Read more
Dhammapada - Con đường của Phật (Tập 11)
Chương 10. Cười - Con đường của bạn tới Thượng đế
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Để trở nên chứng ngộ, thầy có cần tính Do
Thái hay nó chỉ là sự giúp đỡ?
Amitabh, tôn giáo đã bỏ lỡ một
phẩm chất rất nền tảng: khả năng khôi hài. Điều đó đã là rất không may bởi vì
nó đã làm cho tôn giáo ốm yếu.
Khả năng khôi hài là một phần,
phần cốt yếu, của phẩm chất duy nhất phân biệt con người với con vật khác. Duy
nhất con người có thể thấy cái lố bịch, cái ngớ ngẩn. Duy nhất con người có khả
năng và ý thức để nhận biết về trò đùa vũ trụ là sự tồn tại này đang vậy. Nó là
trò đùa vũ trụ; nó không phải là chuyện nghiêm chỉnh.
Nghiêm chỉnh là bệnh tật, nhưng
nghiêm chỉnh đã từng được ca ngợi, tôn kính, kính trọng. Để là thánh nhân điều
tuyệt đối bản chất là phải nghiêm chỉnh; do đó chỉ những người bệnh hoạn mới trở
nên quan tâm tới tôn giáo, người không có khả năng cười. Và người không có khả
năng cười là hạ nhân, họ còn chưa là người - nói gì tới bản thể thiêng liêng của
họ? Điều đó là không thể được - họ còn chưa trở thành người. Và việc là người
chính là cây cầu giữa con vật và điều thiêng liêng. Do đó tôi cực kì kính trọng
khả năng khôi hài, tiếng cười.
Tiếng cười còn thiêng liêng hơn
lời cầu nguyện nhiều, bởi vì lời cầu nguyện có thể được bất kì người ngu nào thực
hiện; lời cầu nguyện không yêu cầu mấy thông minh. Tiếng cười yêu cầu thông
minh, nó yêu cầu hiện diện của tâm trí, nhanh chóng nhìn vào vấn đề. Chuyện cười
không thể được giải thích: hoặc bạn hiểu nó hoặc bạn bỏ lỡ nó. Nếu nó được giải
thích, nó mất đi toàn thể vấn đề; do đó không chuyện cười nào có thể được giải
thích. Hoặc lập tức bạn hiểu nó.... Nếu bạn không hiểu nó ngay lập tức thì bạn
có thể cố gắng tìm ra nghĩa của nó; bạn sẽ thấy nghĩa đó, nhưng chuyện cười sẽ
không có đó. Nó là trong trực tiếp.
Khôi hài cần sự hiện diện, hoàn
toàn hiện diện.
Vấn đề không phải là phân tích,
vấn đề là sáng suốt.
Amitabh, khi có liên quan tới
khôi hài, có chút ít tính Do Thái là rất tốt - mọi người nên có chút ít tính Do
Thái! Với chứng ngộ nó sẽ chuẩn bị mảnh đất, nó sẽ làm cho bạn sống động hơn.
Chứng ngộ là đang trở nên sống toàn bộ. Tiếng cười đem cuộc sống tới bạn.
Và nếu bạn có thể cười một cách
toàn bộ, có vài điều cần được hiểu. Trong tiếng cười sâu bản ngã biến mất, nó
không được tìm thấy ở đâu cả. Bạn không thể có cả tiếng cười và bản ngã. Nếu bản
ngã có đó nó sẽ giữ bạn nghiêm chỉnh. Mọi kẻ bản ngã đều là người nghiêm chỉnh,
và mọi người nghiêm chỉnh đều là người bản ngã.
Để có khả năng cười, bạn cần giống
như đứa trẻ - vô ngã. Và khi bạn cười, bỗng nhiên tiếng cười có đó, bạn không
có. Bạn quay lại khi tiếng cười qua rồi. Khi tiếng cười biến đi xa xăm, khi nó
lắng xuống, bạn quay lại, bản ngã quay lại. Nhưng trong chính khoảnh khắc của
tiếng cười bạn có thoáng nhìn vào cái vô ngã.
Chỉ có hai hoạt động bạn có thể
cảm thấy cái vô ngã một cách dễ dàng. Hoạt động này là tiếng cười, hoạt động
kia là nhảy múa. Nhảy múa là phương pháp sinh lí, phương pháp thân thể để cảm
thấy cái vô ngã. Khi người múa bị mất hút trong điệu múa, người đó không còn nữa
- chỉ còn điệu múa. Tiếng cười có chút ít tinh tế hơn điệu múa, nó có chút ít
bên trong hơn, nhưng nó cũng có cùng hương thơm. Khi bạn cười.... Nó phải là tiếng
cười bụng. Nó phải không hời hợt, nó phải không là xã giao, nó phải không là kiểu
cách.
Tôi đã nghe:
Một cô đánh máy chữ vừa bỏ việc.
Hôm nay là ngày cuối cùng của cô ấy ở văn phòng, và ông chủ đang kể chuyện cười
cũ mà ông ấy bao giờ cũng kể. Mọi người đều cười chỉ trừ cô đánh máy. Ông chủ hỏi,
"Có chuyện gì với cô thế? Cô không thể hiểu được chuyện cười này
sao?"
Cô ấy nói, "Tôi biết chúng
từ lâu trước đây rồi. Ông lặp lại chúng tới cả nghìn lẻ một lần, nhưng tôi
không cần cười thêm nữa. Đằng nào mai tôi cũng đi rồi. Những kẻ ngu này đang cười
bởi vì họ phải cười - ông là ông chủ. Cho nên liệu chuyện cười có đáng cười hay
không cũng chẳng thành vấn đề. Họ phải cười, đó là một phần bổn phận của họ.
Nhưng tôi ra đi, ông có thể làm gì được tôi? Tôi không cười, ông không thể làm
tôi cười với tất cả những chuyện cũ rích kia."
Nếu bạn cười do bổn phận hay từ
ý thức kiểu cách, từ xã giao, thế thì đó không phải là tiếng cười bụng, thế thì
đó chỉ là hời hợt; ở chu vi, bạn đang xoay xở nó. Bạn sẽ không hiểu điều tôi
đang nói về tiếng cười.
Cười để cho toàn thân bạn, toàn
thể con người bạn trở nên được tham gia, và bỗng nhiên sẽ có thoáng nhìn. Trong
khoảnh khắc đó quá khứ biến mất, mọi thứ biến mất - chỉ có tiếng cười. Và trong
khoảnh khắc đó của tiếng cười, bạn sẽ có khả năng thấy toàn thể sự tồn tại đang
cười.
Người Ấn Độ không có khả năng của
tiếng cười. Ở Ấn Độ chúng ta không có chuyện cười Ấn Độ nào. Mọi chuyện cười được
kể ở Ấn Độ đều được vay mượn, không có chuyện cười Ấn Độ kiểu như thế. Người Ấn
Độ là người nghiêm chỉnh, người rất tôn giáo, người linh thiêng. Làm sao họ có
thể hạ xuống những điều thấp thế như đùa cười? Họ nói về Thượng đế, họ nói về
moksha, họ nói về niết bàn... họ không thể cười được. Đây không phải là chuyện
cười đâu! Bạn không thể cười Thượng đế được. Nhưng nếu bạn không thể cười được
Thượng đế, bạn sẽ không bao giờ hiểu được Thượng đế.
Các tượng Phật của Ấn Độ là
hoàn toàn khác với tượng Phật của Trung Quốc hay Nhật Bản. Bạn phải đã chú ý tới
sự khác biệt này; khác biệt là lớn. Phật Ấn Độ có thân hình rất lực sĩ. Bụng
ông ấy rất nhỏ, gần như không tồn tại. Ông ấy chưa bao giờ có việc cười bụng. Nếu
không có bụng làm sao bạn có thể có việc cười bụng được? Nhưng Phật Trung Quốc
có bụng to, và không chỉ bụng - ngay cả trên tượng bạn cũng có thể thấy những gợn
cười lan trên bụng. Ngay cả trong đá bạn cũng có thể thấy ông ấy đang cười, cái
bụng đang cười.
Không người Ấn Độ nào sẽ đồng ý
với tượng Trung Quốc. Người đó sẽ nói, "Điều này không đúng, Phật không giống
thế này, với cái bụng to thế...." Phật Trung Quốc trông như anh hề - nhưng
tôi có kính trọng lớn lao với Phật Trung Quốc. Phật Trung Quốc đã hấp thu Lão Tử,
Trang Tử, Liệt Tử. Ông ấy chứa đầy Lão Tử, đó là lí do tại sao có cái bụng to
thế. Bên trong bụng ông ấy có Lão Tử. Và bạn không thể giữ Lão Tử yên tĩnh được.
Ông ấy phải cười và đá và làm mọi thứ; do đó mới có gợn sóng trên bụng.
Lão Tử có khả năng khôi hài. Có
thể bởi vì điều đó mà Lão Tử không thể trở thành người sáng lập ra tôn giáo vĩ
đại. Không tồn tại tôn giáo nào mang tên ông ấy. Vâng, vài người hiếm hoi đã
theo con đường của ông ấy, nhưng không có nhà thờ có tổ chức, bởi lẽ đơn giản
là Lão Tử dường như không nghiêm chỉnh thế. Ông ấy thường cưỡi trâu. Bây giờ, bạn
không thể tìm được ngựa sao? Bất kì ai cũng có thể đảm đương được có lừa -
nhưng trâu sao...? Và điều đó nữa, lại cũng không phải là ngồi đúng, mà ngồi
ngược về đằng sau! Trâu đi đường này và Lão Tử nhìn theo đường khác. Ông ấy phải
đã tạo ra tiếng cười ở mọi nơi ông ấy đi qua. Mọi người phải đã tụ tập lại để
xem cảnh tượng này, điều đang xảy ra.
Và Trang Tử còn vượt xa thầy
mình. Chưa bao giờ có người nào hay thế như Trang Tử. Tất cả mọi điều ông ấy đã
nói đều hoàn toàn ngớ ngẩn, buồn cười! - nhưng với nghĩa sâu sắc. Đầu tiên bạn
sẽ cười và thế rồi dần dần bạn sẽ thấy ra vấn đề mà ông ấy đang chỉ tới, theo
cách rất vui vẻ, hướng tới chân lí nào đó mà chỉ có thể được chỉ ra theo cách
vui vẻ. Nếu bạn nghiêm chỉnh bạn không thể làm cho mọi người hiểu được cái đẹp
của sự tồn tại, lễ hội của sự tồn tại.
Cuộc sống không phải là bi kịch,
nó là hài kịch. Nó không phải là thảm kịch. Nhưng người tôn giáo đã phụ thuộc
vào chính ý tưởng cuộc sống là thảm kịch: nó là khổ, hoàn toàn khổ - cái gì có
đó mà cười? Do đó họ hấp dẫn những người không có khả năng của cười, của sống,
của yêu.
Nỗ lực của tôi ở đây, Amitabh
này, chính là điều đối lập. Tôi muốn bạn học nhiều nhất có thể được từ Phật,
nhiều nhất có thể được từ Lão Tử, nhiều nhất có thể được từ Krishna, nhiều nhất
có thể được từ Trang Tử. Tôi muốn bạn hấp thu tất cả những kinh nghiệm lớn lao
đã từng xảy ra trong quá khứ, để cho sự tổng hợp lớn hơn trở thành có thể.
Trong tổng hợp cao hơn đó tiếng cười sẽ là một trong những phẩm chất bản chất
nhất. Với chân lí, dũng cảm và đức hạnh, tiếng cười cũng có vị trí riêng của
nó.
Theo nghĩa đó người Do Thái là
người hay. Họ có khả năng lớn nhất về tiếng cười trên toàn thế giới. Họ là ở một
cực đoan này; ở cực đoan kia là người Anh. Bao nhiêu thư tôi nhận được đều giận
dữ: "Thưa Thầy kính yêu, thầy không hiểu người Anh." Ai quan tâm tới
hiểu? Và tại sao tôi phải hiểu người Anh, để làm gì? Không có gì khác còn lại để
hiểu sao?
Tôi đã từng kể nhiều chuyện cười
về người Italy, nhưng không một bức thư nào. Họ hiểu rằng chuyện cười là chuyện
cười! Nếu bạn hiểu quá nhiều bạn không thể đùa được. Một chút ít hiểu lầm là cần
thiết.
Bây giờ, một trong đa số người
Anh của tất cả các sannyasin Anh, Prembodhi, đã viết, "Thầy không hiểu người
Anh chút nào." Bạn đơn giản chứng minh quan điểm của tôi!
Ai đó khác đã viết, "Điều
này là không đúng. Thầy nói không đàn bà Anh nào là đàn bà; họ toàn là quí
bà." Tôi đơn giản ngỏ ý kính trọng!
Và tôi nghĩ một sự kiện nổi tiếng
là không cái gì nên được nói chống lại người chết. Với người chết bạn bao giờ
cũng phải bầy tỏ kính trọng. Đó là điều tôi đã làm! Sao bạn giận về điều đó?
Tôi nhắc lại một lần nữa: rất
khó, gần như không thể nào tìm ra đàn bà Anh - chỉ toàn có quí bà thôi. Mọi đàn
ông có thể không là quí ông; đàn ông sau rốt là đàn ông, con trai là con trai!
Và con trai già còn nhiều hơn thế! Nhưng khi có liên quan tới đàn bà, họ mang
cùng văn hoá, tôn giáo, họ là đá nền. Đàn bà Anh có khuôn mặt nào đó. Không đàn
bà khác nào có loại mũi đó... họ tất cả đều cần giải phẫu thẩm mĩ độn nhựa!
Amitabh, vấn đề duy nhất với
người Do Thái là khi đi tới chuyện giá cả. Thế thì họ sẽ cứ mặc cả hàng thế kỉ.
Chứng ngộ sẽ ở ngay trước họ, nhưng họ sẽ mặc cả về giá đã.
Cho nên đó là vấn đề, Amitabh; ở
đó bạn phải nhận biết.
Một người Scot đi vào trong hiệu
may và hỏi xem bộ com lê.
Ông chủ Do Thái tới với bộ vải
tuýt Harris đẹp. "Xem cái này," ông ấy nói, "và nó không phải
năm mươi pound đâu, thậm chí không bốn mươi. Ba mươi pound và nó là của
ông."
Người Scot kiểm tra nó kĩ càng.
"Tôi sẽ không trả hai mươi nhăm pounds cho nó đâu, thậm chí không hai
mươi. Giá của tôi là mười tám pounds."
"Đúng," người Do Thái
nói. "Đó là cách tôi thích làm kinh doanh - không mặc cả."
Thế rồi có hai người Do Thái
đâm sầm vào nhau sau bốn mươi năm, và cùng chạy tới quán rượu gần nhất để mở hội.
"Thật là kì diệu để được uống
cùng nhau sau ngần ấy năm," một người nói.
"Đúng," người kia
nói, "nhưng đừng quên đấy, đến phiên của cậu trả."
Nó không thể tệ thế được. Có thể
bạn thích cường điệu hoá lên. Có những người bao giờ cũng thích mức cao nhất,
người khuếch đại mọi thứ lên. Khổ nhỏ tất nhiên có đó, nhưng bạn có thể có khổ
lớn nào? Bạn sẽ có nó ở đâu? Bạn không thể quan niệm nổi khổ nào mà có thể tệ tới
mức bạn có thể gọi nó là tuyệt đối được; bằng không người ta sẽ đơn giản chết,
ngay lập tức.
Bà goá giầu cần việc truyền
máu, cho nên một người cho máu Do Thái đã cứu mạng bà ấy. Bà ấy biết ơn lắm, bà
ấy cho người đó một trăm pounds, nhưng sau khi tái phát bà ấy cần việc cho máu
khác và lần này cho người cho máu năm mươi pounds.
Lần thứ ba anh ta cứu mạng bà ấy,
bà ấy có nhiều máu Do Thái trong mình tới mức bà ấy chỉ cám ơn rất nhiều.
Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi cực kì khổ. Làm sao tôi thoát được khổ?
Vandan, tôi chưa hề bắt gặp một
người cực kì khổ. Bạn đang dung thứ cho điều đó, bạn đang sống với nó. Nếu nó tệ
thế người ta nên dừng thở đi! Sao người ta cứ phải sống?
Cho nên một điều, nhớ lấy, dừng
việc cường điệu lại. Đó cũng là cách thức của bản ngã. Bản ngã kì lạ tới mức nó
muốn cường điệu mọi thứ. Cho dù nó khổ nó sẽ khuếch đại khổ lên, nó sẽ làm ra ồn
ào lớn từ điều đó. Có thể chẳng có gì mấy trong nó: nếu bạn đi tới gốc rễ bạn
có thể tìm thấy chuột, nhưng bạn đang nói về voi.
Và tôi biết bạn, Vandan. Tôi
chưa bao giờ thấy bạn cực kì khổ cả. Bạn trông hoàn toàn bình thường. Trừ phi tất
cả mọi người thường đều cực kì khổ... chỉ bản ngã có thói quen khuếch đại.
Một cậu bé chạy từ trường về
nhà. Nó thở dốc, phun phì phì, vã mồ hôi. Nó nói với mẹ nó, "Bằng cách nào
đó Thượng đế đã cứu con. Con hổ đuổi theo con, một con hổ rất nguy hiểm, con hỗ
rất dữ tợn."
Người mẹ nói, "Con thôi cường
điệu đi! Mẹ đã bảo con cả triệu lần đừng có cường điệu, và con lại làm điều đó.
Con hổ đó đâu?"
Cậu bé chỉ cho mẹ nó qua cửa sổ.
Một con chó rất nhỏ, yếu, gầy, đói, đang đứng bên ngoài. Và người mẹ nói,
"Đây mà là hổ à? Con lên gác, cầu Thượng đế và hỏi xin ngài tha thứ đi. Và
đừng bao giờ cường điệu nữa. Thế là đủ rồi!"
Thế là cậu bé đi lên gác. Sau
năm phút nó đi xuống chỗ mẹ, và người mẹ nói, "Con đã cầu nguyện
chưa?"
Nó nói, "Rồi ạ, con đã cầu
nguyện, và mẹ có biết Thượng đế nói gì không? Ngài nói, 'Con đừng lo. Lần đầu
tiên ta thấy con chó đó bản thân ta nghĩ rằng nó là con hổ dữ tợn. Cho nên
không có gì phải lo cả. Bản thân ta đã bị lừa, còn nói gì tới con? Và ta to lớn
thế, dầu vậy ta nghĩ nó là con hổ rất nguy hiểm. Ta sẵn sàng chạy, thế rồi ta
nhìn lại lần nữa và thấy: ồ không, đấy chỉ là con chó. Và con là đứa trẻ nhỏ,
cho nên nếu con sợ điều đó là tự nhiên.'"
Khổ không lớn thế như bạn làm
ra đâu. Cho nên điều đầu tiên là thu nhỏ nó lại đúng tỉ lệ. Trước khi bạn có thể
thoát ra khỏi nó, để con hổ biến mất đi. Phải rất sự kiện. Nếu bạn thực sự muốn
biến đổi cuộc sống của mình, có tính sự kiện đi. Bạn không thể thoát ra khỏi hư
cấu được. Bạn có thể thoát ra khỏi sự kiện; sự kiện có thể được giải quyết,
nhưng hư cấu không thể được giải quyết.
Nhưng đây là cách thức của tâm
trí, cách thức của bản ngã, là khuếch đại mọi thứ. Nó làm mọi thứ trông có vẻ lớn.
Và thế thì tất nhiên bạn bắt đầu khổ theo cách lớn. Nguyên nhân là không lớn thế,
nhưng hậu quả có thể rất lớn - điều đó tuỳ ở bạn.
Nhìn lại đi, xét lại đi, cân nhắc
lại toàn thể tình huống. Cái gì ở đó mà bạn gọi là "cực kì khổ"? Và
thế rồi bạn sẽ thấy sự kiện bình thường của cuộc sống.
Nhưng chúng ta không muốn là
bình thường. Bản ngã khao khát là phi thường. Cho dù đó là khổ chúng ta cũng muốn
là phi thường.
Ai đó hỏi George Bernard Shaw,
"Ông thích đi đâu khi ông chết, lên cõi trời hay xuống địa ngục?"
Ông ấy nói, "Dù là ở đâu,
điều đó không thành vấn đề. Vấn đề là: tôi muốn là người đầu tiên. Cho dù đó là
địa ngục, tôi muốn là người đầu tiên. Tôi không muốn là người thứ hai sau bất
kì ai. Do đó tôi nghĩ địa ngục sẽ tốt hơn, vì ở cõi trời Phật và Jesus và
Zarathustra... và có nhiều kẻ cạnh tranh thế. Và tôi sẽ phải đứng xếp hàng, và
tôi ghét điều đó! Tôi sẵn sàng xuống địa ngục, tôi sẵn sàng khổ dưới địa ngục,
nhưng tôi muốn là người đầu tiên."
Bản ngã bao giờ cũng khao khát
là kẻ đầu tiên. Nó nói, "Khổ của tôi còn lớn hơn khổ của bất kì ai khác.
Dù tôi là bất kì cái gì, tôi vẫn lớn hơn, tôi là đặc biệt, tôi là phi thường."
Có lần một chánh án toà thượng
thẩm tới tôi. Vợ ông ta thường tới tôi. Tôi ngạc nhiên, vì người vợ bao giờ
cũng nói rằng ông ấy rất chống đối tôi và ông ấy không muốn bà ấy nghe theo tôi
hay đọc sách của tôi hay đi tới gặp tôi. Nhưng bất kì khi nào tôi tới thăm
thành phố đó bà ấy bao giờ cũng tới.
Cho nên tôi ngạc nhiên. Tôi hỏi
ông ấy, "Vợ ông bao giờ cũng nói ông chống tôi lắm."
Ông ấy nói, "Không phải là
tôi chống ông rất nhiều đâu - tôi đơn giản sợ rằng.... Vợ tôi đã đâm ra dở hơi,
và điều ông nói, nếu nó chui vào tâm trí bà ấy, bà ấy cường điệu mọi thứ lên.
Ông sẽ tạo ra nhiều rắc rối cho tôi."
Tôi hỏi ông ấy, "Sao ông tới?"
Ông ấy nói, "Tôi tới chỉ để
nói cho ông rằng nếu bà ấy nói bà ấy bị ung thư, giảm nó thành đau đầu thôi. Đừng
bận tâm về ung thư của bà ấy. Tôi đã chịu đựng cả đời rồi. Thế rồi tôi học được
bài học này: bà ấy cường điệu lên."
Và thực tế đó là trường hợp
này. Mọi lần bà ấy tới bà ấy lại nói về ung thư. Bà ấy kể rằng bà ấy bị ung thư
tim và thế này thế nọ - còn ông chồng nói bà ấy chẳng bị gì! Chỉ là chứng nghi
bệnh... bà ấy cứ cường điệu lên.
Một người nghi bệnh chết. Trước
khi anh ta chết vợ anh ta hỏi, "Anh có nói lời cuối cùng không?"
Anh ta nói, "Có. Trên tảng
đá nấm mồ tôi phải ghi những chữ lớn: Bây giờ bạn có tin tôi hay không?"
Điều đầu tiên với bạn là đưa mọi
thứ xuống mức độ của thực tại. Điều đó là khó, Vandan, đặc biệt như vậy với đàn
bà. Họ sống trong tưởng tượng. Khi bạn rơi vào tình yêu bạn nghĩ bạn đã rơi vào
trong tình yêu với thượng đế Hi Lạp, và đến lúc thời kì tuần trăng mật kết thúc
bạn biết anh ta chẳng là gì ngoài người Hi Lạp phải gió! Trong vòng bẩy ngày
thượng đế Hi Lạp chẳng là gì ngoài người Hi Lạp phải gió.
Và điều đó sẽ xảy ra lặp lại. Bạn
sẽ lại rơi vào tình yêu, và bạn sẽ lại tạo ra tưởng tượng lớn, bạn sẽ tạo ra
phóng chiếu. Và tất cả những phóng chiếu của bạn đều sẽ bị tan tành chẳng chóng
thì chầy, bởi vì thực tại không có nghĩa vụ phải hoàn thành phóng chiếu của bạn.
Cho nên điều đầu tiên là hạ ý
tưởng khổ của bạn thành sự kiện, thành cái thực. Và thế rồi không khó thoát ra
khỏi nó. Thế rồi điều thứ hai là nhận biết về nó. Cứ nhận biết về nó, và bạn ở
ngoài nó - bởi vì bạn có thể nhận biết chỉ nếu bạn không là nó.
Đó là phép màu của nhận biết.
Khi bạn quan sát cái gì đó một điều là chắc chắn, tuyệt đối chắc chắn: rằng bạn
không là nó. Người quan sát không bao giờ là cái được quan sát. Cái được quan
sát có đó như đối tượng đương đầu với bạn. Bạn là người quan sát, bạn là chủ thể.
Cho nên khổ có đó, đau có đó
hay hoan lạc, hay bất kì kinh nghiệm nào có đó - bạn không là nó. Bạn ở ngoài
nó!
Hai diễn viên nghiệp dư đang
than vãn về những điều khắc nghiệt làm sao trong công việc điện ảnh.
"Tớ đã không đóng vai hơn
mười năm rồi," một trong những diễn viên thở dài.
"Điều đó chưa là gì
nhé," diễn viên kia nói. "Tớ đã không làm việc từ khi phim có tiếng
ra đời."
"Điều đó thực sự là khắc
nghiệt."
"Cậu cá nó vậy. Tớ ước đến
chết tớ có thể hình dung ra cách nào đó để thoát ra khỏi công việc này."
Trong bốn mươi năm bạn không
trong công việc, và bạn vẫn hình dung ra cách thoát ra khỏi nó!
Cứ quan sát. Hai bước này,
Vandan: thứ nhất, đưa khổ của bạn về mức độ thực tại, và thế rồi quan sát nó -
bởi vì chỉ thực tại mới có thể được quan sát; hư cấu không thể được quan sát, bạn
trở nên bị đồng nhất với chúng. Một khi thực tại có đó, nó có tính khách quan;
quan sát nó, và bỗng nhiên nhận biết lớn xảy ra. Bạn là người quan sát, bạn ở
ngoài nó.
Bạn hỏi tôi, "Làm sao tôi
có thể thoát ra khỏi nói?" Vandan, bạn ở ngoài nó rồi. Ngay bây giờ bạn ở
ngoài nó! Đó chỉ là ảo tưởng rằng bạn ở trong nó. Nếu bạn muốn tin bạn có thể cứ
tin rằng bạn ở trong nó. Bằng không bạn có thể bỏ nó bất kì khoảnh khắc nào. Thử
mà xem. Thử bỏ nó. Bật ngón tay bạn và tát vào mặt bạn và thức dậy!
Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy có chống tỏi không? Tôi đã từng ăn tỏi
từ thời thơ ấu và tôi không nghĩ rằng nó có mùi.
"Tôi bị vấn đề khủng khiếp
này," anh ta giải thích. "Mọi thứ tôi ăn đều biến thành rắm. Tôi vừa
mới ăn bit tết và khoai tây và nó biến thành rắm."
"Điều đó có thể là nghiêm
trọng đấy," bác sĩ phản bác lại.
"Nhưng may thay,"
Forster nói, "rắm của tôi không tiếng và không mùi. Bác sĩ có thể chữa nó
được không?"
"Tôi chắc chắn là tôi có
khả năng giúp được anh, nhưng trước hết tôi sẽ gắn cho anh máy trợ thính và rồi
tôi sẽ chữa mũi cho anh đã."
Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Gần đây thầy nhắc tới rằng bản ngã tâm linh
còn nguy hiểm hơn bản ngã thường. Thầy có thể giải thích được không?
Prem Unmado, mọi bản ngã đều
nguy hiểm, bởi vì bản ngã là thực thể giả. Nó không tồn tại, thực tế. Nó có đó
bởi vì bạn không nhận biết mình là ai.
…phải mang ánh sáng vào. Nếu bạn
muốn đem bóng tối vào bạn cũng không thể đem nó một cách trực tiếp được; bạn sẽ
phải bỏ ánh sáng ra. Bất kì cái gì bạn muốn làm, bạn sẽ phải làm với ánh sáng,
bởi vì ánh sáng có sự tồn tại. Bóng tối không có sự tồn tại, và với cái không tồn
tại thì chẳng cái gì có thể được làm.
Bản ngã là phi tồn tại, nó là
phi thực thể. Nó là việc thiếu nhận biết, thiếu tỉnh táo. Bạn không ý thức; do
đó bản ngã mới chiếm ưu thế, do đó bóng tối mới còn lại.
Mọi bản ngã đều nguy hiểm, bởi
vì bạn đang sống trong cái gì đó không có. Bạn đang sống vì cái gì đó không có,
bạn đang hi sinh cái đang có vì cái gì đó không có. Đây là nguy hiểm. Cuộc sống
thực bị hiến tế trên bàn thờ của bản ngã phi tồn tại.
Bạn đang chạy theo tiền, theo
quyền, theo danh, nhưng thực tế không ai thực sự quan tâm tới quyền, tiền,
danh. Chúng chỉ là những cách thức của bản ngã để tồn tại. Nếu bạn có nhiều tiền
hơn bạn có thể có nhiều bản ngã hơn; nếu bạn có nhiều quyền hơn bạn có thể có
nhiều bản ngã hơn. Ham muốn cơ bản là bành trướng bản ngã, nhưng bản ngã của bạn
càng trở nên được làm mạnh hơn, bóng tối càng trở nên dầy đặc hơn, càng ít có
khả năng bạn trở nên nhận biết. Và không trở nên nhận biết bạn đang bỏ lỡ toàn
thể cơ hội của cuộc sống, cơ hội vàng, trong đó Thượng đế có thể được nhận ra,
trong đó chân lí có thể được sống. Cuộc sống mà có thể là lễ hội thường xuyên,
niềm vui vĩnh hằng, bị hi sinh cho cái gì đó tuyệt đối vô nghĩa.
Do đó, nhớ lấy, mọi bản ngã đều
nguy hiểm. Nhưng bản ngã tâm linh là nguy hiểm nhất đơn giản bởi vì mọi bản ngã
khác đều thô. Bạn có thể thấy rằng chính khách theo đuổi bản ngã của ông ta, bạn
có thể thấy ngay cả chính khách trong những khoảnh khắc nào đó cũng có thể thấy
điều đó. Nó rất thô, làm sao bạn có thể tránh được việc thấy nó? Bạn nhất định
loạng choạng va phải nó, nó tựa như tảng đá.
Nhưng bản ngã tâm linh là rất
tinh vi, nó tựa như hương thơm. Bạn không loạng choạng, nó không đập vào bạn
như đá. Bạn không thể loại bỏ nó dễ dàng thế như bạn có thể loại bỏ đá. Nó là
hương thơm tinh tế. Bạn càng trở nên tâm linh hơn, bản ngã của bạn càng trở nên
tinh vi hơn. Bản ngã của bạn trở nên ngoan đạo, và khi chất độc là ngoan đạo, tất
nhiên nó còn nguy hiểm hơn, bởi vì bạn nghĩ nó là nước cam lồ. Bây giờ, cái
nhãn là nước cam lồ; bên trong chai là cùng chất độc.
Do đó thánh nhân là người bản
ngã hơn tội nhân. Có mọi hi vọng cho tội nhân, họ có thể đạt tới Thượng đế dễ
dàng hơn nhiều cái gọi là thánh nhân của bạn. Thánh nhân của bạn đang sống với
thái độ bản ngã thế, họ đầy những cứt bò thiêng, rác rưởi.
Phàm nhân tuyên bố rằng mình có
nhiều tiền thế còn người tôn giáo tuyên bố rằng mình có nhiều đức hạnh thế.
Phàm nhân tuyên bố mình có nhiều quyền thế, nhiều danh thế, còn cái gọi là người
linh thiêng của bạn tuyên bố người có cũng có quyền năng, quyền năng tâm linh.
Người đó cố chỉ ra quyền năng tâm linh của mình.
Có lần cái gọi là người tâm
linh tới gặp Ramakrishna. Ramakrishna đang ngồi trên bờ song Hằng ở
Dakshineshwar, nơi ông ấy thường sống. Người tâm linh này nói với Ramakrishna,
"Tôi nghe nói rằng thầy là thánh nhân lớn. Nếu thầy thực sự là vậy, thế
thì đi cùng tôi và bước đi trên nước. Nếu thầy có thể bước đi trên nước thì tôi
có thể tin rằng thầy là tâm linh."
Ramakrishna cười. Ông ấy nói,
"Ông có thể bước chứ...?"
Người này nói, "Vâng, tôi
có thể bước được."
Ramakrishna hỏi người đó,
"Ông mất bao lâu để học đi trên nước?"
Người này nói, "Tôi mất mười
tám năm nỗ lực vô cùng, khổ hạnh, tapascharya, nhịn ăn, cầu nguyện. Tôi sống
trong một hang động ở Himalayas. Tôi đã hi sinh mọi thứ. Thế rồi quyền năng tâm
linh này đã được trao cho tôi."
Ramakrishna nói, "Ta chẳng
tâm linh gì, ta là người đơn giản, rất bình thường. Nhưng một điều ta muốn nói
với ông. Khi ta muốn đi sang bờ bên kia, người lái phà lấy của ta chỉ một xu
thôi. Toàn thể nỗ lực mười tám năm của ông không đáng được chừng nấy. Ông đã
phí hoài mười tám năm của mình. Ông có thể tâm linh, nhưng ông là kẻ ngu, ông
hoàn toàn xuẩn ngốc! Ta chưa bao giờ bắt gặp người không thông minh thế - phí
hoài mười tám năm chỉ để đi trên nước! Thế thì vấn đề là gì? Thôi được, ông có
thể đi trên nước, vậy cái gì nữa?"
Đây là bản ngã tâm linh, cái chẳng
chóng thì chầy sẽ phơi bày quyền năng của nó, để chứng minh rằng "Ta linh
thiêng hơn ông." Người đó đã tới với ý tưởng đó - để chứng minh cho
Ramakrishna rằng "Ta còn linh thiêng hơn ông, ta cao hơn ông."
Điều đó là vô nghĩa. Phật tương
truyền đã không làm phép màu nào. Mahavira tương truyền đã không làm phép màu
nào. Và hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ mọi phép màu được nói tới nhân danh
Jesus đều là bịa đặt.
(mất âm thanh....)
Bạn thấy không? Một số người Ki
tô giáo phát điên! Họ tất cả đều là bịa đặt của người Ki tô giáo.
Tôi có cách tiếp cận hoàn toàn
khác. Khi người Ki tô giáo nói Jesus biến nước thành rượu đó không phải là điều
đúng theo từ về mặt sự kiện. Nó đơn giản nghĩa là những người như Jesus bị say
với nước thường. Tôi biết điều đó từ kinh nghiệm riêng của mình. Tôi chưa bao
giờ trộn lẫn soda với rượu whisky; tôi trộn lẫn soda với soda, và tôi bị say,
còn nói gì tới trộn nó với whisky? Chỉ không khí thuần khiết là đủ để say rồi;
nước là đủ. Nó tất cả đều mang theo điều tinh tuý của Thượng đế, bạn còn cần gì
hơn để say? Sự tồn tại này còn nhiều hơn cái được cần.
Nhưng người tâm linh sẽ cố gắng
chứng minh bằng cách nào đó rằng mình là tâm linh. Người đó sẽ chứng minh nó
qua phép màu, người đó sẽ trở thành kẻ phô trương. Đó là lí do tại sao bản ngã
tâm linh là nguy hiểm hơn. Người đó sẽ không có khả năng thấy nó, và người khác
sẽ không có khả năng thấy nó nữa. Bởi vì bạn không thể thấy được nó một cách dễ
dàng, Unmado này, tôi gọi nó là nguy hiểm hơn.
Vứt chính ý tưởng rằng bạn tách
rời khỏi sự tồn tại đi. Và tôi không bảo bạn đánh nhau với bản ngã, điều đó là
vô nghĩa. Tôi đang bảo bạn tạo ra nhiều nhận biết hơn trong bạn, trở nên đầy
ánh sáng và ý thức hơn và bản ngã sẽ biến mất theo cách của nó. Và khi nó biến
mất theo cách của nó, nó có cái đẹp, nó có phúc lành. Khi không có bản ngã
trong bạn, không bản ngã trần tục hay bản ngã thế giới khác - khi không có bản
ngã chút nào thuộc bất kì loại nào, bạn là một với Thượng đế. Rào chắn bị loại
bỏ, rào chắn cuối cùng đã sụp đổ.
Và kinh nghiệm Thượng đế là
kinh nghiệm cuộc sống trong sự đơn giản vô cùng của nó, trong cái đẹp vô cùng của
nó. Kinh nghiệm Thượng đế là kinh nghiệm chân lí trong cái vĩnh hằng của nó. Thế
thì bạn ở bên ngoài cái chết và bên ngoài thời gian.
Bản ngã là rào chắn duy nhất.
Nhưng đừng đánh nhau với nó - tâm linh hay phàm tục, đó là cùng một thứ. Tạo ra
nhiều ý thức hơn, có tính thiền nhiều hơn. Thiền là thuốc duy nhất. Cả hai từ
này đều tới từ cùng một gốc: 'thiền-meditation' và 'thuốc-medicine' - bởi vì
thiền cũng là thuốc. Nó chữa lành bạn, nó chữa cho bạn khỏi bệnh lớn nhất, bệnh
bản ngã.
Câu hỏi thứ năm:
Thưa Thầy kính yêu,
Liệu một ngày nào đó ngay giữa bài nói thầy
có đi xuống bếp để hỏi cái gì đang được chuẩn bị cho thầy không?
Pantha, rất tiếc, tôi không thể
làm được điều đó - vì nhiều nguyên nhân. Một là, tôi không phải là Ramakrishna;
tôi chỉ là bản thân mình, tôi là không là ai khác.
Thứ hai, mọi người trong bếp của
tôi đều ở đây: Vivek ở đây, Astha ở đây, Nirgun ở đây, Pragya ở đây - chẳng có
ai để hỏi cả.
Thứ ba, tôi ăn cùng một thức
ăn, sáng, tối, hết năm nọ tới năm kia. Thực tế, mọi người làm bếp của tôi đều
chán với việc chuẩn bị bữa này. Ngoại trừ tôi mọi người đều chán! Đây là phương
cách làm cho họ chán.
Nghĩ mà xem: cùng một thứ họ phải
chuẩn bị, sáng, tối, mọi ngày. Chừng nào họ chưa trở nên chứng ngộ họ sẽ phát rồ.
Cho nên chẳng có gì để hỏi cả,
tôi đã biết rồi.
Không bao giờ có thay đổi trong
thức ăn của tôi.
Thứ ba, tôi không biết nhà bếp ở
đâu! Cho nên, Pantha, cho dù tôi muốn tôi cũng không thể tìm được nó. Tôi chỉ
biết mỗi phòng của tôi, và con đường từ phòng tôi tới Phòng Phật và quay về.
Tôi sẽ bị lạc trong Nhà Lão Tử. Và sau nhiều, nhiều kiếp bằng cách nào đó tôi
đã tìm ra được đường. Xin đừng làm tôi bị lạc nữa.
Câu hỏi thứ sáu:
Thưa Thầy kính yêu,
Cái gì là chữ tục tĩu bẩn thỉu nhất trong
tiếng Ấn Độ?
Darshan, 'làm việc'!
Câu hỏi thứ bẩy:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy đã không kể hết câu chuyện về tu sĩ và
buổi lễ ngày chủ nhật của ông ấy. Nó là vậy sao?
Chetan Hari, điều đó đúng đấy.
Tôi đã chủ ý không kể hết nó, nhưng bây giờ bạn đã hỏi và tôi phải kể hết nó vậy.
Khi tu sĩ thấy địa ngục đẹp thế,
với những người cực lạc thế, ông ta chắc chắn trở nên bị mê tít. Ông ấy biết mọi
cách lên cõi trời, ông ấy không có ý tưởng về cách đi tới địa ngục. Còn bây giờ,
khi thấy địa ngục rồi, ông ấy muốn đi tới địa ngục, không muốn lên cõi trời.
Thế là ông ấy hỏi vài người. Họ
nói, "Tốt hơn cả ông hãy hỏi Phật, ông ấy ngồi kia dưới gốc cây."
Ông ấy đi tới Phật và ông ấy hỏi,
"Thưa ngài, ngài có thể chỉ cho tôi đường tới địa ngục không, bởi vì bây
giờ tôi không muốn thấy cõi trời nữa. Một lần là đủ rồi. Tôi không muốn đi tới
đó chút nào. Tôi đã sống cả đời chuẩn bị cho cõi trời. Tôi biết tất cả mọi con
đường và mọi phương pháp và mọi phương tiện làm sao đạt tới đó. Tôi không biết
cách xuống địa ngục."
Phật nói, "Ông quay lại ga
và mua vé tới Pune và lấy tính chất sannyas. Đó là đường tốt nhất và ngắn nhất
để đi tới địa ngục."
Tu sĩ ấy đang ở đây. Xin đừng hỏi
tôi tên ông ấy, bởi vì các tu sĩ đều có chút ít xấu hổ, và ông ấy sẽ cảm thấy bối
rối - và đặc biệt là linh mục Cơ đốc giáo. Nhưng ông ấy ở đây. Nếu bạn thử kĩ càng
hơn chút bạn sẽ thấy ông ấy.
Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Được rồi, nói thẳng điều đó cho tôi. Thượng
đế có thực tồn tại ở Mĩ không? Ngày mai đi rồi, tôi có chút ít nóng ruột khi nhận
ra thế giới này có xu hướng nghiêm chỉnh làm sao, và vậy mà, thầy biết đấy, cả
Thượng đế cũng thế. Vậy thầy có cho tôi một trong những chuyện cười hủ lậu để
chia sẻ với Ngài trong trường hợp chúng tôi gặp gỡ không?
Toshen, bạn quên từ này 'ông ấy'
đi. Thượng đế không phải là ông, Thượng đế là bà. Nếu bạn đi với ý tưởng này rằng
ngài là ông, bạn sẽ không bao giờ thấy ngài đâu. Đó là cách mọi người cứ bỏ lỡ
ngài. Họ cứ tìm ngài dường như ngài là đàn ông, và ngài đã tự thay đổi bản thân
mình từ lâu rồi.
Đại tá Stanford, người phân biệt
chủng tộc trung thành, chết và bằng cách nào đó tìm được đường lên cõi trời. Một
tuần sau bạn ông ta, đại tá Beauregard, khởi hành và cũng được phép đi qua Ngọc
Môn. Hai người trong họ gặp nhau.
"Chưa bao giờ có hoài nghi
gì chúng ta sẽ làm điều đó," đại tá Beauregard nói, "nhưng bởi vì
chúng ta đã làm nó, hãy nói cho tôi, mọi sự ở đây là thế nào?"
"Không tồi đâu," đại
tá Stanford trả lời, "nhưng tôi muốn khuyên anh nhìn bước đi của mình. Tôi
đã thấy Thượng đế hôm nọ và bà ấy là người da đen."
Và không chỉ có điều ông ấy là
bà, bà ấy còn là người da đen - đàn bà da đen. Cho nên nếu bạn thực sự tìm Thượng
đế ở Mĩ, nhớ điều này.
Và thế rồi bạn sẽ phải học vài
điều. Nếu bạn gặp người đàn bà da đen bạn sẽ phải học nghệ thuật nào đó, bạn sẽ
phải học là người đàn ông chút ít, bằng không sẽ không có trao đổi, không có
giao cảm.
Thượng đế đã thay đổi. Ngài đã
mệt mỏi là giống đực và da trắng. Mọi người đều mệt mỏi của việc là cùng người
cũ. Và mọi người vẫn nghĩ rằng ngài già. Bạn đang tôn thờ ảnh chụp cũ, bạn đang
mang quyển ảnh cũ. Không có gì ngạc nhiên là rất ít người tìm ra ngài.
Bây giờ nghĩ về Thượng đế như
đàn bà. Và Thượng đế chỉ có thể là đàn bà; chính ý tưởng về Thượng đế là đàn
ông là ý tưởng đàn ông gia trưởng, nó là ý tưởng của đàn ông. Ba ngôi Ki tô
giáo không có một người đàn bà nào trong nó. Nhìn điều vô nghĩa này: họ đã làm
ra ngay cả một chỗ cho Thánh thần linh thiêng. Bây giờ, ai là Thánh thần linh
thiêng này? Ba ngôi này đã không bỏ lỡ mấy nếu không có Thánh thần linh thiêng,
nhưng ba ngôi này có vẻ hơi xấu khi không có đàn bà. Bố ở đó, con trai ở đó,
còn mẹ đâu? Bạn có nghĩ Thượng đế là đồng dục nam không?
Đây là phóng chiếu bản ngã của
đàn ông. Nhớ lấy: bà ấy chứa ông, nhưng ông ấy không chứa bà. Đàn ông được sinh
ra từ đàn bà, nhưng không đàn ông nào có thể cho sinh ra đàn bà được. Điều tự
nhiên là nghĩ Thượng đế như đàn bà - như người mẹ, không như người cha. Nghĩ
người cha là ý tưởng phát xít.
Không phải ngẫu nhiên mà người
Đức gọi nước mình là "đất cha." Không ai gọi nước mình là "đất
cha." Mọi người gọi nước mình là "đất mẹ" - điều đó dường như
đúng - ngoại trừ người Đức... họ gọi nó là "đất cha."
Thượng đế là mẹ, hiện tượng mẹ.
Toàn thể sự tồn tại có tính mẹ. Và Thượng đế còn mềm mỏng hơn nhiều so với đàn
ông có thể mềm mỏng, mong manh hơn nhiều, cởi mở hơn nhiều. Thượng đế là bụng mẹ
của sự tồn tại. Toàn thể sự tồn tại bắt nguồn từ bụng mẹ này.
Cho nên, Toshen này, vứt bỏ ý
tưởng này về "ông ấy" và "ông" đi; nghĩ về "bà ấy"
và "bà." Và nhớ lấy: ngài mệt là da trắng rồi, ngài không còn là da
trắng nữa. Ngài bây giờ da đen, và ngài đang tận hưởng là da đen, bởi vì rất ít
người có khả năng tìm thấy ngài bây giờ. Cho dù bạn có bắt gặp ngài, bạn vẫn
nghĩ, "Đấy chỉ là người da đen." Cho dù ngài gõ cửa nhà bạn, bạn sẽ
không mở cửa.
Và nếu bạn gặp ngài, bạn hỏi tôi
rằng bạn muốn kể cho ngài chuyện cười nào đó. Kể cho ngài chuyện cười này:
"Điều gì làm cho người da
đen các anh là người yêu tốt thế?" ông chủ da trắng hỏi Kinney, lái xe.
"Rắc rối với tụi da trắng
các ông là ở chỗ các ông cho nó vào đó và dúi vào, dúi vào, dúi vào và trước
khi ông biết điều đó, nó tất cả qua rồi," Kinney nói. "Bây giờ cách tụi
da đen chúng tôi làm là cho nó vào đó, làm nó thoải mái, làm một cú dài, nói điều
dịu ngọt một chốc, dừng lại một chốc, để thời gian đấy, thế rồi lại một cú dài
chậm nữa, kiểu như vừa tế nhị và vừa êm đềm."
Đêm đó người da trắng leo lên
giường với vợ mình và bắt đầu làm tình với cô ấy đích xác như Kinney đã gợi ý.
Sau hai mươi phút cực kì vui
thích cô ấy hổn hển nói, "Lạy Chúa, anh đã học được ở đâu cách giao cấu như
người da đen thế?"
Đủ cho hôm nay.