Read more
Osho - Biến chuyển Mật Tông
Chương 3. Phá vỡ bốn lớp xi
Khi nhận biết cao hơn, họ dạy điều họ kinh
nghiệm bên trong. Điều giam hãm họ, họ sẽ gọi là giải phóng. Món nữ trang thuỷ
tinh mầu xanh, đối với họ là viên ngọc vô giá. Bị ảo tưởng, họ không biết phân
biệt viên ngọc với cái họ cứ tưởng là ngọc.
Họ coi đồng là vàng. Bị ràng buộc với suy
nghĩ lan man, họ tưởng ý nghĩ này là thực tại tối thượng. Họ mong mỏi hoan lạc
được kinh nghiệm trong giấc mơ. Họ gọi thâm-tâm mau tàn là niềm phúc lạc tối
cao vĩnh viễn.
Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc tự tẩy rửa
được đạt tới. Theo những tình huống khác nhau đòi hỏi bốn lớp xi họ gọi điều họ
đã tưởng tượng là tính tự phát. Nhưng đây là nhìn vào sự phản xạ trong gương.
Như dưới sức mạnh của ảo tưởng bầy hươu
xô về nguồn nước trong ảo tưởng không nhận
ra, cho nên ảo tưởng không làm dịu đi cơn khát của chúng, chúng bị gắn vào xiềng
xích và tìm thấy hoan lạc trong chúng, nói rằng tất cả đều là thực tế tối thượng.
Mật tông là siêu việt. Nó không
si mê mà cũng chẳng kìm nén. Nó là việc đi trên dây, nó là một trong những sự
quân bình lớn nhất. Nó không dễ dàng như nó có vẻ thế, nó cần có nhận biết rất
tinh tế. Nó là sự hài hoà vĩ đại.
Rất dễ dàng để cho tâm trí si
mê. Điều đối lập cũng rất dễ dàng: từ bỏ. Việc chuyển sang cực đoan này là rất
dễ dàng đối với tâm trí. Duy trì được ở giữa, chính giữa, là điều khó khăn nhất
cho tâm trí, bởi vì đấy chính là việc tự tử của tâm trí. Tâm trí chết đi ở giữa
và vô trí nảy sinh. Đó là lí do tại sao Phật đã gọi con đường của mình là
majjhim nikaya - trung đạo. Saraha là một đệ tử của Phật, theo cùng dòng truyền
thừa, với cùng hiểu biết, với cùng nhận biết.
Cho nên điều rất cơ bản này cần
phải được hiểu rõ, bằng không bạn sẽ hiểu lầm Mật tông. Lằn ranh là gì? Đích
xác ở giữa là gì? Si mê trong thế giới này chẳng cần nhận biết. Kìm nén các ham
muốn trần tục, cũng chẳng cần tới nhận biết. Cái gọi là người thế giới này của
bạn và cái gọi là người thế giới khác cũng chẳng khác nhau nhiều lắm; họ có thể
đứng quay lưng vào nhau nhưng họ chẳng khác nhau chút nào, họ đều y hệt cùng một
kiểu tâm trí. Ai đó khát khao tiền bạc, và ai đó chống lại tiền bạc đến độ người
đó thậm chí không thể nhìn được tờ giấy bạc; người đó trở thành sợ hãi và run rẩy
phát sinh trong người đó. Những người ấy chẳng khác nhau; với cả hai tiền đều rất
quan trọng. Một đằng thì tham lam, một đằng thì sợ hãi, nhưng tầm quan trọng của
tiền bạc là như nhau: cả hai đều bị tiền ám ảnh.
Một người cứ nghĩ về đàn bà, mơ
ước, tưởng tượng. Người khác lại trở nên sợ hãi đến độ người đó phải trốn thoát
lên Himalayas chỉ để tránh đàn bà. Nhưng cả hai là như nhau: với cả hai, đàn bà
là quan trọng, hay đàn ông - người khác là quan trọng. Người này tìm kiếm người
khác, người này tránh người khác, nhưng người khác vẫn còn là tiêu điểm của họ.
Mật tông nói: Người khác phải
không được là tiêu điểm, không theo cách này cũng chẳng theo cách nọ. Điều này
chỉ có thể xảy ra thông qua hiểu biết sâu sắc. Thèm khát đàn bà phải được hiểu
- không si mê mà cũng chẳng né tránh, nhưng phải hiểu. Mật tông là rất khoa học.
Từ khoa học có nghĩa là hiểu, từ
khoa học có nghĩa là biết. Mật tông nói: Việc biết giải phóng. Nếu bạn biết
đích xác tham lam là gì thì bạn được tự do khỏi tham lam; không có nhu cầu từ bỏ
nó. Nhu cầu từ bỏ nảy sinh chỉ bởi vì bạn đã không hiểu tham lam là gì. Nhu cầu
lấy lời nguyện chống dục là được cần tới chỉ bởi vì bạn đã không hiểu dục là
gì. Và xã hội không cho phép bạn hiểu nó.
Xã hội giúp bạn không hiểu. Xã
hội đã né tránh ngay chính chủ đề dục và chết trong suốt nhiều thế kỉ. Các chủ
đề này không được nghĩ tới, không được suy tư tới, không được thảo luận, không
được viết ra, không được nghiên cứu; chúng bị né tránh. Qua né tránh đó mà dốt
nát lớn lao về chúng tồn tại và dốt nát đó là căn nguyên. Thế thì có hai kiểu
người phát sinh từ dốt nát đó: một kiểu người si mê điên dại, còn một loại thì
trở nên rất mệt mỏi và trốn chạy.
Mật tông nói: Loại người si mê
điên dại sẽ chẳng bao giờ hiểu được vì người đó sẽ đơn giản lặp lại thói quen,
và người đó sẽ chẳng bao giờ nhìn vào thói quen đó cùng căn nguyên của nó; người
đó sẽ chẳng bao giờ nhìn vào quan hệ nhân quả của nó. Và người đó càng si mê,
người đó càng trở nên máy móc.
Bạn chưa từng quan sát điều đó
sao? Tình yêu đầu tiên của bạn có cái gì đó tuyệt vời, tình yêu thứ hai không
được tuyệt vời như thế, tình yêu thứ ba thậm chí còn bình thường hơn, tình yêu
thứ tư trần tục. Điều gì đã xảy ra? Tại sao tình yêu đầu tiên lại được ca ngợi
đến thế? Tại sao mọi người bao giờ cũng nói rằng tình yêu chỉ xảy ra có một lần?
Tại sao?... Bởi vì lần đầu tiên nó không phải là máy móc, cho nên bạn có chút tỉnh
táo về nó. Lần tiếp bạn đã trông đợi về nó, nên bạn không thật tỉnh táo. Lần thứ
ba bạn nghĩ bạn biết về nó cho nên chẳng còn thám hiểm trong nó. Lần thứ tư nó
quá trần tục; bạn đã lắng đọng vào thói quen máy móc.
Thông qua si mê dục trở thành
thói quen. Vâng, nó đem lại một chút xả hơi - tựa như hắt hơi, nhưng không nhiều
hơn thế. Nó là việc xả ra năng lượng về mặt vật lí. Bạn trở nên quá nặng gánh với
năng lượng, bạn phải vứt năng lượng đó. Bạn thu thập nó qua thức ăn, qua luyện
tập, qua ánh sáng mặt trời - cứ thu thập nó rồi lại vứt nó đi - đó là điều người
si mê tiếp tục làm. Người đó tạo ra năng lượng lớn rồi vứt đi, chẳng mục đích
gì, chẳng ý nghĩa gì. Có nó, người đó chịu đựng căng thẳng về nó. Vứt nó đi,
người đó chịu đựng yếu đuối về nó. Người đó đơn giản chịu đựng.
Đừng bao giờ nghĩ rằng người si
mê là người hạnh phúc - đừng bao giờ! Người đó là người khổ nhất trên thế giới.
Làm sao người đó có thể hạnh phúc được? Người đó hi vọng, người đó ham muốn hạnh
phúc, nhưng người đó chẳng bao giờ đạt được nó.
Nhưng nhớ lấy, khi nói về những
điều này Mật tông không đề nghị rằng bạn chuyển sang cực đoan khác. Mật tông
không nói rằng bạn nên trốn khỏi thế giới si mê này.
Trốn sẽ lại trở thành thói quen
máy móc. Ngồi trong hang núi, đàn bà không có sẵn, nhưng điều đó chẳng tạo ra
nhiều khác biệt lắm. Nếu bất kì lúc nào đàn bà trở nên có sẵn, người đàn ông,
người đã từ bỏ, sẽ lại còn dễ sa ngã hơn người đang si mê trong thế giới. Bất
kì cái gì bạn kìm nén đều trở thành rất mạnh bên trong bạn.
Tôi đã từng nghe...
Có một lính cứu hoả bủn xỉn khủng
khiếp cả đối với vợ và ông chủ nhà. Một đêm anh ta đem về một chiếc bánh thịt lợn
tuyệt ngon và ăn bữa tối hết nửa cái bánh. Vợ anh ta và ông chủ thì phải ăn
bánh mì khô và pho mát. Anh ta cẩn thận cất kĩ nửa cái bánh còn lại và rồi tất
cả lên giường.
Giữa đêm chuông báo cháy reo
vang và ông chủ gia đình phải chạy đi. Người vợ, trần như nhộng, vào phòng người
chủ, lay ông ta dậy và nói, "Nó vừa đi rồi. Nhanh lên! Bây giờ là cơ hội
cho anh."
"Cô có chắc mọi việc ổn
thoả chứ?" người chủ hỏi lại. "Tất nhiên! Mau lên, đừng mất thời
gian!"
Thế là người chủ nhà đi xuống cầu
thang và ăn nốt cái bánh thịt lợn.
Bây giờ điều đó đã là kìm nén của
ông ta - miếng bánh thịt lợn. Ông ta phải mơ ước về nó, nghĩ về nó, tưởng tượng
về nó. Người đàn bà trần như nhộng chẳng còn hấp dẫn gì anh ta, nhưng miếng
bánh thịt lợn thì...
Nhớ lấy, bất kì cái gì bạn kìm
nén đều sẽ trở thành hấp dẫn, sẽ trở thành lôi kéo hấp dẫn với bạn. Cái bị kìm
nén trở thành mạnh mẽ; nó thu được sức mạnh theo mọi tỉ lệ.
Nghe giai thoại này...
Sâu trong khu công viên cây cối
tươi đẹp có hai bức tượng đồng đáng yêu đứng đó, một đứa con trai và một đứa
con gái đang trong tư thế yêu đương và khao khát mãnh liệt. Chúng đã đứng đó ba
trăm năm nay, cánh tay chúng vươn tới nhau, khao khát nhưng chưa bao giờ chạm
vào nhau được. Một hôm, một nhà ảo thuật đi qua và động lòng từ bi nói,
"Ta có đủ quyền năng để cho chúng sống trong một giờ, nên ta sẽ thực hiện
việc này. Trong một giờ chúng sẽ có thể hôn nhau, chạm vào nhau, ôm nhau, làm
tình với nhau."
Thế là nhà ảo thuật vẫy chiếc
đũa thần và ngay lập tức hai bức tượng nhảy phóc ra khỏi đế tượng tay nắm tay
nhau chạy tuốt vào bụi cây.
Những tiếng động lớn... tiếng đấm
thùm thụp, tiếng hò hét, tiếng kêu oai oái và tiếng vỗ cánh. Không cưỡng nổi tò
mò nhà ảo thuật nhón chân ngó sát qua lá cây. Đứa con trai đang ấn dí một con
chim xuống, còn đứa con gái đang ngồi xổm lên con chim đó. Bỗng nhiên đứa con
trai nhảy lên và kêu ầm ĩ, "Bây giờ đến lượt đằng ấy giữ nó trong khi tớ ỉa
vào nó!"
Đã ba trăm năm nay chim tới ỉa
lên chúng... thế thì còn ai bận tâm tới việc làm tình nữa? Đó chính là kìm nén
của chúng.
Bạn có thể đi và ngồi trong
hang núi và trở thành bức tượng, nhưng cái mà bạn đã kìm nén sẽ lởn vởn quanh bạn,
sẽ là cái duy nhất bạn luôn luôn nghĩ tới.
Mật tông nói: Nhận biết... nhận
biết về si mê và hãy nhận biết về từ bỏ. Nhận biết cả hai, cả hai đều là bẫy.
Và bạn bị mắc bẫy theo cả hai cách trong tâm trí.
Thế thì đâu là con đường? Mật
tông nói: Nhận biết là con đường. Si mê là máy móc, kìm nén là máy móc, cả hai
đều là những điều máy móc. Cách duy nhất thoát ra khỏi điều máy móc là trở nên
nhận biết, tỉnh táo. Đừng đi lên Himalayas, đem im lặng của Himalayas vào bên
trong bạn. Đừng trốn, trở nên tỉnh thức nhiều hơn. Nhìn sâu vào mọi điều mà
không sợ hãi... không sợ nhìn sâu vào mọi điều. Đừng nghe điều những người vẫn
được gọi là tôn giáo cứ thuyết giảng. Họ làm cho bạn sợ, họ không cho phép bạn
nhìn vào dục, họ không cho phép bạn nhìn vào cái chết. Họ đã khai thác nỗi sợ của
bạn tối đa.
Cách duy nhất để khai thác một
người là trước tiên làm cho người đó sợ. Một khi bạn sợ, bạn đã sẵn sàng bị
khai thác. Sợ hãi là điều cơ bản, nó phải được tạo ra trước hết. Bạn đã bị làm
cho sợ hãi: dục là tội lỗi. Cho nên có nỗi sợ... Ngay cả trong khi làm tình với
người đàn bà hay người đàn ông của mình bạn cũng chẳng bao giờ nhìn thẳng vào
đó, thậm chí trong khi làm tình bạn cũng đang tránh né. Bạn đang làm tình và
tránh né. Bạn không muốn nhìn vào trong thực tại của nó - nó đích xác là cái
gì, tại sao nó lại mê đắm vậy, tại sao nó lại có lôi kéo hấp dẫn với bạn đến thế
- tại sao? Nó đích xác là gì, làm sao nó lại nảy sinh, làm sao nó lại sở hữu bạn,
nó cho cái gì và nó dẫn đến đâu? Điều gì xảy ra trong nó và điều gì xảy ra từ
nó? Bạn đi đến đâu khi cứ làm tình đi làm tình lại như thế? Bạn có đến được bất
kì nơi nào không? Những điều này đều cần phải được đương đầu.
Mật tông là đương đầu với thực
tại cuộc đời. Và dục là nền tảng, chết cũng vậy. Chúng là hai luân xa nền tảng,
cơ bản nhất - muladhar và swadhishthan. Hiểu chúng thì luân xa thứ ba mở ra. Hiểu
được luân xa thứ ba, luân xa thứ tư mở ra, và cứ thế tiếp diễn. Khi bạn đã hiểu
được sáu luân xa, chính hiểu biết đó sẽ đụng vào luân xa thứ bảy và nó nở thành
hoa sen một nghìn cánh. Ngày đó là niềm vinh quang huy hoàng. Ngày đó Thượng đế
đến với bạn, ngày đó bạn đến với Thượng đế; ngày đó là ngày hội ngộ. Ngày đó là
ngày của cực thích vũ trụ. Ngày đó bạn ôm choàng lấy điều thiêng liêng và điều
thiêng liêng ôm choàng lấy bạn. Ngày đó dòng sông tan biến vào trong đại dương
mãi mãi và mãi mãi; thế thì không có việc quay lại nữa.
Nhưng từ mỗi trạng thái của tâm
trí, bạn phải thu được hiểu biết. Dù bạn ở bất kì đâu, chớ sợ hãi. Đó là thông
điệp của Mật tông: dù bạn ở bất kì đâu, chớ sợ hãi. Vứt bỏ chỉ một điều - sợ
hãi. Chỉ một thứ phải sợ thôi và đó là nỗi sợ. Không sợ hãi, với lòng dũng cảm
lớn, nhìn thẳng vào thực tại, dù thực tại đó là gì đi chăng nữa. Nếu bạn là tên
trộm, nhìn vào điều đó. Nếu bạn là người giận dữ, nhìn vào điều đó. Nếu bạn là
kẻ tham lam, nhìn vào điều đó. Dù bạn ở bất kì đâu, nhìn vào đó. Đừng trốn.
Nhìn vào trong đó, đi vào trong đó. Khi quan sát, đi vào vào nó. Nếu bạn có thể
bước trên con đường vào tham, vào dục, vào giận dữ, vào ghen tị, với đôi mắt mở
to, bạn sẽ được tự do với nó.
Đây là lời hứa của Mật tông:
Chân lí đem lại giải phóng. Hiểu biết đem lại tự do. Hiểu biết là tự do. Bằng
không, dù bạn có kìm nén hay bạn si mê, kết cục là như nhau.
Chuyện đã xảy ra...
Có một người đàn ông với cô vợ
rất hấp dẫn. Nhưng anh ta bắt đầu nghi ngờ cô ấy... điều đó cũng tự nhiên. Bạn
có người vợ càng đẹp thì bạn càng có nhiều nghi ngờ.
Mulla Nasruddin đã cưới một
trong những người đàn bà xấu nhất. Tôi hỏi, "Mulla, sao vậy? Cái gì không ổn
chăng? Cái gì xâm chiếm bạn vậy?"
Anh ta đáp, "Chẳng có gì cả,
chỉ là hiểu biết." Tôi nói, "Đấy là kiểu hiểu biết gì vậy?"
Anh ta nói, "Bây giờ thì
tôi sẽ không bao giờ ghen tuông và tôi sẽ không bao giờ nghi ngờ vợ mình, bởi
vì tôi không thể tưởng tượng nổi người nào yêu được cô ấy nữa."
Người đàn ông này rất nghi ngờ
về cô ấy. Cuối cùng anh ta không thể kìm lâu hơn nữa. Ban đêm anh ta xin phép
quản đốc đi ra rồi trở về nhà lúc hai giờ sáng, thấy chiếc xe của anh bạn thân
nhất bên ngoài, y như anh ta đã sợ hãi. Anh ta lẻn vào, bò lên cầu thang và xô
vào trong phòng ngủ của vợ. Trong đó cô ta đang nằm trên giường - trần như nhộng
nhưng hút thuốc và đọc sách.
Anh ta phát rồ và lục lọi dưới
gầm giường, trong tủ quần áo, cả trong tủ đứng thông gió, nhưng chẳng tìm thấy
người đàn ông nào. Anh ta cáu tiết và đập phá phòng ngủ. Rồi anh ta nhìn sang
phòng khách - ném ti vi ra ngoài cửa sổ, đập vỡ ghế bành, lật đổ bàn và tủ bát
đĩa. Rồi anh ta chuyển sự chú ý sang nhà bếp, ở đó anh ta đập bát đĩa tan thành
từng mảnh rồi ném tủ lạnh qua cửa sổ. Rồi anh ta tự bắn vào mình.
Khi anh ta lên đến cổng trời,
người mà anh ta muốn gặp đang đứng đợi để vào cửa và đó chính là người bạn thân
đã chết của anh ta, người đó nói, "Cậu đang làm gì ở đây thế này?"
Thế là người chồng lầm lỗi giải
thích tất cả về việc anh ta đã mất tự chủ trong cơn giận và mọi chuyện về nó, rồi
anh ta nói thêm, "Nhưng việc xảy ra thế nào mà cậu lại cũng đến đây thế?"
"A, tớ á? Tớ nằm trong tủ
lạnh đấy."
Cả hai đều kết thúc theo cùng một
cách - dù bạn trong hang núi Himalayas hay trong thế giới thì cũng chẳng khác
nhau nhiều lắm. Cuộc sống si mê và cuộc sống kìm nén cả hai đều kết thúc theo
cùng cách bởi vì cơ chế của chúng là không khác. Dáng vẻ bên ngoài của chúng có
khác nhưng phẩm chất bên trong thì như nhau.
Nhận biết đem đến phẩm chất
khác cho cuộc sống của bạn. Với nhận biết mọi thứ bắt đầu thay đổi, thay đổi vô
cùng lớn lao. Không phải là bạn thay đổi chúng, không, hoàn toàn không chút
nào. Con người của nhận biết chẳng thay đổi điều gì còn con người của vô nhận
biết thì liên tục cố gắng thay đổi mọi thứ. Nhưng người vô nhận biết chẳng bao
giờ thành công trong việc thay đổi cái gì, còn người có nhận biết đơn giản tìm
thấy thay đổi xảy ra, thay đổi cực kì lớn xảy ra.
Chính nhận biết đem lại thay đổi,
không phải là nỗ lực của bạn. Tại sao điều ấy lại xảy ra thông qua nhận biết? -
bởi vì nhận biết làm thay đổi bạn. Và khi bạn khác đi thì toàn bộ thế giới cũng
khác đi. Vấn đề không phải là việc tạo ra một thế giới khác, vấn đề là tạo ra một
bạn khác. Bạn là thế giới của mình, cho nên nếu bạn thay đổi thì thế giới này
thay đổi. Nếu bạn không thay đổi, bạn có thể vẫn cứ tìm cách thay đổi toàn bộ
thế giới - nhưng chẳng có gì thay đổi cả; bạn sẽ cứ tạo ra cũng thế giới cũ lặp
đi lặp lại. Bạn tạo ra thế giới của bạn. Chính là từ bạn mà thế giới của bạn mới
được phóng chiếu ra.
Mật tông nói: Nhận biết là chìa
khoá, chìa khoá chủ mở mọi cánh cửa cuộc đời. Cho nên nhớ lấy, đấy thực sự là
điều tinh tế... Nếu tôi nói về ngu xuẩn của kìm nén, bạn bắt đầu nghĩ về si mê;
nếu tôi nói về ngu xuẩn của si mê, bạn lại bắt đầu nghĩ về kìm nén. Điều đó xảy
ra hàng ngày: bạn chuyển ngay sang cái đối lập. Và toàn bộ vấn đề không phải là
bị quyến rũ bởi cái đối lập. Bị quyến rũ bởi cái đối lập tức là bị quyến rũ bởi
quỉ. Đó là quỉ trong hệ thống Mật tông, bị quyến rũ bởi cái đối lập. Không có
quỉ nào khác; quỉ duy nhất là ở chỗ tâm trí có thể chơi xỏ bạn, nó có thể đề
nghị cái đối lập.
Bạn chống lại si mê sao? Tâm
trí nói, "Đơn giản thế... bây giờ kìm nén đi. Đừng si mê nữa, trốn đi. Bỏ
cả thế giới này đi. Quên ráo mọi điều về nó." Nhưng làm sao bạn có thể
quên được tất cả về nó? Quên tất cả về nó đi đơn giản vậy sao? Thế thì tại sao
bạn lại trốn cho thật xa? Thế thì tại sao bạn lại sợ hãi? Nếu bạn có thể quên tất
cả về nó đơn giản như vậy, cứ ở đây và quên mọi điều về nó đi. Nhưng bạn không
thể ở đây được, bạn biết thế giới này sẽ quyến rũ bạn. Và hiểu biết tạm bợ này,
hiểu biết giả tạm này mà bạn nghĩ bạn đã thu được, sẽ chẳng có ích gì nhiều.
Khi quyến rũ tới từ ham muốn, bạn sẽ thành nạn nhân; bạn biết điều đó. Trước
khi nó xảy ra bạn muốn trốn đi, bạn muốn thoát thật nhanh. Bạn muốn thoát khỏi
cơ hội ấy. Tại sao? Tại sao bạn muốn trốn thoát khỏi cơ hội ấy?
Ở Ấn Độ cái gọi là thánh nhân ấy
sẽ không ở với bà quản gia. Sao vậy? Nỗi sợ là gì? Ở Ấn Độ cái gọi là các thánh
nhân ấy sẽ không chạm tới đàn bà, thậm chí còn không nhìn họ nữa. Sao vậy? Nỗi
sợ là gì? Cái sợ này đến từ đâu? Chỉ để tránh né cơ hội... Nhưng việc tránh né
cơ hội không phải là thành tựu lớn lao gì. Và bởi việc tránh né cơ hội, nếu bạn
đạt tới vô dục nào đó, vô dục đó cũng là giả.
Tôi đã từng nghe...
Một người dân quê vào một quán
rượu Luân đôn cùng với một con chó. Người này gọi nửa lít sữa, con chó gọi một
cốc rượu nhẹ. "Cái chết tiệt gì đây...?" người chủ quán hỏi.
"Vâng," chủ con chó
nói, "nó là con chó thông minh nhất trong khu miền tây này. Tôi đem nó đến
đây để ngắm cảnh thành phố."
"Nếu tôi đưa cho nó năm xu
liệu nó có mua về cho tôi một tờ báo được không?” người chủ quán nói - "bởi
vì tôi quên mất chưa mua tờ báo."
"Tất nhiên tôi có thể mua
được," con chó ăng ẳng nói.
Thế rồi nhận lấy tiền,
"Tôi về ngay đấy..."
Con chó chẳng quay lại, cho nên
sau một giờ người chủ lo lắng phải đi tìm. Cuối cùng ông ta tìm ra con chó của
mình ở sau ngõ hẻm đang đùa nghịch với con chó sói cái.
"Đồ chết dẫm!" người
chủ nói. "Mày chưa bao giờ làm việc đó trước đây à."
"Chưa," con chó nói,
"trước đây tôi chưa bao giờ có tiền cả."
Chỉ để tránh cơ hội thì cũng chẳng
ích lợi gì nhiều, đấy chỉ là bề ngoài giả; bạn có thể tin vào nó nhưng bạn
không thể lừa được Thượng đế. Trong thực tế bạn thậm chí không thể lừa được
chính mình. Liên tục trong giấc mơ của bạn, điều bạn bỏ lại đằng sau theo cách
kìm nén sẽ thòi ra hết lần nọ tới lần kia. Nó sẽ làm cho bạn thành quá si mê.
Cái gọi là thánh nhân của bạn thậm chí còn không có khả năng ngủ ngon, họ sợ giấc
ngủ. Sao vậy? - bởi vì trong giấc ngủ, thế giới mà họ đã kìm nén lại tự khẳng định
chính nó trong giấc mơ. Vô thức bắt đầu liên hệ, vô thức nói, "Mình làm gì
ở đây? Mình là đồ ngu." Vô thức trải tấm lưới của nó ra.
Trong khi bạn đang tỉnh thức bạn
có thể kìm nén, nhưng khi bạn đang ngủ thì làm sao bạn có thể kìm nén được nó?
Bạn mất mọi kiểm soát. Ý thức kìm nén, nhưng ý thức lại đi ngủ. Đó là lí do tại
sao trong mọi truyền thống cổ các vị thánh bao giờ cũng sợ giấc ngủ. Họ cắt giấc
ngủ từ tám tiếng xuống bẩy, từ bẩy xuống sáu, từ sáu xuống năm... bốn, ba, hai.
Và người ngu nghĩ đấy là thành tựu lớn. Họ nghĩ, "Ông thánh này là một
thánh nhân vĩ đại, ông ta chỉ ngủ có hai tiếng." Trong thực tế ông ta đơn
giản chỉ bầy tỏ mỗi một điều - rằng ông ta sợ vô thức của mình. Ông ta không
cho phép vô thức có thời gian liên hệ.
Khi bạn ngủ có hai tiếng, vô thức
không thể có liên hệ được, bởi vì hai tiếng đó là cần cho thân thể nghỉ ngơi. Bạn
mơ giấc mơ tốt hơn, giấc mơ hay, giấc mơ đẹp trước lúc giấc ngủ của bạn đã hoàn
tất - đó là lí do tại sao bạn mơ tốt hơn vào buổi sáng, vào sáng sớm. Trước hết
thân thể cần phải được sang sửa, thân thể cần nghỉ ngơi. Một khi thân thể đã
nghỉ thì tâm trí cần nghỉ; đó là điều thứ hai.
Một điều là ở chỗ khi tâm trí cần
nghỉ thì vô thức, trong tâm trạng nghỉ ngơi, thả ra các ham muốn của nó và giấc
mơ nảy sinh. Điều thứ hai là ở chỗ nếu bạn chỉ nghỉ có hai giờ trong đêm thì có
thể có giấc mơ nhưng bạn sẽ không thể nào nhớ được chúng. Đó là lí do tại sao bạn
chỉ nhớ những giấc mơ cuối cùng mà bạn mơ vào sáng sớm. Bạn quên mất các giấc
mơ khác của cả đêm vì bạn đã chìm sâu vào trong giấc ngủ đến mức bạn không thể
nhớ được. Cho nên thánh nhân nghĩ ông ta đã không mơ về dục, ông ta đã không mơ
về tiền, ông ta đã không mơ về quyền lực, danh vọng, kính trọng. Nếu ông ta ngủ
có hai tiếng thì giấc ngủ sẽ sâu, nó là sự cần thiết cho thân thể, điều ấy gần
giống như hôn mê, cho nên ông ta không thể nhớ được. Bạn nhớ được giấc mơ chỉ
khi bạn nửa thức nửa ngủ. Thế thì giấc mơ có thể được nhớ lại, bởi vì nó gần với
ý thức; nửa ngủ, nửa thức, cái gì đó của giấc mơ lọt vào ý thức bạn, chuyển vào
trong ý thức. Vào buổi sáng bạn có thể nhớ được một chút ít về nó. Đó là lí do
tại sao bạn sẽ ngạc nhiên rằng nếu bạn đến hỏi người lao động đã làm việc vất vả
cả ngày, "Anh có mơ không?" thì anh ta sẽ nói, "Không."
Người nguyên thuỷ không mơ. Nói
họ không mơ cũng chưa đúng - họ không thể nhớ được, có vậy thôi. Mọi người đều
mơ, nhưng họ không thể nhớ được. Làm việc vất vả cả ngày, chặt củi hay đào
mương hay đập đá là những việc nặng nhọc, tám tiếng, đến mức khi bạn chìm vào giấc
ngủ là bạn gần như trong cơn mê. Giấc mơ tới nhưng bạn không thể nào nhớ được,
bạn không thể nào nắm được chúng.
Bây giờ cái gọi là các thánh
nhân của bạn bao giờ cũng sợ ngủ... Có một lần một thanh niên được đem tới tôi.
Anh ta sắp mất trí. Anh ta là tín đồ của Swami Sivananda ở Rishikesh. Tôi hỏi
anh ta, "Có chuyện gì với anh vậy?" Anh ta đáp, "Chẳng có gì
thành vấn đề cả. Tôi là người tâm linh. Người ta nghĩ rằng tôi sắp mất
trí."
Tôi hỏi bố mẹ anh ta - họ rất
lo lắng; tôi đi vào chi tiết. Chi tiết là thế này: anh ta tới gặp Swami
Sivananda và Sivananda nói, "Anh ngủ nhiều quá. Như thế không tốt cho lành
mạnh tâm linh, anh nên ngủ ít hơn." Thế là anh ta cắt bớt giấc ngủ xuống
ba tiếng - từ tám tiếng xuống còn ba!
Bây giờ anh ta bắt đầu cảm thấy
buồn ngủ cả ngày, cũng tự nhiên thôi. Cho nên Sivananda nói, "Anh là
tamasic, anh có năng lượng rất thấp, xấu trong mình. Hãy thay đổi thức ăn đi.
Anh phải đã ăn thức ăn làm cho anh nặng nề và buồn ngủ." Thế là anh ta bắt
đầu sống chỉ bằng sữa. Bây giờ anh ta bắt đầu trở nên yếu ớt. Đầu tiên giấc ngủ
bị cắt bớt, rồi đến thức ăn cũng bị cắt bớt, bây giờ thì anh ta đang trong trạng
thái mà bất kì lúc nào anh ta cũng có thể ngã đổ.
Không có thức ăn sẽ khó cho bạn
đi vào giấc ngủ sâu cho dù chỉ có ba tiếng; thức ăn là cái phải có cho giấc ngủ
ngon. Khi dạ dầy chẳng có gì để tiên hoá toàn bộ năng lượng sẽ chuyển vào đầu.
Đấy là lí do tại sao vào ngày nhịn ăn bạn không thể ngủ say. Năng lượng không
còn ở trong dạ dầy, nó thoát lên đầu. Khi năng lượng được cần tới trong dạ dầy
thì đầu không thể lấy được nó bởi vì đầu là thứ yếu, dạ dầy là chủ yếu.
Có một thứ bậc chắc chắn trong
thân thể... những cái đứng đầu phải được thoả mãn trước. Dạ dầy là cơ sở. Dạ dầy
có thể tồn tại không cần đầu, nhưng đầu không thể tồn tại không có dạ dầy. Cho
nên dạ dầy là cơ sở, nền tảng hơn; khi dạ dầy cần năng lượng, nó sẽ kéo năng lượng
từ mọi nơi về.
Bây giờ anh ta thậm chí còn
không thể ngủ được ba tiếng nữa. Mắt anh ta trở nên đờ đẫn, chết; thân thể anh
ta mất mọi óng ả, sinh động và có run rẩy tinh vi. Cầm tay anh ta, tôi có thể cảm
thấy toàn bộ thân thể anh ta run rẩy; trong nhiều tháng trời thân thể đã không
được nghỉ ngơi.
Và bây giờ anh ta nghĩ rằng anh
ta đang trở thành tâm linh. Kiểu vô nghĩa này đã tiếp diễn đủ lâu để trở thành
đáng kính trọng. Khi một điều tiếp diễn đủ lâu, nó trở nên đáng kính - chỉ bởi
vì nó đã có đó khá lâu.
Trong thực tế, lắng nghe thân
thể mình đi, nhu cầu của thân thể mình. Lắng nghe tâm trí bạn, lắng nghe nhu cầu
của tâm trí bạn. Đừng lẩn tránh. Đi vào trong những nhu cầu đó, thám hiểm những
nhu cầu này với sự quan tâm trìu mến. Thân thiện với thân thể bạn, thân thiện với
tâm trí bạn, nếu bạn muốn vượt ra ngoài chúng một ngày nào đó. Thân thiện là điều
rất bản chất. Đó là tầm nhìn Mật tông về cuộc sống: Thân thiện với năng lượng
cuộc sống. Đừng trở thành đối kháng.
Bây giờ đến lời kinh. Những lời
kinh này có ý nghĩa lớn lao. Saraha nói với nhà vua:
Khi nhận biết cao hơn, họ dạy
điều họ kinh nghiệm bên trong.
Điều giam hãm họ, họ sẽ gọi là
giải phóng.
Món nữ trang thuỷ tinh mầu
xanh, đối với họ là viên ngọc vô giá.
Bị ảo tưởng, họ không biết ngọc
trong cái họ cứ tưởng là ngọc.
Ông ấy đang nói về cái gọi là
mahatmas, cái gọi là những nhà yoga, theo cùng cách như tôi cứ nói đi nói lại về
cái gọi là các thánh nhân. Saraha đang nói:
Khi nhận biết cao hơn, họ dạy
điều họ kinh nghiệm bên trong.
Bây giờ đây là một phát biểu vĩ
đại. Nó phải được giải mã. Trước hết: kinh nghiệm tối thượng về thực tại không
phải là kinh nghiệm chút nào, bởi vì khi bạn kinh nghiệm cái gì đó, bao giờ
cũng có nhị nguyên - người kinh nghiệm và cái được kinh nghiệm. Cho nên không
thể có kinh nghiệm tối thượng theo nghĩa là bạn kinh nghiệm bản thân mình,
không. Làm sao bạn có thể kinh nghiệm bản thân mình được? Thế thì bạn sẽ bị
phân chia thành hai, thế thì nhị nguyên chủ thể-đối thể sẽ đi vào.
Mật tông nói: Bất kì cái gì bạn
biết, biết rằng bạn không phải là cái đó. Đây là một tuyên bố vĩ đại, một sự
sáng suốt rất thấu đáo. Nếu bạn thấy cái gì đó, biết rõ rằng bạn không phải là
cái đó, bởi vì bạn là người thấy. Bạn chẳng bao giờ là cái được thấy. Bạn không
thể bị thu lại thành một vật. Bạn là tính chủ thể, chủ thể thuần tuý, chủ thể
không rút gọn lại được; không có cách nào biến bạn thành một vật, thành một thứ.
Bạn không thể đặt bản thân mình ra trước chính mình, bạn làm được không? Bạn
không thể đặt chính mình ra trước bản thân mình bởi vì bất kì cái gì bạn đặt ra
đó đều sẽ không phải là bạn. Bạn bao giờ cũng là người mà mọi thứ được đặt ra
trước bạn.
Saraha nói: Chân lí không phải
là kinh nghiệm - không thể được. Chân lí là việc kinh nghiệm, không phải là
kinh nghiệm. Nó là việc biết, không phải là tri thức. Khác biệt là lớn. Bạn
kinh nghiệm một điều khi nó tách biệt với bạn. Bạn không thể kinh nghiệm bản
thân mình theo cùng cách. Cho nên Mật tông đã đặt ra một từ khác: 'việc kinh
nghiệm'. Trong tiếng Phạn chúng ta có hai từ: anubhav, anubhuti. Anubhav nghĩa
là kinh nghiệm; anubhuti nghĩa là việc kinh nghiệm. Chẳng có gì để kinh nghiệm.
Chẳng có gì ở phía trước bạn, chỉ có trống rỗng; nhưng bạn có đó, hoàn toàn có
đó, không có gì che khuất. Không có đối thể... thuần tuý chủ thể: chỉ có bình
chứa, không có nội dung. Cuốn phim đã dừng... chỉ có màn ảnh, thuần tuý màn ảnh
trắng... Nhưng không ai nhìn vào màn ảnh trắng này: bạn là màn ảnh trắng đó. Do
dó có một từ mới: anubhuti, việc kinh nghiệm.
Trong tiếng Anh không có từ
tách biệt, cho nên tôi phải dùng 'việc kinh nghiệm'. Để chỉ ra sự khác biệt:
kinh nghiệm trở thành sự vật, việc kinh nghiệm là quá trình, không phải là sự vật.
Tri thức là sự vật, việc biết là quá trình. Tình yêu là sự vật; việc yêu là quá
trình.
Và Mật tông nói: cốt lõi bên
trong nhất của bạn bao gồm các quá trình, không phải là các vật. Việc biết có
đó, không có tri thức. Việc yêu có đó, không có tình yêu. Danh từ không tồn tại,
chỉ có động từ! Đây là cái nhìn sâu sắc vào thực tại. Chỉ động từ. Khi bạn nói,
"Đây là cái cây," bạn đang thiết lập một sự vật rất sai: phải nói đây
là việc thành cây, không phải là cái cây, bởi vì nó đang lớn lên, nó không phải
là vật tĩnh tại. Khi bạn nói, "Đây là con sông," nhìn vào điều bạn
đang nói - vô nghĩa. Đấy là sông đang chảy, nó đang chuyển động, nó là năng động.
Không một khoảnh khắc nào nó như cũ, cho nên tại sao bạn lại gọi nó là 'con
sông'? Ngay cả tảng đá cũng không phải là tảng đá, nó cũng là một quá trình.
Sự tồn tại bao gồm không chỉ các
vật mà còn cả các biến cố. Đừng nói với người đàn bà, "Anh yêu em."
Nói, "Anh đang trong trạng thái yêu." Tình yêu không phải là vật; bạn
chỉ có thể trong trạng thái yêu, bạn không thể yêu.
Có ngôn ngữ của các phật tử
trong đó mọi thứ tồn tại như quá trình. Khi lần đầu tiên Kinh thánh được dịch
sang một số nước theo Phật giáo - Miến điện, Thái lan - các nhà truyền giáo Ki
tô giáo lúng túng, họ không thể tìm ra được từ chỉ Thượng đế. Bởi vì nếu bạn
nói con sông là dòng sông đang chảy thì vẫn được, cây là đang thành cây thì vẫn
được, đàn ông là đang thành đàn ông và đàn bà là đang thành đàn bà thì vẫn được.
Nhưng về Thượng đế - ngài đang đấy! Không có việc trở thành Thượng đế. Nhưng
trong tiếng Miến điện mọi từ đều thực sự là động từ. Mỗi động từ đều biểu lộ sự
trở thành. Nhưng để gọi Thượng đế là 'trở thành', là quá trình, thì thật khó
khăn cho người Ki tô giáo, rất khó. Thượng đế hiện hữu... bao giờ cũng như thế,
vĩnh viễn như thế. Chẳng có gì xảy ra cho Thượng đế cả.
Phật tử nói nếu không có gì xảy
ra cho Thượng đế thì ngài chết, thế thì làm sao ngài có thể sống được? Cuộc sống
là nơi mọi thứ xảy ra. Cuộc sống đang xảy ra. Và về kinh nghiệm tối thượng...
Nói điều này về thực tại trần tục thì cũng được. Bạn có thể nói, "Đây là
cái ghế," và chẳng cần bận tâm nhiều về nó; điều ấy đơn giản. Bây giờ để
nói về mọi thứ, "Đây là việc thành cái ghế và đây là việc thành cây,"
điều đó sẽ tạo ra khó khăn trong cách diễn đạt. Nhưng về thực tại tối thượng
người ta phải rất tỉnh táo. Ít nhất tại đó người ta nên tỉnh táo.
Saraha nói:
Khi nhận biết cao hơn, họ dạy
điều họ kinh nghiệm..
Bây giờ nếu bạn đã đọc sách của
học giả Gopi Krishna, ông ấy nói kundalini là kinh nghiệm tối thượng. Không thể
là như vậy được. Saraha sẽ không đồng ý, ông ấy sẽ cười học giả Gopi Krishna.
Nếu bạn kinh nghiệm năng lượng
nào đó dâng lên trong cột sống mình, bạn là người đang thấy nó. Cột sống là
tách biệt, cho nên kundalini đang lên trong đó cũng là tách biệt. Làm sao bạn
có thể là nó được? Tôi có thể thấy bàn tay này: chỉ bởi vì thấy bàn tay này mà
tôi đã trở thành tách biệt với bàn tay đó. Tôi không thể là bàn tay này. Tôi
đang dùng bàn tay này, nhưng tôi tách biệt với bàn tay này. Có thể tôi đang bên
trong bàn tay, nhưng tôi không thể là bàn tay được.
Kundalini không phải là kinh
nghiệm tâm linh. Kinh nghiệm tâm linh đơn giản có nghĩa là khoảnh khắc khi
không có gì được kinh nghiệm. Mọi kinh nghiệm đều tan biến, bạn ngồi một mình
trong sự thuần khiết của mình. Bạn không thể gọi nó là kinh nghiệm được.
Cho nên Saraha nói: Những người
được gọi là nhà yoga và thánh nhân cứ nói rằng họ đã đạt tới tâm thức cao hơn.
Và họ đã đạt tới cái gì vậy? Kundalini của ai đó đã dâng lên, ai đó đã thấy ánh
sáng xanh bên trong, và mọi thứ đại loại như vậy. Ai đó đã thấy linh ảnh: ai đó
đã thấy Krishna và ai đó đã thấy Mohammed, và ai đó đã thấy Mahavira và ai đó
đã thấy Mẹ Kali - nhưng tất cả những cái đó đều chỉ là hình dung.
Mọi kinh nghiệm đều là hình
dung.
Từ hình dung cũng hay; nó bắt
nguồn từ 'hình ảnh'. Mọi kinh nghiệm đều chẳng là gì khác hơn là những hình ảnh
nổi lên trong tâm thức bạn. Khi không có gì nổi lên trong tâm thức bạn - nhớ
lây, thậm chí không có cả cái 'không có gì' nổi lên trong tâm thức bạn - khi
tâm thức bạn đơn giản có đó mà không có nội dung, cái thuần khiết phi nội dung
đó mới chính là cái mà Mật tông gọi là kinh nghiệm thật. Bạn không thể gọi nó
là kinh nghiệm được - bởi chính bản chất của nó, nó không phải là kinh nghiệm.
Khi bạn chứng kiến người chứng kiến thì làm sao bạn có thể gọi nó là việc chứng
kiến? Khi bạn biết về người biết thì làm sao bạn có thể gọi nó là hiểu biết?
Cho nên điều đầu tiên ông ấy
nói là : Khi nhận biết cao hơn, họ dạy điều họ kinh nghiệm bên trong.
Và điều thứ hai cần phải nhớ:
phân biệt giữa bên trong và bên ngoài cũng lại là giả. Trên bình diện nào đó
phân biệt ấy là tốt - bạn đang sống trong thế giới bên ngoài, cho nên bạn phải
được nhắc nhở đi vào bên trong. Nhưng bên trong và bên ngoài là hai mặt của
cùng một đồng tiền. Một ngày nào đó bạn được bảo phải vứt bỏ cả hai; vì bạn đã
vứt bỏ bên ngoài, bây giờ vứt bỏ nốt bên trong nữa. Siêu việt lên - không bên
ngoài cũng chẳng bên trong.
Bên trong cũng chẳng có như bên
ngoài: đó là sáng suốt của Mật tông. Bên trong là gì? Tôi đang nhìn bạn, bạn là
bên ngoài. Thế rồi tôi nhắm mắt lại và tôi thấy kundalini của mình - nó bên
trong chăng? Bất kì cái gì tôi có thể thấy đều là bên ngoài, là 'ngoài' tôi, nó
không thể là 'trong' tôi được. Thế rồi tôi thấy ánh sáng xanh; đấy là bên
ngoài. Tất nhiên tôi đang thấy nó với đôi mắt nhắm; nó ở gần tôi hơn, nhưng vẫn
là bên ngoài. Tôi đang thấy bạn với đôi mắt mở, bạn là bên ngoài. Trong đêm tôi
thấy giấc mơ, và bạn đến trong giấc mơ của tôi - thế thì bạn có ở bên trong
không? Bạn cũng vẫn ở bên ngoài, mặc dầu mắt tôi nhắm; nhưng tôi đang thấy bạn
hệt như tôi đang thấy bạn ngay bây giờ. Bất kì cái gì thấy được đều ở bên
ngoài. Người thấy chẳng ở bên ngoài cũng chẳng ở bên trong.
Cho nên Saraha nói: Những người
này trước hết cứ nói về kinh nghiệm bên ngoài của mình, và rồi họ bắt đầu nói về
kinh nghiệm bên trong của họ.
Giống như hôm nọ chúng ta đã thảo
luận điều này: bạn làm tình với người đàn bà - người đàn bà này là bên ngoài.
Bây giờ năng lượng, ngọn lửa của bản năng dục của bạn, dâng lên trong bạn, đến
cổ bạn, đến vishuddha, đến luân xa cổ họng. Và tại đó bạn bắt đầu thủ dâm nó bằng
lưỡi quay vào trong. Bạn gọi nó là bên trong ư? Nó vẫn là bên ngoài. Nhiều nhất
thì nó cũng vẫn cứ là bên ngoài như nó vẫn thế khi bạn đang làm tình với người
đàn bà.
Mật tông là sáng suốt vĩ đại,
sáng suốt sâu lắng đến độ nó nói: Người ta phải vứt bỏ bên ngoài, người ta phải
vứt bỏ cả bên trong nữa. Người ta phải vào trạng thái mà có thể nói là tôi chẳng
ở ngoài cũng chẳng ở trong, chẳng hướng ngoại cũng chẳng hướng nội, chẳng là
đàn ông cũng chẳng là đàn bà, chẳng là thân thể cũng chẳng là tâm trí. Người ta
phải đi đến điểm tại đó người ta có thể nói tôi chẳng trong luân hồi mà cũng chẳng
trong niết bàn. Đấy mới là vấn đề, cánh cửa cho mọi sự nhị nguyên, điểm chính
giữa cho mọi sự nhị nguyên.
Cái giam hãm họ, họ sẽ gọi là
giải phóng.
Bây giờ điều này sẽ là giam hãm
mới, có thể đẹp hơn một chút so với giam hãm bên ngoài - có thể giam hãm bên
ngoài được làm bằng sắt còn giam hãm này được làm bằng vàng - nhưng giam hãm vẫn
là giam hãm. Dù nó làm bằng sắt hay bằng vàng thì cũng chẳng tạo ra khác biệt
gì; bạn vẫn bị giam hãm.
Bây giờ giam hãm mới này sẽ trở
thành tù túng của bạn. Kundalini đang lên, linh ảnh, linh ảnh tâm linh, linh ảnh
vũ trụ - bây giờ những điều này sẽ trở thành nơi giam hãm bạn. Bây giờ bạn sẽ
khát khao về chúng, bây giờ bạn sẽ ham muốn về chúng. Ban đầu bạn ham muốn tiền
bạc, bây giờ bạn sẽ ham muốn những kinh nghiệm tâm linh này. Ban đầu bạn đã ham
muốn quyền lực, bây giờ bạn sẽ ham muốn siddhis, quyền năng tâm linh - nhưng
ham muốn vẫn còn đó, và ham muốn là giam hãm. Chỉ trong vô ham muốn thì mới có
giải thoát.
Món nữ trang thuỷ tinh mầu
xanh, đối với họ là viên ngọc vô giá. Bị ảo tưởng, họ không biết phân biệt viên
ngọc với cái họ cứ tưởng là ngọc.
Nếu bạn không biết, nếu bạn
không tỉnh táo và nhận biết, bạn có thể bị lừa. Món nữ trang thuỷ tinh mầu
xanh... và bạn có thể nghĩ đây là viên ngọc quí. Vâng, mầu sắc như nhau, hình
dáng có thể cũng như nhau, thậm chí cả trọng lượng cũng có thể như nhau, nhưng
giá trị vẫn khác nhau - và giá trị mới là vật đó.
Vâng, mọi người có quyền lực
trong thế giới bên ngoài. Tổng thống, thủ tướng có quyền lực nào đó, và thế rồi
một nhà yoga, một mahatma có những quyền năng nào đó khác - về thế giới bên
trong, nhưng chẳng có gì so sánh được với viên ngọc thực cả. Bên ngoài là vật bằng
thuỷ tinh và bên trong cũng là đồ nữ trang rẻ tiền bằng thuỷ tinh: có mầu sắc,
được cắt theo cùng hình dáng, có cùng trọng lượng dường như nó là vật tâm linh.
Nó không phải vậy.
Tâm linh là bầu trời thuần khiết
không có mây. Cho nên con người tâm linh thực sự không thể nói gì về kinh nghiệm
tâm linh, bởi vì mọi kinh nghiệm tâm linh đều là loại đồ nữ trang rẻ tiền bằng
thuỷ tinh mầu xanh; chúng không phải là viên ngọc.
Đó là lí do tại sao Phật vẫn im
lặng. Khi mọi người hỏi ông ấy, "Thầy đã chứng ngộ chưa?" ông ấy sẽ
im lặng. Khi mọi người hỏi, "Thầy có biết Thượng đế không?" ông ấy sẽ
chẳng nói gì, ông ấy sẽ mỉm cười hay cười phá lên. Sao vậy? Tại sao ông ấy lại
lảng tránh điều ấy?... Và những người đần sẽ nghĩ ông ấy lảng tránh bởi vì ông ấy
không biết, ông ấy lảng tránh bởi vì ông ấy chưa kinh nghiệm. Ông ấy lảng tránh
bởi vì ông ấy đã kinh nghiệm. Ông ấy lảng tránh bởi vì ông ấy biết rằng nói về
điều đó sẽ không tốt; điều đó sẽ là báng bổ.
Chân lí không thể luận bàn.
Chúng ta có thể nói về con đường nhưng chúng ta không thể nói về chân lí. Chúng
ta có thể nói về cách đạt tới nó nhưng chúng ta không thể nói nó là gì khi ta đạt
tới nó.
Saraha đang nói: Tất cả những
người nói về kinh nghiệm đều hư huyễn:
Bị ảo tưởng, họ không biết phân
biệt viên ngọc với cái họ cứ tưởng là ngọc.
Họ coi đồng là vàng.
Bị ràng buộc với suy nghĩ lan
man, họ tưởng ý nghĩ này là thực tại tối thượng.
Họ mong mỏi hoan lạc được kinh
nghiệm trong giấc mơ.
Họ gọi thâm-tâm mau tàn là niềm
phúc lạc tối cao vĩnh viễn.
Họ coi đồng là vàng... Cái cơ sở,
cái khách quan họ nghĩ là chủ quan. Người biết vẫn chưa được biết tới. Họ đã biết
cái gì đó khác và họ đã hiểu lầm; họ nghĩ họ đã biết người biết. Họ có thể đã
biết về kundalini, họ có thể đã biết một vài linh ảnh tâm linh - những linh ảnh
vĩ đại đầy thơ ca, những linh ảnh vĩ đại rực rỡ và mênh mông - những linh ảnh
vĩ đại, phiêu diêu, nhưng họ tưởng những ý nghĩ này là thực tại tối thượng.
Họ coi đồng là vàng.
Bị ràng buộc bởi suy nghĩ lan
man,
Và những người được gọi là
thánh nhân và mahatmas đều bị ràng buộc bởi logic, bị ràng buộc bởi suy nghĩ
lan man... Họ cứ biện minh; họ thậm chí còn cứ cố chứng minh rằng Thượng đế tồn
tại.
Trong Ki tô giáo, hai nghìn năm
đã bị phí hoài để chứng minh rằng Thượng đế tồn tại. Làm sao bạn có thể chứng
minh rằng Thượng đế tồn tại được? Và nếu điều đó có thể chứng minh được thế thì
nó cũng có thể bị bác bỏ nữa. Logic là con dao hai lưỡi, logic là con đĩ. Nếu
nó có thể chứng minh rằng có Thượng đế thì nó cũng có thể chứng minh rằng không
có Thượng đế. Và trong thực tế cái hay của nó là thế này: cùng một luận cứ có
thể chứng minh rằng có Thượng đế và cùng một luận cứ đó có thể chứng minh rằng
không có Thượng đế.
Bây giờ luận cứ lớn nhất mà những
người được gọi là thánh nhân đã từng đưa ra cho thế giới là ở chỗ thế giới cần
một đấng sáng tạo, bởi vì làm sao thế giới tồn tại được mà không có đấng sáng tạo?
Bây giờ điều đó có vẻ hấp dẫn, ít nhất thì cũng đối với tâm trí ngây thơ; với
tâm trí chưa chín chắn nó có vẻ quyến rũ. Vâng, sự tồn tại mênh mông như thế -
làm sao nó có thể có đó mà không có đấng sáng tạo? Một ai đó nhất định phải có
đó, người đã tạo ra nó. Và rồi chỉ một điều khó chịu nhỏ nhặt mà logic tiêu tan
và quả bóng nổ tung. Một ai đó hỏi, "Thế thì ai tạo ra đấng sáng tạo?"
Đấy cũng chính là cùng một logic ấy. Nếu bạn nói thế giới cần đấng sáng tạo thì
lần nữa đấng sáng tạo của bạn sẽ cần một đấng sáng tạo, và cứ như thế mãi, phát
buồn nôn. Bạn có thể tiếp tục và bạn có thể nói số một đã tạo ra thế giới, rồi
số hai tạo ra số một, rồi số ba tạo ra số hai... bạn có thể tiếp tục mãi. Nhưng
câu hỏi chung cuộc vẫn còn như cũ: Ai tạo ra cái đầu tiên, cái nguyên thuỷ?
Nếu bạn chấp nhận rằng cái
nguyên thuỷ không được tạo ra thế thì tất cả mọi sự nhặng sị này là về gì? Thế
thì tại sao không nói rằng thế giới này là không được tạo ra? Nếu Thượng đế còn
có thể không được tạo ra thì cái gì sai khi đơn giản nói rằng thế giới vẫn có
đó mà chẳng có ai tạo ra nó cả? Điều đó dường như hợp lí hơn, hơn là cứ tiếp tục
cái logic ngu xuẩn này chẳng dẫn đến đâu cả.
Nhìn vào các luận cứ đã được
nêu ra cho Thượng đế: tất cả chúng đều ngu ngốc và đần độn. Đó là lí do tại sao
bạn không thể thuyết phục được dù chỉ một kẻ vô thần về Thượng đế của bạn. Còn
những người đã bị thuyết phục, vâng, họ đã bị thuyết phục; thì đấy lại không phải
là vấn đề. Bạn không thể thuyết phục được một tâm trí nghi ngại, luận cứ của bạn
chẳng ích gì; trong thực tế luận cứ riêng của bạn sẽ tạo ra khó khăn cho bạn.
Saraha đang nói gì? Saraha đang
nói: Người đã biết về thực tại bên trong mình thì biết rằng chẳng có chứng cớ
nào khác hơn việc hiểu biết nó. Người đó không tin vào các ý nghĩ lan man. Người
đó không nêu ra bất kì logic nào cho nó; nó là phi logic, nó nằm ngoài lập luận.
Nó là như vậy. Bạn có thể kinh nghiệm nó hoặc bạn có thể bỏ mặc nó, nhưng không
có cách nào chứng minh nó hay bác bỏ nó. Hữu thần và vô thần cả hai đều vô
nghĩa. Tôn giáo chẳng liên quan gì với họ; tôn giáo là việc kinh nghiệm về điều
đang hiện hữu. Gọi nó bằng bất kì cái tên nào bạn chọn để gọi nó: gọi nó là Thượng
đế, gọi nó là niết bàn, gọi nó là XYZ, bất kì thứ gì, điều đó chẳng thành vấn đề
- nhưng kinh nghiệm nó đi. Mật tông tin vào kinh nghiệm; Mật tông không phải là
trí năng, nó mang tính chất tồn tại.
Họ coi đồng là vàng... và Thượng
đế này được chứng minh bằng luận cứ thì họ nghĩ là Thượng đế của mình. Rồi họ tạo
ra hình ảnh về Thượng đế, và rồi họ tôn sùng; họ tôn sùng suy luận của riêng họ.
Cái gì có trong nhà thờ, đền đài, đền Mô ha mét giáo của bạn? - chẳng có gì
ngoài suy luận. Thế giới cần một đấng sáng tạo, cho nên bạn tin vào một đấng
sáng tạo. Đấy là niềm tin, và tất cả mọi niềm tin đều là giả tạo. Niềm tin là một
thứ nhân tạo. Vâng, nó an ủi, nó cho bạn an ninh, thoải mái nào đó. Thật thuận
tiện mà tin rằng ai đó đang coi sóc thế giới, bằng không người ta sẽ trở nên sợ
hãi: chẳng ai chăm nom điều đó, vào bất kì lúc nào, bất kì cái gì cũng có thể
chạy sai. Điều đó cho bạn niềm tin.
Cũng gần giống như khi bạn
trong chiếc máy bay và bạn biết rằng phi công đang có đó, người đó đang trông
nom mọi thứ. Rồi bỗng nhiên bạn tới nhìn vào buồng lái và chẳng thấy có ai cả!
Bây giờ điều gì sẽ xảy ra? Ngay khoảnh khắc trước bạn còn đang nhấm nháp nước
chè và nói chuyện, rồi bạn quan tâm tới người đàn bà ngồi cạnh bạn, bạn đang định
chạm vào cô ấy, và mọi điều... Bây giờ mọi thứ biến mất - phi công không có đó!
Cho tới khoảnh khắc này mọi thứ đều thuận tiện. Bạn sẽ trở nên rất bồn chồn, bạn
sẽ bắt đầu run rẩy; bạn sẽ mất mọi sự quan tâm đến đàn ông và đàn bà, đến đồ ăn
thức uống, mọi thứ đã chấm dứt! Nhịp thở của bạn sẽ rối loạn, huyết áp sẽ rối
loạn, tim bạn sẽ bắt đầu đập không đều và bạn bắt đầu vã mồ hôi... trong chiếc
máy bay có điều hoà!
Thật thuận tiện mà tin rằng
trong buồng lái có phi công biết mọi thứ và mọi việc đều ổn thoả - Thượng đế lo
tất cả.
Bạn có thể vẫn theo con đường của
mình. Ngài là 'Cha', ngài biết mọi người. Thậm chí chỉ một chiếc lá rơi cũng
theo ý chí của ngài, cho nên mọi thứ đều tốt lành. Thật là thuận tiện. Tâm trí
quả rất tinh ranh. Thượng đế này là một phần của tâm trí tinh ranh.
Saraha nói: Niềm tin không phải
là chân lí, và chân lí không bao giờ là niềm tin cả. Chân lí là việc kinh nghiệm.
Họ tưởng ý nghĩ này là thực tại
tối hậu.
Họ mong mỏi hoan lạc được kinh
nghiệm trong giấc mơ.
Đấy là những hoan lạc được kinh
nghiệm trong giấc mơ.
Họ gọi thâm-tâm mau tàn là phúc
lạc tối cao vĩnh viễn.
Đôi khi bạn bị thân thể mình lừa
dối và bằng cách nào đó nếu bạn xoay xở vượt ra ngoài thân thể, bạn lại bị tâm
trí lừa dối, kẻ lừa dối hơn nữa. Ba luân xa đầu tiên thuộc về thân thể. Ba luân
xa tiếp sau thuộc về tâm trí. Và luân xa thứ bảy vượt ra ngoài cả hai loại này.
Thông thường những người si mê
vẫn còn trong ba luân xa đầu, các luân xa thấp, họ lơ lửng ở đó. Ba luân xa đầu
đó - muladhar, swadhishthan và manipura - đều gắn với đất. Chúng là các địa
luân xa, chúng bị hấp dẫn bởi trọng lực, chúng bị kéo xuống. Ba luân xa tiếp:
anahata, vishuddha và agya là gắn với trời; lực trọng trường không ảnh hưởng tới
chúng. Chúng chịu ảnh hưởng của luật khác gọi là bay lên, chúng được kéo lên.
Ba luân xa này gồm tâm trí; thân thể bị kéo xuống, tâm trí bị kéo lên. Nhưng bạn
thì chẳng phải là cả hai; bạn là luân xa thứ bảy, chẳng phải thân thể lẫn chẳng
phải tâm trí.
Cho nên những người si mê sống
trong ba luân xa đầu, và những người kìm nén ba luân xa đầu bắt đầu sống trong
ba luân xa thứ hai. Nhưng họ tạo ra thế giới mơ... Nó gần giống như thế này: một
hôm bạn nhịn ăn và ban đêm bạn mơ thấy rằng bạn được nữ hoàng nước Anh chiêu
đãi, một bữa tiệc linh đình được dọn cho bạn để tỏ lòng trân trọng, và bạn ăn hết
mọi món - tất cả mọi thứ bạn muốn ăn mà bác sĩ thì không cho phép ăn. Việc nhịn
ăn tạo ra giấc mơ này, nhưng giấc mơ này không thể nuôi dưỡng được bạn. Sáng dậy
bạn vẫn đói như trước - còn đói hơn. Nhưng giấc mơ này cũng giúp ích đôi chút.
Nó giúp ích thế nào? Nó giúp bạn tiếp tục ngủ. Bằng không, cơn đói sẽ đánh thức
bạn liên tiếp, bạn sẽ cứ tỉnh dậy. Giấc mơ này là thủ đoạn của tâm trí. Tâm trí
nói, "Không cần dậy; không cần đi trong bóng tối và tìm tủ lạnh. Mình có
thể ngủ ngon. Trông này, nữ hoàng đã mời mình! Có biết bao thức ăn trên bàn,
sao mình lại không ăn?" - và bạn bắt đầu ăn. Đấy là thủ đoạn của tâm trí,
nó giúp bạn giữ yên giấc ngủ.
Điều đó xảy ra nhiều lần... bụng
bạn đầy nước và bạn bắt đầu mơ rằng bạn đang trong nhà vệ sinh. Điều này có ích
- không phải vì nó làm nhẹ bụng mà nó giữ bạn bị lừa và giấc ngủ có thể tiếp tục.
Niềm tin của bạn, tưởng tượng của bạn, giấc mơ của bạn, ngôi đền của bạn, nhà
thờ của bạn, gurudwaras của bạn giúp bạn vẫn còn ngủ. Chúng là thuốc an thần.
Họ gọi thâm-tâm mau tàn là phúc
lạc tối cao vĩnh viễn... Đôi khi họ nghĩ phúc lạc tối cao có đó trong thân thể,
và rồi họ bắt đầu nghĩ trong tưởng tượng của tâm trí rằng kundalini đang dâng
lên... ánh sáng, và cả nghìn lẻ một linh ảnh và kinh nghiệm. Nhận biết về những
linh ảnh này đi.
Người hướng tâm linh thực sự
không quan tâm đến bất kì nội dung nào của tâm thức. Người đó quan tâm tới
chính bản thân tâm thức.
Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc
tự tẩy rửa được đạt tới. Theo những tình huống khác nhau đòi hỏi bốn lớp xi.
họ gọi điều họ đã tưởng tượng
là tính tự phát. Nhưng đây là nhìn vào sự phản xạ trong gương.
Qua mật chú, qua âm thanh, người
ta có thể đạt tới sự thanh bình tâm thần nào đó. Vâng qua TM* người ta có thể đạt
tới ảo giác nào đó. Nếu bạn lẩm nhẩm một âm nào đó liên tục, nó sẽ làm dịu bạn;
nó cho bạn nhịp điệu nào đó trong tâm trí, nó mang tính nhịp điệu. Nếu bạn lẩm
nhẩm, "Om, Om, Om," hay "Evam, Evam, Evam," hay bất kì mật
chú nào... "Coca-Cola" cũng có tác dụng; nếu bạn lẩm nhẩm,
"Coca-Cola, Coca-Cola, Coca-Cola," rất đáng yêu và tôn kính, điều đó
sẽ có ích. Bạn cũng có thể đặt một chai Coca-Cola phía trước mình rồi đặt thêm
vài bông hoa, vài trái cây trước nó; điều đó sẽ có ích. Bạn phải tạo ra bầu
không khí... bạn có thể đốt vài nén hương trước chai Coca- Cola và lẩm nhẩm câu
mật chú. Nếu bạn làm việc đó đủ lâu, sẽ có mọi khả năng bạn cảm thấy dễ chịu. Bạn
đã tự thôi miên mình, bạn đã gợi ý điều gì đó cho chính mình; bạn đã gợi ý rằng
thanh bình sẽ đến, im lặng sẽ đến, hạnh phúc sẽ đến. Đấy chẳng là gì khác hơn tự
gợi ý, tự gợi ý rất gián tiếp.
* (Transcendental Meditation -
Thiền siêu việt) một kĩ thuật thiền do Maharishi Mahesh Yogi nêu ra.
Emile Coué đề nghị những gợi ý
trực tiếp. Nghĩ: Mình đang khoẻ lên, mình đang mạnh khoẻ, mình đang hạnh phúc
hơn - những gợi ý trực tiếp. Emile Coué là người phương Tây - lương thiện, thật
thà và trực tiếp hơn. Maharishi Mahesh Yogi gợi ý rằng bạn lẩm nhẩm, Om, Om,
Ram, Ram - điều này là gián tiếp, nhiều tâm trí phương Đông hơn; không trực tiếp,
nhưng gián tiếp. Nhưng mọi gợi ý ấy đều được đưa ra - rằng nếu bạn lẩm nhẩm câu
mật chú này hai lần mỗi ngày trong hai mươi phút vào buổi sáng và hai mươi phút
vào buổi tối bạn sẽ trở nên mạnh khoẻ hơn, bạn sẽ trở nên im lặng hơn, bạn sẽ
trở nên phúc lạc hơn... thế này thế nọ. Mọi thứ đều được hứa hẹn - thậm chí cả
lương của bạn cũng sẽ tăng lên. Bạn sẽ được đề bạt và toàn bộ thế giới sẽ hợp
tác với bạn trong tham vọng của bạn.
Điều này được cho một cách gián
tiếp. Và rồi bạn chẳng còn quan tâm đến mật chú nữa, bạn đang quan tâm đến những
thứ này: sức khoẻ, của cải, quyền lực, danh vọng, im lặng, vui vẻ - bạn đang
quan tâm tới những thứ ấy. Vì mối quan tâm này mà bạn lẩm nhẩm mật chú. Nhưng mỗi
lần bạn nhẩm "Om," bạn biết rằng những thứ ấy sắp xảy ra. Và những
câu mật chú này linh nghiệm trong phạm vi mà bạn tin vào chúng; nếu bạn không
tin chúng sẽ không linh nghiệm. Nếu bạn không tin, chúng không có tác dụng. Nếu
bạn không tin, Mahesh Yogi sẽ nói, "Làm sao chúng linh nghiệm được? Bạn phải
tin vào chúng, thế thì chúng mới có tác dụng."
Chân lí vận hành chẳng cần niềm
tin của bạn; chân lí không cần niềm tin về phần bạn. Chỉ phi chân lí mới vận
hành qua niềm tin. Phi chân lí cần niềm tin về phần bạn, bởi vì chỉ nếu bạn tin
thì bạn mới có thể tạo ra thái độ tâm trí, tự gợi ý, bầu khí hậu mà trong đó nó
vận hành.
Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc
tự tẩy rửa đã đạt được.
Và Saraha đang nói rằng điều
này là vô nghĩa. Bằng cách lẩm nhẩm một âm nào đó, không sáng tỏ nào được đạt tới,
bạn chỉ trở nên u ám hơn. Không phải là bạn trở nên thông minh và nhận biết hơn
mà bạn trở nên buồn ngủ hơn. Tất nhiên bạn sẽ có giấc ngủ ngon hơn, đó là phần
tốt của nó. Và không phải là ngẫu nhiên mà kĩ thuật thiền TM của Mahesh Yogi đã
trở nên có ảnh hưởng tại Mĩ, bởi vì Mĩ là nước đang phải chịu đựng rất nhiều về
chứng mất ngủ. Mọi người không thể ngủ được, họ cần thủ thuật nào đó để ngủ; TM
có thể giúp giấc ngủ tốt. Và tôi không phản đối TM nếu bạn chỉ dùng nó cho ngủ
ngon - tôi ủng hộ tất cả những gì giúp cho giấc ngủ ngon. Nhưng nhớ cho, nó
không thể dẫn bạn tới bất kì cõi giới nào khác, nó không thể trở thành cuộc
hành trình tâm linh của bạn; nó là an ủi thôi.
Bởi những tình huống khác nhau
đòi hỏi bốn lớp xi...
Bốn lớp xi này phải được hiểu
rõ. Mật tông nói về bốn lớp xi, bốn mudras - ấn. Để đạt tới điều tối thượng,
người ta đi qua bốn cánh cửa, người đó phải mở bốn cái khoá. Bốn cái khoá này
được gọi là bốn lớp xi, bốn ấn. Chúng rất quan trọng.
Ấn đầu tiên được gọi là ấn nghiệp.
Nó là cánh cửa bên ngoài nhất, chính phần ngoại vi của bản thể bạn. Nó ở bên ngoài
nhất thế... tựa như hành động, đó là lí do tại sao nó được gọi là ấn nghiệp.
Nghiệp có nghĩa là hành động. Hành động là cốt lõi bên ngoài nhất của bản thể bạn,
là phần ngoại vi của bạn; điều bạn làm là phần ngoại vi của bạn. Bạn yêu ai đó,
bạn ghét ai đó, bạn giết ai đó, bạn bảo vệ ai đó - cái bạn làm là phần ngoại vi
của bạn. Hành động là phần bên ngoài nhất của bản thể bạn.
Lớp xi thứ nhất được mở ra
thông qua việc trở thành toàn bộ trong hành động của bạn... toàn bộ trong hành
động của bạn. Bất kì điều gì bạn làm, làm một cách toàn bộ, và sẽ nảy sinh vui
vẻ lớn - không phải bằng cách lẩm nhẩm mật chú nào đó mà bằng cách thực hiện nó
một cách toàn bộ. Nếu bạn giận dữ, hãy giận dữ toàn bộ; bạn sẽ học rất nhiều từ
giận dữ toàn bộ đó. Nếu bạn giận dữ toàn bộ và tràn đầy nhận biết về giận dữ của
bạn, một ngày nào đó giận dữ sẽ biến mất. Sẽ không còn vấn đề giận dữ chút nào
nữa; bạn đã hiểu nó, nó có thể bị vứt bỏ bây giờ.
Bất kì cái gì được hiểu đều có
thể bị vứt bỏ dễ dàng. Chỉ những gì không được hiểu mới tiếp tục lơ lửng quanh
bạn. Cho nên hãy là toàn bộ, dù nó là bất kì cái gì. Cố là toàn bộ và tỉnh táo:
đây là chiếc khoá đầu tiên cần phải mở.
Bao giờ cũng nhớ, Mật tông rất
khoa học. Nó không nói phải lẩm nhẩm mật chú. Nó nói: Trở nên nhận biết trong
hành động của bạn.
Lớp xi thứ hai được gọi là ấn
hiểu biết gyana - sâu hơn một chút so với lớp xi đầu, vào bên trong hơn một
chút so với lớp xi đầu: tựa như tri thức. Hành động là thứ bên ngoài nhất, tri
thức có sâu hơn một chút. Bạn có thể quan sát điều tôi đang làm nhưng bạn không
thể quan sát điều tôi đang biết. Biết là bên trong hơn. Hành động có thể được
quan sát, biết không thể được quan sát, chúng là bên trong hơn. Lớp xi thứ hai
là lớp xi của việc biết - ấn hiểu biết.
Bây giờ bắt đầu biết điều bạn
thực sự biết đi và dừng việc tin vào những thứ bạn thực sự không biết. Ai đó hỏi
bạn, "Có Thượng đế không?" và bạn nói, "Có chứ, có Thượng đế."
Nhớ lấy, bạn có thực biết không? Nếu bạn không biết, xin đừng nói rằng bạn biết.
Hãy nói, "tôi không biết." Nếu bạn là người thật thà và bạn chỉ nói
điều bạn biết, và bạn chỉ tin điều bạn biết, cái khoá thứ hai sẽ bị phá vỡ. Nếu
bạn vẫn cứ biết mọi thứ, tin mọi thứ mà bạn không thực sự biết, cái khoá thứ
hai sẽ không bao giờ bị phá vỡ. Tri thức giả là kẻ thù của tri thức thật. Và mọi
niềm tin đều là tri thức giả; bạn đơn giản tin chúng. Và những người được gọi
là thánh nhân của bạn vẫn cứ bảo bạn: Trước hết hãy tin tưởng rồi bạn sẽ biết.
Mật tông nói: Trước hết hãy biết,
rồi niềm tin có đó. Nhưng đó là loại niềm tin hoàn toàn khác; đó là tin cậy. Bạn
tin vào Thượng đế, bạn biết về mặt trời. Mặt trời mọc, bạn không cần phải tin
vào điều đó; nó đơn giản có đó, bạn biết nó. Thượng đế thì bạn tin. Thượng đế
là hư ảo; Thượng đế của bạn là hư ảo.
Còn có Thượng đế khác - Thượng đế
tới qua hiểu biết. Nhưng điều đầu tiên được rút ra là, vứt bỏ tất cả những gì bạn
không biết mà chỉ tin vào những gì bạn đã biết. Bạn bao giờ cũng tin và bạn bao
giờ cũng mang tải trọng. Vứt bỏ tải trọng đi. Trong một trăm thứ bạn sẽ dỡ đi gần
như chín mươi tám thứ - dỡ đi. Chỉ vài thứ sẽ còn lại đó mà bạn thực sự biết. Bạn
sẽ cảm thấy tự do lớn lao; đầu bạn sẽ không còn nặng nề nữa. Và với tự do cùng
phi trọng lượng đó bạn đi vào ấn thứ hai. Cái khoá thứ hai bị phá vỡ.
Ấn thứ ba được gọi là ấn thời
gian samaya. Samaya nghĩa là thời gian. Tầng đầu tiên, tầng bên ngoài nhất là
hành động, tầng thứ hai là việc biết, tầng thứ ba là thời gian. Tri thức đã biến
mất, bạn chỉ còn trong bây giờ; chỉ sự thuần khiết nhất của thời gian là còn lại.
Quan sát, thiền về nó. Trong khoảnh khắc bây giờ, không có tri thức. Tri thức
bao giờ cũng là về quá khứ. Trong khoảnh khắc bây giờ không có tri thức, nó
hoàn toàn tự do khỏi tri thức. Ngay khoảnh khắc này, nhìn vào tôi, bạn biết gì?
Chẳng cái gì được biết cả. Nếu bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn biết cái này cái nọ,
điều đó sẽ đến từ quá khứ. Điều đó sẽ không đến từ khoảnh khắc này, không đến từ
bây giờ. Tri thức là từ quá khứ, hay phóng chiếu vào tương lai. Bây giờ là sự
thuần khiết của tri thức.
Cho nên lớp xi thứ ba là ấn thời
gian samaya - trong khoảnh khắc này. Tại sao Saraha lại gọi nó là samaya, thời
gian? Thông thường bạn nghĩ rằng quá khứ, hiện tại và tương lai là ba phân chia
của thời gian. Đó không phải là cách hiểu của Mật tông. Mật tông nói: chỉ hiện
tại mới là thời gian. Quá khứ là kí ức, tương lai là tưởng tượng. Chỉ hiện tại
mới là thời gian; quá khứ không hiện hữu, nó đã qua rồi. Tương lai không hiện hữu;
nó còn chưa tới. Chỉ hiện tại mới hiện hữu.
Hiện hữu trong hiện tại là thực
sự trong thời gian. Ngoài ra bạn hoặc là trong kí ức hoặc bạn trong mơ mộng, cả
hai đều giả - đều là ảo giác. Cho nên lớp xi thứ ba bị phá vỡ bởi việc hiện hữu
trong bây giờ. Thứ nhất, là toàn bộ trong hành động của bạn - lớp xi thứ nhất bị
phá vỡ. Thứ hai, thật thà trong việc biết của bạn - lớp xi thứ hai bị phá vỡ.
Bây giờ, chỉ ở đây và bây giờ - lớp xi thứ ba bị phá vỡ.
Và lớp xi thứ tư được gọi là ấn
đại biểu tượng mahamudra, điệu bộ lớn... bên trong nhất, tựa không gian. Bây giờ
chỉ còn lại không gian thuần khiết nhất. Hành động, việc biết, thời gian, không
gian - đây là bốn lớp xi.
Không gian là cốt lõi bên trong
nhất của bạn, cái trục của bánh xe, hay trung tâm của cơn xoáy lốc. Trong cái
trống rỗng bên trong nhất của bạn là không gian, bầu trời. Đây là ba tầng: tầng
thứ nhất là thời gian, rồi tầng thứ hai là việc biết, rồi đến tầng thứ ba là
hành động. Đây là bốn lớp xi cần phải bị phá vỡ. Bằng cách trích dẫn mật chú,
điều đó không xảy ra. Bạn đừng tự lừa mình. Công việc lớn được cần tới là đi
vào trong thực tại của bạn.
Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc
tự tẩy rửa đã đạt được.
Bởi những tình huống khác nhau
đòi hỏi bốn lớp xi ...
Việc tẩy rửa không được đạt tới
nếu không có việc phá vỡ bốn lớp xi đó. Sáng tỏ chỉ được đạt tới khi bạn đã đi
vào không gian thuần khiết của mình.
...họ gọi điều họ đã tưởng tượng
là tự phát.
Nhưng đấy chỉ là nhìn vào sự phản
xạ trong gương.
Vâng, bạn có thể tạo ra gương bằng
cách tụng niệm mật chú, và trong tấm gương đó bạn có thể thấy mọi thứ. Đấy là
cái nhìn qua tinh thể, không nhiều giá trị lắm. Hệt như nhìn vào mặt hồ và nghĩ
rằng mặt trăng có đó; mặt trăng không có đó, nó chỉ phản xạ ở đấy thôi. Đấy là
việc nhìn vào trong gương và nghĩ rằng bạn đang trong đó; bạn không có trong
đó. Đừng ngây thơ - trẻ nhỏ mới nghĩ như thế. Bạn đã quan sát đứa nhỏ lần đầu
tiên được đưa tới trước gương chưa? Nó cố gắng đi vào trong gương... nó cố tóm
lấy gương và cố tìm cách đi vào trong đó và gặp đứa trẻ trong đó. Khi nó thấy
điều đó khó khăn, nó cố đi qua phía sau của tấm gương: có thể có một chỗ và đứa
trẻ ngồi ở đó. Đây là điều chúng ta vẫn đang làm.
Tâm trí là tấm gương. Vâng, bằng
cách lặp lại câu mật chú TM bạn có thể làm cho tấm gương này rất, rất rõ. Nhưng
nhìn vào trong tấm gương đó bạn sẽ không đạt tới được. Trong thực tế cần phải vứt
bỏ hoàn toàn tấm gương đó, ném nó đi. Bạn phải chuyển vào trong. Và điều này rất
thực tế: hành động đầu tiên, rồi việc biết, rồi thời gian, rồi đến không gian.
Như dưới sức mạnh của ảo tưởng
bầy hươu xô về nguồn nước trong ảo tưởng không nhận ra, cho nên ảo tưởng không
làm dịu đi cơn khát của chúng, chúng bị gắn vào xiềng xích và tìm thấy hoan lạc
trong chúng, nói rằng tất cả đều là thực tế tối thượng.
Đây là câu kinh cuối.
Saraha nói: Nhìn vào trong
gương, bạn đang nhìn vào ảo ảnh. Bạn đang mơ. Bạn đang giúp cho ảo tưởng được tạo
ra xung quanh mình, bạn đang hợp tác trong giấc mơ.
Như dưới sức mạnh của ảo tưởng
bầy hươu xô về nguồn nước trong ảo tưởng không nhận ra, cho nên ảo tưởng không
làm dịu đi cơn khát của chúng, chúng bị gắn vào xiềng xích.
Chúng ta bị lừa dối bởi sự phản
xạ vốn xảy ra trong tâm trí ta.
Tôi đã từng nghe một câu chuyện
hay...
Một người muốn đi dạo trong
vùng núi xứ Wales đã đặt tổng hành dinh của mình ở một quán rượu trong một thị
trấn thôn quê. Anh ta thấy các buổi tối đều chán ngắt, vì chẳng có gì xảy ra,
và chuyện ở quán rượu thì gần như chỉ về cừu, gần như chỉ về xứ Wales.
Anh ta hỏi người chủ cách bắt đầu
tìm phụ nữ trong thị trấn, và điều đó mới đáng gây chấn động.
"Này ông bạn, đây là xứ
Wales. Chúng tôi không thể có gái mãi dâm được - nhà thờ không bao giờ cho phép
điều đó."
Ông khách có vẻ buồn và người
chủ tiếp tục, "Tất nhiên chúng tôi cũng có bản tính con người hệt như mọi
nơi khác, nhưng điều ông định nói tới thì bị giữ cho khuất mắt." Ông ta tiếp
tục giải thích rằng trên núi, sau lưng núi, có nhiều hang động, trang bị đồ đạc
đầy đủ và với mọi điều kiện thuận lợi. Điều người khách lạ phải làm là lên núi
lúc chạng vạng tối và hô to, "Yoo-hoo!" và nếu có giọng phụ nữ vọng lại
"Yoo-hoo" thì có thể thương lượng các điều khoản. Nếu cô ấy đã ước hẹn
thì không có câu trả lời.
Tối hôm đó chàng người Anh hô
lên yoo-hoo trên đường từ hang nọ sang hang kia, nhưng chẳng gặp may chút nào;
cuối cùng anh ta quyết định quay lại và uống rượu. Nhưng ở chân núi anh ta tìm
ra một cái hang tươi mát. Anh ta hô to "Yoo-hoo!" Tiếng vọng
"Yoo-hoo! Yoo- hoo!" dội lại thật rõ ràng.
Anh ta chạy xô vào trong hang -
và bị tầu hoả chẹt chết.
Đó chính là điều ảo giác là gì:
bạn hình dung, bạn tưởng tượng, rồi bạn bắt đầu thấy. Và rồi bất kì cớ nào cũng
được. Khi người khát trong sa mạc, bị lạc, và cơn khát cháy bỏng như ngọn lửa
bên trong và người đó chỉ nghĩ đến nước - chỉ nước và không gì khác - có mọi khả
năng là người đó sẽ bắt đầu thấy nước ở đâu đó. Người đó sẽ phóng chiếu nó; ham
muốn của người đó nhiều đến mức người đó sẽ phóng chiếu nó. Người đó sẽ bắt đầu
thấy hồ ảo giác, người đó sẽ nghĩ tới gió mát đã tới. Người đó sẽ nghĩ mình đã
thấy một vài con chim bay qua, người đó thậm chí còn sẽ nghĩ rằng mình có thể
thấy vài cây xanh - không chỉ có cây xanh mà còn sự phản xạ của chúng trong nước.
Người đó sẽ chạy xô tới.
Đấy chính là cách chúng ta cũng
chạy xô tới trong hàng triệu kiếp sống... kêu lên yoo-hoo hết hang nọ đến hang
kia. Và bạn vẫn không thấy rằng mỗi lần bạn đi bạn chẳng tìm thấy nước gì cả,
cơn khát chẳng dịu đi. Nhưng bạn chẳng học được gì.
Vấn đề lớn nhất với con người
là ở chỗ người đó không học. Bạn yêu người đàn bà hay người đàn ông, bạn nghĩ rằng
cơn khát của bạn sẽ dịu đi - nó chẳng dịu đi cho. Nhưng bạn cũng chẳng học được
điều gì, bạn bắt đầu hướng sang hang khác. Bạn không có tiền và bạn nghĩ rằng nếu
bạn có mười nghìn ru pi mọi sự sẽ ổn thoả. Và rồi mười nghìn đồng cũng có,
nhưng bạn chẳng học được gì. Trước lúc đó bạn bắt đầu nghĩ, "Chừng nào
mình còn chưa có một chục vạn ru pi thì làm sao mình hạnh phúc được?" Một
chục vạn rồi cũng xảy ra, nhưng bạn vẫn chưa học được điều gì; bây giờ bạn nghĩ
rằng chừng nào chưa có đó trăm vạn làm sao bạn sung sướng được? Và rồi cứ như
thế mãi bạn đi... hết hang này đến động kia, từ lần sinh này sang lần sinh
khác, từ cái chết này đến cái chết khác. Con người dường như gần như không có
khả năng học hỏi. Những người học, chỉ họ mới biết.
Bắt đầu học đi. Tỉnh táo thêm
chút nữa; để cho từng kinh nghiệm đem lại cho bạn việc biết nào đó. Bạn đã hỏi
bao nhiêu lần về bao nhiêu thứ mà chẳng có gì xảy ra. Bây giờ dừng việc hỏi lại.
Bạn đã ham muốn bao nhiêu thứ và mỗi ham muốn đều dẫn bạn đến thất vọng. Bạn vẫn
cứ ham muốn sao? Bạn đã làm cùng một việc ngày hôm qua và ngày hôm kia, và bạn
sẽ làm cùng việc ấy ngày hôm nay và ngày mai nữa - mà chẳng cái gì đến từ nó.
Và bạn cứ di chuyển và làm cùng một thứ lặp đi lặp lại.
Học là trở thành mang tính tôn
giáo. Từ đệ tử - disciple - thật hay, nó có nghĩa là người có khả năng học. Nó
xuất xứ từ một gốc có nghĩa là 'việc học'; người có khả năng học là đệ tử.
Trở thành đệ tử... đệ tử của cuộc
sống riêng của bạn. Cuộc sống là thầy thực của bạn. Và nếu bạn không thể học được
từ cuộc sống, bạn còn có thể học được từ đâu nữa? Nếu như người thầy cuộc sống
vĩ đại bị thất bại với bạn và không thể dạy được bạn điều gì, thế thì ai sẽ có
khả năng dạy bạn điều gì?
Vũ trụ này là trường đại học. Mỗi
khoảnh khắc đều là một bài học, mỗi thất vọng là một bài học. Mỗi lần bạn thất
bại, học điều gì đó đi! Dần dần, tia sáng hiểu biết đi vào. Từng li một người
ta trở nên tỉnh táo; từng li một người ta trở nên có khả năng không lặp lại sai
lầm cũ. Khoảnh khắc bạn bắt đầu học, bạn đang tới gần hơn với Thượng đế.
Và đừng tin vào chút xíu hiểu
biết, đừng nghĩ rằng bạn đã tới nơi. Một sự học hỏi nho nhỏ đôi khi làm cho mọi
người thoả mãn lắm lắm... rồi họ dừng lại, rồi họ dừng chuyển động. Đây là cuộc
hành trình vĩ đại, đây là cuộc hành trình vô tận. Bạn càng học nhiều, bạn càng
có khả năng học thêm. Bạn càng học nhiều, bạn càng có khả năng trở nên nhận biết
rằng nhiều thứ nữa cần phải học. Bạn càng biết nhiều, bí ẩn lại càng trở nên
mãnh liệt hơn. Bạn càng biết nhiều, bạn càng cảm thấy mình biết ít. Với việc biết,
những cánh cửa mới mở ra. Với việc biết, những bí ẩn mới được lộ ra.
Cho nên đừng thoả mãn với đôi
chút tri thức. Chừng nào Thượng đế còn chưa tự hiển lộ mình cho bạn, đừng bao
giờ bằng lòng. Hãy để có không bằng lòng lớn về tâm linh.
Chỉ những người đủ may mắn mới
có sự không bằng lòng thiêng liêng này trong họ - rằng không cái gì ngoài Thượng
đế mới thoả mãn cho họ - chỉ họ mới đạt tới. Không ai khác.