Read more
Osho - Thiền: Con đường nghịch lý (Tập 2)
Chương 10. Cầu không nước chảy
Câu hỏi thứ nhất:
Cho đến khi người Do Thái và Ả Rập và các bộ lạc khác
mang cái ông Thượng Đế độc quyền chủng tộc và đầy ganh tị của họ vào phương
Tây; Toamy, Bacchus, Mithros và Apollo đã là những thượng đế mà con người thờ
phượng. Nữ thần Diana với cây cung và mũi tên của bà. Thor được thờ phượng tại
phương Bắc, thần mẫu được thờ phượng tại phương tây. Thế rồi chết và phục sinh
trở thành tôn giáo của phương Tây. Người ta được dạy dỗ về phạm tội và tội lỗi.
Tại sao Adam là kẻ tội lỗi? Tại sao ông ta không giống như Theseus, Jason hay
Hermes?(1) Ý niệm về tội lỗi phải chăng chỉ là một trò gạt gẫm? Có phải mục
đích chỉ là để làm cho con người phải suy tưởng về nó. Tôi là một người đa thần.
Đối với tôi, ngoài sự hiện hữu này ra, không hề có một ông thượng đế nào cả.
Thượng Đế ở chính trong đời sống, không phải ở bên ngoài. Thượng Đế là chính
ngay đời sống này. Sống cuộc sống này một cách toàn vẹn tức là sống một đời sống
thiêng liêng. Sống cuộc sống này một cách cục bộ tức là sống một đời sống phàm
phu. Cục bộ là phi tôn giáo. Toàn bộ, nhất thể là thánh thiện.
Người hỏi đã đặt một vấn đề thuộc về quá khứ. Trong thời xa
xưa, trên khắp thế giới, con người theo đa thần giáo - người ta thờ phượng mẹ
thiên nhiên một cách giản đơn. Con người không hề có ý niệm về tội lỗi, không hề
thắc mắc về chuyện phạm tội. Họ chấp nhận đời sống một cách tự nhiên. Không hề
có chuyện đánh giá, không hề lý giải đời sống -luận lý chưa can thiệp vào.
Cái giây phút mà luận lý bắt đầu can dự, thế là bắt đầu có
chuyện lên án, bắt đầu có chuyện phân ly, chia rẽ, và con người trở thành tâm
thần phân liệt. Thế rồi bạn khởi sự lên án cái gì đó ngay chính trong con người
mình -cái phần này trở nên cao hơn, cái phần kia bị hạ xuống thấp, và rồi bạn mất
cân bằng.
Thế nhưng chuyện này bắt buộc phải xảy ra; luận lý bắt buộc
phải có mặt; đây là một phần của sự trưởng thành. Nó xảy đến cho từng đứa trẻ,
cũng như nó xảy đến cho toàn thể nhân loại. Khi một đứa trẻ sinh ra, nó là một
kẻ đa thần. Nó hạnh phúc trong cách thế mà nó hiện hữu. Nó không hề có ý niệm về
chuyện phải quấy. Nó không có những khuôn mẫu, thần tượng. Nó không có những
tiêu chuẩn đánh giá, phán xét. Đói, nó đòi ăn. Buồn ngủ, nó lăn ra ngủ. Đó là
những gì mà các vị Thiền sư thường hay nói đến -Ở đời muôn sự thả tùy duyên, Hễ
đói thì ăn, mệt ngủ liền. Dòng đời cứ tự nhiên tuôn chảy, không can thiệp vào.
Mỗi một đứa trẻ được sinh ra như là một kẻ đa thần, thế
nhưng không sớm thì muộn y sẽ đánh mất sự hồn nhiên đơn giản này. Đó là một phần
của đời
sống; và điều này phải xảy đến như là một bộ phận không thể
thiếu của sự trưởng thành, chính chắn, và đó là số phận của chúng ta. Đứa trẻ sẽ
đánh mất nó và rồi sẽ tìm ra nó trở lại. Khi đứa trẻ đánh mất nó, y trở thành một
con người bình thường, một con người thế tục. Khi y tìm lại được, y trở thành
con người của tín ngưỡng, tâm linh.
Sự hồn nhiên của trẻ thơ là một món rất hời, một tặng phẩm đến
từ Thượng Đế. Bởi không do công khó mà kiếm được, thế nên ta phải mất nó. Chỉ
khi bị mất rồi ta mới bắt đầu nhận ra mình đã đánh mất cái gì. Thế là ta sẽ khởi
sự đi tìm kiếm nó. Chính trong cái hành trình tìm kiếm này, kiếm được, đạt được,
trở thành nó rồi -lúc đó ta mới nhận ra sự quý giá rất mực của nó.
Cái gì xảy đến cho một vị thánh? Không có gì khác xảy ra
-Ông ta chỉ biến thành trẻ thơ trở lại, hồn nhiên trở lại. Ông ta đã trầm mình
trong cái thế giới của luận lý, của phân chia, của bản ngã, của một ngàn lẻ một
khuôn mẫu lý tưởng; ông ta hầu như đã muốn phát khùng lên với chuyện đánh giá.
Thế rồi một ngày, khi nhận ra rằng mọi chuyện đều rất mực phi lý, ngu xuẩn, ông
ta buông bỏ hết tất cả, trở về lại với hồn nhiên tuổi thơ. Tuy nhiên cái thời ấu
thơ thứ hai này có giá trị bội phần hơn là thời ấu thơ thứ nhất. Tuổi thơ lần đầu
của bạn là được trao cho, ngay cả bạn không hề đòi hỏi, nó thuần túy là một tặng
phẩm. Và đã là tặng phẩm thì ta không thể đánh giá. Bạn chỉ đánh giá một cái gì
đó khi bạn nỗ lực để có được, khi bạn phấn đấu để vươn tới, khi bạn phải trải
qua một cuộc hành trình dài để đến đích.
Hãy nghe một câu chuyện của phái huyền môn Sufi: Một người
đàn ông -một hành giả đang kiếm tìm chân lý- đến viếng một vị thánh Sufi và nêu
câu hỏi, "Tôi đang đi tìm kiếm cho mình một vị tôn sư. Thưa ngài, tôi được
nghe rằng ngài là bậc thánh giả, ngài có thể cho tôi biết những đặc tính của một
vị tôn sư như thế nào không? Làm sao để tôi phán đoán được? Ngay cả nếu tôi gặp
một người như thế, làm sao tôi có thể biết được ông ta sẽ là vị thầy của mình?
Tôi là kẻ mê mờ, chìm đắm trong vô minh, tôi không có một khái niệm nào về chuyện
này cả. Và như người xưa đã nói, không thầy đố mầy làm nên, không có một vi thầy,
không ai có thể tìm được Thượng Đế. Thế nên tôi đang tìm kiếm một ông thầy. Xin
ngài làm ơn giúp tôi."
Vị thánh giả Sufi này nghe xong liền liệt kê ra một số việc
và kết luận, "Đây là những đặc tính của một ông thầy. Ngươi sẽ tìm ra một
ông thầy có cái phong cách như thế, có thái độ ứng xử như thế, ông ta đang ngồi
dưới một cái cây như thế, bận y phục như thế và đôi mắt giống hệt như đôi mắt của
ta đây."
Người đàn ông cảm ơn vị thánh giả và lên đường tìm kiếm. Ba
mươi năm trôi qua, người đàn ông đã rảo chân trên khắp mọi miền trái đất nhưng
vẫn không thể tìm ra ông thầy với những đặc tính đã được kể ra. Mệt mỏi, kiệt sức,
phiền muộn, ông ta quay trở về cố hương và gặp lại vị thánh giả kia. Ông này
bây giờ đã già lắm rồi, nhưng cái khoảnh khắc mà anh ta tìm đến... Ông già đang
ngồi tĩnh tọa dưới cái cây năm xưa -và bỗng dưng y chợt nhận ra đây là cái cây
mà ông già đã mô tả trước đây. Bộ y phục cũng đúng là bộ y phục mà ông ta đã
nói đến. Và rồi đôi mắt kia, sự lặng yên đó, chính là những gì mà vị thánh giả
đã miêu tả trước đây. Đây chính là một ân sủng, sự hiện diện của một vị thầy.
Niềm vui oà vỡ trong lòng y."
Thế nhưng một câu hỏi to tướng cũng khởi dậy trong đầu. Y quỳ
xuống, sờ chân vị thánh giả và hỏi, "Trước khi quy y với ngài, làm ơn cho
tôi biết tại sao ngài đã hành hạ tôi suốt ba mươi năm như thế. Tại sao ngài
không bảo tôi lúc đó, 'Ta chính là thầy của ngươi đây'?"
Ông già cười lớn, "Ta đã bảo ngươi, 'Ông ta sẽ ngồi ở
dưới một gốc cây như thế'-và chính là cái cây này đây! Và ta cũng đã bảo ngươi,
"Ông ta sẽ bận một bộ y phục giống y như vậy' -thì đó chính là bộ y phục
mà ta đang bận đây! Ta chính là người đó, thế nhưng ngươi đã không đủ tỉnh táo.
Ngươi đã không thể nhận ra ta -ngươi cần đến một cuộc hành trình ba mươi năm đi
khắp chân trời góc biển, ngươi phải cần đến một nỗ lực như thế để nhận ra ta.
Ta đã có mặt ở đây nhưng mà ngươi đã không có mặt ở đây.
Bây giờ thì ngươi cũng đã có mặt ở đây rồi và ngươi có thể
nhận ra ta. Ta đã phải ngồi chờ đợi ngươi trong ba mươi năm. Đây không phải là
vấn đề chỉ được đặt ra với ngươi, với một cuộc hành trình dài như thế. Hãy nghĩ
đến tình huống của ta -ngày càng già nua đi, và ta có thể chết trước khi ngươi
quay về. Ta đã không thay đổi bộ y phục đã bận trước đây, tránh trường hợp sợ rằng
ngươi sẽ không nhận ra ta lần nữa -trong suốt ba mươi năm! Ta đã không hề rời
khỏi gốc cây này trong nửa bước! Nhưng rồi ngươi đã đến. Cuộc hành trình khá
lâu dài -nhưng đó là cách thế để cho con người tìm kiếm, khám phá."
Thượng Đế luôn luôn hiện hữu ở đây, thế nhưng chúng ta không
hiện hữu. Một đứa trẻ phải bị mất hết dấu vết cỗi nguồn; y phải cần đến một cuộc
hành hương trong suốt ba mươi năm. Mỗi đứa trẻ đều bị mất dấu vết của con đường
mòn cũ, bị lạc lối. Nhưng do bởi lạc lối, do kinh qua khổ đau, y sẽ đạt đến sự
tinh tế, trong suốt, sáng tỏ. Phải kinh qua cả một ngàn lẻ một thứ chuyện, y mới
có thể bắt đầu tìm kiếm ra sự thật.
Cái hư vọng phải được truy nguyên. Cái hư vọng rất mực lôi
cuốn, có sức thu hút quyến rũ như một thỏi nam châm. Thế nên làm thế nào mà bạn
có thể biết được cái chân thực nếu như không biết được cái giả trá hư vọng? Đứa
trẻ nhận biết cái chân thực -thế nhưng nó chưa từng nhận biết cái hư vọng, thế
nên y không thể xác định được cái chân thực. Đứa trẻ nhận biết Thượng Đế -thế
nhưng nó chưa hề nếm trải thế gian, thế nên y không thể xác định được Thượng Đế.
Mỗi đứa trẻ đi vào đời như một vị thánh, thế nhưng y phải trở thành một kẻ tội
lỗi. Và rồi ta cần bước trở lại với tuổi thơ một lần thứ hai. Nếu bạn không đạt
được cái tuổi thơ lần thứ hai này, cuộc đời của bạn sẽ bị lỡ làng.
Thế nên đừng có suy nghĩ, lo âu nếu như bạn đã đánh mất nó.
Tất cả mọi người đều phải mất nó -điều này không phải là một vấn nạn. Vấn nạn
chỉ xảy ra khi nào bạn cứ miệt mài đi mãi mà không bao giờ quay trở lại. Nếu
người đàn ông kia cứ tiếp tục đi mãi đi hoài ... ba mươi năm, ba mươi kiếp, ba
trăm kiếp, ba ngàn kiếp ... và không bao giờ quay về, không bao giờ đạt đến cái
tuổi thơ lần thứ hai, thì như vậy thực sự đã có một cái gì đó không ổn.
Lầm lỗi -phạm sai lầm là chuyện thường tình rất người. Đó
cũng là cách thế để học hỏi. Còn lạc lối -lầm đường lạc lối cũng là cách thế để
trở lại quê nhà. Quên lãng Thượng Đế để bạn có thể tưởng nhớ về Thượng Đế. Chạy
trốn Thượng Đế, để rồi một ngày khi khát vọng như ngọn lửa cháy bùng lên nung nấu,
bạn sẽ phải tìm đến Thượng Đế... như một người đói khát.
Điều này cũng đã phải xảy đến cho nhân loại. Và bây giờ trên
thế giới, đa thần giáo một lần nữa sẽ trở lại như một khẳng định lớn lao -con
người bước vào thời thơ ấu thứ hai. Đó là lý do tại sao Thiền đã trở nên quan
trọng và có ý nghĩa như thế; và mật tông -tantra- cũng là một lời mời gọi đầy ý
nghĩa. Huyền giáo Sufi, giáo phái Hassid (2) bâygiờ còn quan trọng hơn cả Cơ Đốc,
Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Kỳ Na giáo -tại sao? Tại sao lại Tantra? Tại sao
lại Đạo? Tại sao lại Thiền? Tại sao lại Sufi, Hassid? Đây là những nhân cách đa
thần -chúng tạo nên thời thơ ấu thứ hai.
Thế giới đang sẵn sàng; nhân loại ngày càng chín mùi hơn cho
một thời đại mới -tuổi thanh xuân của loài người. Thời ấu thơ không còn nữa,
chúng ta đã đánh mất nó, chúng ta đã trở nên tồi tệ. Thế nhưng đừng lo lắng bởi
chuyện này -đó là cách thế để một người trở về lại với hồn nhiên tuổi thơ. Tuy
nhiên cái thời ấu thơ thứ hai này có giá trị bội phần hơn là thời ấu thơ thứ nhất,
bởi vì cái thứ hai này không thể bị mất mát. Cái thứ nhất phải bị mất đi, sẽ sắp
sửa mất đi; không một đứa trẻ nào, cho dù là Đức Phật có thể nắm níu lại được.
Không một đứa trẻ nào có thể cầm giữ nó lại; đó là bản chất của vạn hữu. Khi bạn
được trao cho một cái gì đó -mà bạn không hề tìm kiếm, không hề đòi hỏi, ngay cả
việc sẵn sàng để đón nhận nó...
Nếu bạn cho một đứa trẻ một viên kim cương, cho dù là một
viên Kohinoor, nó cũng sẽ chơi đùa ít lâu rồi quẳng đi mất. Nó không hề biết đó
là cái gì. Kohinoor cũng chỉ là Kohinoor, cho dù bạn có biết nó hay không.
Kohinoor cũng chỉ là Kohinoor - biết hay không cũng không có gì khác biệt. Tuy
nhiên đứa trẻ rồi sẽ liệng bỏ nó; không sớm thì muộn nó cũng chán mà thôi. Đó
cũng chỉ là một viên đá -bạn chơi được với nó trong bao lâu? Cho dù nó có màu sắc
sặc sỡ đi nữa, cho dù nó chiếu sáng lấp lánh ... nhưng sẽ chơi được bao lâu?
Để cho cái viên Kohinoor này một lần nữa đi vào đời bạn, bạn
cần phải có sự khát khao mong cầu nó. Bạn cần có cái cảm giác là mình đang mất
mát một cái gì đó rất mực lớn lao -trong chính sinh thể mình. Bạn sẽ cần đến một
khát vọng vô cùng. Tất cả mọi tham cầu khác đều phải trở thành thứ yếu, chỉ có
Thượng Đế là cái khát vọng số một của bạn, khát vọng siêu tuyệt nhất. Thượng Đế
luôn luôn ở ngay đây.
Nó xảy ra cho mọi trẻ thơ, nó xảy ra cho mọi xã hội, mọi nền
văn minh, cho nhân loại nói chung. Thế nên đừng có lo lắng lắm về cái quá khứ
Cơ Đốc của bạn -nó đã là cục bộ. Cơ Đốc hay những loại tôn giáo khác đều là những
tôn giáo của con người ở giai đoạn giữa hai thời thơ ấu, thứ nhất và thứ hai. Họ
chỉ biết làm công việc lên án. Họ kêu lên rằng bạn đã lạc lối: "Hãy quay về
đi thôi!" Họ níu kéo bạn trở lại. Họ làm cho bạn sợ hãi. Họ mang đến cho bạn
những khích động vĩ đại, rằng nếu bạn hồi đầu, bạn sẽ hưởng được những phần thưởng
to lớn, những đải ngộ xứng đáng, trên thiên đàng. Còn nếu không, bạn sẽ bị quẳng
xuống địa ngục. Hỏa ngục đang chờ đợi bạn, bạn sẽ bị thiêu đốt và khổ đau ở đó
đời đời.
Đây là nỗi sợ hãi -tạo ra sự sợ hãi trong con người để họ
quay bước trở lại. Thế nhưng từ nỗi sợ hãi đó, ngay cả nếu bạn trở về, thực ra
bạn cũng chẳng bao giờ trở về. Bởi vì sợ hãi không bao giờ có thể biến thành
thương yêu. Sợ hãi không thể được tiết giảm để biến thành thương yêu, không thể
được biến đổi để trở thành thương yêu. Sợ hãi vẫn giữ y nguyên trạng, và từ đó
khơi dậy hận thù.
Đó là lý do tại sao Cơ Đốc giáo đã tạo nên mối hận thù lớn
lao đối với tín ngưỡng. Friedrich Nietzsche là một phó sản của niềm tin Cơ Đốc;
nếu Nietzsche tuyên bố rằng Thượng Đế đã chết thì cũng chỉ là một phản ứng tất
yếu đối với niềm tin Cơ Đốc mà thôi. Người ta đã quá đặt nặng vấn đề Thượng Đế,
đến thiên đàng, địa ngục -cho nên phải có ai đó nói lên điều này. Tôi hoàn toàn
tán đồng Nietzsche -phải có ai đó nói ra, "Thôi đủ rồi. Hãy chấm dứt đi
cái chuyện vô nghĩa này! Thượng Đế đã chết. Con người hoàn toàn tự do" -bởi
vì con người cảm thấy mình sống trong nô lệ ngục tù nếu bạn tạo ra sự sợ hãi.
Còn tham lam thì sao? Tham lam cũng là một loại ngục tù nô lệ.
Bạn thử nhìn xem -thiên đàng, cực lạc, firdaus -thiên giới-, những ý niệm tương
tự -chúng là cái gì vậy? Đó cũng chỉ là lòng tham, là dục vọng của con người.
Trong cái cõi thiên giới -firdaus- của Mohammed, hình như các ông thánh Hồi
giáo chẳng làm gì cả ngoài việc giao hợp. Những giai nhân sẵn sàng ở đó và rượu
vang tuôn như suối chảy, tất cả những gì bạn cần đến đều sẵn sàng trong nháy mắt.
Đặc biệt là tất cả những cô gái tuyệt trần này đều ở trong lứa tuổi mười sáu,
không bao giờ lớn hơn.
Một điều còn tuyệt vời hơn nữa là: họ biến thành một cô gái
đồng trinh trở lại. Bất cứ lúc nào một ông thánh giao hợp với một cô gái -nên
nhớ rằng chỉ có những ông thánh mới đến được nơi đó -mỗi khi ông ta giao hợp
xong, cô gái này sẽ biến thành đồng trinh trở lại. Đó là phép lạ của cõi thiên
đàng Hồi giáo. Và các ông thánh của bạn đang làm gì ở đấy? Hình như chỉ để chè
chén, một cuộc truy hoan bất tận. Và rượu tuôn như suối chảy... Ở đây thì bạn
răn đe, "Tránh rượu, tránh đàn bà" -để làm gì vậy? Phải chăng là để
nhắm đến rượu ngon và gái đẹp hơn ở cõi thiên giới kia? Điều này thì hình như
không phù hợp luận lý chút nào.
Thế nhưng đây là cách thế mà người ta khích động - thông qua
lòng tham, dục vọng của con người- để bạn quay trở về với họ. Hoặc là mang sự sợ
hãi ra hù dọa: Nếu lòng tham không đủ để quyến rũ bạn thì là sự sợ hãi, là hỏa
ngục -hỏa ngục đời đời. Bạn có làm gì đáng tội đâu, hỏa ngục đời đời xem ra thật
bất công. Bạn bị quẳng vào địa ngục mười năm, cũng OK đi, cũng có thể hiểu được
-hoặc giả mười lăm năm, hai mươi năm, năm mươi năm. Nhưng đời đời? Bạn đã không
hề phạm tội đời đời ở thế gian này, thế thì tại sao lại bị trừng phạt đời đời?
Có vẻ như quá đáng.
Thế nhưng đây không phải là trọng điểm; điểm chính yếu chỉ
là để làm cho bạn sợ hãi. Sợ hãi và lòng tham của con người đã và đang là nền tảng
của rất nhiều tôn giáo. Chúng chẳng giúp ích gì được cho ai cả, chỉ hủy diệt
thôi. Chúng không hề có một hấp lực nào đối với những người can đảm, chỉ dành
cho những kẻ hèn nhát -và khi mà một tên hèn nhát trở nên tín ngưỡng, tôn giáo
đó chỉ là một loại hàng giả. Bởi vì một kẻ hèn nhát không thể trở thành một người
tín ngưỡng; chỉ có những người can đảm -tín ngưỡng đòi hỏi một sự can đảm lớn
lao.
Đó là một bước nhảy vào nơi vô định. Đó là một bước nhảy vào
đại dương mênh mông không bờ bến mà không có hải đồ trong tay. Đó là sự buông bỏ
hoàn toàn quá khứ để bước vào tương lai, vào bất ổn. Nó không thể được xuất
phát từ sự hèn nhát.
Trong những đền chùa, trong những thánh đường Hồi giáo,
trong những ngôi nhà thờ của bạn, những kẻ hèn nhát đã xúm lại cùng nhau. Họ
run rẩy trong nỗi sợ hãi. Lòng họ chứa đầy tham dục -chìm đắm trong tham dục,
nung nấu trong tham dục, kích thích bởi tham dục. Những con người tham lam và
hèn nhát này không thể nào là những người có tín ngưỡng. Nền tảng của tôn giáo
là gì? Đó là sự buông bỏ hoàn toàn tất cả những nỗi sợ hãi, tham đắm để bước
vào nơi vô định. Thượng Đế là nơi vô định, là sự dấu mặt. Thượng Đế dấu mặt
ngay tại đây - trong cỏ cây, trong sỏi đá, trong bạn, trong tôi. Tuy nhiên để
thể nhập vào cái thực tại dấu mặt đó, vào cõi huyền nhiệm đó, con người cần đến
một sự can đảm lớn lao -dấn bước vào đêm tối không một ánh đèn.
Một vị Thiền sư chào từ giả một trong những môn đệ của mình
vào một đêm tối trời. Người học trò không khỏi lo lắng, sợ hãi bởi vì y phải đi
qua một cánh rừng khoảng chừng mười dặm. Đó là một cánh rừng rậm hoang vu với
nhiều dã thú và trời lại tối -đen kịch như một đêm ba mươi không trăng sao. Trời
đã vào khuya, dễ chừng đã quá nửa đêm. Mãi ham chuyện vãn với thầy, y đã quên mất
cả thời gian.
Thấy người học trò của mình đang lo sợ, ông thầy bảo,
"Ngươi có vẻ lo lắng như vậy, được rồi, ta sẽ cho ngươi một cây đèn."
Xong ông ta trao vào tay người đệ tử một cây đèn lồng và đốt đèn lên. Khi người
đệ tử cảm ơn và bước xuống những từng cấp, ông thầy bỗng kêu giựt lại và bảo,
"Ngưng lại một tí." Xong ông thầy đến gần, thổi tắt ngọn đèn và nói,
"Một ông thầy thực sự chỉ cho sự can đảm; y không trợ lực cho sự hèn nhát.
Hãy đi vào đêm tối và trở thành ngọn đèn của chính mình. Nên nhớ rằng, không có
ngọn đèn của bất cứ ai khác giúp ích gì cho ngươi cả; ngươi sẽ phải vươn đến ngọn
đèn của riêng mình. Ngươi phải là ngọn lửa của chính mình. Hãy bước vào đêm tối,
can đảm lên."
Ông ta bảo rằng một ông thầy thực sự không trợ lực cho sự
hèn nhát. Bằng một cử chỉ nhỏ, thổi tắt ngọn đèn, vị thầy đã trao truyền cho
người học trò một thông điệp lớn lao: Tín ngưỡng chỉ dành cho những người can đảm.
Những môn đồ thực sự của Chúa Giêsu là những con người can đảm.
Họ không có bao nhiêu, họ rất ít -bạn có thể đếm được trên đầu ngón tay. (3) Những
môn đồ thực sự của Đức Phật là những người can đảm. Những con chiên Cơ Đốc, những
Phật tử thì không.
Những người đến với tôi hôm nay đều là những người thực sự
can đảm. Một khi tôi đã ra đi, con cái, cháu chắt bạn có thể thờ phượng, tôn
kính tôi, thế nhưng họ sẽ không phải là những người can đảm.
Tôn giáo chỉ thực sự có mặt khi có một vị thầy còn sống để sống
đạo cho bạn. Khi vị thầy qua đời, tôn giáo cũng chết theo luôn. Lúc đó những con
người hèn nhát tụ tập cùng nhau quanh một cái tôn giáo chết, nhằm giúp cho họ
không còn sợ hãi. Họ thờ phượng những kinh điển, những chữ nghĩa ngôn từ, những
bức tượng -toàn là những vật chết.
Thế nhưng khi Chúa Giêsu còn đó, khi Đức Phật còn đó, hay Mohmmed
còn đó thì họ lại vô cùng sợ hãi. Họ tìm đủ một ngàn lẻ một phương cách để chạy
trốn, một ngàn lẻ một lý do để bào chữa cho sự trốn chạy của mình. Họ còn lên
án luôn cả một vị thầy thực sự -tại sao? Bởi vì một ông thầy thực sự không hề hỗ
trợ cho sự hèn nhát của bạn. Ông ta không cho bạn thêm bất cứ sự tham lam nào -
bạn đã có quá nhiều rồi- và ông ta cũng không làm cho bạn sợ hãi. Tất cả mọi nỗ
lực của ông ta chỉ là nhằm lấy ra khỏi bạn mọi sợ hãi, tham đắm, để bạn có thể
có đủ khả năng sống trọn đời mình trong toàn vẹn nhất thể.
Cơ Đốc giáo và những tôn giáo tương tự đã phải ra đời như thế.
Chúng nên được tha thứ; không có gì để bạn phải giận dữ đối với chúng. Tuy
nhiên bây giờ chúng cũng nên cuốn gói ra đi -thế giới hôm nay không còn cần đến
chúng nữa. Chúng đang sụp đổ, đang phân hoá, đang hấp hối. Thật ra chúng đã chết
rồi. Thế nhưng con người đã đui mù đến độ để biết được những nhà thờ, đền chùa
của họ đã chết phải trải qua một quá trình lâu dài như thế. Họ rất mực vô ý thức,
họ không thể hiểu được điều này ngay lập tức. Cơ Đốc giáo đã chết, Ấn giáo đã
chết, Hồi giáo đã chết. Trong Hồi giáo chỉ còn một mảng nhỏ là còn sống động,
còn lửa -đó là huyền môn phái Sufi. Trong Cơ Đốc giáo chỉ còn lại một vài ông
thánh là đang sống, ngoài ra giáo hội, giáo hoàng, Vatican chỉ là những nghĩa địa,
những nhà mồ.
Trong Ấn Giáo cũng chỉ còn lại vài vị thánh -một
Krishnamurti, có thể kể thêm vào đó một Raman- quả tình rất mực hiếm hoi cho một
khoảng cách thời gian khá xa giữa họ. Ngoài ra shankaracharyas đều chỉ là những
xác chết. Trong Phật giáo chỉ còn lại Thiền, và Do Thái giáo còn lại Hassid. Thế
nhưng không có ai chịu tìm đến một vị thầy còn đang sống.
Một tôn giáo đã được tổ chức hoá không còn là một tôn giáo
thực sự. Tôn giáo vô tổ chức, nổi loạn, phi chính thống, dị giáo mới là tôn
giáo thực sự -luôn luôn như thế. Tôn giáo luôn luôn xuất hiện như là một cuộc nổi
dậy -cốt lõi tinh thần của nó là sự nổi loạn. Thời của Cơ Đốc giáo, Ấn giáo, Hồi
giáo đã đi qua. Trong tương lai, một loại hình tôn giáo hoàn toàn khác biệt, một
bầu khí hoàn toàn khác biệt sẽ phủ trùm trái đất này. Những tôn giáo sẽ biến mất;
sẽ chỉ còn lại một loại hình thuần tuý tín ngưỡng. Con người sẽ tự tìm lấy tôn
giáo của riêng cá nhân mình; người cầu nguyện của riêng mình, cách thức cầu
nguyện của riêng mình. Sẽ không còn có nhu cầu đi theo "toa thuốc" của
bất cứ ai -đó không phải là đạo lộ, không phải là phương cách của người dũng cảm.
Đó là cách thế của kẻ hèn nhát. Và Thượng Đế rất mực sẵn sàng -bạn chỉ cần đủ
can đảm để nhìn thẳng vào mắt người.
Bạn hỏi tôi: Thế rồi chết và phục sinh trở thành tôn giáo của
phương Tây. Đúng như vậy. Cơ Đốc giáo chẳng bao giờ quan tâm đến Chúa Giêsu; họ
chỉ quan tâm đến cái thập tự giá. Họ không thờ phượng Chúa Giêsu, họ đang thờ
phượng cây thập tự giá. Mà thập tự giá là biểu tượng của sự chết. Tại sao? Bởi
vì cái chết là nỗi sợ căn bản. Làm cho con người cảnh giác về cái chết của họ
là làm cho họ sợ hãi. Nếu bạn làm cho đầu óc của ai đó tràn ngập ý tưởng chết
chóc, sẽ có khả năng là y bắt đầu lo sợ, run rẩy. Trong tình huống như vậy bạn
có thể biến y thành nạn nhân một cách dễ dàng; bạn có thể cải đổi y theo bất cứ
cái vô nghĩa nào. Y sẵn sàng tin vào mọi thứ - nếu như bạn chỉ cần hứa hẹn mang
đến cho y sự bất tử.
Thế rồi những người theo Cơ Đốc giáo đưa ra lời khuyến cáo,
"Những ai theo đạo sẽ được cứu rỗi. Những ai ở ngoài, chúng tôi không bảo
đảm. Họ sẽ bị diệt vong. Họ không thể được cứu rỗi." Tất cả các tôn giáo
khác cũng có một loại ngôn ngữ y như thế. Họ tạo ra tâm lý sợ hãi. Gieo rắc cái
chết vào đầu óc con người làm cho người ta sợ hãi -có ai lại không sợ hãi cái
chết? Thế là một con người sợ hãi bị đốn ngã để được cải đổi thành nô lệ một
cách dễ dàng.
Và tại sao lại có chuyện phục sinh? Chết và phục sinh đã trở
thành nền tảng cho Cơ Đốc giáo ở phương Tây. Cái chết cho bạn sự sợ hãi và sự hứa
hẹn phục sinh cho bạn sự ham muốn. Nếu bạn chết trong vòng tay của giáo hội, bạn
sẽ được phục sinh. Phục sinh để thành một thánh linh, đó là tất cả những gì mà
bạn luôn mơ ước, tất cả những gì mà bạn luôn cần đến -rất đổi tuyệt vời, còn gì
hơn thế nữa, với một xác thân sáng láng như vàng ròng, tỏa hào quang chung
quanh, bạn sẽ được phục sinh.
Đây là những cái trò sợ hãi/tham muốn, thưởng/phạt cổ điển.
Đây cũng là những gì mà B. F. Skinner đã làm với những con chuột của ông ta:
Làm cho chúng sợ hãi để chúng bắt đầu thực hiện những gì bạn muốn. Đây cũng là
những gì mà bạn được trông thấy trong gánh xiệc: làm cho con voi phải sợ hãi
khuất phục -một con vật dũng cảm và thông minh như thế, nhưng chỉ làm cho nó sợ
là có thể sai khiến.
Thế là nó bắt đầu làm những trò xuẩn động cho bạn -nó sẽ ngồi
lên ghế, sẽ qùy xuống trước người quản tượng ... người mà nó có thể giết chết một
cách dễ dàng. Ngay cả những con sư tử, khi trông thấy chiếc roi cũng phải run sợ
-chỉ việc làm cho nó sợ, thế thôi. Ngay cả sư tử cũng có thể được thuần hoá,
voi cũng có thể được huấn luyện và đưa vào nền nếp. Chỉ việc tạo ra sợ hãi và
ban thưởng -nếu con voi tuân theo lệnh của bạn, thưởng cho nó thức ăn ngon; nếu
nó không theo lệnh, bỏ đói nó.
Đó là điều mà những cái mệnh danh là tôn giáo đã và đang làm
đối với con người. Một kỹ thuật rất mực đơn giản. Người ta dạy về chuyện phạm tội
và tội lỗi. Một cách tự nhiên, nếu bạn muốn làm cho người ta sợ -và đó là cách
duy nhất để khai thác họ- bạn sẽ dạy cho họ rằng tất cả mọi chuyện trên thế
gian này đều là tội lỗi, tất cả những gì bạn đang hưởng thụ cũng đều là tội lỗi.
Cái chết gây nên sự sợ hãi, nhưng cái chết còn xa quá. Sau năm chục năm hay bảy
chục năm bạn mới chết -không ai phải bận tâm lắm. "Bảy chục năm? Để coi
sao. Ngay bây giờ chúng tôi chưa chết mà."
May ra chỉ có người già mới sợ hãi lo lắng. Đó là lý do tại
sao bạn thấy rất nhiều người già trong các nhà thờ, chùa chiền. Các bà già, ông
già -bà già thì nhiều hơn ông già, bởi vì họ sợ hãi hơn. Già, và cái chết đến kề
bên, thế là họ biết rằng đã đến lúc phải làm một cái gì đó. Đời sống đang trôi
qua, đang cạn dần, họ phải toan tính như thế nào đó cho tương lai mình.
Bạn có thấy người trẻ trong nhà thờ, trong chùa của bạn? Hãy
lưu ý rằng, bất cứ ở đâu bạn thấy giới trẻ, ở đó tôn giáo còn sống động. Một
người trẻ nếu quan tâm đến tôn giáo, cái tôn giáo đó sẽ không thể dính dáng đến
sợ hãi và cái chết. Tôn giáo của y sẽ là tôn giáo của sự sống.
Rất nhiều lần người ta đến gặp tôi và bảo, "Tại sao có
rất nhiều người trẻ đến với ngài như thế?" Họ đến đây là vì tôi rao truyền
cho họ tôn giáo của sự sống, của yêu thương, của an lạc. Tôi không tạo ra mặc cảm
phạm tội và tôi cũng không làm cái chuyện điều kiện hoá đầu óc của họ theo cái
kiểu, "Cái này là tội, cái kia là tội". Dĩ nhiên là có những sai lầm,
nhưng đó không phải là tội lỗi. Sai lầm, chắc chắn là phải có rồi -nhưng một
sai lầm là một sai lầm. Nếu bạn đang làm một bài toán cộng, ví dụ hai cộng hai
bằng năm, đó phải chăng là một tội lỗi? Không, đó chỉ là một sai lầm, có thể sửa
chữa được. Không có nhu cầu phải quẳng bạn vào địa ngục đời đời chỉ vì bạn cộng
hai với hai bằng năm. Đây đơn thuần chỉ là một sai lầm, có thể tha thứ được.
Tất cả những gì mà bạn gọi là tội lỗi chẳng qua chỉ là những
sai lầm. Mà sai lầm cũng là một phương thế để học hỏi. Những ai không hề phạm
phải bất cứ sai lầm nào đều là những người ngu xuẩn nhất, bởi vì họ sẽ chẳng
bao giờ trưởng thành. Tôi dạy bạn rằng: Cứ việc phạm sai lầm, không có gì để phải
sợ hãi chuyện này. Nhưng lưu ý một điều rằng -đừng có phạm cùng một sai lầm lần
này qua lần khác, bởi vì như thế quả thật là vô duyên. Phải thật sự sáng tạo,
phạm những sai lầm mới mỗi ngày -và học hỏi từ đó. Đừng có phạm cùng một sai lầm
mỗi ngày, như vậy là xuẩn động quá. Bạn đã từng phạm cái sai lầm đó một lần, và
biết rằng đó là một sai lầm -bạn đã giận điên lên, và đã nhìn thấy cơn giận của
mình -bây giờ giận thêm một lần nữa thì thật là điều ngu xuẩn! Bạn đã thấy rõ,
đó chỉ là một chuyện vô duyên. Nó có khả năng hủy diệt -hủy diệt người khác và
hủy diệt bạn. Nó chẳng hề mang đến bất kỳ lợi lộc nào cho bạn, chẳng có đoá hoa
nào nở rộ trong tâm hồn bạn.
Nỗi giận dữ trong bạn sẽ bớt đi chứ không gia tăng. Sống
thương yêu, nhân hậu -và rồi bỗng dưng bạn như suối nguồn được khai thông tuôn
chảy; bạn trở nên lớn lao hơn, cao thượng hơn; bạn bắt đầu nhẹ bổng đi, bay lên
trên tầm thường nhân thế. Học thêm một điều: Khi bạn thương yêu, khi bạn đang
yêu, bạn được chắp thêm đôi cánh, bạn có thể bay. Khi bạn thù hận, khi bạn giận
dữ, bạn trở nên như một tảng đá nặng nề, chứa đầy trọng lực.
Bạn không thể nhận ra điều đó ư? Thật là đơn giản - giống
như hai với hai là bốn. Đời sống là một sự học hỏi, là một ngôi trường. Đó là
lý do tại sao chúng ta được gởi đến nơi đây, với chủ đích -không phải là để trừng
phạt bạn. Tôi rất muốn thay đổi toàn bộ nhãn quan của bạn về vấn đề này. Bạn đã
được dạy dỗ rằng, bạn có mặt ở đây như là một sự trừng phạt -đây là điều tuyệt
đối sai lầm. Bạn được gởi đến đây để học hỏi.
Có thể nào Thượng Đế lại là một kẻ tra tấn như thế? Ông ta
là một kẻ bạo dâm chăng? -tại sao lại thích thú chuyện tra tấn con người? Và nếu
quả đúng như vậy, như những người này thường nói, rằng bạn được đưa đến đây như
một sự trừng phạt, thế thì chuyện gì xảy ra cho những con người có mặt lần đầu
tiên trên thế gian này? Chắc chắn là phải có những con người tiên khởi, kiếp
người đầu tiên của bạn -mà trước đó bạn chưa hề phạm phải bất cứ một tội lỗi
gì, bởi vì làm sao bạn có thể phạm tội được nếu như bạn chưa từng có mặt ở đây?
Và bởi vì bạn không thể phạm bất cứ tội lỗi nào -thế thì tại sao bạn lại bị đưa
đến cõi đời này lần đầu tiên?
Họ đã không có một giải đáp nào. Kỳ Na giáo, Ấn giáo, Hồi
giáo đã không có lời giải đáp cho câu hỏi, tại sao con người được đưa đến chốn
này? Có thể bạn có mặt ở đây trong kiếp này là vì bạn đã từng phạm tội ở những
kiếp trước. Cũng OK đi, thế nhưng đối với kiếp đầu tiên thì sao? Và giả dụ như,
đây là kiếp đầu tiên của bạn như người Cơ Đốc tin tưởng, thế thì tại sao bạn lại
bị đưa xuống đây? Bây giờ người ta vẽ ra một chuyện cực kỳ phi lý: Bởi vì bạn
đã phạm tội tổ tông -cái ông Adam đã gây nên tội. Bạn đâu có liên hệ gì tới cái
ông Adam này, đây là một chuyện buồn cười. Một người nào đó bạn không hề biết tới,
ngay cả không biết rằng y có hiện hữu hay không, đã phạm một tội lỗi gì đó và
thế là cả nhân loại đều phải gánh chịu khổ đau theo. Cha của bạn phạm tội và rồi
bạn bị tống vào tù. Mà ngay cả cái ông Adam này cũng không phải là cha của bạn,
cũng không phải là ông nội, ông cố, ông sơ của bạn -ông ta chỉ là con người đầu
tiên.
Chưa kể hành động của ông ta cũng không có vẻ gì là một tội
ác. Có thể xem như một dũng cảm đơn thuần, một ý thức nổi loạn. Mỗi đứa trẻ đều
cần một xương sống đứng thẳng như thế. Đức Chúa Trời đã răn đe Adam rằng:
"Đừng ăn trái cây này. Đây là cây tri thức." Và Adam đã ăn trái cây
đó. Tôi cho rằng bất cứ ai có linh hồn đều cũng sẽ làm một việc giống y như thế.
Nếu Adam là một thi hài biết thở, câm điếc dở hơi, y sẽ tuyệt đối vâng lời. Chắc
là Adam đã bị thử thách; mà thật ra, đây là một dụng ý từ đầu. Bằng không, với
hàng triệu triệu cái cây trên trái đất này -hãy tưởng tượng xem, nếu Đức Chúa
Trời không chỉ ra một cái cây đặc biệt nào thì chắc là Adam khó mà tìm ra được
nó, vô phương! Nhưng bởi vì đây chỉ là một cái cây duy nhất trong vườn địa
đàng, và cái ngôi vườn của Đức Chúa Trời thì bao la vô cùng vô tận. Đây chỉ là
một cái cây duy nhất, và ngài phán, "Đừng ăn trái cây này. Nếu ngươi ăn
trái cây tri thức, ngươi sẽ bị trục xuất."
Theo nhận định của cá nhân tôi thì, Đức Chúa Trời đã đặt ra
một thử thách đối với Adam. Người muốn xem thử Adam còn sống hay đã chết. Người
muốn thử xem Adam có đủ khả năng để bất tuân phục, để trả lời không hay không
-hay ông ta là một con người chỉ biết vâng dạ, một "yes-man". Và Adam
đã chứng tỏ cho thấy cái dũng khí của mình: ông ta đã ăn trái cấm. Ông ta đã sẵn
sàng để được quẳng vào trần gian, nhưng đồng thời đã biểu lộ cái ý chí của
mình. Đó không phải là tội lỗi mà rất can đảm.
Mỗi đứa trẻ rồi phải bất phục tùng người cha của mình vào một
ngày nào đó. Mỗi đứa trẻ rồi phải bất phục tùng người mẹ của mình một ngày nào
đó. Thật ra, cái ngày mà bạn bắt đầu không vâng lời, đó cũng là ngày bạn bắt đầu
lớn khôn -chưa bao giờ trước đó. Thế nên chỉ có những đứa trẻ đần độn là chẳng
bao giờ biết đến chuyện bất phục tùng. Còn những đứa trẻ thông minh, chắc chắn
là sẽ không chịu nghe lời một cách dễ dàng, trái lại còn tìm đủ một ngàn lẻ một
cách để qua mặt cha mẹ. Bạn có thể thấy chuyện này nhan nhản chung quanh: những
trẻ thông minh thường bất trị. Bởi vì y phải trưởng dưỡng cái linh hồn của
chính mình -còn nếu như y cứ tiếp tục vâng lời, vâng lời và vâng lời, bao giờ
thì y mới lớn khôn đây? làm cách nào để y lớn khôn được? Y sẽ luôn là một tên đần
độn và què quặt. Y sẽ không bao giờ có được cái hồn, cái nết riêng.
Không, Adam chẳng hề phạm tội gì cả; Adam là ông thánh đầu
tiên. Ông ta đã bất tuân phục Đức Chúa Trời và đó là điều mà ngài muốn như vậy.
Đó chính là thánh ý Chúa -rằng Adam nên bất tuân phục người. Cãi lời Chúa, Adam
sẽ bắt đầu một cuộc viễn du vào cõi trần gian hệ lụy; ông ta sẽ đánh mất thời
thơ dại đầu tiên của mình. Và rồi ông ta sẽ mắc phải không biết bao nhiêu lầm lỗi,
và sẽ học hỏi thêm từ đó.
Rồi đến một ngày ông ta sẽ quay về -như Chúa Giêsu, như Đức
Phật, như Mahavira, như Krishna, ông ta sẽ quay về.
Bỏ ra đi là một bắt buộc để quay trở về. Điều này thực sự
không có gì gọi là chống lại Chúa mà là điều do Chúa hoạch định, muốn được xảy
ra. Tuyệt đối như thế. Thế nên tôi không cho đây là một tội lỗi. Tại sao Adam bị
gọi là kẻ tội lỗi? Đó là vì những loại tôn giáo của bạn đã nương tựa vào việc gọi
bạn là những kẻ tội lỗi, vào việc lên án bạn. Càng bị lên án chừng nào, bạn sẽ
phải qùy xuống hôn chân họ chừng nấy. Càng bị lên án chừng nào, bạn sẽ càng bò
lê trên trái đất và van xin họ chừng nấy. Càng bị lên án, bạn càng trở nên sợ
hãi. Càng sợ hãi chừng nào, bạn càng cần đến những kẻ trung gian, những thừa
sai.
Bạn không biết Chúa Trời đang ở nơi đâu. Nhưng các ông giáo
sĩ của bạn biết, ông giáo hoàng của bạn biết, họ có đường dây trực tiếp với
Chúa. Nếu họ can thiệp, và chỉ có họ can thiệp, bạn mới được cứu rỗi -bằng
không, toàn bộ cuộc đời của bạn chỉ là tội lỗi và tội lỗi. Chỉ có họ mới có khả
năng thuyết phục Chúa để cứu rỗi bạn. Đây là toàn bộ mánh khoé, mánh khoé của
giáo sĩ. Giáo sĩ không là một người tín ngưỡng mà thực sự là một con buôn -làm
dịch vụ trên danh nghĩa của tôn giáo, khai thác tôn giáo.
Cái nghề tệ hại nhất trên thế gian này không phải là nghề
gái điếm, cái nghề tệ hại nhất là giáo sĩ.
"Tại sao ông ta không giống như Theseus, Jason hay
Hermes?" Ông ta giống như vậy. "Ý niệm về tội lỗi phải chăng chỉ là một
trò gạt gẫm? Có phải mục đích chỉ là để làm cho con người phải quán tưởng về
nó?"
Vâng, đó là một mánh khoé, nhưng không phải là để làm cho
con người quán tưởng mà là để biến họ thành những kẻ nô lệ. Quán tưởng là một
chuyện hoàn toàn khác biệt. Quán tưởng không xuất phát từ sợ hãi mà bắt nguồn từ
hiểu biết, từ yêu thương, từ từ bi vô hạn. Quán tưởng xuất phát từ sống trọn đời
bạn trong mọi thời tiết, trong suốt bốn mùa. Nhìn sâu vào từng mảnh đời sống,
hiểu nó -nếu nó vô nghĩa, liệng bỏ đi; nếu nó có ý nghĩa, giữ nó lại- từng tí một,
bạn tiếp tục góp nhặt những gì thiết yếu và liệng bỏ những gì không cần thiết.
Cả hai đều cùng có mặt ở đó. Vỏ trấu và hạt lúa. Bông hồng và cỏ dại. Cả hai đều
cùng có mặt. Vấn đề đặt ra cho con người là cần phải biết phân biệt đâu là thóc
đâu là trấu để liệng trấu và nhặt thóc.
Cái thông minh tối thiểu nầy cần phải có, bằng không, bạn
không thể nào trở thành một con người tín ngưỡng. Những nỗi sợ hãi này không
mang đến cho bạn hiểu biết. Thực ra chúng là những đám mây che mờ trí tuệ, làm
cho bạn hoang mang hơn về đời sống. Chúng không cho phép bạn thể nhập vào cuộc
đời một cách trọn vẹn để thể nghiệm nó -chúng chống lại kinh nghiệm cá nhân.
Thiền quán đến với bạn khi bạn thực sự sống và khi bạn thấy
được đời sống nguyên trạng như nó xảy ra. Không phải bởi vì Đức Phật cho rằng
sân hận là điều bất thiện -để rồi bạn lặp lại như con vẹt, như con mọt sách; điều
này chẳng giúp ích gì cho bạn cả- mà bạn phải nhìn sâu vào cơn giận của mình, từ
đó sự hiểu biết khởi dậy, rằng sân hận là vô nghĩa, là chất độc. Cũng không phải
vì Krishna cho rằng, "Hãy trao tất cả vào tay Thượng Đế, hãy quy phục
ngài" rồi bạn nghe theo một cách mù quáng -không phải vậy, theo đúng lời của
Krishna bạn sẽ không bao giờ vươn tới Thượng Đế- thế nhưng bạn phải thấy được bằng
cách nào mà cái ngã của bạn đã tạo ra tất cả mọi khổ đau, bất hạnh cho bạn.
Thấy được như vậy, một ngày nào đó bạn sẽ buông bỏ cái ngã
và nói với mình, "Bây giờ thì tôi sẽ sống một cách trọn vẹn trong Thượng Đế.
Bất cứ điều gì Thượng Đế muốn thông qua tôi, sẽ xảy ra. Tôi không còn bất cứ
tham cầu nào của riêng mình. Tôi không còn ý nguyện nào của riêng mình. Tôi
buông bỏ mọi ý nguyện.
Thấy rõ được khổ đau mà cái ngã mang đến, sự buông bỏ khởi dậy.
Thấy rõ sự bất hạnh mà sân hận mang lại, sự thương yêu khởi dậy. Thấy rõ được
khổ đau mà dục tình mang lại, sự phạm hạnh khởi dậy -brahmacharya, độc thân. Thế
nhưng con người phải kinh qua nó -không hề có con đường tắt, và những điều này
cũng không thể được vay mượn từ bất cứ ai.
Câu hỏi thứ hai:
Tại sao ngài cứ khẳng định mãi về sự phi lý quá mức như
thế? Có gì sai trái với chuyện hợp lý?
Bởi vì cái gọi là hợp lý chưa đủ hợp lý. Đó chính là sự sai
lầm. Nếu bạn là con người thực sự thuần lý bạn sẽ thấy có không biết bao nhiêu
điều phi lý trong đời sống. Là một người thuần lý, làm sao y có thể tránh không
nhìn tới những cái phi lý này? Một người thuần lý nhất định là sẽ rơi tỏm vào
bao nhiêu sự kiện phi lý.
Tình yêu của bạn cũng là một phi lý. Bạn yêu một cô gái, bạn
không thể nào tìm ra lý lẽ cho việc này. Có thể đơn giản bạn chỉ nhún vai và bảo,
"Nó xảy đến như vậy." Hoặc giả bạn tìm ra một vài lối giải thích khác
-bạn sẽ nói rằng nàng xinh đẹp, hoặc lý do nọ lý do kia. Thế nhưng có thể đối với
kẻ khác, nàng không xinh đẹp chút nào; không có ai tương tư nàng cả. Như vậy
đây không phải là một trường hợp đơn giản -không phải là vì nàng xinh đẹp mà bạn
yêu nàng. Sự thực nằm ở một nơi khác -bởi vì bạn yêu nàng, thế nên nàng trở nên
xinh đẹp. Rồi một ngày nào đó, khi kết hôn với nàng, bỗng dưng bạn thấy nàng
không còn xinh đẹp nữa. Thế là bạn bắt đầu suy nghĩ, "Ta có khùng không? Tại
sao ta lại đi yêu người đàn bà này?" Lúc đó có thể bạn sẽ cho rằng nàng là
người phụ nữ tệ hại nhất trên thế gian này.
Vợ và chồng không bao giờ trông tuyệt vời trước mắt nhau -bởi
lẽ cái tình yêu đó, cái mà người ta gọi là tình yêu, cái ảo tưởng đó, đã mòn
rách một cách mau chóng. Nếu bạn không bao giờ lấy được người mình yêu bạn có
thể yêu nàng đến trọn đời -chuyện thường là như thế. Đó là lý do tại sao Majanu
cứ không ngừng yêu đương và than khóc, "Laila, Laila, Laila!" -bởi vì
y đã không thể lấy được nàng. Tuy nhiên thực ra y là một người may mắn. Những
ai lấy được nàng Laila của mình, họ biết rằng một khi bạn có nàng lúc đó bạn lại
cầu Trời khẩn Phật, "Làm sao để thoát khỏi nàng đây?"
Chuyện gì đã xảy ra? Đây không phải là vấn đề nhan sắc -có một
cái gì đó nghịch lý ở trong bạn, một cái gì đó lắng sâu trong vô thức mà bạn
không nhận ra đã chiếm lĩnh bạn.
Bây giờ thì ngành tâm lý học về vô thức đã đào sâu hơn vào vấn
đề này. Mỗi đứa trẻ, trai hay gái đều mang trong người hai loại nhân cách -nhân
cách của người mẹ và nhân cách của người cha, bởi vì một đứa trẻ được cấu thành
bởi hai yếu tố tâm sinh lý. Đó là một tổng hợp của hai con người, hai nhân cách
-một phần nào đó của người cha và một phần nào đó của người mẹ. Nếu đứa trẻ là
trai, phần mẫu-tính trong y sẽ không ngừng tìm kiếm những người nữ gần giống với
mẫu người đàn bà trong vô thức của y. Mẫu người này chẳng ai xa lạ, chính là phần
mẫu- tính ở trong bạn. Thế rồi khi có ai đó xứng hợp với mẫu người đàn bà ở trong
bạn, bạn yêu ngay người đó -thế nhưng đây là chuyện phi lý hoàn toàn.
Chuyện xảy ra cũng giống y như vậy khi bạn yêu một người đàn
ông. Bạn mang theo hình ảnh của người cha trong vô thức -và rồi khi có ai đó xứng
hợp với cái hình ảnh đó... Nhưng sẽ không có ai ăn khớp hoàn toàn với cái hình ảnh
này cả, vấn nạn là ở đây. Bạn sẽ không có được cha mình như một người chồng;
cha bạn không thể là chồng bạn, mẹ bạn không thể là vợ bạn.
Và không có hai cá nhân nào lại giống y nhau -đây cũng là một
vấn nạn. Thế nhưng bạn lại cứ đang chạy đi tìm kiếm hình ảnh của mẹ mình một
cách vô thức. Khi bỗng dưng bạn thấy một cô gái nào đó hạp nhãn với mình, đó
chính là hình ảnh của mẹ bạn -nàng giống với mẹ bạn ở một phương diện nào đó.
Nhưng chỉ một vài phương diện nào đó thôi. Có thể là giọng nói, có thể là màu mắt,
có thể là mái tóc của nàng. Hơặc có thể là dáng đi. Nhưng bạn không hề biết, bạn
không hề ý thức được điều đó. Nó tiềm ẩn trong vô thức -nó ẩn dấu trong tận
cùng sâu thẳm. Và bạn yêu nàng. Thế nhưng không hề có bất cứ người đàn bà nào
có thể giống hệt y như mẹ bạn, nên không sớm thì muộn mọi chuyện bắt đầu xảy ra
chẳng giống với mẹ bạn chút nào. Rồi xáo trộn bùng nổ - mùa trăng mật chấm dứt.
Đây là những sự kiện nghịch thường. Con người, nếu thực sự
thuần lý, nhất định sẽ rơi tỏm vào những sự kiện vô cùng phi lý như thế. Cho dù
nhà toán học, luận lý học vĩ đại nhất của bạn khi yêu một người nữ, cũng sẽ rơi
vào sự nghịch lý, hoàn toàn nghịch lý.
Tại sao tôi lại chú trọng quá mức đến chuyện nghịch lý? Bởi
vi đối với tôi, lý trí chỉ mới nằm ở khoảng giữa. Ở dưới lý trí là phi lý -sự
phi lý của vô thức. Và ở trên lý trí cũng lại là phi lý -sự phi lý của siêu thức.
Và tâm thức chỉ là một cái tâm rất nhỏ, cực nhỏ. Nằm ở phía dưới nó là cả một đại
dương: dục tình, sân hận, tham lam, chiếm hữu, ganh tỵ, bạo động -toàn bộ cái
quá khứ súc vật nằm ở đó. Cái quá khứ súc vật hiện hữu trong vô thức của bạn là
tuyệt đối phi lý.
Thỉnh thoảng bạn có để ý không? -khi một con người giận dữ
thực sự, y có vẻ giống với súc vật hơn là người. Khi một người đàn ông thực sự
nổi cơn thịnh nộ, y sủa như một con chó, gầm thét như con sư tử, nhảy như cọp,
thái độ cư xử chẳng khác gì một con khỉ. Đó là lý do tại sao sau cơn giận, bạn
sẽ không khỏi cảm thấy bối rối ngượng ngùng và ngỏ lời, "Xin lỗi". Và
bạn sẽ nói thêm, "Mặc dù tôi ... tại sao nó đã xảy ra như vậy, tôi không hề
biết." Thực ra nó đến từ phần dưới, từ căn tầng hầm trong con người của bạn;
nó đã ngự trị bạn.
Nằm ở phía dưới lý trí của bạn là một đại lục rộng lớn của
phi lý. Những súc vật, cỏ cây, sỏi đá cùng có mặt ở đây -đó là toàn bộ quá khứ.
Đó cũng là ý nghĩa đích thực của lý thuyết cho rằng bạn đã tái sanh trong vô
vàn kiếp khác nhau. Có đến tám mươi bốn ngàn loại sinh -yonis- bạn đã sống qua
tám mươi bốn ngàn kiếp trong những cảnh giới khác nhau. Có lúc nào đó bạn trì
trệ như một tảng đá -một phần của sỏi đá vẫn còn được mang theo trong vô thức của
bạn. Một lúc nào đó bạn đã là một cái cây -phần cỏ cây vẫn còn được tiếp tục
mang theo trong bạn, cả hoa lẫn gai. Bạn đã là một con chó, con cọp, con chồn...
Tất cả đều được mang theo cùng với bạn –chúng luôn có mặt ở đó, chồng chất lên
nhau. Bất cứ lúc nào bạn đánh mất lý trí, phần phi lý chỗi dậy và chiếm trọn bạn.
Nằm ở bên trên, là phần siêu thức. Đó cũng là phần phi lý.
Thượng Đế dấu mặt ở đó. Tầng dưới là tầng súc vật, tầng trên là Thượng Đế. Nếu
bạn rơi xuống dưới mức con người, bạn trở thành súc vật, nếu bạn vượt lên trên,
bạn trở thành bậc thánh. Người ta sợ hãi chuyện phi lý bởi vì họ chỉ biết đến một
loại phi lý duy nhất -ở tầm mức dưới con người. Còn tất cả những tôn giáo lớn
thì chỉ dạy về cái phi lý ở tầng trên. Bạn phải đi vượt cao hơn chính mình. Bạn
phải buông bỏ nền tảng luận lý của mình.
Khi bạn giận dữ nó xảy ra, bạn rơi xuống dưới tầng lý trí.
Khi bạn thiền định nó cũng lại xảy ra, bạn vượt lên trên tầng lý trí -nhưng
trong cả hai trường hợp bạn đều đi vượt ra ngoài lý trí. Khi một người điên
khùng, y không còn lý trí. Khi một người trở thành bậc thánh, y vượt lên khỏi
lý trí. Đó là lý do tại sao thánh nhân và người khùng có một chút gì đó giống
nhau -một điểm tương đồng tối thiểu: Tâm của cả hai không dựa trên lý trí. Dưới
tầng lý trí là một đại lục mênh mông của phi lý tính. Ở trên tầng lý trí là
nguyên cả một bầu trời vô tận của thánh linh.
Và Thiền đặc biệt là phi lý. Bạn không thể hiểu được nó bằng
lý trí của mình.
Tôi vừa mới đọc một cuốn sách của Aldous Huxley (4). Ông ta
kể chuyện về một Thiền sư Trung Hoa: "Vị Thiền sư Trung hoa, Kaizenji, cho
tổ chức một buổi trà đàm vào một đêm giá lạnh. Ông bảo đồ chúng, 'Có một cái gì
đó. Nó đen như là mực tàu. Nó chống đỡ trời đất. Nó luôn luôn hiển hiện ra
trong hoạt động, nhưng không ai có thể nắm bắt được nó. Này đồ chúng, làm thế
nào các ngươi nắm bắt nó đây?'
"Ông ta đang ám chỉ đến bản thể của tathata -chân như-
hay Đạo, hay Pháp. Ông ta đang ám chỉ về bản thể của hiện hữu tự thân. Ông ta bảo,
'Có một cái gì đó...' Một cái gì đó, có nghĩa là không cách gì có thể mô tả
rành
rẽ được, chỉ ra được, nó rất mực rộng lớn. 'Nó đen như là mực
tàu' -chẳng khác gì đêm ba mươi. Bạn có thể lạc lối, chìm lỉm mất tăm ở trong
đó. Nó không giống như ánh sáng, nó giống với bóng tối hơn. Tại sao? Bởi vì dưới
ánh sáng, mọi sự phân biệt rất rõ ràng: Bạn biết đó là cái cây hay cái trụ, đàn
ông hay đàn bà -bạn nhận ra sự khác biệt.
Dưới ánh sáng, muôn màu muôn vẻ hiện ra. Trong bóng tối, chỉ
một màu duy nhất. Nếu bổng dưng trời sụp tối, bạn tìm ra đâu là cái cây, cột trụ,
đàn ông, đàn bà? Tất cả đều biến mất trong nhất thể. Đó là tathata - đó là chân
như, là Đạo, là Pháp, là chân lý, hay Thượng Đế ... Bạn muốn gọi tên nào cũng
được -tất cả đều giống nhau, tất cả đều có cùng một ý nghĩa, tất cả đều chỉ là
những ẩn dụ.
"Nó chống đỡ trời đất. Nó luôn luôn hiển hiện ra trong
hoạt động, nhưng không ai có thể nắm bắt được nó. Này đồ chúng, làm thế nào các
ngươi nắm bắt nó đây?" Ông ta đang ngụ ý đến bản thể của chân như, dĩ
nhiên là một cách ẩn dụ...'
Và đây cũng không phải là một câu hỏi bình thường. Các vị
Thiền sư thường nêu ra những câu hỏi trong những tình huống đặc biệt. Ở đây mọi
chuyện đã khá rõ ràng. Trời đang rất mực giá lạnh ngoài kia, tiệc trà đã sẵn
sàng, ấm trà sôi sòng sọc, mùi trà thơm bay thoang thoảng khắp căn phòng, ông
thầy đang ngồi đó với đám môn đệ, và đột nhiên ông giáng xuống họ một câu hỏi.
Thật là hoàn toàn bất ngờ. Bây giờ đâu phải là lúc nói đến những chuyện triết
lý xa vời; trời đang giá lạnh ở ngoài kia và họ đang mong chờ được uống một
tách trà nóng. Và tiệc trà đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng lại kèm theo một câu hỏi
cực kỳ hóc búa và nguy hiểm, bởi vì nếu bạn trả lời bậy -đây là cách dạy đồ
chúng của những vị Thiền sư- ông thầy sẽ đuổi bạn trở về nhà ngay lập tức. Tiệc
trà sẽ được chấm dứt ngay cả khi nó chưa được bắt đầu.
"Tất cả môn đồ của Kaizenji chẳng ai biết cách trả lời
câu hỏi này như thế nào." Không phải là vì họ không thể nói ra những triết
lý cao thâm, không phải là họ không
biết cách diễn lời đạt ý -họ có những khả năng đó. Thế nhưng
một vị Thiền sư không hỏi đến những lời, ông ta hỏi đến tuệ giác của bạn. Trừ
phi bạn thân chứng, bạn nếm trải qua, bạn không thể nào nói lên được gì cả -và
tất cả những gì mà bạn nói ra cũng chỉ hoàn toàn vô nghĩa thôi. Lý trí có thể đề
xuất ra nhiều giải đáp, thế nhưng tất cả sẽ không được chấp nhận. Câu trả lời
giải được phát xuất từ kinh nghiệm hiện sinh.
"Cuối cùng một người trong đồ chúng, Tai Shuso, đã thử
đánh liều: 'Ta không nắm bắt được nó vì ta đã cố gắng nắm bắt nó trong lúc động.'
Tai Shuso muốn ngụ ý rằng khi một người thiền quán trong tĩnh lặng, tathata sẽ
xuất hiện trong y."
Anh ta cho rằng nếu bạn tĩnh lặng, không động, nếu tâm bạn
không chạy nhảy lăng xăng -tất cả đều ngưng đọng, tâm trụ lại, không có bất kỳ
một hoạt động nào, hoàn toàn vô-vi, bất động -nó sẽ xuất hiện. Cái Đạo đó, cái
hiện hữu đó, cái Thượng Đế đó sẽ tràn ngập bạn. Với tâm viên ý mã, không ngừng
hoạt động, bạn không thể nào nắm bắt được nó. Nhưng khi cái tâm đã an trụ, nó sẽ
đến một cách tự động. Bạn không thể nắm bắt nó khi bạn cố gắng để nắm bắt; bởi
vì nỗ lực nắm bắt đồng nghĩa với hoạt động. Thế nhưng nó sẽ đến với bạn khi bạn
chỉ như là một cái đồ chứa, một cái dạ con. Nó sẽ đến trong trạng thái âm tính
bất động, đón nhận. Anh ta đã trả lời rất mực luận lý. Thế nhưng ...
"Kaizenji huỷ bỏ tiệc trà trước khi nó thực sự bắt đầu.
Ông ta hoàn toàn không hài lòng với câu trả lời."
Đây là một câu trả lời thuận lý, nghe rất được -và bạn sẽ
cho rằng đây là câu trả lời đúng. Thế nhưng nó chỉ đúng một nữa. Trừ phi
tathata -chân như- có thề nắm bắt được cả trong hoạt động, cái tathata này
không phải là một nhất thể, trọn vẹn. Nếu bạn không thể tìm thấy Thượng Đế ngay
ở ngoài chợ mà chỉ ở trong một hang động sâu thẳm nào đó tại Hy Mã Lạp Sơn thì
cái ông Thượng Đế này chỉ là một nửa Thượng Đế. Mà một nửa Thượng Đế có nghĩa
là một Thượng Đế chết. Bạn không thể phân chia được Thượng Đế; bạn không thể
nói rằng khi bạn đang thiền định trong một hang động tại Hy Mã Lạp Sơn, nó có mặt
ở đó. Nó khởi dậy -bạn không cần nắm bắt nó, ngược lại, nó nắm bắt bạn.
Đây là điều mà nhiều người đã từng làm. Họ bảo rằng,
"Thoát ly, rời bỏ thế gian. Không thể có Thượng Đế ở đây: Hãy tìm đến Hy
Mã Lạp Sơn." Thế nhưng cái yên tĩnh đó là của Hy Mã Lạp Sơn -chẳng hề can
dự gì đến Thượng Đế. Đó là cái yên tĩnh của hang động. Khi quay về với thế
gian, vớí con đường ốn ào bụi bặm M.G. Road của Poona này, sau ba mươi năm ngồi
lặng yên trong động đá - tất cả cái tĩnh lặng của bạn, tất cả những thành tựu của
bạn cũng đều cuốn theo chiều gió, chấm dứt.
Đó là lý do tại sao những người ẩn cư trốn lánh cuộc đời trở
nên sợ hãi thế gian -họ không muốn trở lại chốn này, họ chỉ muốn bám víu vào những
hang động. Đây là chủ nghĩa thoát ly. Và đây không phải là Thượng Đế mà bạn chỉ
tìm thấy trong những hang động. Thượng Đế có mặt khắp mọi nơi. Thượng Đế phải
như thế, ở khắp nơi. Ngay cả giữa chợ, ông ta cũng rộn ràng sống động như ở
trong Hy Mã Lạp Sơn. Ở Hy Mã Lạp Sơn ông ta yên lặng, ở giữa chợ thì ông ta lại
náo nhiệt, ồn ào -hiện hữu ở khắp nơi. Khi bạn ngồi yên, ông ta ngồi yên, khi bạn
chạy, ông ta chạy theo -luôn luôn có mặt ở đó.
Câu trả lời của người học tăng rất là hợp lý, nhưng không phải
toàn bộ; lý trí không thể đưa ra lời giải đáp cho tổng thể, toàn bộ. Lý trí chỉ
biết chia cắt, phân tích, mổ xẻ -ngay cả Thượng Đế cũng bị đem ra mổ xẻ. Thượng
Đế không thể bị cắt ra từng mảnh. Ngay cả khi bạn vô minh, Thượng Đế cũng vẫn
có đó ở trong bạn. Thượng Đế chính là cái vô minh của bạn -còn ai khác đâu? Khi
bạn hiểu biết, Thượng Đế là cái hiểu biết của bạn. Thượng Đế là vô minh và cũng
là giác ngộ của bạn. Đó là điều mà Đức Phật đã nói trước đây: Ta bà là niết bàn.
Đó là nhất thể; hai khía cạnh của cùng một sự kiện.
Đừng chia cắt -khi chia cắt, bạn đánh mất nó hoàn toàn.
Vị thiền sư đã hủy bỏ tiệc trà. Aldous Huxley đã có lời bình
luận về chuyện này. Ông ta nghĩ rằng -A. Huxley là một triết gia lớn- nếu ông
ta có mặt ở tiệc trà đó, ông ta cho rằng mình có thể đã đưa ra một câu trả lời
hay ho hơn. Ông ta sẽ trả lời như thế nào? Đây là ý kiến của Huxley, "Theo
phỏng đoán của tôi, cái tiệc trà kia có thể đã được kéo dài lâu hơn, tối thiểu
là cũng trong vài phút, nếu Tai Shuso đã trả lời như sau: 'Nếu tôi không thể nắm
bắt chân như trong lúc động, thì hiển nhiên là cái "Tôi"này phải
ngưng hiện hữu , như vậy chân như mới có thể nắm bắt được cái tôi-cũ trước đó để
hiệp nhất với chính nó -không phải trong bất động và tĩnh lặng hoàn toàn của
thiền định -như xảy ra cho những vị a la hán- nhưng đồng thời cũng ở trong lúc
động -như xảy ra cho những vị bồ tát, những người mà cảnh giới ta bà và niết
bàn đều chẳng khác gì nhau."'
Câu trả lời này thì còn tệ hơn nữa. May mắn là Aldous Huxley
không có mặt ở đó, nếu không chắc là ông ta đã bị ăn đòn! Vị Thiền sư đã hủy bỏ
tiệc trà, chỉ đơn giản có thế. Hành động này là một bày tỏ kính trọng đối với
người học tăng đã trả lời câu hỏi. Những vị Thiền sư luôn luôn để sẵn một cây gậy
ở bên cạnh mình, và dĩ nhiên sẽ vung lên đánh nếu cần. Nhiều khi họ đập học trò
không có một lý do nào rõ ràng. Tuy nhiên có một điều luôn xảy ra: Nếu họ thấy
bạn đã nhồi nhét vào đầu mình quá nhiều thứ, họ sẽ gõ vào đầu bạn, như bảo rằng,
"Hãy trút hết ra." Thông điệp của họ là, bạn phải đi sâu hơn hay cao
hơn cái đầu chứ đừng bám vào cái đầu.
Câu trả lời này thì nặng về đầu óc quá. Một sự phỏng đoán sẽ
chẳng giúp ích được gì cho ông đâu, ông Aldous Huxley ạ. Ông ấy bảo rằng,
"Theo phỏng đoán của tôi." Phỏng đoán sẽ không làm nên chuyện! -chỉ
có thân chứng mà thôi. Không ai có thể phỏng đoán; không ai có thể giả thiết rằng,
"Câu trả lời này may ra có thể giải quyết vấn đề." Không bao giờ,
chuyện phỏng đoán vẫn chỉ là phỏng đoán -đó là vấn đề của lý luận. Đó là chuyện
của cái đầu, của cái tâm. Aldous Huxley chắc chắn là đã bị một trận đòn nên
thân -câu trả lời nặng mùi triết lý này sẽ không thể nào được dung thứ bởi một
vị Thiền sư.
Đó là lý do tại sao tôi cứ khẳng định quá mức về đỉnh cao
phi lý như thế. Tôi muốn bạn phải vượt lên trên cái đầu của mình. Hãy luôn luôn
thử làm một thí nghiệm nhỏ sau đây: Bạn hãy đứng trước một tấm gương soi và tập
trung suy nghĩ rằng mình không có cái đầu. Làm như thế hằng ngày -hai mươi
phút, ba mươi phút, bốn mươi phút- đứng trước tấm gương nhìn thẳng vào cái đầu
và nhủ thầm, "Tôi không có một cái đầu nào cả." Trong vòng hai hay ba
tháng, một ngày nào đó bỗng dưng bạn thấy rằng cái đầu biến mất: bạn đang đứng
đó trước tấm gương, không đầu. Lúc đó bạn sẽ biết được câu trả lời như thế nào
-bạn không thể tìm ra trước đó; bạn cũng không thể phỏng đoán. Tôi cũng biết được
câu trả lời nhưng tôi sẽ không nói ra. Bởi vì nó không thể nói được bằng lời.
Dĩ nhiên ông thầy không chờ đợi một câu trả lời có bài bản lớp
lang; những môn sinh đã phải làm một cái gì đó. Họ phải phản ứng ngay lập tức
trong một cách thế nào đó; họ phải biểu lộ ra. Một thiền sinh nào đó phải tỏ
bày ra -tức thì, lúc bấy giờ và ngay ở đó, bằng phản ứng, qua con người hiện
sinh của y- rằng chân như đang hiện hữu ở đó. Và bạn đừng hòng qua mặt, gạt gẫm
ông thầy -nếu nó không có ở đó có nghĩa là nó không có ở đó. Nếu nó hiện hữu,
ông thầy lập tức cảm nhận ra ngay.
Chuyện thường xảy ra là -một thiền sinh đến tham vấn ông thầy
và được ông thầy giao cho một công án. Công án là một phương pháp đẩy bạn đến
chỗ phát khùng lên. Đó là một câu đố bí hiểm không lời giải đáp -không thể có
câu trả lời, câu trả lời không hề hiện hữu. Người thiền sinh biết chuyện đó,
ông thầy biết chuyện đó, rằng sẽ không hề có câu trả lời. Thế nhưng người thiền
sinh phải nỗ lực để tìm ra lời giải đáp -hàng tháng trời như thế, có khi hàng
năm. Trừ phi bạn tìm ra câu trả lời, ông thầy sẽ không ban cho bạn bất cứ lời
giáo huấn, hướng dẫn nào khác. Công án phải được giải quyết. Người thiền sinh
biết rằng đây là chuyện phi lý -nhưng mà nó phải được giải đáp. Y đã từng nghe,
từng đọc và biết hai năm rõ mười rằng sẽ không có câu trả lời. Nhưng ông thầy bảo
rằng, "Đi về đi, phải tiếp tục tìm cho ra."
Thế rồi khi bạn cố gắng tìm câu trả lời cho một câu hỏi
không bao giờ có câu trả lời, lần hồi bạn sẽ bắt đầu phát khùng lên. Bạn càng cố
gắng chừng nào nó càng vuột đi chừng nấy. Tại Nhật bản, người ta gọi đó là bệnh
"điên-Thiền" và ngay cả giới bác sĩ cũng biết về căn bệnh này -bởi vì
thỉnh thoảng nó đã xảy ra cho một Thiền sinh nào đó và người nhà có thể đã mang
y đến gặp bác sĩ. Khi y phát khùng lên - y sẽ bắt đầu nói năng lảm nhảm, la
hét, run rẩy, làm những chuyện kỳ quặc mà không có một lý do nào cả. Có khi y lại
cười, khóc, hoặc nhảy múa lung tung và người nhà đành phải đưa y đến bác sĩ. Tại
Nhật, người ta hiểu biết về căn bệnh này.
Và căn bệnh này cũng nên được biết đến trên khắp thế giới.
Có thể là các trường đại học y khoa nên dạy cho giới bác sĩ một môn học đặc biệt
-rằng có những người thực sự không hề mất trí, điên loạn: đừng chữa trị cho họ,
bằng không bạn sẽ làm xáo lộn luôn cả cuộc đời họ sau này. Thuốc thang của bạn,
các phương cách trị liệu bằng giật điện, thuốc ngủ, thuốc chích đều rất nguy hiểm
đối với những người đang mắc bệnh "điên-Thiền". Với chữa trị, bạn sẽ
tiêu hủy luôn tất cả cái khả năng chứng ngộ tiềm ẩn của y. Tại Nhật, người ta
đã không chữa trị loại người này. Ngay khi nghi ngờ rằng người này bị bệnh
"điên- Thiền", công việc đầu tiên của họ là thẩm tra sự kiện:
"Người này có liên hệ với ông Thiền sư hay thiền viện nào không? Nếu có, dẫn
y đến gặp vị Thiền sư hay thiền viện đó. Họ không mang y đến bệnh viện hay bác
sĩ."
Một công án Thiền tạo ra chứng rối loạn thần kinh giả. Mỗi
người đều mang sẵn trong mình chứng rối loạn thần kinh. Nó bị ức chế lại -nó chẳng
khác gì một ngọn núi lửa và chúng ta đang ngồi ở trên đỉnh. Và rồi cái công án
kia, cái câu đố hóc hiểm đó cứ không ngừng kích thích, thúc bách nó -cho đến một
ngày bỗng dưng cái núi lửa kia bùng nổ. Thế là bạn không còn kiểm soát được
mình nữa; bạn vượt ra ngoài sự tự chế. Bạn không thể tự mình kiềm chế; tất cả
lý trí của bạn vỡ vụn ra từng mảng. Đó là một sự nổ bùng, bắn tung bạn ra xa,
thật xa. Bạn sẽ không còn là bạn trước đây; một cái gì đó rất mực mới mẻ đã xảy
ra trong bạn.
Cái cơn điên-Thiền này chính là lời giải đáp. Ông Thầy sẽ bảo,
"Tốt lắm. Nó đã xảy đến rồi. Hãy chờ đi, kiên nhẫn một tí." Trong ba
tuần, bốn tuần, nhiều lắm là sáu tuần, người này chỉ làm một công việc đơn giản
là chờ đợi. Y không làm gì cả, ăn ngủ, tắm rửa theo nhu cầu. Y được để yên một
mình trong cái cốc nhỏ, xa cách mọi người. Không ai đến thăm viếng, trò chuyện,
khuyên bảo y bất cứ điều gì. Y chỉ việc thư giản, tắm nắng, nằm lăn dài trên cỏ.
Được để yên một mình, y sẽ làm bất cứ điều gì mà y thấy thích. Khi muốn nhảy
múa, y sẽ nhảy múa; khi muốn la hét, y sẽ mặc tình la hét.
Chỉ có một chuyện cần được chăm sóc -là không để cho y làm bất
cứ hành động bạo động nào có hại cho bản thân y. Thông thường thì chuyện này
không hề xảy ra. Chuyện quá độ là điều rất hiếm -chỉ chừng một phần trăm là nhiều.
Tuy nhiên sự săn sóc này phải đuợc quan tâm - ông thầy và những thiền sinh khác
phải để mắt theo dõi y từ đàng xa để cho không một hành động bạo động nào có thể
xảy ra cho y cũng như người khác, thế thôi.
Trong vòng ba tuần, sáu tuần, mọi việc đều lắng xuống. Y sẽ
xuất hiện với một khuôn mặt mới -khuôn mặt nguyên thủy của y. Tươi mát như những
giọt sương mai. Đôi mắt thật hồn nhiên vô tư. Y đã kinh qua cơn điên, vượt khỏi
cơn điên, đã đi vào cõi siêu thức. Trước khi đi vào cõi siêu thức, bạn sẽ phải
kinh qua một cơn khủng hoảng như thế. Cơn khủng hoảng này đã do công án tạo
nên.
Cơn khủng hoảng này -mà tôi đang tạo ra ở đây- với rất nhiều
phương pháp. Người ngoài chỉ có thể nhìn thấy mà không thể hiểu được. Đây là một
cơn khủng hoảng Thiền. Khi thấy người ta khùng khùng, họ cho rằng ở đây đã làm
cho con người phát điên và đặt vấn đề, "Cái loại tôn giáo gì mà kỳ vậy?"
Nhưng họ làm sao mà biết được. Tín ngưỡng tôn giáo trên cơ bản là làm cho bạn
phát điên lên để bạn có thể vượt ra khỏi cơn điên. Một khi bạn đã kinh qua được
cái chướng ngại này, bạn sẽ không bao giờ còn điên nữa, bạn trở thành một con
người hoàn toàn mới. Bạn được khai sanh ra một lần nữa. Một ân sủng trùm phủ xuống
bạn, cùng với an lạc, bình ổn.
Câu hỏi thứ ba:
Tại sao Thiền được gọi là con đường của nghịch lý?
Một tôn giáo như Thiền phải là nghịch lý, không cách nào
khác hơn - bởi vì đời sống bao gồm những mâu thuẫn. Đối với chúng ta, chúng thoạt
trông có vẻ trái ngược - nhưng thật ra, không phải thế, chúng hỗ trợ lẫn nhau.
Bạn có trông thấy điều này trong kiến trúc của một mái vòm
không? Nhà kiến trúc cũng đã làm công việc y như thế, ông ta cho sắp xếp những
viên gạch đối chọi nhau, nếu không làm như thế, bạn không thể nào tạo nên một
cái vòng cung -và căn nhà sẽ sụp đổ. Một nữa số gạch quay về hướng này, và nửa
kia quay về hướng khác, nhưng cả hai đều có mặt ở đó. Chúng cũng cùng là một thứ
gạch giống nhau -bạn có thể xếp chúng quay mặt về một phía, và như thế cái mái
vòm sẽ sụp. Thế nhưng khi bạn xếp chúng đối nghịch nhau, một năng lượng lớn lao
được phát sinh ra. Cái năng lượng lớn lao đó biến thành sức mạnh.
Đó là lý do tại sao người nam và người nữ tạo thành đứa trẻ.
Một mình người nam không thể có sự sáng tạo. Một mình người nữ cũng thế. Những
viên gạch xếp đối chọi nhau tạo thành một mái vòm lớn; một năng lượng lớn lao
được khai sinh.
Đời sống và cái chết đối mặt nhau tạo nên toàn bộ cuộc chơi,
toàn bộ vở kịch, cái được gọi là leela. Đời sống, trong mọi chiều kích, đều nghịch
lý. Thế nên tôn giáo cũng phải là một nghịch lý. Nếu tôn giáo không nghịch lý
thì nó chỉ là một thứ triết lý nghèo nàn. Và như vậy nó chỉ là sản phẩm của con
người, do tâm tạo, một thứ học thuyết -không phải là tôn giáo.
Môt hôm vua Lương Vũ Đế mời Đại sư Phó Đại Sĩ đến giảng Kinh
Kim Cương. Ngay khi vừa bước lên pháp toà, vị pháp sư gõ mạnh chiếc dùi xuống
bàn một tiếng và bước xuống. Trong khi Lương Vũ Đế còn đang giật mình, vị pháp
sư hỏi nhà vua, "Thưa Hoàng đế, ngài có hiểu gì không?"
"Không hiểu gì cả," nhà vua trả lời.
Vị thánh tăng bảo, "Bồ Tát đã giảng xong kinh Kim Cương
rồi đó."
Vị pháp sư đã gõ mạnh chiếc dùi xuống bàn và nói, "Tôi
đã giảng xong thời pháp. Tôi đã nói tất cả những gì có thể nói được về Kinh Kim
Cương."
Kinh Kim Cương là một bộ Phật kinh quý giá và chỉ có một vị
Thiền sư mới có thể làm một chuyện như thế - một thái độ rất mực khác thường.
Thế nhưng hành động này lại chứa đựng vô vàn ý nghĩa; ông ta đã nói lên tất cả.
Bởi vì toàn bộ bộ Kinh Kim Cương chỉ lập đi lập lại một điều duy nhất, chỉ một
điều duy nhất mà thôi: Hãy tĩnh thức. Hãy tĩnh thức. Hãy tĩnh thức. Đó cũng là
toàn bộ thông điệp của chư Phật: Hãy tĩnh thức, đừng chìm đắm trong cơn mê ngủ
nữa.
Ở đây là cách thế của Thiền. Vị pháp sư đã gõ mạnh chiếc dùi
xuống bàn. Vị Hoàng Đế chắc là đang ngồi ở đó - ngái ngủ, mơ tưởng, tâm hồn
đang lăng xăng ở một nơi nào khác, một ngàn lẻ một nơi ngoại trừ nơi mà ông ta
đang ngồi. Bây giờ với việc gõ mạnh chiếc dùi lên bàn, bỗng dưng ông ta giật mình -ông ta trở nên tỉnh
táo, ít nhất là trong giây phút đó. Và thế là cái thông điệp đã được truyền
rao. Đây là cách truyền rao không lời.
Thế nhưng chưa hết -vị Thiền sư bảo tiếp, "Bồ Tát đã giảng
xong kinh Kim Cương rồi." Ông ta không nói rằng, "Tôi đã giảng xong bộ
kinh," nhưng lại nói, "Ông Phật đã giảng xong kinh rồi." Chỉ có
những người đã thể nhập hoàn toàn trong tịch tĩnh mới có thể nói rằng
-"Ông Phật đã giảng kinh qua tôi."
Một hôm khác, vị Hoàng đế lại cho triệu thỉnh vị thiền sư và
hỏi, "Bạch Thầy, vui lòng đến đây. Tôi đã không thể hiểu được lời giải
thích siêu việt đó -xin hãy trở lại một lần nữa."
Đắp y, đội mão tì lư, chân mang đôi hài, vị Bồ Tát đi đến
hoàng cung, và ở đó vị Hoàng Đế đã chờ đợi ngài với câu hỏi, "Có phải ngài
là một tăng sĩ?"
Bởi vì tăng sĩ Phật giáo không mang hài -mà vị Bồ Tát của
chúng ta lại mang hài thế nên nhà vua mới hỏi, "Có phải ngài là một tăng
sĩ?"
Để trả lời, vị Bồ Tát liền lấy ngón tay chỉ lên chiếc mão tì
lư. "Có phải ngài là một đạo sĩ?" nhà vua lại hỏi. Để trả lời, vị Bồ
Tát lại lấy ngón tay chỉ xuống đôi hài. "Thế thì có phải ngài là một cư
sĩ?" nhà vua hỏi tiếp. Lần này vị Bồ Tát liền lấy ngón tay trỏ vào bộ tăng
bào mà mình đang mặc.
Những gì mà Thiền sư Phó Đại Sĩ đang nói là: "Ta là tất
cả những cái đó mà cũng không phải những cái đó. Ngươi có thấy không, ta đội
chiếc mão của một ông hoà thượng. Ngươi thấy không, ta mang đôi hài của một vị
đạo sĩ. Làm thế nào mà ta là một cư sĩ được? Ngươi có thấy chiếc tăng bào của
ta không? Một biểu tượng của hạnh đầu đà đấy. Ta là tất cả những cái đó và cũng
không phải những cái đó."
Vị Hoàng đế trả lời, "Tôi không hiểu. Hôm qua tôi đã
không hiểu gì cả, và hôm nay cũng thế." Vị Thiền sư liền bảo nhà vua,
"Đây là lời giải thích cuối cùng của ta. Hãy lắng nghe -và ta sẽ không bao
giờ trở lại nữa. Nếu ngươi hiểu được, tức là ngươi hiểu được; nếu ngươi không
hiểu, tức là ngươi không hiểu." Xong, ông ta đọc bài kệ:
Người không tay đang cầm chiếc cuốc
Kẻ bộ hành đang đi cưởi trên mình trâu
Người đàn ông đang bước qua cầu
Cầu không nước chảy.
Sau đó vị Thiền sư rời hoàng cung và không bao giờ quay trở
lại nữa.
Những gì mà vị Thiền sư nói ra nghe rất mực phi lý - Người
không tay đang cầm chiếc cuốc. Làm thế nào mà kẻ không tay lại có thể cầm được
một cái gì đó? Tuy nhiên đó là những gì đang xảy ra. Cái đang nắm ở trong bạn
không có tay nhưng lại đang nắm giữ tất cả vạn pháp. Thượng Đế không có tay
nhưng lại đang hỗ trợ cả thế gian. Và trong tận cốt lõi sinh thể của bạn, bạn
không hề có tay -không tay, không chân, không đầu, vô sắc tướng. Thế nhưng bạn
lại đang cầm giữ cả một ngàn lẻ một thứ.
Kẻ bộ hành đang đi cưởi trên mình trâu. Ông ta bảo rằng: Kẻ
bộ hành đang ngồi trên mình trâu và đang đi. Có nghĩa là: Thượng Đế đang chở bạn,
bạn đang cưởi lên Thượng Đế -và bạn cứ nghĩ là mình đang đi.
Cũng giống như chuyện... Một kẻ hành khất đang băng ngang
qua đường khi chiếc xe ngựa của vị Hoàng đế vừa đi đến. Nhà vua cảm thấy thương
xót cho kẻ hành khất này -già cả hom hem, phố chợ thì ở xa, y phải rất khó nhọc
để lê thân đến đó- thế nên đã bảo y, "Hãy đến đây, leo lên ngồi trên xe của
ta."
Tên hành khất rất mực sợ hãi, nhưng khó mà cãi lệnh của một
vị Hoàng Đế. Y sợ hãi là phải -một tên hành khất làm sao dám ngồi chung xe với
một vị Hoàng đế? Thật vô cùng bối rối. Nhưng không thể nào từ chối được. Thế là
y leo lên xe, rón rén ngồi vào một góc -lòng đầy lo lắng, không biết chuyện gì
sẽ xảy ra- nhưng tay vẫn khư khư đội chiếc bị rách lên đầu.
Một lát sau, vị Hoàng đế không khỏi ngạc nhiên: "Tại
sao nhà ngươi lại không bỏ chiếc bị xuống sàn?" Và tên hành khất đã trả lời,
"Muôn tâu Hoàng Thượng, đội ơn Hoàng Thượng đã nhân từ cho tôi quá giang
trên chiếc xe của ngài; thế nên tôi phải đội chiếc bị này trên đầu để làm cho
chiếc xe này bớt chở nặng đi một tí."
Thiền nói rằng kẻ tác hành, chỉ có một kẻ tác hành duy nhất,
đó là Thượng Đế -hay cũng là Chân Như, là Đạo. Không có nhu cầu để bạn trở
thành một kẻ tác hành. Cưỡi trên mình trâu và bạn cũng đang đi -đâu có cần thiết
để bạn phải bước đi, con trâu đang chở bạn mà. Dòng sông đang đưa bạn đi, bạn
có cần thiết để bơi đâu. Hãy thư giãn!
Người đàn ông đang bước qua cầu; Cầu không nước chảy. Cái
này mới thật tuyệt vời! Rất mực nghịch lý -Cầu không nước chảy.Thiền gia cho rằng
thân ta là một chiếc cầu; và bạn đang đi ngang qua chiếc cầu đó. Bạn như dòng
nước -ở thể lỏng, không nắm bắt được, vô tướng. Bạn chảy ngang qua thân; không
hề thay đổi. Cái cầu đang tiếp tục tuôn chảy chứ không phải là dòng nước, không
phải là dòng sông đời của bạn -cái thân xác của bạn thay đổi không ngừng trong
từng ngày qua. Mới hôm nào đây nó là một đứa trẻ, rồi ngày qua nó là một thanh
niên, rồi trở nên già yếu. Sức khoẻ, rồi bệnh hoạn đau yếu, cái thân xác không
ngừng thay đổi.
Các nhà khoa học đã cho biết rằng, chừng mươi năm trước đây,
là thân xác hoàn toàn thay đổi trong vòng bảy năm -thay đổi toàn bộ. Cứ sau bảy
năm, bạn sẽ không tìm thấy bất cứ một dấu vết cỏn con nào của cái thân xác cũ.
Tất cả đều được đào thải đi. Bây giờ thì người ta cho rằng tiến trình này xảy
ra trong vòng một năm chứ không phải bảy năm -trong vòng thời gian của một năm,
bạn sẽ không còn lại gì của cái thân xác cũ, tất cả mọi thứ đều thay đổi. Thân
xác không ngừng thải ra những gì của cái cũ và tiếp tục nhận vào những chất liệu
mới từ thực phẩm, nước, khí trời -không ngừng thay thế. Cái thân xác chẳng khác
gì một dòng sông tuôn chảy.
Tuy nhiên cái thân xác là chiếc cầu, bạn là khách bộ hành bước
ngang qua đó. Bạn không tuôn chảy mà là thân xác đang tuôn chảy -chiếc cầu đang
tuôn chảy chứ không phải dòng sông.
Những phát biểu nghịch lý này rất mực giá trị -bạn có thể
tìm thấy những điều tương tự như thế trong thế giới của các bậc thánh: Eckhart,
Kabir, Dadu, Boehem, và rất nhiều ở các vị Thiền sư. Thiền, như thế, là con đường
của nghịch lý.
Bây giờ hãy lắng nghe vài câu thơ của T. S. Elliot. (5)
Để đi đến nơi bạn không hề biết
Bạn phải đi bằng một con đường, đó là con đường của ngu dốt.
Để sở hữu những gì bạn không chiếm hữu được
Bạn phải đi bằng con đường của vô hữu
Để đi đến nơi mà bạn không thể có mặt
bạn phải đi bằng con đường trong đó bạn không có mặt
Và điều duy nhất bạn biết là những gì mà bạn không hề biết
Và những gì bạn sở hữu được là những gì mà bạn không hề sở
hữu
Và nơi mà bạn có mặt là nơi bạn không hề có mặt.
Đây là những câu thơ rất mực Thiền, thuần túy Thiền. Hãy
quán chiếu trên những dòng chữ này để xem T. S. Elliot muốn nói lên điều gì.
Đây là những câu thơ rất mực sâu sắc. Nó có thể là một công án Thiền cho bạn.
Và điều duy nhất bạn biết là những gì mà bạn không hề biết.
Bạn không biết gì về chính bạn cả, đó chính là điều duy nhất
mà bạn biết. Và nếu bạn không biết được điều này, bạn đâu có thể biết được cái
gì khác? Kẻ biết chỉ biết hắn ta mà thôi -đó là cái duy nhất có thể biết được,
bởi vì đó là nơi duy nhất mà chúng ta có mặt. Tất cả những cái khác, hầu như thế,
đều được nhìn từ bên ngoài; nó chỉ có thể trở thành một người quen, không thể
là kẻ biết. Chỉ có một thứ mà bạn có thể nhìn từ bên trong, đó là chính bạn.
Và điều duy nhất bạn biết là những gì mà bạn không hề biết
Và những gì bạn sở hữu được là những gì mà bạn không hề sở
hữu
Hãy xem cái trọng tâm của nó. Những gì mà bạn sở hữu chỉ là
cái mà bạn không sở hữu. Bạn làm chủ căn nhà của bạn -thế nhưng làm thế nào mà
bạn làm chủ được nó? Nó đã có mặt ở đó trong khi bạn chưa có mặt. Rồi một ngày
nào đó bạn sẽ ra đi, nhưng ngôi nhà sẽ vẫn còn đó. Làm sao mà bạn làm chủ được
nó? Bạn đến rồi đi. Trong khi cái nhà vẫn tồn tại, thế gian này vẫn tồn tại. Bạn
không thể nào làm chủ được những cái này, bạn chỉ giả bộ mà thôi .
Và những gì bạn sở hữu được là những gì mà bạn không hề sở
hữu
Nhận thức được điều này, Đức Phật đã rời bỏ cung điện. Nhận
thức được điều này, Mahavir đã từ bỏ vương quốc của mình -nhận thức được điều
này, rằng, "Đây không phải là những gì mà ta làm chủ, thế thì tại sao lại
phải bận tâm về nó? Không sớm thì muộn, nó cũng sẽ bị tước ra khỏi tay ta, thế
thì tại sao ta lại băn khoăn lo lắng một cách không cần thiết về nó như thế?"
Và nơi mà bạn có mặt là nơi bạn không hề có mặt.
Bạn có để ý điều này không? Bạn đang ở đâu vậy? Con người
đang ở trong thân xác của họ -bạn không có mặt ở đó. Con người đang ở trong tâm
thức của họ -cũng không hề có bạn ở đó. Thực tại của bạn là một nơi nào đó vượt
ra ngoài thân xác và ở đàng sau tâm thức.
Hãy quán tưởng về những dòng thơ này.
Tất cả chân lý cơ bản đều rất mực nghịch lý. Thế nên tôi gọi
Thiền là Con Đường Nghịch Lý.
Hết Tập 2 - Xem Tập 3 - Quay về Mục lục
- Quay về Mục lục Toàn tập