sao? Chẳng có đài phát nào cả."
Anh ta vẫn cứ khăng khăng rằng mình đang nghe thấy tin tức và anh ta kể lại điều mình nghe thấy. Viên bác sĩ chạy về văn phòng và bật đài lên. Ông ta ngạc nhiên, ông ta nghe thấy đích xác cũng tin tức đã được thuật lại. Thế rồi mọi sự trở nên rõ ràng. Người ta phát hiện ra rằng tai anh ta đã trở nên quen với các bước sóng mới; chúng đã thay đổi khi anh ta bị ngã từ trên núi.
Rất có thể là trong tương lai gần chúng ta sẽ có thể bắt được trực tiếp các bước sóng bằng việc gắn một vật vào tai. Những âm thanh vô hạn vẫn đang đi qua và bao quanh chúng ta, nhưng chúng ta không thể nào nghe thấy chúng bởi vì trường nghe thấy của chúng ta rất hạn chế.
Thậm chí nhiều âm thanh lớn chúng ta cũng không thể nghe thấy được. Chúng ta không thể nghe thấy âm thanh trên hay dưới khả năng nghe của tai ta. Khi một ngôi sao sụp đổ, âm thanh cực kì lớn của việc sụp đổ của nó lan rộng khắp quanh ta nhưng chúng ta không thể nghe thấy nó được. Nếu tình huống là ngược lại, chúng ta sẽ trở nên bị điếc. Tương tự, phạm vi thân nhiệt của chúng ta là xấp xỉ giữa chín mươi tám và một trăm mười độ Farenheit (ba mươi sáu và bốn mươi ba độ Celcius). Nếu nó xuống thấp dưới chín mươi tám độ hay nó lên quá một trăm mười độ, chúng ta chết. Cuộc sống chúng ta đung đưa giữa mười tới mười hai độ. Nhiệt lại có phạm vi mênh mông. Nó có thể thấp hơn phạm vi mười hai độ này, nhưng chúng ta không có liên quan với điều này.
Theo cùng cách này chúng ta có những giới hạn của mình về mọi thứ. Nhưng chúng ta có thể biết về những thứ bên ngoài các giới hạn này bởi vì chúng cũng tồn tại. Khoa học đã bắt đầu chấp nhận sự tồn tại của chúng. Một khi có chấp nhận, việc truy tìm những thứ này ở đâu và là cái gì được bắt đầu. Tất cả những điều này đều có thể được biết tới, tất cả những điều này đều có thể được nhận ra, và chính với lí do này tôi đã nói khoa học có thể đạt tới thể thứ năm.

Ai biết được cái không hiện hữu và dựa trên cơ sở nào mà người ta có thể biết được?
Câu hỏi này bản thân nó là sai.
Câu hỏi này không thể nêu ra được và không thể nào được hình thành, bởi vì khi chúng ta hỏi, "Ai biết cái không hiện hữu?", chúng ta coi điều đó là ai đó vẫn còn ở đằng sau. Thế thì đấy không phải là không hiện hữu.

Làm sao tri thức về nó được báo cáo lại?
Không có việc báo cáo lại. Chẳng hạn, khi bạn ngủ ban đêm... Bạn ý thức chỉ về cái xuất hiện trong những giờ tỉnh thức của mình. Một khi ngủ rồi, bạn quên mất những thứ xung quanh mình. Cho nên bạn chỉ có thể báo cáo về những giờ tỉnh thức của mình - về tình huống tồn tại cho tới điểm bạn ngủ. Nhưng như một qui tắc bạn làm điều đối lập lại. Bạn nói, "Tôi đã ngủ tới tám giờ." Điều này là sai. Bạn đáng phải nói, "Tôi không tỉnh cho tới tám giờ tối." Bạn không thể báo cáo lại giấc ngủ, bởi vì khi bạn ngủ, ai báo cáo? Việc báo cáo chỉ có thể từ phía bên kia: "Tôi không tỉnh cho tới tám giờ, hay mãi đến tám giờ tôi mới biết là mình tỉnh, nhưng tôi không biết gì trước tám giờ. Thế rồi tôi biết về việc tỉnh lúc sáu giờ. Có một lỗ hổng giữa tám và sáu giờ mà trong thời gian đó tôi đã ngủ."
Nói điều này để nêu làm thí dụ. Bạn sẽ biết mọi điều cho tới thể thứ sáu. Khi bạn nhào vào thể thứ bẩy và đi ra lần nữa để vào thể thứ sáu, bạn sẽ có thể nói "A ha! Ta đã ở đâu đó. Ta đã kinh nghiệm cái không hiện hữu." Việc miêu tả này chỉ được đưa ra ở thể thứ sáu, và biết bao nhiêu người đã không nói sau khi đạt tới bình diện thứ bẩy. Có lí do: tại sao nói ra cái mà không thể nào nói ra được?
Gần đây có một người tên là Witgenstein, và ông ấy đã đưa ra một số phát biểu hiếm hoi. Một trong chúng là: "Cái mà không thể nói ra được, phải không được nói ra." Nhiều người đã nói điều không thể được nói ra và do vậy đẩy chúng ta vào khó khăn bởi vì họ cũng đã bảo chúng ta rằng điều đó không thể nào nói ra được. Cho nên điều này trở thành việc báo cáo phủ định. Đây là tin tức chớp loé lên từ biên giới cuối cùng nơi nó được nói ra, "Tôi đã tới điểm đó, nhưng sau đó, tôi không có nữa. Sau điểm này, chẳng còn gì để biết và không ai có đó để biết. Không có báo cáo và không có người báo cáo. Nhưng điều này đã xảy ra sau một biên giới đặc biệt mà trước đó, tôi có." Đường biên giới đó là biên giới của thể thứ sáu.
Veda, Kinh Thánh, Upanishad, Gita đều đi lên tới thể thứ sáu. Thể thứ bẩy là cái mà không thể diễn tả nổi và thực tế cũng không thể nào diễn tả được. Cho tới thể thứ sáu, cũng không có nhiều khó khăn lắm và tới thể thứ năm, rất dễ diễn đạt. Nhưng tại bình diện thứ bẩy, người biết không còn mà tri thức cũng chẳng còn. Thực tế, cái mà chúng ta ngụ ý là cái còn lại, cũng không còn lại. Nếu chúng ta nói về lỗ hổng trống rỗng này, chúng ta sẽ phải dùng ngôn ngữ phủ định. Do đó, Veda và Upanishad phải nói, "Chẳng cái này cũng chẳng cái kia". Chúng nói, "Đừng có hỏi cái gì có đó. Chúng ta chỉ có thể bảo cho ông cái không có đó; chúng ta chỉ có thể nói rằng cái đang có đó là không có đó. Không có bố ở đó, không vợ, không vật chất, không kinh nghiệm, không tri thức. Và cái ‘tôi’ cũng không có nốt: bản ngã không có. Không có thế giới lẫn người sáng tạo ra nó. Không có gì ở đó cả." Đây là đường biên giới của thể thứ sáu. Cái gì có đó? Bạn sẽ phải im lặng, bởi vì điều ấy không thể diễn đạt nổi.
Tin tức về Brahman đã được báo cáo lại, nhưng điều được truyền đạt vượt ra ngoài nó, nhất định phải là phủ định - như điều đã được Phật nói lại. Phật đã cố gắng cực kì vất vả để diễn đạt bình diện thứ bẩy. Do đó, tất cả những gì ông ấy truyền đạt đều là phủ định, và do vậy điều này không đi vào hiểu biết của mọi người nước ông ấy. Kinh nghiệm về Brahman, kinh nghiệm tích cực, đã được mọi người hiểu rõ. Brahman được gọi là sat-chit- ananda - chân lí, tâm thức, phúc lạc - và những khẳng định này đã được hiểu rõ. Người ta có thể nói về nó là thế này, thế nọ, nhưng Phật nói về cái không có đó. Có lẽ ông ấy là người duy nhất đã làm việc vất vả để làm cho mọi người biết tới bình diện thứ bẩy.
Phật đã không được chấp nhận ở đất nước này bởi vì chỗ mà ông ấy nói tới, chẳng có gốc rễ mà cũng không hình dạng. Mọi người nghe và nghĩ điều ấy là vô ích. "Chúng ta sẽ làm gì ở chỗ chẳng có gì cả thế?" họ nói. "Ít nhất, chỉ ra cho chúng tôi nơi mà chúng tôi sẽ có đó chứ." Nhưng Phật nói, "Cả ông cũng sẽ không có." Cho nên mọi người trên đất nước này xa lánh khỏi ông ấy, bởi vì họ muốn cứu mình ở chính chỗ cuối cùng.
Phật và Mahavira là người đồng đại, nhưng mọi người hiểu Mahavira rõ hơn bởi vì Mahavira nói về những hiện tượng cho tới bình diện thứ năm. Mà ông ấy thậm chí cũng chẳng đề cập tới bình diện thứ sáu. Điều này là bởi vì Mahavira có tâm trí khoa học, và bất kì khi nào ông ấy cố gắng giải thích về bình diện thứ sáu, ông ấy đều cảm thấy rằng lời nói dường như trở thành nhập nhằng, mơ hồ và phi logic. Cho tới bình diện thứ năm, mọi thứ đều ổn định và có thể đưa ra lời mô tả rằng điều này là như vậy hay điều kia là như vậy, bởi vì cho tới bình diện thứ năm, chúng ta thấy mọi thứ tương tự như kinh nghiệm của mình.
Giả sử có một hòn đảo rất nhỏ ở giữa đại dương và chỉ một loài hoa mọc trên đảo này. Có vài người sống trên đảo và họ chưa bao giờ bước ra khỏi đảo. Thế rồi một hôm một con tầu đi qua và mang một trong những người này ra nước ngoài rồi lại đưa anh ta trở về đảo. Tại nước ngoài người này thấy nhiều loài hoa khác nhau. Với anh ta "hoa" có nghĩa là một kiểu hoa đặc biệt mọc trên đảo của mình. Bây giờ, lần đầu tiên, ý nghĩa của hoa đã được mở rộng, và anh ta hiểu rằng từ hoa không chỉ nói tới một loài hoa mà còn tới hàng nghìn loài hoa. Anh ta thấy ở đó có hoa hồng, hoa loa kèn, hoa sen và hoa nhài. Bây giờ anh ta lo nghĩ. Làm sao anh ta sẽ về và giải thích cho đồng bào mình rằng hoa không chỉ là một loài hoa? Làm sao anh ta sẽ giải thích rằng hoa có tên, bởi vì trên đảo của mình, hoa chỉ có một loài và không có tên: nó đơn thuần là ‘hoa." Bây giờ anh ta tự hỏi làm sao mình sẽ nói cho những người khác về hoa loa kèn và hoa nhài đây.
Anh ta trở về đảo, và mặc cho những khó khăn của mình, vẫn có một lối thoát cho anh ta. Có ít nhất một loài hoa để xem xét. Bây giờ anh ta có thể nói thêm chi tiết về loài hoa này và cố gắng giải thích tính đa dạng về mầu sắc, hình dáng và hương thơm của các hoa khác để truyền đạt ý tưởng nào đó trong khám phá của mình. Anh ta có thể nói, "Giống như loài hoa này mầu trắng, cũng còn có những loài hoa khác mầu đỏ, mầu hồng, mầu vàng và nhiều mầu khác. Giống như loài hoa này nhỏ bé, cũng còn có những hoa to như hoa sen." Theo cách này anh ta có thể trao đổi, bởi vì một loài hoa đã có đó để chỉ ra điều gì đó về loài hoa khác.
Nhưng giả sử rằng người này không tới nước khác mà thay vì thế anh ta lên mặt trăng nơi không có hoa, không cây cỏ, nơi bầu không khí là bất thường với anh ta và sức ép khí quyển cũng khác. Khi anh ta quay về hòn đảo của mình và người ta hỏi anh ấy thấy gì trên mặt trăng, thế thì sẽ rất khó giải thích, bởi vì chẳng có gì tương đương với kinh nghiệm của anh ta để giải thích cả. Không có từ ngữ hay kí hiệu nào trong ngôn ngữ của anh ta để truyền đạt lại báo cáo.
Đây đích xác là tình huống đang xét. Cho tới bình diện thứ năm chúng ta còn tìm ra lời để diễn đạt, nhưng nó cũng hệt như là cố gắng giải thích khác biệt giữa một hoa và một nghìn hoa. Từ bình diện thứ sáu ngôn ngữ trở thành lẫn lộn. Tại đó chúng ta đạt tới điểm mà ngay cả sự khác nhau giữa một và một nghìn cũng không đủ để giải thích. Điều ấy là rất khó. Cho dù thế thì, với việc khéo dùng phủ định, tính toàn bộ vẫn có thể truyền đạt được ý tưởng nào đó. Chúng ta có thể nói không có giới hạn; nó là vô biên. Chúng ta quen thuộc với các biên giới, cho nên với sự giúp đỡ của tri thức này chúng ta có thể truyền đạt rằng không có biên giới nào ở đó. Điều này sẽ cho một ý tưởng nào đó, và mặc dầu nó vẫn còn mông lung chúng ta vẫn có thể giả thiết rằng chúng ta hiểu. Nhưng vấn đề lại không phải là thế.
Cho nên có nhiều lẫn lộn. Chúng ta cảm thấy chúng ta đã theo được cái được nói - rằng không có biên giới ở đó. Nhưng "không biên giới" có nghĩa là gì? Kinh nghiệm của chúng ta là về các biên giới. Nó cũng hệt như những người ở hòn đảo ấy sẽ nói, "Vâng, chúng tôi đã hiểu. Nó là hoa mà anh đang nói tới." Thế thì anh bạn của chúng ta sẽ nói, "Không, không phải đâu! Chớ có xem xét hoa đó. Hoa đấy chẳng liên quan gì đến hoa này cả; hoa như thế không tìm thấy được ở đây đâu." Thế thì mọi người sẽ nói, "Tại sao anh lại gọi chúng là hoa nếu như chúng không giống hoa này? Một mình hoa này mới là hoa thôi."
Chúng ta nữa cũng đang dưới ảo tưởng rằng chúng ta hiểu. Khi chúng ta được bảo, "Thượng đế là vô hạn, vô giới hạn,", chúng ta nói, "Vâng, chúng tôi hiểu." Nhưng kinh nghiệm của chúng ta chỉ là về các biên giới. Chúng ta thêm từ "không" vào nó và chúng ta cảm thấy rằng mình hiểu là không có biên giới ở đó và chúng ta chắc chắn rằng chúng ta đã hiểu. Nhưng một khi bạn bắt đầu quan niệm về cái mà không có giới hạn, thế thì điều đó thành đáng sợ. Dù bạn có quán tưởng đến đâu đi chăng nữa, biên giới vẫn cứ còn lại. Bạn đi xa hơn, xa hơn nữa - thậm chí hàng triệu và hàng tỉ dặm vượt ra ngoài nơi năm ánh sáng chấm dứt - nhưng bất kì khi nào bạn dừng lại, biên giới sẽ xuất hiện.
Ý nghĩa của vô biên trong tâm trí chúng ta nhiều nhất, cũng chỉ có thể là biên giới mà ở rất rất xa xôi; nó xa đến mức vượt ra ngoài sự lĩnh hội của chúng ta, nhưng nó vẫn cứ tồn tại. Thế thì lần nữa chúng ta sẽ lại bị lỡ. Cho nên có thể nói điều gì đó về bình diện thứ sáu và chúng ta có thể nghĩ chúng ta đã hiểu, nhưng kì thực chúng ta không hiểu.
Bây giờ với bình diện thứ bẩy chúng ta sẽ thậm chí không làm đến cả việc nói ra là chúng ta hiểu nữa. Bình diện thứ bẩy thậm chí không thể nào được nói tới nữa. Nếu ai đó cố gắng nói, chúng ta sẽ lập tức nói, "Anh đang nói cái điều vớ vẩn gì vậy?" Do đó, một từ ngớ ngẩn đã được dùng để chỉ ra bình diện thứ bẩy - một từ mà không có ý nghĩa nào, không ngụ ý cái gì.
Chẳng hạn, lấy thí dụ, từ aum: nó chẳng có nghĩa gì cả; nó là từ vô nghĩa, và chúng ta đã dùng nó trong mối quan hệ với thể thứ bẩy. Cho tới thể thứ năm chúng ta còn có thể nói được, nhưng khi ai đó cứ khăng khăng nói về thể thứ bẩy, chúng ta nói, "Aum." Do đó, khi một bản kinh được hoàn tất, từ Aum shanti được viết ra. Bạn có biết nó có nghĩa gì không? Nó có nghĩa là thể thứ bẩy đã tới; chẳng còn gì thêm nữa mà nói. Các kinh sách kết thúc ngay khi bình diện thứ bẩy xuất hiện; việc bắt đầu của bình diện thứ bẩy là việc chấm dứt của kinh sách. Do đó, vào cuối mỗi kinh sách chúng ta không viết "Hết"; chúng ta viết "Aum Shanti." Aum là biểu tượng về bình diện thứ bẩy và nó ngụ ý để truyền đạt rằng không thể có bất kì thảo luận gì nữa. Nó thôi thúc chúng ta tĩnh lặng và an bình từ đó trở đi.
Chúng ta đã tạo ra một lời ngớ ngẩn không có ý nghĩa gì, không có động cơ đằng sau nó. Và nếu có bất kì động cơ nào sau nó, nó trở thành vô dụng bởi vì chúng ta đã tạo ra lời này cho cái thế giới mà tại đó tất cả các động cơ đều chấm dứt. Nó là lời vô động cơ và do đó nó không tồn tại trong bất kì ngôn ngữ nào khác của thế giới. Nhiều thực nghiệm đã được tiến hành nhưng không có ý nghĩa cho aum. Người Ki tô giáo cầu nguyện và cuối lời cầu nguyện của mình người đó sẽ nói "Amen." Người đó đang nói "Thế là đủ! Kết thúc rồi! An bình từ đây trở đi. Không thêm lời nào nữa." Nhưng điều này không tương đương với aum. Aum không thể nào dịch được. Nó là biểu tượng mà chúng ta đã chọn cho bình diện thứ bẩy.
Nó đã được khắc vào trong các đền để nhắc nhở chúng ta đừng dừng lại ở bình diện thứ sáu bởi vì còn có bình diện thứ bẩy nữa. Nó được đặt vào giữa hình ảnh của Rama và Krishna để gợi ý rằng aum còn lớn lao hơn họ. Krishna nhìn vào nó - nhưng aum còn lớn lao hơn nhiều, aum là rất bao la. Mọi thứ đều xuất hiện ra từ nó, mọi thứ đều hội nhập vào trong nó. Do đó, chúng ta không định giá aum với bất kì cái gì khác trên thế giới. Nó là cái linh thiêng nhất của sự linh thiêng theo nghĩa là nó là cái tối thượng, cái vượt ra ngoài, nơi mọi thứ đều mất đi cá tính của mình.
Cho nên không có gì có thể được báo cáo lại từ bình diện thứ bẩy. Nó chỉ có thể được mô tả theo ngôn ngữ phủ định: "Nó không phải là thế này; nó không thể là thế nọ, vân vân.." Nhưng điều này cũng chỉ mang nghĩa cho tới bình diện thứ sáu. Do đó, nhiều người thấy vẫn còn im lặng về bình diện thứ bẩy. Những người cố gắng nói về nó, đều tạo ra nhiều khó khăn cho bản thân mình, bởi vì thậm chí trong khi nói về nó, họ cũng phải lặp đi lặp lại rằng điều đó là không thể nào diễn tả nổi. Họ cứ luôn luôn cảnh tỉnh người nghe: "Chúng tôi đang nói về điều đó, nhưng quả thực điều đó không thể nào nói ra được." Thế thì chúng ta bị thách đố. Tại sao họ nói về những điều mà không thể nào nói ra được? Họ không nên nói về nó chứ. Nhưng họ nói, "Bình diện thứ bẩy, dứt khoát là có, nhưng chúng tôi không có lời nào xứng đáng để mô tả cho nó."
Không có gì trong thế giới này so sánh được với nó; nó là không diễn đạt nổi. Có rất nhiều điều có thể được nói về nó, nhiều điều có thể được diễn tả, nhưng khó khăn là ở chỗ không có phương tiện nào để truyền đạt nó thành lời. Nó chỉ có thể được biết nhưng nó không thể nào được diễn tả ra.
Đó là lí do tại sao những người đã có thời rất mau miệng, những người là diễn giả lớn, những người có thể giải thích được mọi thứ dưới mặt trời, lại bỗng nhiên trở thành câm lặng khi họ trở về từ bình diện thứ bẩy. Khi họ đột nhiên thành im hơi lặng tiếng theo cách này, việc im hơi lặng tiếng của họ truyền đạt một thông điệp: đôi mắt im lặng của họ nói lên cái không nói được. Chẳng hạn, liên quan tới điều bạn đang hỏi đây, Phật đã nêu ra một qui tắc là những câu hỏi nào đó không nên nêu ra cho ông ấy. Ông ấy nói, "Đừng hỏi những câu hỏi này. Không thích hợp để hỏi về chúng; không thích hợp để biết về chúng." Ông ấy sẽ nói rằng một chủ đề nào đó là không thể nào xác định nổi và do đó không nên được thảo luận. Việc thảo luận về nó sẽ là không thích hợp.
Lão tử nói, "Đừng yêu cầu ta viết ra, bởi vì bất kì điều gì ta viết ra rồi sẽ trở thành sai. Ta sẽ chẳng bao giờ có thể truyền đạt được điều ta muốn truyền đạt; ta chỉ có thể viết ra cái mà ta không muốn truyền đạt. Nhưng dùng điều đó để làm gì?" Cho nên ông ấy đã không viết cho đến lúc cuối cùng. Khi dân quê ép buộc ông ấy, ông ấy đã viết một cuốn sách nhỏ. Chính câu đầu ông ấy đã viết là "Đạo khả đạo phi thường đạo" - Ngay khi chân lí được diễn đạt ra, nó trở thành sai. Nhưng đây là chân lí của bình diện thứ bẩy. Tại bình diện thứ sáu nó trở thành không sai, nhưng mơ hồ. Tại bình diện thứ năm, chân lí được diễn đạt không thể tranh cãi nổi. Tại bình diện thứ bẩy, duy nhất việc diễn đạt của nó là không thể được. Nơi mà chúng ta không còn nữa, làm sao lời nói và ngôn ngữ còn lại được? Chúng nữa cũng chấm dứt với chúng ta.

Đâu là những đặc trưng rõ ràng của aum mà từ đó nó đã được chọn để biểu thị cho bình diện thứ bẩy?
Có hai lí do cho việc chọn aum. Một là ở chỗ lời được tìm phải không có ý nghĩa, không thể được cho bất kì nghĩa nào - bởi vì nếu nó truyền đạt bất kì nghĩa nào, nó sẽ bị thu về bình diện thứ năm. Cho nên một lời được cần tới, theo một nghĩa nào đó, phải là vô nghĩa. Tất cả các lời của chúng ta đều có nghĩa; chúng ta tạo ra lời để chúng truyền đạt ý nghĩa. Nếu chúng không truyền đạt bất kì ý nghĩa nào, tại sao phải dùng chúng? Chúng ta sử dụng chúng, và mục đích của việc nói là để truyền đạt một ý nghĩ nào đó.
Khi tôi thốt ra một lời, nó phải gợi ra một ý nghĩa nào đó bên trong bạn. Cho nên khi người ta trở về từ bình diện thứ bẩy, họ cảm thấy rằng nếu họ tạo ra bất kì lời nào để diễn tả bình diện thứ bẩy mà truyền đạt một ý nghĩa, họ lập tức bị đẩy trở lại bình diện thứ năm. Thế thì những lời đó sẽ được thêm vào từ điển, chỗ mà mọi người sẽ đọc chúng và nghĩ rằng họ đã hiểu. Nhưng bình diện thứ bẩy lại không có ý nghĩa. Bạn có thể nói rằng nó là vô nghĩa hay nói rằng nó là vượt ra ngoài ý nghĩa - cả hai điều này đều mang cùng một nghĩa.
Cho nên trong hoàn cảnh mà tất cả ý nghĩa đều bị mất, không ý nghĩa nào còn lại, ta có thể tìm ra được loại lời nào cho điều này và làm sao nó có thể hình thành được? Lời này đã được tạo ra với sự giúp đỡ của của tầm nhìn và dự phóng vĩ đại, và theo cách thức rất khoa học. Một lời gốc, lời cơ sở, đã được xây dựng, lời này được làm thành nền tảng. Do vậy làm sao mà lời này, lời phải truyền đạt cái không có nghĩa, lại có thể được tìm ra? Nó được hình thành theo cách nào? Theo cách thức sâu sắc nó sẽ trở thành biểu tượng cho nguồn gốc nguyên thuỷ.
Ba âm cơ bản của lời nói chúng ta là a-u-m. Tất cả việc xây dựng lời của chúng ta đều là sự mở rộng của ba âm này. Chúng là các âm gốc. Bây giờ bản thân các âm a- u-m đều không có nghĩa, bởi vì chính mối quan hệ của chúng mới quyết định ra ý nghĩa. Khi ‘a’ trở thành một lời, nó mang một nghĩa; khi ‘m’ trở thành một lời nó lại mang một nghĩa. Nhưng bản thân chúng, vô nghĩa. Thế mà chúng vẫn là gốc rễ, và tất cả việc xây dựng lời nói của chúng ta đều là việc mở rộng và tổ hợp của ba âm này.
Cho nên ba âm gốc này đã được lấy ra và gắn lại để tạo nên lời aum. Bây giờ aum có thể được viết ra, nhưng bằng việc viết ra nó, người ta có thể bắt đầu nghĩ rằng nó có thể có ý nghĩa giống như bất kì các lời nào được viết ra khác. Người ta sẽ nghĩ rằng aum nghĩa là cái trong bình diện thứ bẩy. Cho nên không lời nào đã được phát minh ra nhưng bức tranh về aum, lại được tạo ra: không chữ nào được dùng cho nó. Ba chữ a-u-m chỉ là âm và không có chữ nào hay từ nào. Cho nên aum đi vào sự hiện hữu dưới dạng hình ảnh để cho nó không bị bỏ xó trong từ điển và thay vào đó sẽ đập vào mắt và trở thành một dấu hỏi. Nó đi vào sự hiện hữu theo cách này để cho người ta sẽ trở nên háo hức tìm ra nó có nghĩa gì.
Bất kì khi nào một người đọc tiếng Phạn hay tới nghiên cứu sách cổ, lời này cũng trở thành khó giải thích. Lời tới trong việc hiểu thấu về chúng bởi vì chúng có ý nghĩa - nhưng , lại vượt ra ngoài việc hiểu. Người ta bao giờ cũng hỏi, "Aum ngụ ý gì? Đâu là ý nghĩa của nó? Nó có nghĩa gì và tại sao nó lại không được viết ra theo chữ giống như a-u-m? Tại sao lại là dạng bức tranh này?" Nếu bạn nhìn kĩ vào bức tranh này, bạn sẽ thấy rằng nó được tạo nên từ ba phần gồm kí hiệu cho a, u và m.
Bức tranh này đòi hỏi nghiên cứu sâu sắc; nó không phải là bức tranh thông thường. Việc nghiên cứu về nó đã được tiến hành từ thể thứ tư chứ không từ bình diện vật lí. Thực tại, khi một người đi vào thể thứ tư và trong trạng thái vô suy nghĩ, âm điệu của a-u-m bắt đầu vang vọng bên trong người đó và tổ hợp của chúng tạo thành lời aum. Khi có tĩnh lặng hoàn hảo bên trong, khi ý nghĩ hoàn toàn vắng bặt, thế thì tiếng rì rầm của aum bắt đầu vọng vang bên trong. Âm thanh này đã được nghe thấy từ bình diện thứ tư nơi ý nghĩ không còn nữa và ngôn ngữ cũng không còn nữa. Thế thì cái còn lại là âm thanh của aum. Cho nên theo cách này âm thanh đó được nghe thấy.
Bây giờ như tôi đã nói trước đây, mỗi lời đều có hình mẫu của riêng nó. Khi chúng ta dùng một lời nào đó, một hình mẫu đặc biệt sẽ hình thành trong tâm trí. Nếu ai đó thiền về aum, khi nó vang vọng ở bình diện thứ tư, hình ảnh tương ứng sẽ bắt đầu biểu hiện bên trong. Đây là cách thức tất cả các câu mật chú mầm đã được phát hiện ra. Khi tiếng vang vọng của một luân xa đặc biệt được thiền nhân bắt lấy trong khi thiền, câu mật chú mầm của luân xa đó được biển hiện ra. Đây là cách thức tất cả các câu mật chú mầm này đã được hình thành, và aum là hạt mầm tối thượng. Nó không phải là hạt mầm của bất kì luân xa đặc biệt nào; thay vì thế thì nó là biểu tượng của bình diện thứ bẩy mà là vô hạn và vĩnh hằng.
Cho nên theo cách này lời aum đã được tìm ra. Và khi nó ăn khớp với kinh nghiệm của hàng nghìn người tìm kiếm, người nêu ra sự chấp thuận về nó, lời này được chấp nhận. Nó không đi vào sự tồn tại với sự chấp thuận của một người hay của một nhóm người. Khi cùng lời này được dội lên trong nhiều thiền nhân, khi hàng triệu người trong số họ chứng nhận về tính chân thực của nó, chỉ thế thì nó mới được chọn. Do đó, lời aum không phải là tài sản của tổ tiên truyền lại của bất kì tôn giáo hay tổ chức nào. Vậy, Phật giáo và Jaina giáo tự do dùng nó mà không sợ hãi gì. Nó không phải là tài sản riêng của Hindu giáo. Lí do là ở chỗ nó đã được đạt tới bởi đủ loại thiền nhân từ nhiều con đường khác nhau. Bất kì cái gì tương đương mà chúng ta tìm ra ở các nước khác, theo một cách nào đó đều là sự phân mảnh của chính từ này.
Bây giờ nếu chúng ta xem xét lại những phát kiến của người tìm kiếm La Mã hay A Rập, chúng ta sẽ thấy rằng âm "m" thường được nhắc tới. Một số phát kiến gắn ‘a’ cùng với ‘m’, nhưng ‘m’, chắc chắn có. Điều này là bởi vì ‘a’ và ‘u’ là rất tinh tế, và do vậy khó mà bắt được chúng. Cho nên phần thứ nhất của từ này tuột ra khỏi sự chú ý của chúng ta và chỉ phần sau mới được nghe thấy. Do đó, khi âm thanh của aum bắt đầu vang vọng bên trong, ‘m’ trong nó là dễ dàng nghe thấy được. Nếu bạn ngồi trong một căn phòng kín và tụng aum, âm thanh trước sẽ nhường đường cho âm thanh của ‘m’. Vậy, ‘a’ và ‘u’ trở thành hoàn toàn không nghe thấy nữa, còn chính âm ‘m’, vang vọng khắp nơi. Cho nên thiền nhân sẽ đi tới kết luận rằng âm ‘m’ là chắc chắn, trong khi những âm đi trước, không hoàn toàn rõ ràng. Khác biệt chỉ là ở việc nghe thấy, nhưng bất kì khi nào việc tìm kiếm đã được tiến hành theo cách này, cái gì đó này khác về từ này lại được thiền nhân hiểu thấu. Khi một nghiên cứu ráo riết được tiến hành - chẳng hạn, nếu một nghìn nhà khoa học tiến hành cùng một thực nghiệm và thu được cùng kết quả, thế thì tính hợp lệ của nó được chứng minh.
Đất nước này thật may mắn theo nghĩa hàng nghìn năm đã được dành ra ở đây trên cuộc hành trình hướng tới cái ta. Không đâu khác trên thế giới này mà mọi người ở bất kì nước nào lại tiến hành thực nghiệm này trên qui mô lớn đến thế và bao gồm nhiều người đến thế. Mười nghìn thiền nhân ngồi quanh Phật; bốn mươi nghìn người, cả nam lẫn nữ, ngồi quanh Mahavira và họ tiến hành việc thực nghiệm quần chúng. Trong một chỗ nhỏ bé như Bihar bốn mươi nghìn đệ tử của Mahavira đã thực nghiệm. Không đâu khác trên thế giới này xảy ra sự kiện như vậy. Jesus, ông bạn tội nghiệp, chỉ có mỗi mình, còn Mohammed, đã phải dành thời gian để vật lộn vô vọng với những người dốt nát.
Trên đất nước này tình huống đặc biệt đã phát triển trong đó mọi người đều nhận biết về sự kiện là đây không phải là vấn đề tranh đấu. Tại đây mọi thứ đều rõ ràng. Mahavira ngồi đấy và bốn mươi nghìn người thực hành thiền ngay trước ông ấy. Điều này đem lại cơ hội lớn cho việc quan sát và kiểm chứng lại những kinh nghiệm của các thiền nhân khác nhau trên những bình diện khác nhau. Có thể sẽ có sai sót nào đó khi chỉ có một hay hai người thực hành, nhưng khi  có đến bốn mươi  nghìn người, không thể có sai sót được. Bốn mươi nghìn người bận rộn với nhiều kĩ thuật thiền khác nhau. Mọi thứ đều được suy nghĩ đúng, mọi thứ đều được kiểm chứng, mọi thứ đều được hiểu thấu đúng đắn.
Do đó, đất nước này đã thực hiện nhiều khám phá trong lĩnh vực tâm linh hơn là các nước khác, bởi vì tại các nước khác, người tìm kiếm chỉ có một mình. Cũng giống như phương Tây ngày nay đang tiến hành các thực nghiệm khoa học trên qui mô lớn về việc sử dụng các nhà khoa học, theo cùng cách đó đất nước này đã có thời sử dụng hàng nghìn thiên tài, trí thức của mình vào khoa học về linh hồn. Những khám phá mà họ đem lại từ các cuộc hành trình của mình vào linh hồn là rất có ích, nhưng trên cuộc hành trình của chúng tới mảnh đất khác, tri thức này cũng bị phân mảnh và biến dạng.
Chẳng hạn, cây thánh giá của Jesus: nó là phần còn lại của chữ thập ngoặc. Trong cuộc hành trình lâu dài của nó tới những miền đất xa xôi, đây là cái còn lại của chữ thập ngoặc. Chữ thập ngoặc đã từng là biểu tượng giống như aum. Aum là biểu tượng cho bình diện thứ bẩy, chữ thập ngoặc là biểu tượng cho bình diện thứ nhất. Do đó, hình ảnh của chữ thập ngoặc là động. Các nhánh của nó trải ra và cho ấn tượng về chuyển động; nó quay mọi lúc. Thế giới thông thường có nghĩa là cái chuyển vận vào mọi lúc. Cho nên chữ thập ngoặc đã được tạo nên làm biểu tượng cho thể thứ nhất, còn aum là biểu tượng cho thể cuối cùng. Không có chuyển động gì trong aum cả. Nó tuyệt đối tĩnh lặng; có im lặng hoàn toàn; mọi thứ đều ở điểm dừng. Với chữ thập ngoặc, có chuyển động.
Trong cuộc hành trình của mình chữ thập ngoặc đã trở thành cây thập tự vào lúc nó đạt tới Ki tô giáo. Có mọi khả năng là Jesus đã tới Ai cập cũng như Ấn Độ. Ông ấy đã ở Nalanda, trường đại học Phật giáo cổ đại, cũng như ở Ai cập, và do vậy ông ấy đã thu hoạch được rất nhiều tri thức. Một điều là tri thức về chữ thập ngoặc. Nhưng tri thức này bị biến dạng đi giống như tin tức được đem lại do những người đã thấy nhiều hoa kể cho nơi chỉ có một loài hoa tồn tại. Thông điệp của Jesus đã bị phá huỷ và chỉ cây thập tự là còn lại.
Phần phía trên của dấu hiệu aum, đã tới đạo Hồi. Nửa vầng trăng mà họ đảo ngược chính là mảnh phía trên của aum mà đã bị tách rời khỏi phần chính trong cuộc du hành của nó sang A rập. Các từ và kí hiệu bị biến dạng tồi tệ trong cuộc hành trình của chúng, và sau hàng nghìn năm chúng bị mòn mỏi tới mức khó mà nhận ra dạng nguyên thuỷ của chúng nữa. Âm thanh mới, lời mới, được thêm vào chúng khi chúng du hành từ chỗ nọ sang chỗ kia, và những người khác nhau với văn hoá khác nhau sử dụng chúng. Tất cả các loại thay đổi đều xảy ra, và thế thì khi cái gì đó tách ra khỏi nguồn gốc nguyên thuỷ của nó, khó mà phân biệt được vị trí nguyên thuỷ của nó, cách thức nó đi vào sự hiện hữu và điều gì đã xảy ra cho nó.
Luồng tâm linh của toàn thế giới có liên hệ thực sự với đất nước này, bởi vì ngọn nguồn nguyên thuỷ, cơ bản của tâm linh đã được sinh ra tại đây và cũng từ đây mà tin tức về nó lan truyền đi xa và rộng. Nhưng người truyền thông điệp, người mang thông điệp này tới những miền đất khác và những người nhận thông điệp ấy lại nói theo ngôn ngữ khác. Do đó, sự sáng tỏ bị thiếu trong việc giao và nhận thông điệp này. Bây giờ không người Ki tô giáo nào đeo cây thập tự quanh cổ có thể nghĩ được rằng đấy là một phần của chữ thập ngoặc; không người hồi giáo nào có thể mơ được rằng một nửa vầng trăng người đó đảo ngược lại chính là một đoạn của aum.
Theo một số học giả Ki tô giáo, amen chỉ là một dạng biến thể xa của aum. Vào cuối tất cả những lời  cầu nguyện của người Ki tô giáo lời amen được dùng để biểu thị việc tuân phục điều thiêng liêng. Chính niềm tin của người nghiên cứu là ở chỗ trong Kinh thánh, cứ chỗ nào nói, "Lúc đầu đã có lời và lời chính là cùng với Thượng đế,", aum là từ được ngụ ý. Amen là nói tới cả alpha lẫn omega - cái bắt đầu và cái kết thúc. Người ta cũng nói rằng Jesus đã nói với tông đồ John, "Ta là Amen." Ở chỗ khác amen đã được dùng để ngụ ý chân lí tuyệt đối hay "Nó là như vậy."
Nhiều từ Latin được sử dụng trong cách thức tôn kính của người Ki tô giáo, và trong tất cả chúng, một dạng biến thể của aum đều hiện diện. Chẳng hạn, Per omni secula seculorum, vân vân. Nó cũng hiện hữu trong các từ tiếng Anh omnipresent - toàn diện, omniscient - toàn trí, omnipotent - toàn năng.
Ngày nay nhiều nhà thờ ở Ấn Độ, đã bắt đầu dùng từ aum trong việc cầu nguyện của họ, và họ cũng đã khảm từ này vào cửa ra vào chính. Chẳng hạn, nhà thờ St. Mary’s College tại Darjeeling có kí hiệu được khắc khảm lên lối ra vào ban thờ chính của ngôi đền thờ cúng.

Ads Belove Post