Chương 2. Chín muồi của thiền nhân trên con đường

Chương 2. Chín muồi của thiền nhân trên con đường

Price:

Read more

Osho - Thiền động (Đi tìm điều huyền bí - Tập 2)
Chương 2. Chín muồi của thiền nhân trên con đường

Trong một bài nói trước đây, Thầy đã nói rằng việc giáng xuống đột nhiên và trực tiếp của ân huệ đôi khi có thể trở thành thảm hoạ. Người này có thể bị hại hay bị điên hay thậm chí chết. Câu hỏi tự nhiên nảy sinh: Liệu ân huệ có phải bao giờ cũng có lợi không? Ân huệ không giữ cân bằng của nó sao? Rủi to cũng có thể do sự kiện là người nhận chưa đủ khả năng. Trong trường hợp đó, làm sao ân huệ có thể giáng xuống một người chưa đủ phẩm chất?
Thượng đế không phải là người mà là năng lượng. Điều này ngụ ý rằng năng lượng không xét tới người; bất kì cái gì xảy ra cho từng người, cũng đều xảy ra một cách không thiên vị.
Chẳng hạn, cây cối bên bờ sông nhận được nuôi dưỡng từ dòng nước chảy qua; nó sẽ đâm hoa kết quả và trở nên cao lớn và mạnh mẽ. Nhưng cây rơi vào trong cùng dòng nước đó, sẽ bị cuốn đi xa cùng dòng nước trôi nhanh. Bây giờ sông chẳng có liên can gì tới những cây này. Nó không quan tâm tới việc nuôi dưỡng cây trước mà cũng chẳng quan tâm tới việc phá huỷ cây sau. Sông chỉ chảy thôi. Sông là năng lượng chảy, nó không phải là người.
Chúng ta bao giờ cũng phạm phải sai lầm về việc coi Thượng đế là người. Do đó, mọi suy nghĩ của chúng ta về Thượng đế đều dường như là ngài là một người. Chúng ta nói ngài rất tốt; chúng ta nói ngài đầy khoan dung; chúng ta nói ngài ban phúc cho chúng ta. Đây chỉ là mong đợi và ham muốn chúng ta áp đặt lên Thượng đế. Mặc dầu chúng ta có thể áp đặt mong đợi của mình lên một người và nếu mong đợi không được đáp ứng, chúng ta đổ cho người đó trách nhiệm về việc ấy, chúng ta không thể làm điều này cho năng lượng được. Cho nên bất kì khi nào chúng ta coi năng lượng như là người, chúng ta nhất định đi lạc lối, vì thế thì chúng ta bị lạc trong mơ. Nếu chúng ta giải quyết với năng lượng, kết quả sẽ hoàn toàn khác.
Chẳng hạn, lực hấp dẫn: bạn có thể bước trên đất bởi vì lực này, nhưng lực này không chỉ ngụ ý làm cho bạn bước được. Đừng tưởng lầm rằng nếu bạn không bước, lực hấp dẫn sẽ không tồn tại. Nó đã có đấy khi bạn còn chưa có trên trái đất và nó vẫn còn đấy ngay cả sau khi bạn không còn nữa. Nếu bạn bước theo cách thức sai, bạn có thể bị ngã và gẫy chân. Điều này cũng là do lực hấp dẫn; nhưng với điều này bạn sẽ không thể nào đi kiện bất kì ai vì không có ai để trách cả. Hấp dẫn là luồng năng lượng. Bạn phải cẩn thận với luật vận hành của nó nếu bạn muốn đối phó với nó. Nhưng nó chẳng nghĩ chút nào về cách đối phó với bạn.
Năng lượng của Thượng đế không vận hành cho riêng bất kì ai. Thực tế, nói rằng "năng lượng của Thượng đế", cũng không đúng, thay vì thế ta nên nói "Thượng đế là năng lượng." Thượng đế không nghĩ về cách hành xử với bạn; nó có luật vĩnh hằng của riêng nó và luật vĩnh hằng này là tôn giáo. Tôn giáo có nghĩa là luật của hành vi của năng lượng, cái là Thượng đế.
Nếu bạn ứng xử một cách sáng suốt, hiểu biết và tuân theo năng lượng này, nó trở thành ân huệ cho bạn - không phải ân huệ của riêng nó mà là vì bạn đấy thôi. Nếu bạn làm điều ngược lại, nếu bạn đi ngược lại các luật của năng lượng, nó trở thành cái ban phát điều không ân huệ cho bạn. Trong trường hợp này, Thượng đế không phải là không cho ân huệ; nó là vậy bởi vì bạn.
Cho nên sẽ là sai lầm nếu coi Thượng đế như người. Thượng đế không phải là người mà là năng lượng; do đó, cầu nguyện và tôn thờ chẳng mang nghĩa nào. Trông đợi từ Thượng đế là vô nghĩa. Nếu bạn muốn rằng năng lượng thiêng liêng này trở thành phúc lành, ân huệ cho bạn, thế thì bạn phải làm điều gì đó cho cái ta của riêng bạn; do đó thực hành tâm linh có nghĩa, cầu nguyện không có nghĩa. Thiền có nghĩa, tôn thờ không có nghĩa. Hiểu khác biệt này cho rõ ràng.
Trong lời cầu nguyện, bạn đang làm điều gì đó với Thượng đế: bạn cầu xin, bạn nài nỉ, bạn trông đợi, bạn đòi hỏi. Trong thiền bạn đang làm việc cho cái ta riêng của mình. Trong tôn thờ bạn đang làm điều gì đó với Thượng đế; trong nỗ lực tâm linh bạn đang làm điều gì đó cho bản thân bạn. Nỗ lực cho trưởng thành tâm linh nghĩa là bạn đang làm biến đổi bản thân mình theo cách mà bạn không còn trong bất hoà với sự tồn tại, với tôn giáo. Khi dòng sông chảy bạn không bị dòng nước cuốn đi. Thay vì vậy, bạn ở trên bờ, nơi nước sông làm mạnh thêm gốc rễ của bạn chứ không cuốn nó đi. Khoảnh khắc chúng ta thấy Thượng đế như năng lượng, toàn bộ cấu trúc tôn giáo thay đổi.
Chính với lí do này mà tôi đã nói rằng nếu ân huệ bất thần và trực tiếp giáng xuống, đôi khi nó trở thành thảm hoạ.
Điều khác bạn đã hỏi là: "Người không đủ năng lực liệu có thể nhận được ân huệ không?
Không, ân huệ không bao giờ giáng xuống cho người không đủ phẩm chất với nó. Nó bao giờ cũng  giáng xuống cho người đã được chuẩn bị về nó. Nhưng đôi khi một người không đủ năng lực bỗng nhiên phát triển các phẩm chất cần thiết, và bản thân người đó lại không biết về điều này. Điều xảy ra bao giờ cũng xảy ra dưới những điều kiện đúng, hệt như ánh sáng là thấy được chỉ với những người có mắt và là không thấy được với người nù. Nhưng nếu người mù đã được điều trị thuốc thang để cho người đó có thể thấy được, rồi người đó ra khỏi bệnh viện và nhìn trực tiếp vào mặt trời, người đó sẽ bị tai hại trầm trọng. Người đó phải đeo kính râm trong một hay hai tháng và chờ đợi.
Nếu người không nhạy cảm bỗng nhiên trở thành nhạy cảm, nhất định sẽ có rủi ro. Trong trường hợp người mù, mặt trời đâu đáng trách. Người đó phải phát triển sức mạnh của mắt để chịu đựng được ánh sáng mặt trời nếu không sẽ có nguy hiểm là người đó trở thành mù hoàn toàn. Cái mù lần đầu là có thể chữa được, nhưng bây giờ sẽ khó mà chữa cho cái mù lần thứ hai của người đó.
Hiểu điều này cho kĩ: kinh nghiệm chỉ tới cho những người xứng đáng. Nhưng đôi khi có khả năng một người không xứng đáng bỗng nhiên phát triển các phẩm chất cần thiết do hoàn cảnh mà bản thân người đó lại chẳng biết gì về điều đó cả. Thế thì bao giờ cũng có nỗi sợ về thảm hoạ, vì năng lượng giáng xuống bất thần và bạn, lại không trong điều kiện chịu đựng được nó.
Chẳng hạn: một người bỗng nhiên có được món tiền lớn. Thông thường, điều ấy chẳng hại gì, nhưng nếu nó tới một cách đột ngột nó có thể nguy hiểm. Hạnh phúc đột ngột cũng có thể tạo ra tai nạn, vì chúng ta cần một khả năng nào đó để chịu đựng nó. Chúng ta trở nên có khả năng chịu đựng nó nếu nó tới dần dần. Nếu phúc lạc tới dần dần, chỉ có thế chúng ta mới trở nên được chuẩn bị cho nó.
Việc được chuẩn bị này, khả năng chịu đựng này, tuỳ thuộc vào biết bao nhiêu nhân tố. Thần kinh trong bộ não, tình trạng sung sức về thể chất, khả năng tinh thần - tất cả đều có những giới hạn của chúng, và năng lượng chúng ta đang nói tới là vô giới hạn. Nó cũng tựa như cả đại dương rơi vào trong một giọt nước: nếu giọt nước không được chuẩn bị theo cách nào đó để đón nhận đại dương, nó đơn thuần sẽ chết; nó sẽ bị phá huỷ và nó sẽ chẳng đạt tới cái gì cả.
Nói cho chính xác, có một loạt hành động kép cần cho sự phát triển tâm linh. Chúng ta phải đưa bản thân mình lên con đường và trở thành hài hoà với nó. Nhưng trước khi đó chúng ta phải phát triển khả năng của mình để hấp thu nó. Đây là hai nhiệm vụ cần phải được người tìm kiếm thực hiện. Một mặt chúng ta phải mở cửa và cải thiện thị lực của mình, và mặt khác chúng ta phải đợi thậm chí đến sau khi thị lực đã được cải thiện để cho mắt có thể chịu đựng được sự rực rỡ của ánh sáng; bằng không quá nhiều ánh sáng sẽ đem tới bóng tối còn tối hơn. Đây là giải quyết một chiều - ánh sáng chẳng liên quan gì tới nó cả. Trách nhiệm hoàn toàn ở phía chúng ta và chúng ta không thể trách bất kì ai về điều đó được.
Cuộc hành trình của cuộc đời người trải rộng qua nhiều kiếp, và người đó làm nhiều thứ trong mỗi kiếp sống. Nhiều lần điều xảy ra là người đó chết ngay khi người đó sắp có thể nhận được ân huệ. Với cái chết này người đó mất đi tất cả kí ức về cuộc đời này. Làm việc với bản thân mình qua nhiều kiếp bạn có thể đạt tới chín mươi chín bậc trưởng thành; chết đi bạn sẽ quên mất tất cả thành tựu của mình - nhưng những yếu tố tồn tại của sự trưởng thành bên trong sẽ được mang sang kiếp sống tiếp.
Có người khác, ngồi cạnh bạn, mới chỉ hoàn thành một bậc phát triển trong kiếp sống quá khứ của mình. Người đó cũng quên tất cả về nó. Cả hai bạn đều thiền: cả hai bạn đều thuộc về mức độ phát triển hoàn toàn khác nhau. Bây giờ, nếu một mức độ phát triển xảy ra, người kia sẽ đạt tới chỉ mức độ thứ hai của sự phát triển và ân huệ không giáng xuống người đó. Nhưng với thêm một mức độ trưởng thành nữa bạn sẽ đạt tới điểm một trăm bậc và ân huệ đột nhiên sẽ giáng xuống bạn. Điều này sẽ là đột nhiên cho bạn vì bạn chẳng có ý tưởng gì là bạn đã ở bậc thứ chín mươi chín. Và do vậy cõi trời có thể rơi vào bạn, tất cả mọi sự chuẩn bị đúng đắn và đột nhiên cần phải được tiến hành cho điều này.
Khi tôi nói rủi ro, tôi chỉ nói tới việc xảy ra mà với nó chúng ta không được chuẩn bị. Rủi ro không nhất thiết có nghĩa là biến cố xấu hay đau đớn; nó chỉ có nghĩa là sự xuất hiện của biến cố đó mà chúng ta chưa sẵn sàng. Bây giờ nếu một người trúng xổ số một triệu đô la, đây không phải là biến cố xấu. Nhưng người đó có thể chết. Một triệu đô la! - tim người đó có thể ngừng đập. Cho nên rủi ro nghĩa là sự xuất hiện của một biến cố mà chúng ta chưa được chuẩn bị.
Điều đối lập cũng có thể xảy ra. Nếu một người được chuẩn bị cho cái chết của mình và nó tới, không nhất thiết cái chết của người đó là biến cố xấu. Nếu một người như Socrates được chuẩn bị để gặp gỡ cái chết và đón mừng nó với vòng tay rộng mở, thế thì với người như vậy cái chết trở thành samadhi. Người đó chấp nhận cái chết với tình yêu và niềm vui đến mức người đó sẽ thấy rằng thực tại chẳng bao giờ chết.
Chúng ta tiếp cận tới cái chết với nhiều buồn khổ đến mức chúng ta trở nên vô ý thức trước cái chết. Chúng ta không kinh nghiệm cái chết một cách có ý thức. Đây là lí do tại sao, cho dù ta đã chết đi nhiều lần rồi, chúng ta vẫn không biết về quá trình chết. Một khi bạn biết cái chết là gì, thế thì chính ý tưởng là bạn có thể chết sẽ chẳng bao giờ nảy sinh nữa. Thế thì biến cố chết sẽ xảy ra và bạn sẽ đứng sang bên quan sát nó. Nhưng điều này phải xảy ra với ý thức hoàn toàn.
Cho nên cái chết có thể là vận may tốt cho người này và ân huệ có thể là tai hoạ cho người khác. Do đó sự trưởng thành tâm linh cũng có hai mặt: chúng ta phải kêu gọi, cầu khẩn, tìm kiếm và đi, và đồng thời chúng ta phải chuẩn bị bản mình cho biến cố này để cho khi ánh sáng lan tới cánh cửa mình, chúng ta không bị loá vì nó. Nếu bạn ghi nhớ những điều tôi đã nói với bạn ngay từ đầu, sẽ không có khó khăn nào cả. Nếu bạn coi Thượng đế là người, bạn sẽ thấy bản thân mình gặp khó khăn lớn; nếu bạn coi ông ấy như năng lượng, sẽ chẳng có khó khăn gì.
Khái niệm này về Thượng đế như người đã gây ra rất nhiều khó khăn. Tâm trí ham muốn ngài là người để cho chúng ta có thể truyền mọi trách nhiệm cho ông ấy, và làm cho ngài chịu trách nhiệm, chúng ta bắt đầu đặt gánh nặng của mọi thứ nhỏ nhoi lên ngài. Nếu một người tìm được việc, người đó cám ơn Thượng đế; nếu người đó mất việc, người đó trở nên giận Thượng đế. Nếu một người bị vết phỏng rộp, người đó nghi ngờ điều đó là việc làm của Thượng đế; nếu vết phỏng lành, người đó cám ơn Thượng đế. Chúng ta chẳng bao giờ xem xét cách chúng ta sử dụng Thượng đế; chúng ta thậm chí còn chưa nghĩ đến thái độ này ích kỉ làm sao, mà với nó ta cứ giả sử rằng Thượng đế phải lo lắng đến cả vết phỏng rộp mình.
Nếu chúng ta đánh mất một đồng xu và rồi ngẫu nhiên tìm thấy nó, ta nói, "Nhờ ơn trời mình tìm thấy nó rồi." Chúng ta muốn Thượng đế trông giữ tài khoản cho chúng ta tới từng đồng ru pi cuối cùng. Ý tưởng này thoả mãn cho tâm trí chúng ta vì thế thì chúng ta có thể đứng ở trung tâm thế giới. Thế thì cách giải quyết của chúng ta với Thượng đế cũng tương tự như cách đối xử của người hầu trước ông chủ. Chúng ta trông đợi ông ấy đứng gác trước cửa nhà ta và chăm nom của cải của ta cho tới đồng xu cuối cùng. Ưu điểm của việc coi Thượng đế như người là ở chỗ trách nhiệm có thể dễ dàng đẩy sang cho ngài.
Nhưng người tìm kiếm nhận trách nhiệm về bản thân mình. Thực tế, là người tìm kiếm nghĩa là không coi ai khác ngoài bản thân mình chịu trách nhiệm cho mọi thứ. Nếu có nỗi buồn trong đời tôi, tôi chịu trách nhiệm, và nếu có hạnh phúc trong đời tôi, tôi cũng chịu trách nhiệm. Nếu tôi yên bình, chính tôi chịu trách nhiệm; nếu tôi bất ổn, đấy là việc làm của riêng tôi thôi. Không có ai ngoài bản thân tôi chịu trách nhiệm cho bất kì trạng thái nào tôi đang trong đó. Nếu tôi ngã và gẫy chân, đấy là lỗi của tôi và tôi không thể trách lực hấp dẫn được. Nếu đây là thái độ của tâm trí, thế thì bạn đã hiểu đúng rồi đấy. Thế thì ý nghĩa của rủi ro sẽ khác đi.
Bởi lí do này, tôi nói rằng ân huệ là có ích lợi và là phúc lành cho người đã chuẩn bị chu đáo cho điều đó. Thực tế mọi thứ đều có thời của nó cả. Có một khoảnh khắc đặc biệt cho từng việc xảy ra, và bỏ lỡ khoảnh khắc này là thảm kịch lớn.
Trong một trong những bài nói của Thầy, Thầy đã nói rằng tác động của shaktipat giảm đi dần dần; vậy người tìm kiếm phải duy trì tiếp xúc đều đặn với người trung gian. Điều này chẳng có nghĩa là sự phụ thuộc vào một người nào đó dưới dạng một guru hay sao?
Điều này có thể trở thành phụ thuộc. Nếu ai đó nôn nóng là guru và nếu ai đó nôn nóng có được guru, trạng thái phụ thuộc này có thể xảy ra. Cho nên đừng phạm sai lầm mà trở thành đệ tử hay làm cho ai đó thành guru của bạn. Nhưng nếu không có vấn đề về guru hay đệ tử, chẳng phải lo sợ gì về phụ thuộc cả. Thế thì người mà bạn nhận sự giúp đỡ đơn giản là một phần của chính cái ta riêng của bạn, người đã đi trước trên con đường này. Thế thì ai là guru và ai là đệ tử?
Tôi thường kể câu chuyện rằng Phật đã kể về một trong những kiếp trước của ông ấy. Ông ấy nói, "Ta là kẻ dốt nát trong kiếp trước của mình. Một người trí huệ đã đạt tới chứng ngộ, cho nên ta đến gặp người đó. Ta cúi đầu chạm chân người đó trong sùng kính. Nhưng ngay khi ta vừa ngửng dậy, ta rất đỗi ngạc nhiên là ông già đã cúi người chạm chân ta.
"‘Thầy làm cái gì thế này!’ Ta buột kêu lên. ‘Tôi phải chạn vào chân thầy là phải và đúng, nhưng thầy chạm chân tôi thì không hợp chút nào!’
"Ông già nói, ‘Nếu anh chạm chân ta mà ta lại không chạm chân anh, đó sẽ là sai lầm lớn, vì ta chẳng là gì ngoài một phần của anh, bước vài bước trước anh thôi. Và khi ta cúi đầu chạm chân anh là ta nhắc anh rằng anh đã làm đúng khi chạm chân ta. Nhưng chớ hiểu lầm rằng anh và ta là hai. Cũng vậy, đừng sai lầm nghĩ rằng ta trí huệ còn anh dốt nát. Đấy chỉ là vấn đề thời gian thôi. Chỉ cần thêm chút thời gian nữa và anh cũng sẽ được chứng ngộ. Cũng hệt như khi chân phải của ta tiến lên, chân trái còn lại phía sau: thực tại, chân trái còn lại phía sau để cho chân phải có thể tiến lên."
Mối quan hệ của guru và đệ tử là có hại. Tuy nhiên, việc đặt mối quan hệ vô quan hệ giữa guru và đệ tử, lại rất ích lợi. Vô quan hệ nghĩa là không có hai; quan hệ là nơi có hai. Chúng ta có thể hiểu nếu đệ tử cảm thấy guru là thực thể phân tách khỏi người đó, vì đệ tử là dốt nát. Nhưng nếu guru cũng cảm thấy cùng điều đó, thế thì quá lắm. Thế thì điều đó nghĩa là kẻ mù đang dẫn lối cho kẻ mù - và người mù dẫn đường còn nguy hiểm hơn, vì người mù thứ hai hoàn toàn tin cậy vào người đó.
Chẳng có ý nghĩa tâm linh nào đối với mối quan hệ guru-đệ tử cả. Thực tại, mọi mối quan hệ đều là mối quan hệ quyền lực. Tất cả chúng đều là mối quan hệ về chính trị quyền lực. Ai đó là bố, ai đó là con; nếu đây là mối quan hệ tình yêu, nó sẽ là vấn đề khác. Thế thì người bố sẽ không ý thức về việc mình là bố, mà người con cũng không ý thức mình là con. Thế thì con sẽ là dạng có trước của bố và bố sẽ là dạng tiếp sau của con - và điều này là chân lí của vấn đề.
Chúng ta gieo hạt mầm và cây mọc lên. Thế rồi cây này sinh ra hàng nghìn hạt. Đâu là mối quan hệ giữa những hạt này và chiếc hạt đầu tiên? Hạt này đến trước rồi các hạt khác theo sau. Chính cuộc hành trình của cùng một hạt, rơi xuống đất, đâm chồi và tan biến trong đất. Người bố là mối nối đầu tiên và đứa con là mối nối thứ hai trong cùng một dây chuyền. Nhưng thế thì có dây chuyền, không phải là những con người cá thể. Thế thì nếu con chạm vào chân bố nó tức là nó biểu hiện sự kính trọng của mình đối với mối nối trước đó. Nó đang biểu lộ sự thành tâm của mình với cái đang diễn ra, vì không có bố, nó không thể tới thế giới này được. Nó đã đi vào sự tồn tại thông qua người bố.
Và nếu người bố nuôi dưỡng con mình, cho nó ăn và mặc, người đó không bỏ công sức cho ai đó khác; chính mở rộng của riêng người đó mà người đó đang nuôi dưỡng. Nếu ta nói rằng người bố trở thành thanh niên lần nữa trong đứa con mình, chúng ta cũng không sai. Thế thì vấn đề không phải là vấn đề về quan hệ nữa; đấy là một việc hoàn toàn khác. Đấy là tình yêu, không phải là quan hệ.
Nói chung chúng ta thấy mối quan hệ giữa bố và con là mối quan hệ chính trị. Bố mạnh và con yếu, cho nên bố chi phối con. Bố cố gắng làm cho con cảm thấy, "Mày chẳng là gì cả, tao là mọi thứ." Nhưng ông ấy không nhận ra rằng chẳng mấy chốc thời gian sẽ tới khi đứa con thành người mạnh mẽ. Thế thì nó sẽ chi phối người bố theo hệt như vậy.
Mối quan hệ giữa thầy và đệ tử, giữa vợ và chồng đều bị bóp méo... Nếu không, tại sao phải có bất kì mối quan hệ nào giữa chồng và vợ? Hai người đã cảm thấy cái một giữa họ, cho nên họ cùng nhau. Nhưng không, điều này không như vậy. Chồng chi phối vợ theo cách riêng của mình; vợ chi phối chồng theo cách riêng của mình. Cả hai đều chơi với sức mạnh riêng của mình như trò chính trị quyền lực với nhau.
Điều hệt như vậy cũng là trường hợp với guru và đệ tử. Guru áp bức đệ tử, còn đệ tử, đợi đến khi thầy chết để cho mình có thể trở thành guru. Nếu guru chậm chết, sẽ có âm mưu và mưu đồ chống lại ông ta. Cho nên khó mà tìm được guru có đệ tử không nổi loạn chống lại ông ta hay trở thành kẻ thù của ông ta. Đại đệ tử chắc chắn là kẻ thù của thầy. Cho nên người ta phải cẩn thận trong việc chọn đại đệ tử. Điều này gần như không tránh khỏi, vì sức ép quyền lực bao giờ cũng gặp với nổi loạn. Tâm linh chẳng liên quan gì với nó cả.
Tôi có thể hiểu người bố đang gây sức ép lên đứa con: đấy là trường hợp của hai người dốt nát, và họ có thể được tha thứ. Điều ấy không tốt nhưng có thể lượng thứ được. Chồng áp bức vợ và ngược lại là điều thông thường - không tốt nhưng rất thông thường. Nhưng khi guru đàn áp đệ tử của mình, điều ấy trở thành khó khăn. Lĩnh vực này ít nhất cũng không nên có mọi lời tuyên bố rằng "Ta biết còn anh không biết."
Mối quan hệ này giữa guru và đệ tử là gì vậy? Một người là người yêu sách: người này nói, "Ta biết, anh không biết. Anh dốt nát, ta trí huệ. Kẻ dốt nát phải cúi lạy người trí huệ." Nhưng loại người trí huệ nào nói ra "Anh phải cúi lạy trong tôn kính"? Người đó là người dốt nát nhất. Người đó biết vài bí mật được kế thừa, người đó đã nghiên cứu một số kinh sách và người đó có thể lặp lại chúng từ kí ức. Người đó chẳng có gì nhiều hơn điều này.
Có lẽ bạn còn chưa được nghe câu chuyện này:
Có một con mèo đã trở thành kẻ biết tất. Nó trở nên nổi tiếng trong các con mèo - nổi tiếng đến mức nó sắp được coi như một tirthankara. Lí do cho việc trở thành kẻ biết tất là ở chỗ nó đã tìm ra cách rúc vào trong thư viện. Nó biết mọi điều về thư viện này. Với mọi điều là tôi muốn ngụ ý cách vào và ra khỏi thư viện, chồng sách nào là dễ chịu nhất để rúc vào, cuốn sách nào ấm áp nhất trong mùa đông và cuốn nào, mát mẻ nhất trong mùa hè, vân vân.
Cho nên lời đồn đại trong các con mèo là nếu ai muốn có hiểu biết gì về thư viện, con mèo biết tất đó có thể đưa ra câu trả lời. Một cách tự nhiên, chẳng có hoài nghi gì về một kẻ như thế biết mọi điều về thư viện, phải là đấng toàn năng. Con mèo này thậm chí phải có tín đồ nữa. Nhưng sự kiện còn lại là ở chỗ nó chẳng biết gì. Tất cả những cái nó biết về sách chỉ là liệu nó có thể nằm sau sách đó một cách thoải mái, sách nào có đóng bằng vải, ấm, còn sách nào không. Nhiều hơn nữa, nó không biết.
Nó chẳng có ý tưởng nào về cái gì bên trong sách. Mà làm sao mèo có thể biết cái gì bên trong sách?
Có những con mèo biết tất như thế trong loài người nữa đấy, những người biết che chắn cho mình bằng sách vở. Bạn tấn công họ còn họ, lập tức trú ngụ trong Ramayana và cố gắng kìm hãm bạn với lời kinh trong đó. Hay họ sẽ nói, "Gita nói như thế đấy."
Bây giờ ai dám cãi với Gita đây? Nếu tôi định nói, "Đây là điều tôi nói,", bạn có thể tranh luận với tôi. Nhưng nếu tôi đem Gita ra, tôi an toàn rồi. Tôi lẩn đằng sau Gita. Gita toả hơi ấm trong giá lạnh; nó cho tôi nghề nghiệp và trở thành lá chắn bảo vệ chống lại kẻ thù. Nó thậm chí còn trở thành đồ trang trí và có thể nô đùa, nhưng một người làm điều này, chỉ biết nhiều nhất là Gita cũng như mèo trong thư viện; người đó cũng chẳng biết nhiều hơn con mèo biết.
Có thể là bởi kết giao lâu dài mà con mèo có khả năng đi tới biết điều bên trong cuốn sách, nhưng các guru thông thái này sẽ chẳng biết gì cả. Họ càng học thuộc lòng nhiều, họ càng ít cần phải biết. Thế thì họ sẽ bị ảo tưởng rằng họ biết tất cả những cái phải biết.
Bất kì khi nào một người công bố thẩm quyền về việc biết, biết rằng đấy chỉ là cái dốt nát đã trở nên được nói ra, vì việc khẳng định là dốt nát rồi. Nhưng khi một người ngần ngại thậm chí nhắc đến rằng mình biết, thế thì biết rằng người đó đã bắt đầu nhận được thoáng nhìn, tia sáng của trí huệ. Tuy nhiên một người như vậy sẽ không trở thành guru đâu, người đó thậm chí cũng chẳng mơ thành guru, vì với việc trở thành guru, thẩm quyền về tri thức sẽ tới. Ý nghĩa của guru là người biết: người đó chắc chắn rằng mình biết, và bây giờ bạn không cần biết nữa; người đó có thể truyền đạt lại tri thức của mình cho bạn.
Cho nên công bố và thẩm quyền này giết chết ý nghĩa của việc truy tìm và truy vấn trong người khác. Thẩm quyền không thể tồn tại mà không có đàn áp, vì người sử dụng thẩm quyền, bao giờ cũng sợ phát kiến của bạn về chân lí. Thế thì quyền lực của người đó sẽ trở thành thế nào? Cho nên người đó sẽ chặn bạn không cho phát hiện ra. Người đó sẽ thu thập tín đồ và đệ tử quanh mình, và bên trong các đệ tử cũng sẽ có phân cấp các đại đệ tử và các đệ tử thường. Điều này lần nữa lại là cái mạng nhện chính trị và nó chẳng liên quan gì tới tâm linh cả.
Khi tôi nói rằng điều xảy ra tựa như shaktipat - sự giáng xuống của năng lượng của điều thiêng liêng - xảy ra dễ dàng trong sự hiện diện của một người đặc biệt, tôi không có ý rằng bạn nên níu bám và gắn chặt với người này; mà tôi cũng không nói rằng bạn nên phụ thuộc vào người đó hay làm cho người đó thành guru. Tôi cũng không nói rằng bạn nên dừng việc tìm kiếm của mình. Ngược lại, bất kì khi nào biến cố này xảy ra qua một người trung gian, bạn sẽ cảm thấy rằng nếu kinh nghiệm này qua một nguồn gián tiếp mà có thể đem tới vui sướng đến thế thì, việc kinh nghiệm sự giáng xuống trực tiếp của năng lượng thiêng liêng sẽ phải sung sướng đến dường nào! Sau rốt, khi một điều tới qua ai đó, nó quả có mất đi một chút tươi mát; nó trở thành cũ đi một chút.
Tôi ra vườn và tôi tràn ngập với hương thơm của hoa, và rồi bạn tới gặp tôi và bạn cảm thấy hương thơm của hoa qua tôi. Bạn sẽ thấy rằng hương thơm ấy sẽ còn trộn lẫn cả với mùi của tôi nữa, và bởi thế nó cũng sẽ trở nên mờ nhạt.
Cho nên khi tôi nói shaktipat ban đầu rất có ích, điều tôi ngụ ý là ở chỗ trước hết bạn nên nhận lấy tin tức là có một khu vườn và có hoa để cho bạn có thể được động viên khởi hành cuộc hành trình. Nhưng nếu bạn kiếm được một guru bạn sẽ trì trệ, cho nên đừng dừng lại tại cột cây số. Cột cây số nói cho ta còn nhiều điều hơn người mà ta gọi là guru. Chúng cho ta biết ta còn bao xa so với đích. Không guru nào có thể cho được thông tin chính xác như thế. Vậy mà chúng ta cũng chẳng tôn thờ cột cây số hay ngồi gần chúng. Nếu chúng ta làm như vậy, chúng ta sẽ tự chứng tỏ mình còn kém hơn cả hòn đá, vì hòn đá có đó để chỉ ra cuộc hành trình còn bao xa nữa. Nó không đứng đó để chặn bạn lại.
Nếu cột cây số biết nói, nó nữa cũng sẽ cất tiếng gọi, "Anh đi đâu đấy? Ta đã trao cho anh thông tin cần thiết. Anh đã đi được mười dặm đường và anh còn phải đi thêm hai mươi dặm nữa. Bây giờ anh biết rồi, vậy anh chẳng cần phải đi thêm nữa. Làm đệ tử của ta; theo ta." Nhưng hòn đá lại không nói được, cho nên nó không thể trở thành guru.
Con người nói được; do đó ông ta trở thành guru. Ông ta nói, "Ta đã chỉ cho anh bao nhiêu thứ; phải biết ơn ta chứ. Anh phải biểu lộ lòng biết ơn của mình, hàm ơn của mình đối với ta." Nhớ lấy, ông ta người yêu cầu sự biết ơn ấy, chẳng có gì cho bạn cả. Ông ta đơn thuần cho bạn một mẩu tin hệt như cột cây số. Cột cây số chẳng biết gì về cuộc hành trình. Chỉ có một mẩu thông tin khắc trên nó mà nó đem trao cho mọi người đi ngang qua thế thôi.
Giống vậy, nếu lòng biết ơn được trông đợi và đòi hỏi, hãy đề phòng. Đừng bị dính mắc vào cá thể. Vượt ra ngoài tính cá thể hướng về cái vô hình, cái vĩnh cửu, cái vô hạn. Tuy nhiên, thoáng nhìn là có thể có được thong qua một người, vốn chỉ là một phương tiện, vì cuối cùng cá nhân cũng thuộc vào điều thiêng liêng. Giống như đại dương có thể được biết tới thông qua chiếc giếng, cho nên cái vô hạn có thể được biết thông qua cá nhân. Nếu thoáng nhìn có thể xảy ra cho bạn, thế thì việc nhận ra cũng có thể xảy ra. Nhưng đừng phụ thuộc vào bất kì ai hay bị nô lệ vào bất kì cái gì.
Mọi quan hệ đều là gắn dính, dù đấy là chồng và vợ, bố và con, hay guru và đệ tử. Nơi nào có quan hệ, nơi đó có cảnh nô lệ. Cho nên người tìm kiếm tâm linh phải không tạo ra quan hệ. Nếu người đó giữ mối quan hệ chồng và vợ, không có hại gì; đấy không phải là cản trở vì quan hệ này là không liên quan. Nhưng điều trớ trêu nằm ở sự kiện là người đó từ bỏ và vứt bỏ các mối quan hệ chồng-vợ, bố-con để tạo ra quan hệ guru-đệ tử mới. Điều này là rất nguy hiểm.
Ý tưởng về mối quan hệ tâm linh chẳng có ý nghĩa gì cả. Tất cả các mối quan hệ đều thuộc về thế gian trần tục. Quan hệ như thế là trần tục. Nếu nói rằng mối quan hệ là thế gian này, điều ấy cũng không sai. Bạn một mình, không kết giao. Đây không phải là phát biểu ích kỉ vì người khác cũng một mình và không kết giao. Ai đó bước trước bạn hai bước; nếu bạn nghe thấy tiếng bước chân, thế thì bạn đã biết về hướng của cuộc hành trình xa của bạn. Có một số người đang bước hai bước sau bạn, có một số người khác đi cùng với bạn. Cho nên vô số linh hồn đang du hành trên con đường. Trong cuộc hành trình này tất cả chúng ta đều là bạn đồng hành; khác biệt duy nhất là ở chỗ ai đó đi trước một chút hay đi sau một chút. Tận dụng tối đa ưu điểm của những người đi trước bạn, nhưng đừng biến điều đó thành một loại cảnh nô lệ nào đó.
Tránh xa khỏi phụ thuộc và các mối quan hệ, và đặc biệt xa khỏi mối quan hệ "tâm linh" - bao giờ cũng vậy. Mối quan hệ trần tục không nguy hiểm, vì thế gian như nó thế đã là mối quan hệ rồi. Nó không phải là vấn đề. Đón nhận thông điệp và chỉ dẫn bất kì chỗ nào chúng có sẵn. Tôi không ngụ ý bạn không nên cám ơn chúng.
Điều này không nên tạo ra bất kì phức tạp nào trong tâm trí bạn. Điều tôi đang nói là ở chỗ nếu lòng biết ơn được yêu cầu, nó là sai, nhưng nếu bạn không biết ơn, đấy lại cũng là sai tương đương. Chúng ta nên cám ơn cột cây số vì cho ta thông tin, dù nó có nghe thấy hay không.
Khi chúng ta nói rằng guru không nên yêu cầu hay trông đợi vào biết ơn, điều đó đánh lừa người nghe và nuôi dưỡng cho bản ngã của người đó. Người đó nghĩ, "Điều này tuyệt đối đúng. Thậm chí chẳng cần cám ơn ông ấy!" Thế là chúng ta phạm phải sai lầm, vì thế thì chúng ta lại hiểu lời phát biểu từ cực đối lập. Tôi không nói rằng bạn thậm chí không cần phải tỏ ra biết ơn. Điều tôi ngụ ý là ở chỗ guru không nên đòi hỏi lòng biết ơn. Cho nên nếu bạn không biết ơn, điều đó cũng sai tương đương về phần bạn. Bạn phải biết ơn, nhưng lòng biết ơn này sẽ không gắn dính bạn, vì cái gì chưa bao giờ được yêu cầu, sẽ chẳng bao giờ gắn dính. Nếu tôi cám ơn bạn mà không có việc yêu cầu từ bạn, điều đó chẳng gắn dính gì. Nhưng nếu bạn yêu cầu có cám ơn, dù tôi có cám ơn bạn hay không, điều ấy sẽ gắn dính bạn và tạo ra rắc rối.
Nhận lấy hướng dẫn hay thoáng nhìn từ bất kì đâu bạn có được nó. Nó sẽ biến mất qua lần này lần nọ. Nó không thể thường hằng vì nó đến từ người khác. Chỉ cái là của bạn mới kéo dài mãi.
Cho nên bạn sẽ phải trải qua việc xảy ra của spaktipat lặp đi lặp lại. Nếu bạn sợ mất tự do của mình, tìm kiếm kinh nghiệm của riêng mình đi. Không ích gì mà phải sợ cảnh tù túng, vì nếu tôi dính tôi với bạn, đấy là tù túng, còn nếu tôi trốn chạy khỏi bạn với nỗi sợ bị bám dính, thế thì tôi cũng bị móc nối vào và do đó bị dính vào bạn.
Cho nên nhận những gì bạn được một cách im lặng; biết ơn và đi tiếp. Và nếu bạn cảm thấy điều gì đó đã từng tới nhưng đã từng mất nhiều lần, thế thì tìm kiếm cội nguồn bên trong, từ nơi nó không bao giờ bị mất. Không có cách nào làm mất đi được, vì kho báu của riêng chúng ta là vô tận. Với những cái có nguồn gốc từ người khác, có cơ là nó sẽ bị mất.
Đừng là kẻ ăn xin cứ hỏi xin từ người khác mãi. Cái bạn nhận được từ người khác phải làm cho bạn bắt đầu việc tìm kiếm riêng của mình. Và điều này trở thành có thể chỉ khi bạn không bị mắc kẹt trong việc có mối quan hệ. Cảm nhận, đưa ra lời cám ơn, và đi tiếp.

Thầy đã nói rằng Thượng đế là năng lượng không thiên vị và thuần khiết. Thượng đế không quan tâm đặc biệt tới cuộc sống con người mà cũng chẳng có nghĩa vụ với cuộc sống con người. Trong Kath Upanishad có một lời kinh hàm nghĩa, "Thượng đế tới gặp người mà Thượng đế yêu mến." Đâu là cơ sở và lí do cho ưa thích này?
Thực tại, tôi không nói rằng Thượng đế không quan tâm tới bạn: nếu như ngài không quan tâm, bạn đã chẳng có rồi. Mà tôi cũng không nói ngài dửng dưng với bạn: ngài không thể thế được vì bạn không xa rời khỏi ngài. Bạn là mở rộng của ngài. Điều tôi nói là ở chỗ ngài không có bất kì mối quan tâm đặc biệt nào tới bạn. Có khác biệt giữa những phát biểu này.
Năng lượng, mà là Thượng đế, không có mối quan tâm đặc biệt nào tới bạn theo nghĩa nó sẽ không vi phạm luật lệ của mình vì bạn. Nếu bạn đập đầu vào đá, bạn nhất định bị thương; tự nhiên sẽ chẳng quan tâm đặc biệt gì tới bạn - mặc dầu khi bạn đập đầu và máu bắt đầu chảy ra, máu cứ chảy vì Thượng đế có tham dự vào việc xảy ra. Khi bạn chết đuối trong dòng sông, thế nữa tự nhiên cũng đang chơi phần của nó - phần làm bạn chết đuối. Nhưng không có mối quan tâm đặc biệt nào theo nghĩa là nó sẽ cứu bạn khi các luật lệ của nó là làm bạn chết đuối. Luật là ở chỗ nếu bạn ngã từ trên mái, bạn sẽ gẫy xương; tự nhiên chẳng quan tâm đặc biệt gì tới việc bạn phải không bị gẫy xương.
Những người tin Thượng đế là người đã thêu dệt ra nhiều câu chuyện mang hương vị thiêng liêng - chẳng hạn như Pralad không bao giờ bị bỏng bởi lửa hay bị thương khi ông ấy bị ném từ trên núi xuống. Những câu chuyện này là suy nghĩ mong ước của chúng ta; chúng ta muốn rằng sự việc phải như vậy. Chúng ta ước rằng Thượng đế có quan tâm đặc biệt tới chúng ta, rằng chúng ta phải là trung tâm sự chú ý của ông ấy.
Vận hành của năng lượng bao giờ cũng tuân theo luật. Mối quan tâm của con người có thể là đặc biệt; con người có thể thiên vị. Nhưng năng lượng, bao giờ cũng vô tư, vô tư là mối quan tâm duy nhất của nó; do đó nó sẽ làm những điều bên trong luật của nó và không bao giờ ra khỏi luật đó. Không có phép màu nào về phần của Thượng đế.
Bây giờ về Kath Upanishad - ý nghĩa của nó là rất khác. Nó nói, "Ngài chỉ gặp những người trong chọn lựa của ngài, gặp những ai mà ngài thấy hạnh phúc và những ai mà ngài thích." Một cách tự nhiên bạn sẽ nói điều này nghĩa là ngài có mối quan tâm đặc biệt tới một số người. Điều này không phải như vậy. Thực tại, rất khó giải thích những việc như thế thì vì khi chân lí được đem ra giải thích, người ta phải giải quyết với rất nhiều khía cạnh.
Những người đã đạt tới Thượng đế luôn luôn nói, "Chúng ta là ai và nỗ lực của chúng ta có giá trị nào cơ chứ? Chúng ta không là ai cả và giá trị của chúng ta, thậm chí cũng chẳng bằng một hạt bụi; vậy mà chúng ta đã đạt tới ngài. Và nếu chúng ta thiền một chốc, giá trị lớn lao nào so sánh được với kho báu vô giá này mà chúng ta đã đạt được? Chẳng có gì so sánh được giữa nỗ lực của chúng ta và cái thu được của chúng ta." Cho nên những người đã đạt tới chứng ngộ đều xác nhận rằng nó không phải là kết quả của nỗ lực của họ. "Đấy là ân huệ của ngài, đấy là mong ước của ngài để ban phúc cho chúng ta; bằng không, liệu chúng ta có thể tìm thấy ngài được không?" họ bao giờ cũng hỏi.
Đây là phát biểu của người vô ngã, người đã hiểu vẻ nguy nga và vĩ đại trong việc đạt tới này của mình. Tuy nhiên, nếu điều này trở thành cách nghĩ của những người còn chưa chứng ngộ, nó sẽ rất nguy hiểm. Khi điều này tới từ những người đã chứng ngộ, phát biểu này là khớp và chuyển tải một dấu hiệu phân biệt về cái tinh xảo của cảm giác.
Những người như vậy xác nhận, "Chúng ta là ai mà chúng ta đã đạt tới ngàiy? Sức mạnh của chúng ta, khả năng của chúng ta là gì? Quyền của chúng ta là gì? Chúng ta đã thỉnh cầu gì về ngài? Thế mà do từ bi của ngài, ngài đã ban phúc cho chúng ta gặp ngài." Với những người đã đạt tới, phát biểu này là đúng. Điều họ ngụ ý là ở chỗ họ không coi việc đạt tới của mình là kết quả trực tiếp của nỗ lực của họ. Điều đó không là thành tựu của bản ngã; nó là món quà, ân huệ. Điều họ nói là đúng, nhưng đọc Kath Upanishad, bạn sẽ gặp khó khăn. Đọc bất kì kinh sách nào con người cũng trong khó khăn lớn, vì kinh sách là phát biểu của những người biết và được đọc bởi những người không biết. Họ nhận nó tương ứng theo việc hiểu của mình và nói, "Được. Nếu Thượng đế chỉ gặp người ngài muốn gặp, theo cái thích riêng của ngài, sao chúng ta phải bận tâm? Tại sao chúng ta phải làm cái gì?" Thế thì tuyên bố của người vô ngã trở thành việc bảo vệ cho trạng thái lờ phờ của chúng ta.
Có khác biệt bao la giữa hai loại người này - giống như giữa trời và đất. Các phát biểu khiêm tốn và vô ngã của người đã chứng ngộ trở thành việc bảo vệ cho cái đờ đẫn và lười nhác của chúng ta. Thế thì chúng ta nói, "Được, Thượng đế chỉ gặp những ai mà ngài muốn gặp và ngài không gặp những ai mà ngài không muốn gặp."
Có một phát biểu tương tự của thánh Augustine nói tới cái gì đó tựa thế này: "Những người mà Thượng đế muốn, ngài làm cho họ điều lành; những người mà ngài muốn, ông ấy làm cho họ điều xấu." Đây dường như là một phát biểu rất nguy hiểm. Nếu điều này là như vậy - rằng Thượng đế làm cho một số người xấu và làm cho một số người tốt theo tính đồng bóng của mình - thế thì mọi sự phát rồ! Thế thì ngài phải là Thượng đế mất trí!
Khi bạn đọc điều này bạn có thể gán một ý nghĩa rất tiêu cực cho nó. Nhưng điều Augustine ngụ ý hoàn toàn khác. Ông nói với người tốt, "Chớ có kiêu ngạo rằng ông là tốt, vì những người mà Thượng đế muốn, ông ấy làm cho họ tốt." Còn với người xấu ông nói, "Chớ có nản chí, đừng lo âu. Những người mà Thượng đế muốn, ông ấy làm cho họ xấu."
Ông ấy đang dứt ra cái kiêu căng trong bản ngã của người tốt và ông đang dứt bỏ cái chua cay trong điều hối tiếc của người xấu.  Phát  biểu này đến từ người biết. Nhưng người xấu nghe điều này và người đó nói, "Nếu sự việc là như vậy, tôi chẳng có quyền hành gì trong đó - vì những người mà Thượng đế muốn là xấu, là xấu." Cuộc hành trình của người tốt cũng bị chểnh mảng đi, người này nói, "Còn gì phải làm nữa nào? Những người Thượng đế chọn làm tốt, ông ấy làm tốt, còn những người ông ấy chọn không làm tốt, ông ấy không làm tốt." Cuộc sống người đó trở nên vô nghĩa và trì trệ.
Đây là điều các kinh sách đã làm cho toàn thế giới. Kinh sách là lời của những người đã chứng ngộ. Tuy nhiên, những người biết không cần đọc kinh sách, còn những người không biết lại đọc chúng; thế thì khác biệt trong việc hiểu biết là các cực xa nhau. Ý nghĩa mà chúng ta trao cho lời của họ chính là của riêng chúng ta và không phải là ý nghĩa thực tại.
Tôi đã đi tới cảm giác rằng nên có hai loại kinh sách - lời của những người đã chứng ngộ nên được giữ tách biệt, và nên có những kinh sách tách biệt đặc biệt được chuẩn bị cho những người chưa chứng ngộ. Kinh sách chứa lời của người đã chứng ngộ nên hoàn toàn bị dấu kín với người dốt nát, bởi vì người này nhất định sẽ suy diễn ý nghĩa riêng của mình và thế thì mọi thứ trở thành xoắn xuýt và méo mó. Cứ theo cách này, mọi trí huệ của chúng ta đều bị méo mó hết. Bạn có hiểu điều tôi đang nói không?
Thầy đã nói rằng shaktipat, việc truyền năng lượng sống, xảy ra qua trung gian của người vô ngã và rằng người nói, "Ta có thể làm shaktipat,", chắc chắn là giả và shaktipat sẽ không xảy ra qua người đó. Nhưng tôi biết nhiều người vẫn thực hành shaktipat và năng lượng kundalini bắt đầu đi lên và phát triển như vẫn được viết trong các kinh sách. Đây có phải là các quá trình giả không? Nếu có, nó là thế nào và tại sao?
Đây cũng là một điểm quan trọng cần phải hiểu. Thực tế không có gì trong thế giới này không có phần đối xứng giả của nó. Tiền giả tồn tại trong mọi chiều hướng của cuộc sống. Và bao giờ tiền giả cũng có vẻ sáng loáng hơn tiền thật. Nó phải là như vậy, bởi vì chính sự sáng loáng ấy làm cho nó hấp dẫn; nó là vô dụng trong thực tại của nó. Đồng tiền thực có tác dụng cho dù nó không sáng loáng. Tiền giả tạo ra lời tuyên bố hùng hồn vì nó phải bù lại, và bởi vì cái vô giá trị của nó, nó dễ dàng có sẵn.
Tất cả thành tựu tâm linh đều có phần giả tương ứng của chúng và không một kinh nghiệm nào không có thành phần giả. Nếu có kundalini thực, cũng có kundalini giả. Nếu có các luân xa thật, cũng có các luân xa giả. Nếu có phương pháp đúng của yoga, cũng có các phương pháp giả nữa. Khác nhau giữa hai điều  này là ở chỗ kinh nghiệm thật xuất hiện trên bình diện tâm linh, trong khi cái giả xuất hiện trên bình diện tâm lí, tâm trí.
Chẳng hạn, nếu một người đi vào thiền sâu và tới gần hơn bản thể mình, người đó sẽ bắt đầu kinh nghiệm nhiều điều. Người đó có thể kinh nghiệm hương thơm mà mình chưa bao giờ biết trước đây; người đó có thể nghe thấy âm nhạc bên ngoài thế giới này; người đó có thể thấy những mầu sắc mà không thấy có trên thế gian. Nhưng tất cả những kinh nghiệm này cũng có thể được tạo ra bởi thôi miên, nhanh chóng và chẳng khó khăn gì. Mầu sắc có thể được tạo ra; giai điệu có thể được tạo ra; hương và vị có thể được tạo ra. Và với tất cả những điều này chẳng cần phải trải qua thiền sâu và biến đổi bên trong gì cả. Tất cả điều bạn cần là trở thành vô ý thức qua thôi miên; thế thì bất kì cái gì được gợi ý từ bên ngoài cũng có thể xảy ra bên trong. Những kinh nghiệm này là đồng tiền giả cả.
Bất kì cái gì xảy ra trong thiền cũng đều có thể xảy ra qua thôi miên nhưng nó sẽ không phải là tâm linh. Đấy là trạng thái được gây ra; nó giống như giấc mơ. Nếu bạn yêu người đàn bà trong trạng thái tỉnh, bạn cũng có thể yêu cô ấy trong mơ nữa - và người đàn bà trong mơ sẽ đẹp hơn. Nếu người đàn ông không tỉnh thức và giữ việc mơ của mình, người này sẽ chẳng bao giờ biết cô gái trong mơ là thực hay ảo tưởng. Làm sao mà người đó biết được? Chỉ khi mơ bị phá vỡ, người đó mới biết rằng đó là mơ.
Cho nên có những phương pháp mà qua đó mọi loại mơ đều có thể được tạo ra bên trong bạn. Mơ về kundalini có thể được tạo ra; mơ về luân xa có thể được tạo ra; nhiều kinh nghiệm có thể được tạo ra. Bạn sẽ ham mê thích thú trong những mơ này; chúng dễ chịu đến mức bạn sẽ không muốn chúng biến mất đi. Chúng là những mơ mà thật khó để gọi chúng là mơ được, bởi vì chúng xảy ra trong khi bạn đang thức, trong khi bạn đang hoạt động. Chúng là mơ ngày. Chúng có thể được thực hành và bạn có thể trải qua cả đời trong chúng, nhưng đến cuối cùng bạn sẽ thấy bạn chẳng đạt tới đâu cả; bạn đã thấy một giấc mơ dài. Có những phương tiện và phương pháp để tạo ra những giấc mơ này. Người khác có thể đưa chúng vào trong bạn và bạn sẽ không bao giờ có khả năng phân biệt nổi giữa giả và thật, bởi vì bạn không có ý tưởng nào về kinh nghiệm thật cả.
Nếu một người chưa bao giờ thấy tiền thực và bao giờ cũng chỉ dùng tiền giả, làm sao người đó sẽ biết rằng đồng tiền của mình là giả? Để biết cái giả, cái thật phải được biết. Cho nên chỉ khoảnh khắc mà kundalini biểu lộ chính nó, người ta mới có thể thấy hai kinh nghiệm này cách nhau bao xa. Kundalini thực là một kinh nghiệm khác hẳn.
Nhớ lấy, nhiều mô tả về kundalini trong kinh sách là giả, và có lí do cho điều này. Bây giờ tôi sẽ nói cho bạn về một bí mật của kinh sách. Tất cả các hiền nhân và nhà tiên tri đã từng sống trên trái đất này đều để lại một cách có chủ ý một số lỗi lầm cơ bản trong từng kinh sách với mục đích để đánh giá sự tiến bộ và độ chân thực của đệ tử. Bây giờ, chẳng hạn, tôi có thể bảo bạn từ bên ngoài ngôi nhà này rằng có năm buồng bên trong, nhưng tôi biết có sáu. Một hôm bạn có thể tới và nói, "Tôi đã thấy ngôi nhà từ bên trong và chỉ có năm buồng như thầy nói." Thế thì tôi sẽ biết rằng bạn đã đến thăm lâu đài nào khác - lâu đài ảo tưởng - chứ không phải là ngôi nhà tôi đã nói tới.
Theo cách này một phòng đã bị bỏ bớt; điều này cho thông tin liệu bạn có thực sự kinh nghiệm hay không, liệu kinh nghiệm của bạn là thật hay không. Nếu kinh nghiệm của bạn hoàn toàn tương ứng với kinh sách, đấy là đồng tiền giả, bởi vì cái gì đó bao giờ cũng đã bị bỏ đi trong kinh sách; rất cần phải làm như vậy.
Nếu kinh nghiệm của bạn phù hợp với sách vở, biết rằng tri thức sách vở ấy là được phóng chiếu. Khoảnh khắc kinh nghiệm của bạn tới theo cách thức khác, cách thức mà trong đó chúng có thể trùng với kinh sách ở chỗ này và không trùng ở chỗ khác, thế thì biết rằng bạn đang trên con đường đúng - những điều đang xảy ra là chân thực và rằng bạn không đơn thuần phóng chiếu những mô tả mà bạn đã đọc trong kinh sách.
Cho nên khi kundalini thức tỉnh một cách chân thực, bạn sẽ biết chỗ nào trong kinh sách mọi thứ đã được phát minh ra để đánh giá độ chân thực của kinh nghiệm của thiền nhân. Nhưng trước điều này bạn không thể biết được nó. Mọi kinh sách đều cần phải bỏ đi thông tin nào đó; bằng không, sẽ khó mà đánh giá được độ chân thực của chứng nghiệm.
Có một thầy giáo của tôi. Ông ấy là một giáo sư đại học. Bất kì sách nào tôi nói tới ông ấy đều nói là ông ấy đã đọc nó. Một hôm tôi nhắc tới một cuốn sách hư cấu và tên tác giả của nó. Tôi nói, "Thầy đã đọc cuốn sách vậy chưa? Một cuốn sách tuyệt vời."
Ông ta nói, "Có, tôi đọc rồi."
"Bây giờ, hoặc thầy tạo ra sách đó hoặc tất cả những lời tuyên bố trước đây của thầy về việc đọc sách đều phải bị huỷ bỏ," tôi bảo ông ta, "Chẳng có cuốn sách như thế mà cũng chẳng có tác giả như thế!"
Ông ta ngạc nhiên, "Anh định nói gì vậy? Không có cuốn sách như thế à?" ông ấy nói.
"Không!" tôi nói, "Không có cách nào khác để đánh giá độ chân thực lời thầy nói."
Những người biết sẽ lập tức tìm ra. Nếu kinh nghiệm của bạn là đúng đắn như đã được đặt trong kinh sách, bạn sẽ bị bắt, bởi vì có những lỗ hổng bị bỏ lại trong kinh sách; đôi khi cái giả đã được thêm vào, đôi khi cái thật bị bỏ ra, và tất cả những điều này là tuyệt đối cần thiết vì nếu không sẽ khó mà nói được cái gì xảy ra cho ai.
Những kinh nghiệm được mô tả trong kinh sách có thể được bịa ra; mọi thứ đều có thể được bịa ra, bởi vì khả năng của tâm trí con người nhiều thế. Và trước khi người ta đi vào cốt lõi bên trong nhất của bản thể, tâm trí lừa dối người ta theo cả nghìn cách. Và nếu bạn muốn tự lừa mình thế thì điều ấy rất là dễ dàng.
Cho nên tôi nói vấn đề về các mô tả trong kinh sách hay ai đó tự xưng là làm shaktipat hay các kĩ thuật tạo ra kinh nghiệm giả, không phải là điều thật có ý nghĩa. Cốt lõi bản chất của vấn đề là cái gì đó khác. Có nhiều cách khác để tìm ra tính chân thực của kinh nghiệm của bạn.
Một người đang uống nước ban ngày và cơn khát của người đó được dịu đi; người đó uống nước trong mơ nhưng cơn khát của người đó không dịu đi. Buổi sáng người đó thấy cổ họng khô rang và đôi môi khô ráo, bởi vì việc uống nước trong mơ không thể làm dịu cơn khát. Chỉ nước thực mới làm dịu cơn khát. Liệu nước là thực hay không thực có thể được tìm ra từ cơn khát của bạn - liệu cơn khát có được dịu đi hay là không.
Cho nên với những người mà bạn đang nói tới, những người cứ tuyên bố đánh thức kundalini của mọi người hay người nói ít nhất kundalini của họ đã trở nên được đánh thức cũng vẫn là đang tìm kiếm thôi. Họ nói họ đã kinh nghiệm nhiều điều, vậy mà việc tìm kiếm của họ vẫn tiếp tục. Họ xác nhận họ đã tìm thấy nước, ấy vậy mà họ chẳng có ý tưởng về cái hồ!
Mới hôm kia thôi một người bạn tới và nói anh ta đã đạt tới trạng thái vô ý nghĩ, và anh ta đã tới để hỏi về phương pháp thiền. Bây giờ phải nói gì cho người như thế đây! Một người nói kundalini của mình đã thức tỉnh nhưng tâm trí anh ta vẫn bất ổn; người khác, nói rằng kundalini đã thức tỉnh nhưng anh ta vẫn còn bị hành hạ bởi dục! Có những phương sách trung gian để phát hiện ra tính chân thực của kinh nghiệm của bạn.
Nếu kinh nghiệm là thực, việc tìm kiếm chấm dứt. Thế thì cho dù Thượng đế tới và mời chào an bình hay phúc lạc, người này sẽ từ chối một cách lễ phép và yêu cầu Thượng đế cứ giữ lấy nó cho mình; người này không cần nó. Cho nên để tìm ra cái chân thực của kinh nghiệm nhìn sâu vào nhân cách của người này về một số triệu chứng khác của biến đổi.
Một người nói rằng người đó đi vào samadhi, vào siêu tâm thức. Người đó chôn mình dưới đất trong sáu ngày rồi chui ra vẫn sống. Nhưng nếu bạn để tiền trong ngôi nhà, người này sẽ ăn cắp; nếu người này thấy có cơ hội, người đó sẽ say sưa trong việc uống rượu. Nếu bạn không biết về lời tuyên bố của người đó về samadhi, bạn sẽ chẳng thấy cái gì có giá trị trong người đó cả. Không hương thơm, không toả sáng, không ân huệ nào trong nhân cách người đó cả; người đó chỉ là người thường.
Không, người đó không đi vào samadhi: người đó đã học thủ đoạn về samadhi giả. Người đó đã làm chủ thủ đoạn ở dưới đất trong sáu ngày bằng pranayam; người đó đã học cách kiểm soát hơi thở để cho bên trong vùng đã định của chỗ nghỉ ngơi của mình, người đó có thể dùng một lượng ô xi tối thiểu. Do vậy người đó có thể ở dưới đất trong sáu ngày. Người đó gần như ở trong trạng thái con gấu Siberi ngủ đông dưới tuyết trong sáu tháng. Người đó không ở trong bất kì loại samadhi nào cả. Đến cuối mùa mưa, ếch vẫn nằm chôn vùi dưới đất trong tám tháng: chúng không trong samadhi. Người này đã học cùng kĩ thuật, không gì hơn.
Bây giờ, nếu bạn chôn một người dưới đất, người đã đạt tới trạng thái samadhi chân thực, người này rất có thể chết, vì samadhi chẳng liên quan gì tới việc bị chôn vùi dưới đất. Nếu Mahavira hay Phật bị cho nằm xuống dưới đất theo cách này, hầu như không có khả năng họ ra mà vẫn sống. Nhưng người này sẽ ra vẫn sống, bởi vì thành tựu này chẳng liên quan gì tới samadhi. Samadhi là chuyện khác hẳn. Nhưng người này sẽ hấp dẫn quần chúng. Nếu Mahavira thất bại mà người này thành công, người này sẽ dường như là một tirthankara thực còn Mahavira sẽ dường như là giả.
Cho nên những đồng tiền tâm lí giả này có lời tuyên bố giả dối của riêng chúng, và nhiều phương pháp đã được tiến triển để làm cho chúng thành thuyết phục. Do vậy một thế giới tách biệt đã được tạo ra quanh họ chẳng liên quan gì tới thực tại. Những người như vậy, người đang tham dự vào việc buôn bán các đồng tiền giả, đã lạc mất con đường chân chính nơi biến đổi thực sự xảy ra. Ở sáu ngày hay sáu tháng dưới đất chẳng liên quan gì tới việc tự nhận ra. Nhưng cái gì là phẩm chất bên trong của người như thế? Người này có được bao nhiêu an bình và im lặng bên trong? Người này có phúc lạc bên trong không? Nếu người này mất một đồng tiền, người đó sẽ không ngủ đêm được nhưng người đó lại có thể ở thoải mái dưới đất trong sáu ngày. Tất cả những điều này phải được xem xét và ý nghĩa thực đằng sau nó cần phải được tìm ra.
Cho nên  những người tuyên bố có khả  năng làm shaktipat, có thể làm như vậy, nhưng đấy không phải là shaktipat chân thực. Về bản chất, đấy là một loại thôi miên. Sâu phía dưới bằng cách nào đó họ đã học được những kĩ năng đùa với từ lực. Cũng không chắc là họ biết toàn bộ khoa học về chủ đề này. Họ chẳng biết về khoa học của quá trình này mà họ cũng không nhận biết về cái giả trong tuyên bố của mình. Họ là đống lộn xộn lớn.
Bạn thấy một nhà ảo thuật đường phố ở Ấn Độ đang trình diễn các thủ đoạn của mình. Ông ta trải tấm vải và bảo một đứa trẻ nằm vào trong đó. Ông ta để một món nữ trang rẻ tiền vào ngực đứa bé. Rồi ông ấy hỏi đứa bé số tiền trong ví một người xem. Đứa bé sẽ nói ra con số. "Đồng hồ của người đang đứng kia chỉ mấy giờ rồi?" Đứa bé lại trả lời đích xác thời gian. "Tên người này là gì?" Đứa trẻ sẽ nói cho ông ta cái tên. Mọi người đang xem đều bị thuyết phục bởi ảo thuật của món nữ trang này.
Thế rồi ông ta bỏ món nữ trang khỏi ngực đứa bé và lặp lại câu hỏi. Đứa bé nằm im: nó không thể nào trả lời được. Bây giờ nhà ảo thuật làm việc kinh doanh thuận lợi với đồ nữ trang này - mỗi món đồ nữ trang bán một đồng ru pi! Bạn đem nó về nhà: bạn có thể để nó lên ngực mình trong cả đời mình mà chẳng có gì sẽ xảy ra. Không phải là đứa bé kia đã được nhà ảo thuật dạy để nói khi món đồ nữ trang này đang trên ngực nó và phải im lặng khi nó bị lấy đi, cũng không phải có phẩm chất gì đặc biệt trong bản thân món đồ nữ trang này. Thủ đoạn này tinh vi hơn và bạn có lẽ sẽ ngạc nhiên mà biết điều đó.
Quá trình này được gọi là gợi ý hậu thôi miên. Một người được thôi miên thành vô ý thức, và trong trạng thái mê thôi miên này người đó được bảo phải nhìn kĩ vào món nữ trang. Người đó cũng được bảo rằng ngay khi món nữ trang này được đặt lên ngực mình, người đó phải trở thành vô ý thức.. Thế rồi, trong trạng thái vô ý thức ấy, người đó có thể được làm cho đọc được số các tờ tiền hay nói về thời gian trên đồng hồ. Không có gì giả trong đó cả. Ngay khi đứa trẻ được cho nằm trên tấm chăn trong trạng thái thôi miên và đồ nữ trang được đặt lên ngực nó, nó đi vào cơn mê thôi miên. Bây giờ nó có thể nói về số tờ bạc nếu được nhà ảo thuật hỏi. Cả đứa trẻ lẫn nhà ảo thuật đều chẳng biết rõ cái gì đang được xảy ra bên trong.
Nhà ảo thuật đã học được một thủ thuật: một người được đặt vào trong cơn mê thôi miên và thế rồi khi được chỉ cho thấy một thứ người này sẽ được bảo, "Bất kì khi nào vật này được đặt trước anh, anh sẽ lập tức trở thành vô ý thức, rơi vào trong cơn thôi miên lần nữa." Phương pháp này làm việc hoàn hảo - nhà ảo thuật chỉ biết đến thế này thôi. Cả hai chẳng ai biết cơ chế bên trong, tính năng động của hiện tượng năng lượng. Nếu như họ có biết, họ sẽ không thực hiện thủ đoạn này bên lề đường. Việc biết tính năng động của quá trình này là một chủ đề sâu sắc cho dù nó chỉ là hiện tượng tâm lí. Ngay cả Freud hay Jung cũng chẳng biết nó. Ngay cả ngày nay các nhà tâm lí vĩ đại nhất của thế giới cũng không biết đến tính năng động của của năng lượng thân thể trong tính toàn bộ của nó. Nhưng nhà ảo thuật này bằng cách nào đó đã vớ được thủ đoạn này mà ông ta dùng để kiếm sống.
Bật công tắc điện lên, điều đó không cần bạn phải biết điện là gì, nó được tạo ra như thế nào, hay kĩ nghệ điện tất cả là gì. Bạn đơn giản nhấn nút và điện bắt đầu chạy. Bất kì ai cũng đều có thể nhấn nút được.
Nhà ảo thuật trên phố đã học được nghệ thuật gợi ý hậu thôi miên và ông ta dùng nó để bán đồ nữ trang rẻ tiền. Bạn mua món đồ trang sức rẻ tiền, đem nó về nhà, nhưng nó sẽ vô dụng cho bạn. Đồ nữ trang có tác dụng với một quá trình nào đó về gợi ý hậu thôi miên. Bạn đặt nó lên ngực mình và chẳng cái gì xảy ra cả. Thế thì bạn cảm thấy rằng bạn bị sai sót ở đâu đó, bởi vì bạn đã thấy đồ nữ trang này có tác dụng.
Cho nên nhiều kinh nghiệm giả và giả mạo có thể được tạo ra. Giả và giả mạo không theo nghĩa là chúng không tồn tại mà theo nghĩa là chúng không tâm linh; chúng chỉ là các quá trình tinh thần. Mọi kinh nghiệm tâm linh đều có cái song song về tinh thần. Do đó, các tương xứng tinh thần có thể được tạo ra bởi những người chưa tâm linh, người đưa ra tuyên bố về khả năng tinh thần của họ. Nhưng chẳng có gì so sánh được với kinh nghiệm tâm linh xác thực.
Người tâm linh đích thực không tuyên bố về điều gì cả. Người đó không nói, "Tôi đang làm shaktipat; tôi đang làm cái này cái nọ. Và khi điều ấy xảy ra, bạn sẽ trở nên tham dự và gắn bó với tôi." Người đó đã trở thành không ai cả, cái không. Chỉ bởi ở gần người đó mà cái gì đó bắt đầu xảy ra cho bạn. Nhưng người đó tuyệt đối không có ý làm nó.
Có một câu chuyện cổ La mã về một hiền nhân vĩ đại. Hương thơm của bản thể ông ấy và tia sáng từ trí huệ của ông ấy lan toả nhiều đến mức chúng đạt tới các vị thần trên trời. Họ tới gặp ông và nói, "Ông cầu xin ân huệ đi. Chúng ta đã được chuẩn bị để ban cho ông bất kì cái gì ông muốn."
Thánh nhân đáp, "Cái phải xảy ra, đã xảy ra rồi; chẳng còn gì nữa để ham muốn. Xin đừng đẩy tôi vào khó khăn bởi việc hỏi tôi ham muốn gì. Đừng làm tôi bối rối với đề nghị của các ông. Sẽ là cách cư xử không hay nếu tôi không hỏi, nhưng sự kiện là ở chỗ chẳng còn lại gì để tôi hỏi cả. Mọi thứ đã xảy ra cho tôi, ngay cả cái mà tôi chưa bao giờ nghĩ tới."
Các thần thậm chí còn bị ấn tượng hơn bởi lời của ông ấy, bởi vì hương thơm của ông trở nên mạnh hơn với sự kiện là ông ấy đã vượt ra ngoài ham muốn. "Ông phải yêu cầu điều gì đó," các thần nài nỉ. "Chúng tôi sẽ không đi mà không ban ân huệ cho ông."
Thánh nhân bị lâm vào tình thế khó khăn. "Tôi sẽ yêu cầu cái gì đây? Tôi không thể nghĩ được cái gì cả," ông ấy nói với các vị thần. "Các ông cho tôi bất kì cái gì các ông thích; tôi sẽ lấy nó."
"Chúng ta sẽ cho ông quyền năng. Chỉ cái chạm của ông sẽ đem người chết về cuộc sống và người ốm thành khoẻ mạnh," họ bảo ông ấy.
"Điều này thật tốt, sự giúp đỡ lớn lao," ông ấy nói, "nhưng về tôi thì sao? Tôi sẽ bị rắc rối lớn, vì tôi có thể có ý tưởng rằng tôi đang chữa lành người ốm, rằng tôi đưa người chết về với sự sống. Nếu bản ngã tôi quay lại từ cửa sau, thế thì tôi bị kết thúc rồi, thế thì tôi bị lạc trong bóng tối. Xin cứu tôi với; từ bi với tôi; làm điều gì đó để cho tôi không biết đến những phép màu này."
Thế là các thần đồng ý. Họ nói, "Bất kì chỗ nào bóng ông phủ tới, nó sẽ đem người chết về với cuộc sống."
"Điều ấy thật tốt," hiền nhân nói. "Bây giờ xin cho tôi ân huệ cuối cùng. Xin ban cho cổ tôi trở thành cứng nhắc để cho tôi không thể nào quay lại sau để thấy tác động của cái bóng của tôi."
Ân huệ được ban ra. Cổ của hiền nhân bị cứng ngắc. Ông ấy đi từ thị trấn nọ sang thị trấn kia. Khi cái bóng ông ấy phủ lên hoa héo, chúng bắt đầu nở hoa, nhưng rồi ông ấy lại đi lên trước; cổ ông ấy không cho phép ông ấy ngoái nhìn lại. Ông ấy chẳng bao giờ đi tới biết. Khi ông ấy chết ông ấy hỏi các thần liệu món quà của họ có kết quả không, bởi vì ông ấy chẳng bao giờ biết về điều đó. Tôi cảm thấy câu chuyện này rất đáng yêu.
Khi shaktipat xảy ra, nó xảy ra hệt như thế này. Nó xảy ra với cái bóng và cái cổ cứng ngắc. Người trung gian, qua người đó năng lượng tuôn chảy, phải là hư không hoàn toàn bằng không đầu của người đó có thể quay lại. Nếu có dù chỉ một dấu vết của bản ngã, sẽ có thôi thúc nhìn lại và xem liệu việc xảy ra có tới hay không. Nếu nó tới, thế thì cảm giác về "Ta đã làm nó," sẽ tới. Sẽ khó tránh cảm giác này.
Cho nên bất kì khi nào một người trở thành trống rỗng và im lặng, shaktipat sẽ xảy ra với thoải mái lớn quanh người đó, hệt như mặt trời lên và hoa nở, hay như sông chảy và cây được nuôi dưỡng. Sông chưa bao giờ tuyên bố rằng nó đã tưới nước cho biết bao nhiêu cây cối và biết bao nhiêu cây cối đang nở hoa vì nó. Sông thậm chí không biết tất cả những điều này. Vào lúc hoa nở, nước nuôi dưỡng cây đó đã ra tới đại dương. Thời gian đâu để nó đợi mà thấy được? Không có cách nào nhìn lại cả. Khi sự kiện xảy ra trong những điều kiện như thế thì nó có một giá trị tâm linh. Nhưng nơi có bản ngã, có người làm, khi ai đó nói rằng "Ta là người làm đây," thế thì đấy là hiện tượng tâm trí và nó chẳng gì nhiều hơn việc thôi miên.
Không có khả năng của thôi miên và ảo tưởng trong phương pháp Thiền động mới của thầy chứ? Với nhiều người tham dự mà chẳng có gì xảy ra cả; họ có trên đường đúng không? Có những người khác trong nhiều quá trình đang xảy ra; họ có trên đường đúng không? Liệu một số trong những người này có khoe mẽ không?
Có hai hay ba điều cần phải hiểu cho đúng. Thôi miên là một khoa học và nó có thể dễ dàng được dùng để tạo ra lừa dối. Tuy nhiên, thôi miên cũng có thể có ích để giúp bạn. Khoa học bao giờ cũng là lưỡi kiếm hai cạnh.
Năng lượng nguyên tử có thể tạo ra lúa mì trên các cánh đồng; nó cũng có thể xoá đi toàn bộ loài người chỉ trong một cú. Cả hai khả năng đều có đó. Dòng điện làm quay quạt máy trong nhà bạn cũng có thể giết chết bạn, nhưng bạn sẽ không coi điện chịu trách nhiệm về điều đó. Nếu một kẻ bản ngã dùng thôi miên, người đó sẽ làm như vậy ấy để đàn áp, phá huỷ và lừa dối người khác. Nhưng việc đối lập của điều này cũng là có thể.
Thôi miên là năng lượng trung tính; nó là một khoa học. Nó có thể được dùng để phá vỡ giấc mơ cứ diễn ra bên trong bạn, và những ảo tưởng bắt rễ sâu xa của bạn cũng có thể bị nó nhổ bật đi.
Phương pháp tôi đang dùng là thôi miên ở pha khởi đầu, nhưng điều này được gắn với một yếu tố nền tảng sẽ bảo vệ bạn khỏi việc bị thôi miên - và đó là chứng kiến. Đây là khác biệt duy nhất giữa thôi miên và thiền, nhưng đây là khác biệt rất lớn. Khi bạn bị thôi miên, bạn bị làm trở thành vô ý thức. Chỉ thế thì bạn mới có thể bị làm cho làm việc. Tuy nhiên, tôi nói rằng thôi miên thiền là có ích, nhưng chỉ khi bạn trở thành người quan sát. Thế thì bạn tỉnh thức và tỉnh táo, và bạn biết điều đang xảy ra vào mọi lúc. Thế thì chẳng điều gì có thể được làm chống lại ý chí bạn; bạn bao giờ cũng hiện diện. Trong thôi miên những lời gợi ý có thể được dùng để làm cho bạn thành vô ý thức và những lời gợi ý có thể được dùng để phá vỡ vô ý thức của bạn.
Cho nên các bước khởi đầu của điều tôi gọi là thiền động toàn là thôi miên, và chúng nhất định là như thế bởi vì bất kì cuộc hành trình nào hướng về cái ta đều chỉ bắt đầu từ tâm trí. Điều này là vì bạn sống trong tâm trí; đó là chỗ bạn đang ở, cho nên cuộc hành trình bắt đầu từ đó. Nhưng cuộc hành trình này có thể thuộc hai loại: hoặc nó có thể đưa bạn trên con đường tròn bên trong tâm trí nơi bạn sẽ cứ đi lòng vòng mãi như con bò kéo cối xay, chẳng bao giờ có khả năng đi ra, hoặc nó có thể đưa bạn tới bờ của tâm trí mà từ đó bạn có thể nhảy ra. Trong cả hai trường hợp, những bước khởi đầu sẽ phải được lấy từ bên trong tâm trí.
Cho nên dạng khởi đầu của thôi miên là giống hệt như dạng khởi đầu của thiền, nhưng dạng cuối cùng là khác nhau và mục tiêu cũng khác nhau. Và trong cả hai quá trình này một phần tử cơ bản là khác nhau. Thôi miên lập tức đòi hỏi vô ý thức, ngủ; do đó, tất cả các gợi ý của nó đều bắt đầu với ngủ, ngủ lơ mơ, và thế rồi phần còn lại theo sau. Trong thiền, lời gợi ý bắt đầu với sự tỉnh thức, và sau đó nhấn mạnh là vào trạng thái chứng kiến. Nhân chứng trong bạn là việc thức tỉnh, cho nên không tác nhân bên ngoài nào có thể ảnh hưởng tới bạn. Và bạn cũng nhớ rằng bất kì cái gì xảy ra bên trong bạn, bạn tràn đầy ý thức về nó.
Bây giờ, cái gì là khác biệt giữa những người mà mọi thứ đang xảy ra và những người mà mọi thứ không xảy ra? Những người mà với họ chẳng có gì xảy ra, đều có sức mạnh ý chí yếu hơn. Họ sợ hãi, hoảng hốt. Họ thậm chí còn sợ rằng điều đó có thể xảy ra! Con người kì lạ làm sao! Họ đã tới để thiền; họ đã tới để cho việc thiền xảy ra, nhưng bây giờ họ lại sợ rằng điều đó có thể thực sự xảy ra. Và khi họ thấy mọi sự xảy ra cho người khác, họ lại tự hỏi liệu đấy có phải là làm ra bộ hay không. Đây là cách thức đề phòng của họ. Họ nói, "Chúng ta không yếu đuối đến mức trở thành bị ảnh hưởng đâu. Những người này là những người yếu đuối." Theo cách này họ thoả mãn bản ngã của mình, không biết rằng quá trình này không thể nào xảy ra cho người yếu đuối được. Họ cũng không biết rằng điều này xảy ra chỉ cho người thông minh và không cho người không thông minh.
Người ngốc, không thể bị thôi miên mà cũng chẳng thể nào được đưa vào trong thiền. Cả hai đều không thể được. Tương tự, người khùng không thể nào bị bắt làm việc được. Người càng thiên tài, càng nhanh chóng bị thôi miên. Người càng kém thiên tài, càng cần thời gian dài hơn để thôi miên người đó.
Làm sao mọi người có thể hợp lí hoá về việc thiếu thông minh, ý chí và thiên tài? Họ sẽ nói theo đề phòng của mình, "Dường như là những người này đơn thuần biểu diễn. Họ mang tâm trí yếu đuối và bị ảnh hưởng từ bên ngoài."
Gần đây tại Amritsar một người tới gặp tôi. Người đó là một ông già có học - một tiến sĩ về hưu. Ông ấy tới vào ngày thực nghiệm thiền thứ ba. Ông ấy nói, "Tôi đã tới để xin thầy tha thứ cho ý nghĩ tội lỗi đã tới trong tâm trí tôi."
"Có chuyện gì vậy?" tôi hỏi ông ta.
Ông ta đáp, "Ngày thứ nhất khi tôi tới thiền, tôi cảm thấy thầy đã tổ chức mọi người của thầy ăn mặc và đóng vai trong việc trình diễn này, và có một số người với tâm trí yếu đuối theo đuôi họ một cách mù quáng. Thế là tôi nói, ‘Để mình xem lần thứ hai.’ Ngày thứ hai tôi thấy hai hay ba người bạn mình, cũng là tiến sĩ đang tham dự hoàn toàn vào thực nghiệm thiền. Tôi tới nhà họ để hỏi. Tôi bảo họ, ‘Không thể nào có việc anh đã được chuẩn bị cho điều này. Điều đó phải chẳng đã thực sự xảy ra cho anh hay là anh giả vờ?’
"Họ đáp lại, ‘Cần gì phải giả vờ để làm cái gì? Mãi cho tới hôm qua tôi cũng nghĩ giống thế đấy, nhưng hôm nay việc ấy đã xảy ra cho chúng tôi."
Thế rồi đến ngày thứ ba, khi điều đó xảy ra cho ông ta, ông ấy tới xin lỗi. Ông ấy nói, "Hôm nay điều ấy đã xảy ra cho tôi, và bây giờ ảo tưởng của tôi tất cả đã biến mất; bằng không, tôi đã không tin vào nó. Tôi cũng đã nghi ngờ các bạn tiến sĩ của tôi. Thầy chẳng bao giờ có thể nói những ngày này người ta sẽ làm gì. Có thể họ đã có một hợp đồng biểu diễn với thầy! Tôi biết họ, nhưng ai nói được? - họ có thể tới dưới quyến rũ thôi miên của thầy. Nhưng hôm nay điều đó đã xảy ra cho tôi. Hôm nay khi tôi về nhà, cậu em tôi, người cũng là tiến sĩ, đã hỏi, ‘Cuộc trình diễn thế nào? Điều gì đó đã xảy ra cho anh chưa?’, tôi bảo nó, ‘Này em, tha lỗi cho anh, anh không thể gọi điều đó là trình diễn nữa. Trong hai ngày anh đã chế giễu toàn bộ thực nghiệm, nhưng hôm nay điều đó đã xảy ra cho anh. Và anh không giận gì em, vì mới hôm qua thôi bản thân anh còn chỉ trích hệt như em.’"
Con người này lần nữa lại xin tôi tha thứ cho những ý nghĩ tiêu cực của mình.
Đây là các biện pháp đề phòng của chúng ta. Những người không thấy gì xảy ra cho mình sẽ tìm ra cách thức và phương tiện để bảo vệ bản ngã họ. Nhưng chỉ có một khoảng cách rất nhỏ giữa người mà điều đó xảy ra và người mà điều đó không xảy ra. Chỉ thiếu một chút ít cương quyết nữa. Nếu người ta thu được lòng dũng cảm, cương quyết hơn và vứt bỏ tất cả các cấm đoán, sự kiện sẽ xảy ra.
Hôm nay một người đàn bà tới tôi và bảo tôi rằng bạn cô ấy gọi điện cho cô ấy và bảo cô ấy rằng "Trong những thực nghiệm này một số người cởi trần ra, một số người làm những điều kì lạ. Làm sao các quí bà của các gia đình tử tế tham gia vào những điều đó được?"
Một số người có ảo tưởng thuộc về gia đình "tử tế", còn số khác, thuộc về các gia đình "không đức hạnh". Đây tất cả đều là các biện pháp đề phòng. Người đàn bà nghĩ mình thuộc về gia đình tử tế bây giờ sẽ bỏ lỡ thực nghiệm này và tự hạn chế mình vào ngôi nhà mình. Nếu cô ấy bị rắc rối bởi người khác trở nên ở trần, thế thì cô ấy không thuộc vào gia đình tử tế. Cô ấy phải làm gì với người đó?
Cho nên tâm trí chúng ta tạo ra những cái cớ kì lạ. Nó nói, "Đây tất cả đều là tình trạng lộn xộn và một đống hỗn độn, và điều đó không thể xảy ra cho tôi được. Tôi không phải là người yếu đuối - tôi có tâm trí mạnh mẽ." Nếu điều này quả là như vậy, nếu bạn quả thực là người mạnh mẽ và thông minh, thế thì sự việc sẽ phải xảy ra.
Dấu hiệu của người thông minh là ở chỗ người đó không ra quyết định gì trước khi thử một việc. Người đó thậm chí sẽ không nói rằng điều người khác làm là sai.
Người đó sẽ nói, "Tôi là ai để mà bình luận về người đó? Chụp mũ người khác sai là không tốt. Bạn là ai mà quyết định rằng ai đó khác là sai?" Những quyết định sai như vậy đã gây ra rất nhiều khó khăn.
Mọi người không tin rằng cái gì đã xảy ra cho Jesus; bằng không, họ đã không treo ông ấy lên cây thánh giá. Họ nói, "Con người này dở hơi và nguy hiểm; hắn ta nói toàn điều ngớ ngẩn!" Mọi người sẽ không ném đá vào Mahavira nếu họ không nghĩ rằng ông ấy đã gây ra rối loạn bởi việc ở trần. Họ nói rằng chẳng cái gì đã xảy ra cho Mahavira.
Dựa trên thẩm quyền nào mà chúng ta có thể quyết định điều gì đang xảy ra bên trong cho người khác? Đây là triệu chứng của người thông minh - rằng người đó không diễn đạt ý kiến chừng nào người đó còn chưa tự mình thử sự việc. Nếu không cái gì xảy ra cho tôi, tôi phải tìm xem liệu tôi có tiến hành các hướng dẫn về thực nghiệm ấy đầy đủ chưa. Nếu tôi chưa làm được nó đầy đủ, làm sao cái gì có thể xảy ra được?
Gần đây ở trại thiền Porbander tôi đã nói rằng nếu một người còn chưa tự mình cố gắng một trăm phần trăm, cho dù nỗ lực của người đó đã lên tới chín mươi chín phần trăm, người đó vẫn thất bại.
Một người bạn tới và nói, "Tôi cứ ung dung nghĩ rằng việc ấy sẽ cần thời gian lâu thêm chút ít để xảy ra. Nhưng hôm nay tôi nhận ra rằng nó sẽ chẳng bao giờ xảy ra theo cách này. Cho nên tôi sẽ tự mình cố gắng hôm nay hoàn toàn, và nó đã xảy ra."
Nếu bạn có thái độ này để làm thực nghiệm chậm chạp, thế thì tại sao làm nó? Theo cách này chúng ta muốn  giương  buồm  trong  hai  thuyền  một  lúc,  nhưng người đặt từng chân lên từng thuyền khác nhau thấy mình gặp khó khăn lớn. Một thuyền thì tốt; thế thì cho dù nó có đi xuống địa ngục ít nhất bạn cũng trong một con thuyền. Nhưng chúng ta là những người kì lạ; chúng ta đặt một chân lên thuyền đi tới cõi trời còn chân kia, lên thuyền xuống địa ngục!
Thực tế, tâm trí bị lẫn lộn về nơi đi tới. Nó sợ hãi và không quyết định được liệu nó sẽ hạnh phúc trên cõi trời hay trong địa ngục. Đặt một chân lên hai thuyền bạn sẽ chẳng đạt tới đâu cả; bạn sẽ chết vẫn trên sông. Đấy là công việc của tâm trí vào mọi thời điểm. Đấy là tinh thần phân liệt. Chúng ta sẽ nỗ lực để đi rồi dừng mình lại nữa. Điều này rất có hại.
Tiến hành thực nghiệm này với toàn bộ sự mãnh liệt của mình, và đừng hình thành ý kiến nào về người khác. Nếu người ta trải qua thực nghiệm đầy đủ, mọi thứ chắc chắn sẽ xảy ra. Tôi đang nói về những điều rất khoa học, không phải là cái gì đấy thuộc vào mê tín tôn giáo.
Chính sự kiện khoa học là ở chỗ với toàn bộ nỗ lực, kết quả nhất định xảy ra. Không có cách khác, bởi vì Thượng đế là năng lượng và năng lượng này là vô tư. Tại đây, cầu nguyện hay tôn thờ, hay sự kiện được sinh ra trong gia đình đẳng cấp cao hay trên mảnh đất Ấn Độ, đều không có tác dụng. Đây là vấn đề khoa học thuần tuý. Nếu một người trải qua điều này một cách chân thành, ngay cả Thượng đế cũng chẳng thể nào ngăn cản anh ta thành công. Và cho dù không có Thượng đế cũng chẳng thành vấn đề. Thấy rằng bạn đang đặt toàn bộ năng lượng của mình vào trong thực nghiệm thiền. Và bao giờ cũng ra quyết định theo kinh nghiệm bên trong của mình, không phải là từ dáng vẻ bên ngoài của biến cố; bằng không, bạn sẽ đi sai đường.

Ads Belove Post