Read more
Dhammapada - Con đường của Phật (Tập 8)
Chương 4. Sách hướng dẫn của người điên
Thưa thầy kính yêu,
Tôi không biết liệu tôi đang đánh mất tâm
trí hay mất thiền hay là cả hai.
Prem Arup, ân huệ lớn nhất là
khi bạn đánh mất tâm trí và thiền cả hai. Mất tâm trí mới chỉ nửa đường; mục
đích chưa được đạt tới. Người mất tâm trí bắt đầu níu bám lấy thiền; thiền trở
thành tâm trí người đó.
Thiền trở thành của cải của người
đó, kho báu của người đó - chắc chắn đẹp hơn tâm trí nhiều, vui vẻ hơn nhiều, phúc
lạc hơn nhiều, xứng đáng đạt tới. Mất tâm trí là mất mọi khổ của bạn. Thế thì cực
lạc lớn nở hoa, thế thì vui vẻ lớn trào lên bên trong bản thể bạn. Nhưng ngay cả
cực lạc đó cũng là bị rối loạn.
Ngay cả vui vẻ cũng không phải
là ở nhà toàn bộ. Người ta phải vượt ra ngoài cực lạc, ra ngoài vui vẻ, ra
ngoài khoan khoái. Người ta phải trở thành hoàn toàn an bình. Do đó, Phật chưa
bao giờ nói về phúc lạc; ông ấy nói về an bình, im lặng. Đó là mục đích tối thượng.
Siêu việt trên tâm trí đi, dùng
phương pháp của thiền. Thế thì đừng níu bám lấy thiền - bởi vì níu bám là như
nhau; bạn níu bám vào cái gì là không liên quan. Khoảnh khắc tâm trí biến mất,
để thiền cũng biến mất. Không tâm trí không vô trí. Đây là mục đích tối thượng,
mục đích của phật tính. Thế thì bạn đã đạt tới. Thế thì có an bình. Bạn không
còn nữa, chỉ an bình tồn tại. Không có ai sở hữu nó.
Một nửa của bạn đã bị giết khi
bạn vứt bỏ tâm trí, và một nửa của bạn bị giết khi bạn vứt bỏ thiền. Phần thế
giới biến mất cùng tâm trí và cái gọi là tâm linh biến mất cùng thiền. Bây giờ
bạn không là thân thể không là linh hồn. Bạn không có. Cái không toàn diện,
không ai tồn tại. Phật gọi nó là shunya, niết bàn. Mọi thứ đã dừng lại: khổ và
vui, ngày và đêm, mùa hè và mùa đông, sống và chết, tất cả đều ra đi. Toàn thể
nhị nguyên đều được siêu việt lên.
Arup, cảm thấy được ân huệ đi.
Cảm thấy may vô cùng nếu cả hai biến mất - mặc dầu trong níu bám điều đó sẽ có
vẻ rất điên rồ. Đầu tiên, vứt bỏ tâm trí có vẻ rất điên rồ. Nhưng thế rồi thiền
có đó để cho bạn sự lắng đọng mới, trật tự mới, kỉ luật mới - cao hơn, tốt hơn,
tinh tế hơn, văn hoá hơn, bên trong hơn, chủ quan hơn.
Khi bạn vứt bỏ thiền, mọi trật
tự, mọi kỉ luật, mọi cấu trúc đều biến mất. Bạn lấy cú nhảy vào trong cái hoàn
toàn không biết, cái không biết tối thượng. Đây là khoảnh khắc của việc sinh thực
– không phải của bạn mà của Thượng đế. Bạn không còn nữa, bây giờ chỉ có Thượng
đế. Và với "Thượng đế" tôi không ngụ ý người; với "Thượng đế"
tôi chỉ ngụ ý kinh nghiệm.
Câu hỏi thứ hai:
Thưa thầy kính yêu,
Thầy bảo chúng tôi rằng nhận biết là đủ. Thế
tại sao lại có bài nói, nhóm, tính chất sannyas?
Rick Ferris, làm sao bạn đã đi
tới biết rằng nhận biết là đủ? Tôi phải nói điều đó lặp đi lặp lại - rằng nhận
biết là đủ, rằng không cần bài nói nào cả. Nhưng cho dù điều đó đã được nói cho
bạn: rằng chẳng cái gì được cần cả, nhưng bạn đang ngủ thế, bạn sẽ không tự
mình đi tới chân lí và bạn sẽ không đi tới chân lí cho dù nó được lặp lại cả
nghìn lần.
Bây giờ nhìn vào thủ đoạn của
tâm trí bạn đi: không phải là bạn đã hiểu rằng nhận biết là đủ đâu. Ngược lại,
bạn đã hiểu rằng bài nói là không cần thiết, nhóm là không cần thiết, tính chất
sannyas là không cần thiết. Nhìn tâm trí thủ đoạn, tâm trí tinh ranh này... kẻ
cứ tạo ra những địa ngục mới cho bạn. Bạn bỏ lỡ vấn đề và bạn đã diễn giải sai
toàn thể vấn đề.
Bài nói là để nói cho bạn rằng
lời không có tác dụng, nhưng ngay cả nói rằng lời không có tác dụng, lời vẫn được
cần tới. Không có cách khác, bởi vì bạn chỉ hiểu lời.
Phật hay kể một chuyện ngụ
ngôn:
Một người đi ra chợ. Khi quay về,
nhà anh ta bị cháy. Con anh ta đang chơi trong nhà, tuyệt đối quên lãng sự kiện
là nhà đang cháy. Đó là ngôi nhà lớn và chúng phải đã ở tít tận cùng bên trong
nhà. Anh ta kêu to từ bên ngoài, bởi vì anh ta sợ vào nhà, nhưng trẻ con không
nghe. Một đám đông lớn tụ tập lại. Thế là anh ta nói với lũ trẻ, "Ra đây!
Xem bố đã mang về cho các con - nhiều đồ chơi lắm. Toàn đồ chơi các con đã đòi
bố mua, bố đã mang tất cả chúng đây, toàn đồ chơi đẹp!"
Lũ trẻ chạy ra khỏi nhà - và
anh ta chẳng mang đồ chơi nào cả! Chúng nó bắt đầu hỏi, "Đồ chơi
đâu?" Anh ta nói, "Nhìn lửa cháy kia! Bố chẳng mang đồ chơi nào cả,
nhưng đây chỉ là cách để mang các con ra khỏi nhà. Nhà đang cháy! Bố đã nói to
rằng 'Nhà cháy đấy!' mà các con cười đùa ghê quá. Các con tưởng bố đùa hay cái
gì đó. Đúng, bố đã nói dối các con rằng bố đã mang đồ chơi về cho các con,
nhưng lời nói dối có tác dụng như một cách thức - nó đã giúp cho các con ra khỏi
nhà. Nó đã phục vụ một mục đích lớn."
Lời là không đủ, nhưng bởi vì bạn
chỉ hiểu lời, Rick Ferris.... Bạn có thể hiểu được im lặng không? Thế thì bạn
chắc không ở đây rồi. Không cần ở đây. Bạn có thể đã ngồi bên cạnh tảng đá im lặng
hay bạn có thể đã ngồi dưới cây im lặng... và bạn chắc đã hiểu mọi chư phật. Thế
thì bạn sẽ không đọc Kinh Thánh và Koran và Gita. Bạn chắc sẽ đi ra sa mạc để cảm
thấy cái im lặng, im lặng vĩnh hằng của sa mạc. Và bạn chắc sẽ hiểu tất cả Kinh
Thánh, tất cả Koran, tất cả Gita. Nhưng bạn đã tới đây!
Bạn có thể hiểu chỉ mỗi lời
thôi. Và tôi biết chân lí không thể được trao đổi qua lời, nhưng lời có thể được
dùng để đem bạn ra khỏi nhà đang cháy. Lời có thể đem bạn ra khỏi thế giới của
lời và mơ và ham muốn mà bạn đang sống trong đó. Lời có thể được dùng theo cách
khéo léo tới mức chúng có thể hướng dẫn bạn - hay ít nhất chỉ cho bạn - hướng tới
im lặng; do đó mới có bài nói.
Nhóm có chút ít thô hơn. Nếu bạn
không nghe tôi, nếu bạn không hiểu lời, thế thì búa thực sẽ được cần tới. Tôi nện
búa vào bạn, nhưng tôi nện búa vào bạn bằng lời. Tôi không quất roi vào bạn,
tôi chỉ cho bạn xem cái bóng của roi. Nếu bạn lắng nghe, tốt; nếu bạn không lắng
nghe, thế thì bạn sẽ cần nhóm. Ở đó họ dùng roi thực đấy! Để đem bạn về nhận biết
họ đánh bạn ra trò. Với từ bi lớn lao họ ác. Họ làm mọi thứ có thể được làm để
đánh thức bạn.
Và tính chất sannyas sao? Tính
chất sannyas chỉ để làm bạn thành kẻ ngu thôi! Bạn ở quá nhiều trong tri thức,
trong đầu bạn. Một chút ít ngu xuẩn sẽ có tác dụng! Bạn quá thông thái, quá láu
cá, quá tinh ranh. Tính chất sannyas là việc buông xuôi mọi láu cá, tinh ranh,
tri thức của bạn.
Tính chất sannyas là con đường
của người điên; tôi là người hướng dẫn của người điên! Nhưng trước khi bạn có
thể thực sự trở nên lành mạnh bạn sẽ phải vứt bỏ loại lành mạnh của bạn - cái
không phải là lành mạnh.
Đây tất cả đều là phương cách -
tính chất sannyas, nhóm, bài nói - các phương lược. Không phải là chỉ qua những
phương lược này bạn sẽ biết chân lí là gì, nhưng những điều này sẽ giúp bạn. Nếu
bạn thông minh bạn sẽ dùng chúng như chiếc thang, như chiếc thuyền sang bờ bên
kia. Khi bạn đã tới bờ bên kia rồi, chiếc thuyền phải bị bỏ lại sau. Không phải
là bạn phải ngồi trong thuyền mãi mãi hay ngay cả khi bạn đã sang tới bờ bên
kia bạn phải đội con thuyền trên đầu mình, chỉ vì lòng biết ơn cực kì.
Bạn hoàn toàn vô nhận biết, và
nỗ lực lớn là cần để làm bạn thức tỉnh. Một anh chàng tới đường đua ngựa và thắng
ba trăm đô la. Nghĩ vận may của mình vẫn còn nên hôm sau anh ta quay lại sẵn
sàng vớ bở. Khi anh ta nhìn qua các con ngựa chuẩn bị xuất phát trong cuộc đua
cuối cùng anh ta để ý thấy một linh mục đang làm dấu hiệu trên một con ngựa nhỏ.
Cứ tưởng rằng mình thực sự được vận may, anh chàng này cá mọi đồng mình kiếm được
và mọi xu còn lại của mình cho con ngựa đó. Một cách tự nhiên, con ngựa này về
bét.
Rời khỏi đường đua anh ta ngẫu
nhiên đâm sầm vào chính ông linh mục mà anh ta đã thấy ban phước cho con ngựa
đó. "Cha ơi," anh ta nói, "con bị phá sản rồi! Con thấy cha ban
phước cho con ngựa đó và con đã cá mọi xu con có cho nó."
Linh mục kinh sợ. "Con
ta," ông ta nói, "ta không ban phước cho con ngựa đó đâu, ta làm nghi
lễ cuối cùng đó!"
Tôi thấy cuộc sống của bạn hoàn
toàn bị phá sản. Bạn đã cá vào ngựa chết rồi! Cả đời bạn là đống lộn xộn - và
thu xếp cuộc đời bạn từ bên ngoài sẽ chẳng có ích gì cả. Biến đổi triệt để nào
đó của tâm thức bạn là cần thiết.
Cái gọi là người tôn giáo đã chỉ
làm điều đối lập lại. Và đó là lí do tại sao bạn cứ đi tới nhà thờ, tới đền
chùa, tới giáo đường - không để được thức tỉnh mà để được giúp ngủ ngon hơn. Bạn
đi tới đó để nghe lời ru hay. Bạn đi tới đó để được an ủi. Bạn đi tới đó để được
vỗ về.
Công việc của tôi ở đây không
phải là để vỗ về bạn, không phải là để an ủi bạn, không phải là để ca bài ru
con bên cạnh giường bạn. Công việc của tôi là đánh thức bạn dậy. Mọi thứ đều được
thu xếp theo cách như vậy – bài nói, thiền, nhóm, tính chất sannyas... nó là trận
tấn công vào giấc ngủ của bạn từ mọi hướng có thể. Trong một từ có thể nói gọn
là: công việc của tôi là giải thôi miên cho bạn.
Trong tám ngày và đêm
Schlossberg, người may áo com lê, không thể nào ngủ được. Không thuốc nào hiệu
quả, và trong thất vọng, gia đình Schlossberg mời một nhà thôi miên nổi tiếng tới.
Nhà thôi miên nhìn chằm chằm vào Schlossberg và tụng, "Ông đang ngủ, ông
Schlossberg. Bóng râm đang tới gần ông. Âm nhạc dịu dàng đang ru ông vào trạng
thái thảnh thơi đơn độc. Ông đang ngủ, ông đang ngủ..."
"Ông là kẻ làm phép màu đấy!"
người con biết ơn nức nở. Anh ta cho nhà thôi miên tiền thưởng lớn và người này
ra về trong chiến thắng. Bên ngoài cửa đóng, Schlossberg mở một mắt, "Nói
đi," ông ấy đòi hỏi, "kẻ khờ dại kia đã đi chưa?"
Nhưng những kẻ khờ dại này là
các giáo sĩ, tu sĩ, giáo hoàng, shankaracharya, thầy tế, Ayatollah
Khomeiniac.... Và bởi vì bạn muốn ngủ thoải mái hơn và mơ dịu ngọt hơn, kinh
doanh của họ thịnh vượng lên.
Sigmund Freud đã nói rằng dường
như là con người không thể sống mà không có ảo tưởng. Khi có liên quan tới nhân
loại bình thường ông ấy là đúng. Trước Sigmund Freud, Friedrich Nietzsche có
cùng sáng suốt này. Ông ấy nói rằng những người phá huỷ ảo tưởng của mọi người
đều là kẻ thù thực của mọi người, bởi vì con người không thể sống được mà không
dối trá. "Chân lí là nguy hiểm! Ai muốn chân lí?" Friedrich Nietzsche
nói. Chúng ta muốn những lời dối trá và ảo tưởng đẹp đẽ, giấc mơ dịu ngọt.
Điều này đúng cho nhân loại tới
chín mươi chin phẩy chín phần trăm. Chỉ rất hiếm hoi một người mới bắt đầu tìm
kiếm chân lí, nhưng thế thì người đó phải mạo hiểm mọi giấc ngủ và giấc mơ của
mình và những đầu tư mà người đó đã làm trong giấc mơ của mình. Một Phật, một
Jesus, một Moses: những người này không cho bạn dễ chịu đâu. Họ làm tan nát mọi
dối trá của bạn; dù chúng dễ chịu tới đâu, dù chúng có vẻ ấm áp tới đâu, họ đều
làm tan tành chúng. Họ muốn bạn biết chân lí. Lúc ban đầu nó là đắng.
Phật đã nói: Dối trá dịu ngọt
lúc đầu, đắng lúc cuối. Lúc đầu chúng có vẻ như cam lồ, đến cuối chúng tỏ ra là
tai hoạ, độc hại. Chân lí là đắng lúc đầu, dịu ngọt lúc cuối. Lúc đầu nó có vẻ
như chất độc, cứ dường như nó sẽ giết chết bạn; đến cuối nó là thuốc tiên, nó
là cam lồ. Nó làm cho bạn có khả năng biết cái vĩnh hằng, cái bất tử.
Câu hỏi thứ ba:
Thưa thầy kính yêu,
Thầy có coi bản thân mình là Thượng đế, đại
diện của Thượng đế trên thế gian, nhà tiên tri, và/hoặc chỉ là một cá nhân rất
trong trẻo? Nhìn thấy thầy đôi lần trong bài nói buổi sáng và nghe băng âm
thanh và băng video của thầy, thầy dường như chưa bao giờ trả lời câu hỏi này.
Làm sao và tại sao thầy biết hay cảm thấy điều gì đó tôi không cảm thấy?
Harold Peltz, điều đầu tiên là
không có Thượng đế. Vâng, có tính thượng đế, nhưng không có Thượng đế. Ý niệm về
Thượng đế là lấy con người làm trung tâm. Kinh Thánh nói: Thượng đế đã tạo ra
con người theo hình ảnh riêng của ngài. Chân lí chính là điều đối lập: con người
đã tạo ra Thượng đế theo hình ảnh của riêng mình. Thượng đế không là gì ngoài
phóng chiếu của ước ao, ham muốn, khao khát của con người. Thượng đế không là
gì ngoài phóng chiếu của tâm trí con người.
Điều đó không có nghĩa là tôi
là người vô thần, nhưng tôi không là người hữu thần nữa. Lập trường của tôi
đích xác là của Phật Gautama. Ông ấy không vô thần và ông ấy không hữu thần.
Ông ấy không tin vào Thượng đế, ông ấy không không tin vào Thượng đế. Lập trường
của ông ấy là gì? Lập trường của ông ấy là rất duy nhất, lập trường của ông ấy
là đáng chia sẻ. Không gian của ông ấy là đáng giao cảm. Và đó là không gian của
mọi thiền nhân: họ tin vào tính thượng đế. Toàn thể sự tồn tại tràn đầy với
tính tâm linh, nhưng không có người nào như Thượng đế cả.
Bạn hỏi tôi, "Thầy có coi
bản thân mình là Thượng đế không?"
Không, thưa ngài, chắc chắn
không rồi! Cho dù tôi có là thì tôi cũng đã từ chối điều đó - bởi vì ai sẽ nhận
trách nhiệm về thế giới xấu xa này? Tôi không thể nhận trách nhiệm tạo ra bạn
được! Điều đó sẽ là tội lỗi nguyên thuỷ thực!
Tôi không phải là Thượng đế,
nhưng tôi đã biết tính thượng đế - trong tôi, trong bạn, ở mọi nơi. Tính thượng
đế là phẩm chất; nó là hương thơm thấm đẫm toàn thể sự tồn tại. Khác biệt duy
nhất giữa bạn và tôi là ở chỗ tôi nhận biết về nó và bạn không nhận biết về nó;
bằng không thì không có khác biệt. Tôi thức, bạn ngủ. Chúng ta đích xác như
nhau, tham gia vào cùng sự tồn tại này, thở cùng tính thượng đế, sống trong
cùng đại dương của tính thượng đế. Chúng ta là cá của cùng một đại dương, nhưng
bạn không nhận biết về đại dương còn tôi nhận biết về đại dương, bên trong và
bên ngoài, cả hai.
Tôi không biết nhiều hơn bạn biết
- bạn có thể biết nhiều hơn tôi. Tri thức của tôi nghèo nàn; tôi không phải là
người thông thái. Và bất kì điều gì tôi trích dẫn đều không tin cậy được! Bạn
có thể biết nhiều hơn, bạn có thể được thông tin tốt hơn. Bạn có tích luỹ lớn
lao về các sự kiện. Theo cách đó tôi là người cực kì nghèo nàn, nghèo như đứa
trẻ. Nhưng đó không phải là khác biệt thực; đó không phải là khác biệt tạo nên
khác biệt.
Điều duy nhất có ý nghĩa là nhận
biết về thực tại. Tiếng Anh rất nghèo nàn; nó chỉ có một từ, 'God - Thượng đế'.
Tiếng Phạn cực kì giầu có, nó có nhiều từ có ý nghĩa cách tiếp cận khác nhau.
Cái tối thượng, cái tuyệt đối, được gọi là Brahman. Đó là tính thượng đế thuần
khiết nhất, không ô nhiễm. Nó là trừu tượng hoá: mọi vật chất đã biến mất, chỉ
năng lượng thuần khiết, chỉ tâm thức thuần khiết còn lại.
Từ thứ hai trong tiếng Phạn là
Ishwar; từ đó tới gần với 'Thượng đế'. Ishwar nghĩa là "đấng sáng tạo,"
nhưng nó thấp hơn Brahman. Nó là ảo tưởng như toàn thế giới này. Nếu việc sáng
tạo là ảo tưởng, làm sao đấng sáng tạo có thể là thực được? Bạn có thể thấy ra
vấn đề này: việc sáng tạo và đấng sáng tạo là hai cực. Toàn thế giới là ảo tưởng,
do đó đấng sáng tạo cũng là ảo tưởng.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng
bạn phải vượt ra ngoài Thượng đế; chỉ thế thì bạn mới có thể biết tới điều tối
thượng, không trước nó. Biết Thượng đế là trạng thái thấp của hiểu biết. Từ thứ
ba là Bhagwan - mà không thể được dịch thành 'Thượng đế'. Phật chưa bao giờ tin
vào Thượng đế, vậy mà chúng ta đã gọi ông ấy là Bhagwan.
Mahavira chưa bao giờ tin vào
Thượng đế, vậy mà chúng ta đã gọi ông ấy là Bhagwan. H.G. Wells đã nói: Phật
Gautama là người duy nhất trong toàn thể lịch sử nhân loại vô thượng đế nhất và
vậy mà lại là thượng đế nhất. Làm sao từ 'Bhagwan' này được dịch sang tiếng
Anh? Nó đơn giản nghĩa là "người được ân huệ"; nó chẳng liên quan gì
tới Thượng đế cả. Theo nghĩa đen nó nghĩa là người đã đạt tới; do đó người đó
được gọi là người được ân huệ - người đã đạt tới, người đã trở nên thức tỉnh,
chứng ngộ.
Bhagwan không ngụ ý người đại
diện. Không có Thượng đế, cho nên làm sao bạn có thể là đại diện của Thượng đế
được? Phật không phải là đại diện của Thượng đế, tôi cũng không phải. Đó là ý
niệm rất nghèo nàn, là đại diện của ai đó - chỉ là người bán hàng! Điều đó rất
bẽ mặt! Và Phật không phải là nhà tiên tri - tôi cũng không phải. Nhà tiên tri
nghĩa là người đem thông điệp từ Thượng đế tới thế giới. Người đó không là gì
ngoài người đưa thư - và tôi không muốn là người đưa thư!
Nhà tiên tri chẳng có giá trị gì
mấy. Không có Thượng đế; do đó không thể có sứ giả, không thể có cứu tinh,
không thể có nhà tiên tri được. Và bạn hỏi tôi, "... và/hoặc chỉ là một cá
nhân rất trong trẻo?"
Một điều sẽ phải được hiểu: nếu
bạn trở nên trong trẻo, tính cá thể biến mất; bạn đơn giản là sáng tỏ. Nếu bạn
không trong trẻo, thế thì cá thể có đó. Tính cá thể và sự sáng tỏ không đi cùng
nhau. Tính cá thể sâu bên dưới không là gì ngoài bản ngã - cảm thấy bản thân
mình tách rời, tách rời khỏi cái toàn thể.
Tôi chỉ là sự sáng tỏ, không phải
là cá thể. Rất khó hiểu làm sao bạn có thể trong trẻo được nếu không có cá thể.
Ngôn ngữ áp đặt cho chúng ta những kết luận không cần thiết nào đó. Khi điệu vũ
là toàn bộ, vũ công không còn đó; chỉ còn điệu vũ. Và bạn có thể hỏi các vũ
công lớn - bạn có thể hỏi Nijinsky, Gopi Krishna - và họ sẽ đồng ý với điều đó:
khi điệu vũ tới đỉnh tối thượng, vũ công biến mất. Chỉ có điệu vũ, không có ai
nhảy múa cả.
Không có hai thực thể, vũ công
và điệu vũ. Khi hoạ sĩ thực sự được hội nhập vào tranh của mình, bị cuốn hút,
thế thì không có bức tranh và hoạ sĩ, chỉ có việc vẽ. Không hoạ sĩ nào còn lại;
trong vài khoảnh khắc hoạ sĩ biến mất. Chỉ khi hoạ sĩ biến mất, việc vẽ mới đạt
tới cái đẹp tối thượng của nó.
Vũ công, hoạ sĩ, ca sĩ, nhạc
sĩ, nhà thơ, họ tất cả đều biết những khoảnh khắc đó, nhưng những khoảnh khắc
đó là khoảnh khắc duy nhất trong cuộc đời họ. Trong cuộc sống của chư phật đó
không phải là những khoảnh khắc duy nhất; chúng đã trở thành thực tại của họ.
Vũ công đã biến mất mãi mãi.
Tôi không còn là cá thể, mà chỉ
là sự sáng tỏ; không là vũ công mà chỉ là điệu vũ. Nếu bạn có thể hiểu điều đó,
chỉ thế thì bạn sẽ có khả năng có giao cảm nào đó với cái không ai cả này, với
cái không này, với trạng thái niết bàn này.
Bạn hỏi tôi, "Nhìn thấy thầy
đôi lần trong bài nói buổi sáng và nghe băng âm thanh và băng video của thầy,
thầy dường như chưa bao giờ trả lời câu hỏi này. Làm sao và tại sao thầy biết
hay cảm thấy điều gì đó tôi không cảm thấy?"
Tôi biết chỉ một điều: rằng tôi
chẳng biết gì. Và đó là chỗ khác biệt có thể có. Bạn biết rằng bạn biết, tôi biết
rằng tôi không biết. Chỉ khi bạn đi tới trạng thái dốt nát phúc lạc, sáng tỏ mới
xảy ra. Tri thức là quấy rối; vô tri thức cho bạn sáng tỏ, trong suốt. Ông già
Krestenfeld nằm trên giường chết hàng tháng và cuối cùng qua đời. Hai tuần sau,
họ hàng tụ tập lại như những kẻ trục lợi để nghe đọc di chúc. Luật sư xé phong
bì, rút ra một mẩu giấy và đọc, "Là một tâm trí minh mẫn, tôi tiêu tới xu
cuối cùng trước khi tôi chết."
Tôi muốn nói chỉ thế này thôi:
rằng tôi đơn giản là sự minh mẫn - thậm chí không là tâm trí minh mẫn... sáng tỏ
thuần khiết, bầu trời không mây, hoàn toàn trống rỗng. Bạn cũng có thể là điều
đó. Trong cốt lõi bên trong nhất của mình bạn đã là cái đó. Và nỗ lực của tôi ở
đây, Harold Peltz này, là để giúp bạn trở thành không ai cả cũng như tôi, dốt
nát như tôi. Và nhớ: có tri thức không biết và có dốt nát biết.
Câu hỏi thứ tư:
Thưa thầy kính yêu,
Vâng, nhà đang cháy. Ngọn lửa ghen tị, tham
lam và bạo hành của tôi đang thiêu đốt tôi. Tôi thấy thầy chói sáng ở cửa vào,
đang ra hiệu cho tôi đơn giản đi ra, vậy mà tôi chùn lại, níu bám lấy khổ của
mình trong khi tâm trí chạy đua với các ham muốn. Tại sao tôi không thể buông bỏ
được?
Deva Dwabha, để không khổ cần
dũng cảm lớn. Khổ là rất rẻ, rất đơn giản, nó chẳng tốn gì cả. Để khổ bạn không
cần dũng cảm gì, không cần thông minh gì. Khổ sao dễ thế, nhưng ra khỏi nó là
khó khăn, gian nan. Ra khỏi nó cần thông minh, bởi vì bạn là người tạo ra khổ của
mình, và bạn tạo ra khổ bởi vì bạn vô ý thức. Bạn có thể chấm dứt tạo ra nó chỉ
nếu bạn trở nên có ý thức, và trở nên có ý thức cần nỗ lực lớn. Hơn nữa, khổ giữ
bạn bận bịu tới mức bạn có thể né tránh lỗ hổng bên trong của bạn. Nó giữ bạn bị
dính líu. Nếu bạn không khổ bạn sẽ phải đi vào trong, và bạn sợ bởi vì có trống
rỗng lớn. Đi vào trong là một loại cái chết.
Các nhà huyền môn đã gọi nó là
"cái chết lớn" - lớn hơn cái gọi là chết thông thường, bởi vì trong
chết thông thường chỉ thân thể chết. Nếu bạn đi vào trong, tâm trí chết. Và người
ta sợ chết - bản ngã của bạn chết - và người ta sợ mất căn cước của mình. Và biết
bao nhiêu nỗ lực bạn đã đưa vào để đạt tới căn cước nào đó. Người này là nghệ
sĩ tiếng tăm, người nọ là chính khách nổi đình đám. Ai đó rất giầu, ai đó rất
thông thái. Bạn đã để vào nhiều nỗ lực thế...và bây giờ tôi đang bảo bạn đi ra
khỏi nó! Điều đó nghĩa là mọi nỗ lực của bạn đều đã là lãng phí vô cùng. Sẽ cần
bạo dạn để đi ra khỏi nó và sẽ cần dũng cảm để không có căn cước.
Thiền nhân nói: Trước khi ông
thiền, núi là núi và sông là sông. Khi ông vào sâu trong thiền, núi không còn
là núi và sông không còn là sông. Khi ông đạt tới tỏ ngộ, khi thiền được siêu
việt lên, thế thì núi lại là núi và sông lại là sông. Đây là cách thức Thiền
nói rằng trước khi thiền bạn có căn cước nào đó. Bạn có cái tên, danh tiếng,
hình dạng, gia đình, nòi giống, văn hoá, tôn giáo, đất nước; mọi điều này cho bạn
ý niệm nào đó mình là ai - mặc dầu ý niệm đó tuyệt đối là giả, tuỳ tiện, ngẫu
nhiên. Chỉ là ngẫu nhiên mà bạn đã được sinh ra như người Ki tô giáo hay người
Hindu hay người Mô ha mét giáo; nó chẳng có ý nghĩa chút nào. Chỉ là ngẫu nhiên
mà bạn được sinh ra là người Đức hay người Ấn Độ hay người Trung Quốc. Bạn
không là những điều này.
Tâm thức của bạn đơn giản là
tâm thức, không Trung Quốc, không Hàn Quốc, không Nhật Bản. Tâm thức bạn đơn giản
là tâm thức. Nó không thuộc vào đất nước nào, giống nòi nào, sắc tộc nào, tôn
giáo nào; mọi cái đó đều là các ước định. Bạn đã bị thôi miên và được bảo rằng
bạn là người Ấn Độ; đây là thôi miên.
Bạn đã bị thôi miên và được bảo
rằng bạn là người Mô ha mét giáo, và thôi miên này kéo dài cả đời bạn. Nó đi
sâu tới mức bạn thậm chí sẵn sàng chết vì nó. Mọi người chết vì tôn giáo, vì đất
nước, vì ngọn cờ; vì nhiều cái vô nghĩa mà họ sẵn sàng chết. Dường như cuộc đời
họ không có nghĩa nào cả, dường như họ sẵn sàng chết vì bất kì cái cớ nào - bất
kì cớ nào cũng có tác dụng.
Căn cước của bạn là tuỳ tiện.
Trước khi thiền bạn có chút ít chắc chắn nào đó mình là ai. Khi bạn đi vào
trong thiền khổ của bạn bắt đầu tan biến và cùng với những khổ này căn cước của
bạn bắt đầu bay hơi. Bạn rơi vào trong trạng thái hỗn độn, và hỗn độn đó tạo ra
sợ hãi.
Dwabha, tôi đã cho bạn cái tên
này... dwabha nghĩa là chạng vạng; nó nghĩa là không ngày không đêm, chỉ ở giữa.
Và đó là nơi bạn đang ở: sợ đi sâu hơn, đứng ở vùng nước nông. Nó cho cảm giác
an toàn, mặc dầu bạn khổ - nhưng khổ là quen thuộc, đã biết; bạn đã trở nên
quen với nó. Thực ra, một loại thân thuộc gia đình đã nảy sinh giữa bạn và khổ
của bạn.
Có câu chuyện ngụ ngôn Sufi:
Một người mọi đêm hay gọi Thượng
đế và anh ta sẽ cầu nguyện cùng lời cầu nguyện. Lặp đi lặp lại anh ta xin,
"Xin ban cho con một ân huệ, ít nhất một ân huệ - và con đã từng xin cả đời
mình rồi. Như con có thể thấy, còn là người khổ nhất trên thế gian này. Sao
ngài đã chọn con là người khổ nhất? Con sẵn sàng đổi khổ của con cho bất kì ai
khác, bất kì ai cũng được - cứ để con đổi khổ của mình cho ai đó khác. Con
không hỏi xin phúc lạc. Ngài không thể cho con mỗi cơ hội này để đổi khổ của
con cho ai đó khác sao? Điều này chả mấy là hỏi xin!"
Và một đêm trong giấc mơ anh ta
thấy Thượng đế đã nói. Một giọng nói lớn vọng tới từ cõi trời nói, "Thu tất
cả khổ của con lại thành bó và đem chúng lên phòng đền thờ."
Thế là cả thị trấn thu khổ của
họ thành các bó lớn và họ đem chúng tới. Người này cực kì sung sướng: "Vậy
là khoảnh khắc đó đã tới! Dường như cái gì đó sắp xảy ra!"
Anh ta chạy xô lại với bó khổ của
mình. Trên đường anh ta thấy những người khác cũng đang chạy xô tới. Lúc anh ta
tới ngôi đền anh ta sợ hãi, rất sợ hãi, bởi vì anh ta thấy mọi người đều mang
các bó lớn hơn bó của anh ta. Mọi người mà anh ta bao giờ cũng thấy mỉm cười -
người Rotarians, người Lions – trong những bộ quần áo đẹp và bao giờ cũng nói
những điều hay ho với nhau, và họ đang mang những bó lớn hơn!
Anh ta bắt đầu trở nên chút ít
ngần ngạn liệu có nên đi hay không đi, nhưng anh ta đã cầu nguyện cả đời mình,
cho nên anh ta nói, "Để xem cái gì xảy ra." Họ đi vào trong đền. Tiếng
nói cất lên, "Để bó của con quanh phòng." Họ để các bó của họ lại, và
tiếng nói lại nói, "Bây giờ con có thể chọn bất kì bó nào con thích."
Và phép màu của phép màu xảy
ra: mọi người đều chạy xô về bó của mình! Người này cũng chạy nhanh thế về bó của
mình, sợ rằng nếu ai đó khác chọn nó thì anh ta sẽ đâm ra lúng túng. Mọi người
đã chọn bó của riêng mình, với sự nhẹ lòng lớn lao và họ tất cả đều sung sướng,
mang các bó của mình trở về nhà. Ngay cả người này cũng rất sung sướng, bởi lí
do đơn giản là "Ai biết cái gì có trong bó của người khác? Ít nhất chúng
ta cũng nhận biết về bó của riêng mình và nó chứa gì. Và chúng ta đã trở nên
quen thuộc, chúng ta đã trở nên được điều chỉnh với khổ của mình."
Dwabha, đó là lí do tại sao bạn
thấy rất khó thoát ra khỏi khổ của mình. Và có thể có đầu tư nữa; khổ của bạn
có thể không chỉ là khổ của bạn. Bạn có thể đang tạo ra khổ cho người khác
thông qua khổ của bạn. Nếu bạn quan tâm tới việc tạo ra khổ trong người khác,
làm sao bạn có thể vứt bỏ khổ của bạn được?
Chồng về nhà và vợ đơn giản nằm
dài trên giường và nói cô ấy bị đau đầu - và tôi không nói rằng cô ấy giả vờ.
Thực ra, điều gần như không thể nào được là khi bạn thấy chồng mình không đau đầu!
Cô ấy phải đang bị đau đầu, tôi tin cậy... Và thế rồi anh chồng trở nên khổ.
Bây giờ vợ không thể vứt bỏ đau đầu của cô ấy được, bởi vì nếu cô ấy vứt bỏ đau
đầu của mình, thế thì cái gì xảy ra với anh chồng? Đau đầu của cô ấy đã tạo ra
khổ thế cho anh chồng tới mức cô ấy sẵn sang khổ - để làm cho người khác khổ.
"Tôi muốn li dị Milton
trong một phút," bà Cooper nói với người đàn bà đang làm tóc cho bà ấy.
"Thế thì sao bà không li dị
đi?" người làm đẹp hỏi.
"Bởi vì việc thấy ông ấy hạnh
phúc thế sẽ giết chết tôi mất."
Điều đó là khó! Khó mà đi ra khỏi
khổ của bạn, bởi vì nó không chỉ là khổ của bạn; nó đã trở thành dính líu với
khổ của người khác, nó đã trở thành nguyên nhân cho khổ của người khác. Và bạn
tận hưởng việc hành hạ người khác; bạn cảm thấy mạnh bất kì khi nào bạn có thể
hành hạ. Người ta sẵn sàng hi sinh nếu người ta có thể tạo ra khổ cho người
khác.
Mọi người đều vừa là kẻ bạo ác
và tự bạo, cả hai. Rất hãn hữu mới tìm ra một người bạo ác thuần hay người tự bạo
thuần. Những người chỉ một kiểu chỉ thấy có trong sách tâm lí. Thực ra, mọi người
đều là bạo ác và mọi người đều là tự bạo. Mọi người đều là tự bạo ác: họ hành hạ
bản thân mình để hành hạ người khác; họ hành hạ người khác để hành hạ bản thân
mình. Nó tất cả xoắn xuýt với nhau, liên thuộc lẫn nhau. Bạn không thể chỉ trượt
ra khỏi nó - nó là đầu tư của cả đời bạn. Bằng không, chẳng ai ngăn cản bạn cả,
Dwabha, bạn có thể đi ra. Bạn chỉ phải hiểu. Nếu bạn thậm chí không thể vứt bỏ
khổ của mình, bạn có thể vứt bỏ được cái gì khác?
Ngày xưa, sannyasin là người từ
bỏ cuộc sống. Tôi đã đổi định nghĩa này về sannyasin. Tôi gọi là sannyasin là
người sẵn sàng từ bỏ khổ của mình. Nhưng theo một cách nào đó cuộc sống của bạn
và khổ của bạn gần như đồng nghĩa.
Cuộc sống của bạn là gì? Bạn
làm gì với bản thân mình và với người khác? Bạn cảm thấy mạnh mẽ bất kì khi nào
bạn có thể hành hạ được người khác; việc hành hạ cho bạn xả ra sức mạnh lớn. Tại
sao những Adolf Hitlers, Joseph Stalins và Mao Trạch Đông cứ được sinh ra lặp
đi lặp lại mãi thế? Họ tới từ đâu? Họ đại diện cho bạn. Họ đại diện cho cái
điên khùng bản chất của nhân loại. Họ bùng phát lặp đi lặp lại và họ sẽ cứ tới
nữa, bạn không thể ngăn cản được họ, trừ phi chúng ta thay đổi chính nền tảng của
sự tồn tại con người. Nếu chúng ta thay đổi tâm thức con người từ khổ sang phúc
lạc, từ căng thẳng sang an bình... Bằng không bạn sẽ phải khổ. Bạn xứng đáng...
thực ra, bạn yêu cầu họ. Người Đức chắc phải đã cầu nguyện đủ lâu để Adolf
Hitler xảy ra. Và bây giờ lại có những người ở Đức đang bắt đầu cùng phong trào
phát xít.
Bạn không thể sống mà thiếu những
người điên cuồng này! Cái gì đó trong bạn cần họ. Cái gì đó bạn không thể làm
cho bản thân mình, họ có thể làm cho bạn. Họ có thể xả ra khổ lớn trên thế giới.
Bạn có thấy, bạn có quan sát trong thời gian chiến tranh mọi người trông hạnh
phúc hơn bao giờ không?
Khuôn mặt họ sáng ngời hơn, họ
mỉm cười nhiều hơn. Bỗng nhiên cuộc sống của họ có sự say mê, nhiệt tình, năng
lượng. Họ không còn lê lết nữa; cuộc sống của họ có nghĩa. Chiến tranh cho họ
nghĩa. Cái chết và nguy hiểm bao quanh họ, giúp họ đi tới sống động. Cứ sau mỗi
mười năm lại cần có một cuộc chiến tranh thế giới lớn. Nếu nó không xảy ra bây
giờ thì nó không xảy ra bởi vì nhân loại và tâm thức của nó đã thay đổi. Nó
đang xảy ra bởi vì bom khinh khí, bởi vì chiến tranh thế giới thứ ba sẽ là cuộc
chiến cuối cùng - và điều đó là quá nhiều. Thỉnh thoảng cóchút ít khổ thì tốt,
nhưng tự tử toàn cầu dường như quá nhiều.
Không ai sẽ có đó để mà tận hưởng
nó! Nếu chiến tranh hạt nhân xảy ra, thế thì trong mười phút mọi người sẽ mất
đi. Ngay cả báo cũng chẳng tới được bạn. Bạn sẽ tuyệt đối vô nhận biết về điều
đang xảy ra. Nó sẽ đơn giản là hỗn độn. Và trong mười phút mọi cuộc sống sẽ biến
mất khỏi trái đất. Chim chóc, con vật, cây cối, đàn ông, đàn bà, tất cả đều mất
hết. Phỏng có ích gì nếu bạn không thể tận hưởng? Vui vẻ là khi bạn thấy mọi
người trong phòng khí ga bay hơi.
Ở Đức, phòng khí ga được làm ra
theo cách mọi người có thể tới và nhìn vào. Những người sẽ chết không có khả
năng thấy khán giả, nhưng khán giả có khả năng thấy. Hàng nghìn người đã tới
xem; họ mua vé để xem điều đó. Đó là giải trí lớn! Một nghìn người trong phòng
khí ga sẽ bay hơi. Trong một khoảnh khắc, chẳng cái gì sẽ còn lại. Và những người
này - hàng nghìn người - đã tới xem. Họ phải có vui vẻ nào từ điều đó? Phải có
cái gì đó rất xấu bên dưới...
Trong cuộc Cách mạng Pháp, khi
máy chém được dùng gần như suốt cả ngày, Slutsky sống trong một làng nhỏ bên
ngoài Paris. Một sáng ông ấy gặp Flambeau, người vừa mới trở về từ thành phố.
"Cái gì đang xảy ra ở Paris thế?" Slutsky hỏi.
"Hoàn cảnh tuyệt đối ghê rợn,"
người Pháp đáp.
"Họ đang chặt đầu cả nghìn
người."
"Ôi," Slutsky rền rĩ,
"và tôi lại kinh doanh mũ!"
Cái xấu của con người! Đầu bị
chặt cả nghìn cái, nhưng vấn đề của Slutsky không phải là cả nghìn người chết
đó. Vấn đề của ông ta là: "Biết bao nhiêu đầu đã bị chặt rồi, và tôi lại
kinh doanh mũ!"
Mọi người đều quan tâm tới bản
ngã nhỏ bé, xấu xí, ích kỉ của riêng mình. Đó là lí do tại sao bạn không thể bước
ra khỏi khổ của mình được. Thử bước ra khỏi bản ngã và bạn sẽ có khả năng bước
ra khỏi khổ. Thử bước ra khỏi cái ngã mà xem.
Cái gọi là người tôn giáo của bạn
cứ dạy bạn, "Đừng ích kỉ." Phật nói, "Đừng là cái ngã." Và
tôi cũng bảo bạn: Đừng là cái ngã. Giáo lí, "Đừng ích kỉ," đã không
ích gì. Nó không thể có ích được bởi vì nó để lại rễ không bị chạm tới. Cái ngã
là rễ, và người tôn giáo của bạn cứ dạy - cái gọi là thánh nhân và mahatmas của
bạn cứ nói - "Đừng ích kỉ." Điều đó đơn giản nghĩa là để cái ngã đó,
để rễ vẫn còn. Cứ cắt cành và tỉa lá. "Đừng ích kỉ "... nhưng thế thì
rễ vẫn có đó, nó sẽ lại mọc ra; lá lại sẽ tới.
Phật là thầy chứng ngộ duy nhất
của thế giới, người đã đi tới chính gốc rễ của vấn đề. Ông ấy nói: Đừng là cái
ngã. Đây là sáng suốt vĩ đại, đóng góp vĩ đại, một trong những điều quí giá nhất.
Ông ấy nói, "Nếu ông là cái ngã, ông sẽ ích kỉ. Ích kỉ của ông có thể trở
thành thế giới khác, tâm linh; nó sẽ vẫn còn ích kỉ. Cái ngã chỉ có thể ích kỉ;
cái ngã chỉ có thể tồn tại trong khí hậu của ích kỉ. Nếu ông cố gắng không ích
kỉ với cái ngã không bị động chạm tới, ông sẽ chỉ là kẻ đạo đức giả."
Từ 'đạo đức giả - hypocrisy' bắt
nguồn từ một gốc có nghĩa là đóng kịch. Bạn sẽ chỉ đóng vai trò chơi, chơi trò
chơi, giả vờ. Bạn không thể ích kỉ nếu cái ngã không có đó. Và làm sao cái ngã
có thể bị vứt bỏ? Thực ra, nó không có đó nếu bạn nhìn vào, cho nên không cần vứt
bỏ nó. Mọi điều cần thiết là cái nhìn sâu sắc vào nội tâm riêng của bạn. Nhìn
vào trong lãnh thổ của bạn - đó là điều thiền tất cả là gì - nhìn vào trong, và
bạn sẽ không tìm thấy cái ngã nào ở đó cả. Và khi bạn không tìm thấy cái ngã
nào - nó biến mất như cái bóng trong ánh sáng - mọi ích kỉ đều biến mất theo
cách riêng của nó.
Thế thì một phẩm chất hoàn toàn
mới tới với sự tồn tại của bạn. Bạn không còn quan tâm tới việc tạo ra khổ cho
người khác; do đó bạn có thể bước ra khỏi khổ của mình. Và khoảnh khắc bạn nhìn
vào nội tâm, thông minh lớn lao toát ra, sáng tạo lớn lao thoát ra. Thông minh
đó đem tới phúc lạc và, chung cuộc, thậm chí đem bạn ra ngoài phúc lạc - ra
ngoài tâm trí và ra ngoài thiền. Nó đem bạn tới cốt lõi tối thượng của sự tồn tại;
an bình, bình thản, im lặng, tĩnh lặng.
Bạn dừng toàn bộ và chỉ thế thì
bạn đạt tới. Bạn đi vào trong thế giới của Thượng đế, của tính thượng đế, chỉ
khi bạn không còn nữa. Nhưng trước khi bạn có thể đi vào trong bạn sẽ phải vứt
bỏ nhiều ý niệm ngu xuẩn rằng bạn đang từng mang nó lâu rồi. Bạn sẽ phải vứt bỏ
mọi điều bạn đã được được bảo và được dạy. Bạn sẽ phải vứt bỏ mọi điều bạn đã từng
được giáo dục.
Toàn thể xã hội của bạn đều được
bắt rễ, dựa trên ý niệm về việc làm cho cuộc sống của bạn sung túc. Không đúng,
nhưng chỉ thoải mái, thuận tiện, để cho bạn có thể sống một cách tiện lợi và bạn
có thể chết một cách tiện lợi. Toàn thể xã hội đều dựa trên việc cung cấp thuốc
an thần cho bạn. Tôn giáo của bạn vận hành như thuốc an thần. Bất kì khi nào bạn
gặp rắc rối bạn đều tới giáo sĩ, tới linh mục, tới thầy tế, và họ an ủi bạn.
Con bạn chết. Bạn tới giáo sĩ, bạn tới tu sĩ, và ông ấy nói, "Đừng lo. Thượng
đế chỉ đem đi những người ngài yêu mến." Ông ấy an ủi bạn! Con bạn đã được
Thượng đế chọn; con bạn là một trong số ít người được chọn đó.
Nếu bạn đi tới tu sĩ Hindu ông ấy
sẽ nói, "Đừng lo. Linh hồn là bất tử, chẳng cái gì chết. Đứa bé chỉ đổi
nhà và nó sẽ có ngôi nhà tốt hơn, ngôi nhà mới. Điều đó giống như đổi xe cũ lấy
xe mô đen mới. Cho nên đừng lo nghĩ." Ông ấy an ủi bạn. Ông ấy không giúp
bạn thay đổi triệt để. Nỗ lực của ông ấy là để làm cho cuộc sống của bạn thoải
mái có thể được. Và bạn trả tiền cho điều này, lẽ tự nhiên. Ông ấy phục vụ và bạn
trả tiền cho điều đó.
Jacobs và Lipkin, hai lính biệt
kích Israel, sắp bị người A rập bắn.
Jacobs nói, "Tớ nghĩ tớ sẽ
yêu cầu khăn bịt mắt."
Lipkin nói, "Jake, đừng
gây rắc rối."
Mọi người chỉ sống với ý niệm
này: Đừng gây rắc rối. Ngay cả khi bạn sắp bị bắn - ít nhất lúc đó bạn có thể
gây ra chút ít rắc rối; bạn sẽ mất cái gì hơn nữa. Nhưng đây là triết lí của
chúng ta, triết lí cơ bản về cuộc sống của chúng ta: Đừng gây rắc rối. Cho nên
tuân theo truyền thống, tuân theo tập quán. Là người tuân thủ. Là người Hindu,
người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo. Đi tới nhà thờ. Đừng gây rắc rối. Đừng
khuấy nước. Cứ giữ bản thân mình bằng cách nào đó vẫn sống, và chết không gây rắc
rối gì. Thế thì bạn không thể bước ra khỏi khổ của mình được.
Đi ra khỏi khổ bạn sẽ phải là
người cách mạng. Cuộc cách mạng vĩ đại nhất trên thế giới là đi ra khỏi hình mẫu
khổ của cuộc sống. Bạn sẽ phải thay đổi toàn thể tâm hồn và bạn sẽ phải mạo hiểm
nhiều điều. Bạn sẽ không được xã hội chấp nhận. Bằng không tại sao Socrates
không được chấp nhận? Tại sao Jesus không được chấp nhận? Bạn sẽ không được đám
đông kính trọng. Đám đông cho bạn kính trọng chỉ khi bạn là một phần của đám
đông. Nếu bạn muốn được kính trọng, thế thì bạn phải là một phần của đám đông.
Thế thì bạn phải là cừu chứ không là người.
Dwabha, bạn có thể đi ra khỏi
nó. Là sư tử đi!
Phật thường nói với đệ tử của
mình, "Là sư tử đi!
Gầm như sư tử và bước ra khỏi mọi
loại nô lệ!" Và dù mạo hiểm là bất kì cái gì, nó cũng xứng với điều đó.
Câu hỏi cuối cùng:
Thưa thầy kính yêu,
Hôm nọ trong bài nói thầy đã chế giễu phép
màu, vậy mà ba nghìn người ngồi im lặng cảm thấy sự hiện diện của thầy, nghe
bài ca của thầy và chim và gió - đây không phải là bản thân phép màu sao? Hay
thực sự không có phép màu?
Anand Prakash, nghe tôi, nghe
chim và gió, hoàn toàn im lặng ở đây trong giao cảm sâu sắc, yêu mến... đó
không phải là phép màu theo nghĩa từ này được dùng. Thực ra nó là điều tự nhiên
nhất. Con người đã trở thành phi tự nhiên; do đó nó có vẻ giống phép màu. Chính
bởi vì việc trở thành phi tự nhiên của con người đã tới mức một điều đơn giản
thế trông có vẻ như phép màu; bằng không nó là tự nhiên, nó là tự phát.
Bạn không làm gì cả, tôi không
làm gì cả. Chúng ta cùng nhau ở đây; cái gì đó đang xảy ra. Cái gì đó đang diễn
ra giữa tôi và bạn. Không ai là người làm, cả tôi lẫn bạn; nó đang xảy ra theo
cách riêng của nó. Theo nghĩa đó nó là đơn giản, tự nhiên; nhưng theo nghĩa
khác, bạn có thể dùng từ 'phép màu'. Nó có vẻ giống phép màu bởi vì con người
đã trở thành phi tự nhiên tới mức là im lặng cho dù trong vài phút cũng có vẻ như
phép màu. Dường như người đã sống trong bóng tối cả đời mình đang được đem ra
ánh sáng và lần đầu tiên thấy mầu sắc của hoa và tia nắng chiếu qua cây cối và
cầu vồng trong mây, và bắt đầu kêu lên, "Phép màu, phép màu, phép
màu!"
Bạn sẽ nói, "Đây là những
điều đơn giản, điều tự nhiên. Chỉ bởi vì mình bao giờ cũng sống trong bóng tối.
Đó là lí do tại sao những mầu sắc này, những con bướm này, những đoá hoa này, mầu
lục và mầu đỏ và mầu vàng của cây, trông như phép màu." Nhưng với người
đó, đấy là phép màu. Với tôi nó chỉ là tự nhiên; với bạn nó có thể là phép màu.
Điều đó phụ thuộc vào điểm nào bạn đang nhìn nó.
Nhưng khi tôi chế giễu phép
màu, tôi ngụ ý phép màu như Satya Sai Baba đang làm: sản xuất đồng hồ Thuỵ Sĩ.
Ít nhất chế tạo đồng hồ làm tại Ấn Độ đi - điều đó sẽ là phép màu! Cái gì có đó
về phép màu trong đồng hồ Thuỵ Sĩ? Tôi đã cười vào những thủ đoạn này, và tôi
đang nói không có phép màu theo nghĩa là luật phổ dụng, pháp, không chấp nhận
ngoại lệ. Mọi thứ đều tự nhiên và tương ứng với Đạo, tương ứng với pháp, tương ứng
với bản chất phổ dụng của mọi thứ. Không cái gì chống lại nó; do đó không có
phép màu. Đây tất cả đều là trò nhanh tay. Đây chỉ là ảo thuật. Nếu bạn tìm thấy
nhà ảo thuật ở góc phố làm ra đồng hồ Thuỵ Sĩ bạn sẽ không gọi đó là phép màu.
Nhưng cùng người đó tới như người linh thiêng, như mahatma, và thế rồi lập tức
nó trở thành phép màu. Phép màu như vậy không xảy ra.
Nhưng vài phép màu thực sự xảy
ra. Chẳng hạn, mới vài ngày trước, một người Polack đã trở thành giáo hoàng!
Bây giờ đây là phép màu! Tôi muốn gợi ý Phật đưa ra vài ngoại lệ trong luật phổ
quát của ông ấy. Người Polack và giáo hoàng! – ai đã từng nghe tới điều như vậy
chưa?
Có lần ông già Murphy được hỏi,
"Làm sao ông phát hiện ra người Polack ở trận chọi gà?"
Ông ấy nói, "Ông ta là người
đi cùng con vịt."
Thế rồi ông ấy được hỏi,
"Làm sao ông biết người Italia có đó?"
Ông ấy nói, "Họ cá con vịt."
Và rồi ông ấy được hỏi,
"Và làm sao ông biết Mafia có đó?"
Ông ấy nói, "Vịt thắng."
Đủ cho hôm nay.