Read more
Osho - Thiền - Con đường nghịch lý (Tập 1)
Chương 10. Đứa con hoang của những nền triết
học lai căng
Câu hỏi thứ nhất:
Triết học Ðông phương đặt tính chất con người vào vị trí
của một khách bàng quan trước cuộc đời. Triết học Tây phương kể từ khi khoa học
phát triển, đặt phẩm cách hàng đầu của con người trong khả năng chinh phục thế
giới, trong hành động. Với phân tâm học tổng hợp, Assagioli đã thực hiện một cuộc
hôn phối giữa Ðông và Tây bằng cách thừa nhận cả hai, một chứng nhân thụ động
và một kẻ mang ý chí tích cực. Cuộc hôn phối tạp loại này có mang lại kết quả
gì không?
Vâng, nó có kết quả. Nó sản xuất ra những đứa con hoang, những
nền triết học lai căng! Và những chuyện như vậy cứ không ngừng tiếp diễn.
Không có cuộc hôn phối nào có thể giúp ích gì cho con người.
Chúng ta cần hợp nhất, không cần hôn nhân. Hôn nhân cũng vẫn còn mang nhị
nguyên tính, hai cứ vẫn là hai. Và cả hai vẫn cứ tiếp tục đấu tranh lẫn nhau
-trong tận cùng, mối xung đột vẫn cứ tiếp tục. Nó tiếp tục xảy ra trong tất cả
mọi hình thái hôn nhân bởi vì cơ bản vẫn là vấn đề thống trị. Người chồng muốn
thống trị, người vợ cũng muốn thống trị. Có rất nhiều cách thức tinh vi để mè
nheo, để chiếm hữu -và nó cứ tiếp tục diễn ra như thế. Nếu bạn đang cố gắng để
hình thành một cuộc hôn phối giữa Ðông và Tây, kết quả rồi ra cũng sẽ như vậy,
không hơn không kém.
Hai chữ Ðông và Tây phải được xoá bỏ. Ðó là những danh từ tồi
tệ. Trái đất chỉ là một thế nên đâu cần một cuộc hôn phối nào? Quả đất tròn và là
một thể thống nhất, nó không hề bị chia cắt ở bất cứ nơi đâu. Không có một lằn
ranh nào phân chia giữa Ðông và Tây, tất cả đều chỉ ở trong tâm thức con người,
tất cả đều chỉ là chuyện chính trị. Hai chữ Ðông và Tây đã tồn tại khá lâu và
gây ra không biết bao nhiêu tai họa, trở nên vô cùng độc hại. Ðã không biết bao
nhiêu lần người ta cố gắng tạo ra một cuộc hôn phối nhưng không thành công bởi
vì hôn nhân chẳng những đã không thể nào làm phân hủy được nhị nguyên tính; mà
lại còn chấp nhận và tôn trọng nó. Người ta buộc phải nhìn vào sự phân chia này
và những sai lầm của nó. Ðây là một điều sai lầm hoàn toàn, không bao giờ phản ảnh
đúng sự thật.
Tâm thức con người ở đâu cũng thế -chúng ta phải thấy rõ điều
đó. Tôi không bao giờ ủng hộ một cuộc hôn phối nào. Có lắm người đã cố gắng tạo
nên một cuộc hôn phối giữa Ấn giáo và Hồi giáo, Cơ Ðốc và Ấn giáo, Ðông và Tây,
cái nọ và cái kia. Ðiều này chẳng bao giờ thành công cả. Nó luôn luôn tạo nên một
khuôn mặt giả dối rằng mọi chuyện đều tốt đẹp. Nhưng đó chỉ là cái mặt bên
ngoài, không bao giờ là sự thật. Ẩn dấu ở đằng sau vẫn là bạo động và xung đột,
và cái trò chơi cũ kỹ này vẫn cứ được tiếp diễn dưới nhiều tên mới. Cũng chỉ là
chuyện bình mới rượu cũ, và khi người ta chỉ thay cái bình mà không thay rượu
thì có gì thay đổi đâu? Chỉ là một việc làm vô ích. Con người hôm nay cần phải
nên chín chắn hơn, cần phải nhìn sâu vào mọi chuyện, và nếu thấy những việc làm
này vô nghĩa thì nên liệng bỏ chúng đi.
Tại sao lại phải cần một cuộc hôn phối? Vấn đề đơn giản là
chỉ quẳng bỏ toàn bộ cái ý thức đã làm phân cách nhân loại -những tôn giáo, những
bán cầu, những địa lý, những quốc gia. Tất cả mọi chia cắt đều phải được biến mất.
Chỉ như vậy thì thế giới này mới có thể sống trong hoà bình an ổn.
Tại Tây phương đâu thiếu gì những người mang tinh thần Ðông
phương không kém gì những người phương Ðông -cụ thể như các vị: Eckhart, Jacob
Boehme, Plotinus, Pythagoras, Heraclitus. Họ Ðông phương cũng không khác gì Ðức
Phật, Long Thọ, Sankhara, Lão Tử. Và cũng không thiếu những người mang tâm hồn
Tây phương tại phương Ðông không kém gì những người Tây phương tại phương Tây:
một Charvaka cũng Tây phương đâu khác gì Bertrand Russell.
Vấn đề không phải là Ðông, Tây. Ðủ mọi hạng người hiện hữu ở
những nơi chốn khác nhau. Những người duy ngã vị kỷ có mặt ở Ðông cũng nhiều
như ở Tây. Ý tưởng chinh phục -chinh phục thiên nhiên, chinh phục Thượng Ðế
-Ðông phương hay Tây phương cũng đều giống hệt nhau. Ý niệm về buông bỏ, buông
bỏ một cách hoàn toàn, Tây phuơng cũng không hề nhường bước Ðông phương. Ðiểm
khác nhau nhất vẫn là ở chỗ nổi bật ra, thế thôi -đó là điểm bộc lộ ra bên
ngoài còn bản chất không có gì khác nhau. Khác nhau là điểm nổi bật lên -mà cái
này thường chỉ là chuyện tình cờ.
Thế là bạn thấy được rằng bản chất đều giống nhau... Nếu không
thế làm sao bạn có thể giải thích được việc Lão Tử được Tây phương ái mộ? Cũng
như tại sao Karl Marx có thể phát triển được ở phương Ðông? Làm thế nào để bạn
giải thích được điều này? Tại sao Ðức Phật càng ngày càng trở thành một khuôn mặt
nổi bật ở phương Tây? Tại sao Thiền càng ngày càng trở nên có ý nghĩa lớn lao đối
với Tây phương? Tại sao khoa học kỹ thuật trở nên quan trọng đối với phương
Ðông. Phương Ðông đổ đồn đến phương Tây để học hỏi về khoa học kỹ thuật, để
trau dồi kỹ năng về khoa học kỹ thuật. Trong khi đó phương Tây tìm đến phương
Ðông để tìm hiểu thiền định là gì.
Những khát khao nguyện vọng của con người đều giống nhau -nếu
có khác nhau chăng chỉ là điểm nổi bật lên. Ðó không hề là chuyện phương Ðông
hay phương Tây. Tại phương Ðông không thiếu gì những người duy vật như phương
Tây, cũng vậy tại phương Tây không thiếu gì những người hữu thần như ở phương
Ðông. Một khi bạn đã trông thấy điểm này, bạn đừng cố gắng tạo nên một sự dung
hợp -một cách đơn giản, bạn thấy rằng không cần thiết phải có bất cứ sự dung hợp
nào bởi vì nó đã là một.
Nó giống y như là tính cách lưỡng tính của một con ngưòi. Một
người nam đồng thời cũng là một người nữ và một người nữ đồng thời cũng là một
người nam. Khác nhau là ở chỗ nổi bật ra. Có thể là người đàn ông mang năm mươi
mốt phần trăm nam và bốn mươi chín phần trăm nữ, thế thôi. Hoặc giả y mang năm
mươi lăm hay sáu chục phần trăm nam -thế nhưng bốn mươi phần trăm nữ kia vẫn hiện
diện ở đó. Sự khác biệt này không phải lúc nào cũng y nguyên, cố định, nó thay
đổi. Vào buổi sáng có thể bạn mang nhiều chất nữ tính hơn buổi chiều. Ðôi khi bạn
thấy một người phụ nữ nổi giận điên lên, bà ta có thể còn hung bạo hơn bất cứ một
người đàn ông nào khác. Cũng vậy khi một người đàn ông đang yêu, đang từ ái,
tâm hồn y trở nên tràn ngập yêu thương còn hơn cả một người đàn bà. Ðiều này
không phải là không có lý do. Khi một người đàn ông yêu thương, tình yêu thương
phát xuất từ cái phần mà y thường không dùng đến và bởi vì nó ít khi được dùng
đến nên rất phong phú. Nó chẳng khác gì một mảnh đất hoang. Trải qua một thời
gian dài không ai canh tác nên hoa màu được thu gặt nhiều hơn. Khi một người phụ
nữ giận dữ, cũng rất tự nhiên là bà ta trở nên nguy hiểm hơn bất cứ một người
đàn ông nào, bởi vì phần nam tính của bà ta chưa bao giờ được dùng đến. Thế nên
nó rất sắc bén, nó mới tinh, y như là còn ở phòng trưng bày. Nó sẽ rất cực kỳ
nguy hiểm.
Thế nên điều này cần phải được nhận thức rõ: một người nam đều
mang phần nữ tính ở trong người, cũng vậy, một người nữ đều có mang sẵn phần
nam tính. Tính cách hợp nhất đã có sẵn ở đó.
Trường hợp Ðông và Tây cũng y như thế.
Và rồi bạn thay đổi. Bạn có thể quan sát thấy cái bầu khí
thay đổi đó ở trong bạn. Những người ăn mày thường đi xin ăn vào buổi sáng bởi
vì họ biết rằng con người mang nhiều chất nữ tính hơn vào buổi sáng, và như vậy
sẽ có nhiều cơ may hơn là họ sẽ mở rộng lòng từ, họ sẽ dễ dàng gật đầu trong bố
thí. Buổi chiều lòng họ trở nên khô cứng đi. Họ đã trải qua một ngày dài đau khổ.
Họ đã chứng kiến đủ mọi trò láu cá, gian xảo, đã gặp gỡ đủ các bộ mặt chính trị,
ngoại giao, ba que xỏ lá, và họ trở nên chai cứng đi. Ăn mày vì thế không đi
làm ăn vào buổi chiều. Vào buổi chiều rất khó mà thuyết phục người ta ban phát
cho ai bất cứ cái gì. Vào buổi chiều mọi người trở nên chai đá và chẳng những
không cho, không chừng họ còn trấn lột luôn cả kẻ ăn mày.
Buổi sáng bạn dễ dãi dịu dàng hơn. Sau một đêm dài yên nghỉ,
trong sâu lắng của tiềm thức, bạn như được chan hoà cùng Thượng Ðế. Trong suốt
đêm dài đó, bạn là một hiện hữu chân thật, không giả dối, không bị ức chế. Tất
cả những gì mà bạn muốn làm, bạn đã thực hiện nó trong những giấc mơ. Không ai
đè nén bạn. Bạn không hề phải đấu tranh với bất cứ người nào. Không hề có bất cứ
ai ở đó, bạn hoàn toàn một mình -bạn hoàn toàn tự do. Ðó là tính cách quan trọng
của giấc mơ: nó cho bạn thưởng thức hương vị của tự do. Nếu không chắc bạn sẽ
phát khùng lên mất. Thế giới này đã biến bạn thành một tên nô lệ; những giấc mơ
đã giải phóng bạn thành kẻ tự do. Lúc đó bạn có thể bay lượn trên bầu trời,
rong chơi lên mặt trăng, làm bất cứ điều gì mà bạn muốn. Không ai cản ngăn được
bạn. Bạn có tự do hoàn toàn, tự do của bạn là tuyệt đối. Không hề có bất cứ giới
hạn nào.
Ðó là lý do tại sao giấc mơ lại vô cùng quan trọng đối với
con người -nó giữ cho bạn ở trong tình trạng tỉnh táo quân bình. Nếu một người
bị ngăn cấm không cho nằm mơ trong vòng ba tuần, y sẽ trở thành người mất trí.
Thoạt tiên người ta nghĩ rằng nhờ giấc ngủ mà con người lành mạnh tỉnh táo. Bây
giờ thì không còn như thế. Các nhà nghiên cứu cho biết rằng một người không khổ
sở nhiều vì bị mất ngủ mà là vì thiếu những giấc mơ. Rất nhiều cuộc thí nghiệm
đã được thực hiện để chứng minh khía cạnh khoa học này. Người ta cho bạn ngủ
nhưng nếu tìm cách cắt đứt những giấc mơ của bạn, trong khoảng ba tuần lễ bạn sẽ
phát điên. Ngay chỉ một tuần lễ bạn cũng đã khó mà chịu nỗi.
Tại sao giấc mơ lại hữu ích như vậy? Tại sao nó có thể giữ
cho bạn được an tịnh? Bởi vì nó cho bạn tự do. Tự do là một nhu cầu nội tâm, thế
nên tất cả những người thực chứng được chân lý rốt ráo đã gọi nó là tự do, là
moksha, là niết bàn -một tự do tuyệt đối. Ðó là một khẩn thiết, một khát vọng,
một mơ ước lớn lao: được trở nên tự do tuyệt đối. Thực tại không cho bạn tự do
nhưng giấc mơ đã cho bạn.
Và như vậy, vào buổi sáng bạn dễ dãi, bạn an bình, bạn dễ
dàng cỡi mở, hoà hợp hơn. Lòng từ ái của bạn sống lại, những giòng mật ngọt
tuôn chảy trở lại, và bạn trôi theo cùng với nhịp đời đang tuôn chảy. Lúc này lắc
đầu từ chối quả là chuyện khó khăn, gật đầu đồng ý là chuyện dễ dàng hơn. Vào
buổi sáng con người ít duy ngã hơn, ít hung bạo, ít tham vọng hơn là vào buổi tối.
Vào buổi sáng con người tín ngưỡng hơn -buổi tối họ biến thành những nhà chính
trị.
Thế nên cầu kinh vào buổi sáng rất là quan trọng... Khi đôi
mắt bạn vừa mở ra, việc đầu tiên nên làm là thiền định hoặc cầu nguyện, bởi vì
khoảnh khắc đó vô cùng quý giá. Trong suốt ngày bạn sẽ không bao giờ còn có được
phút giây này mà phải chờ đến hai mươi bốn giờ sau. Ðây là một khoảnh khắc trọng
đại, có ý nghĩa, có tiềm năng lớn lao. Hãy tận dụng nó, đừng làm vẩn đục nó.
Hãy thể nhập vào nó, thể nhập vào sự minh mẫn của hiện sinh, vào cái ân sủng của
mạch đời đang tuôn chảy chung quanh bạn.
Không, Tôi chẳng hề bao giờ tán đồng chuyện dung hợp, tôi
luôn luôn cổ xúy cho một sự hợp nhất thuần khiết trước khi có sự chia cắt.
Assagioli đã cố gắng làm chuyện dung hợp. Dung hợp luôn luôn
là một xác chết. Bạn đã từng chấp nhận chuyện chia cắt, chấp nhận chuyện Ðông
là Ðông và Tây là Tây, xem đó như là một tiền đề, bây giờ bạn lại cố gắng đi
làm chuyện tổng hợp. Ðấy là điểm sai lầm của Assagioli. Ðừng chấp nhận cái tiền
đề này. Hủy bỏ cái tiền đề này đi và nhìn thẳng vào thực tại. Ðông không phải
là Ðông và Tây không phải là Tây -chúng cùng nhau, tuy hai mà một. Trong mỗi
người đều có cả Tây lẫn Ðông -Tây là phần nam tính và Ðông là phần nữ tính.
Trong một vài cách thế triết học, sự hợp nhất này đã không được thực hiện, thế
nên sự hợp nhất này phải được thể hiện một cách thiết thân trong mỗi con người.
Khi bạn đang cầu nguyện, bạn đang tọa thiền, bạn là Ðông;
khi bạn đang đấu tranh, bạn đang ganh đua, bạn là Tây. Bất cứ lúc nào phần nam
tính được khẳng định là lúc bạn đang ở phía Tây. Ðây không phải là những phân
chia địa lý. Bất cứ bạn đang ở đâu, nếu phần nam tính ở trong bạn trội bật thì
bạn là con người nam hay con người nữ của phương Tây. Bất cứ bạn đang ở chỗ
nào, nếu phần nữ tính, phần dịu dàng ở trong bạn trở thành chủ yếu, như một
dòng nước đang tuôn chảy, không cứng rắn như viên đá tảng, thế là bạn Ðông
phương. Và mỗi người đều có thể là cả hai. Ðúng vậy, nước cũng có thể đông lại
thành đá và đá cũng có thể tan chảy thành nước.
Với tôi, sự tổng hợp phải được thể hiện trong mỗi cá thể,
trong từng cá nhân; nó phải được xảy ra trong mỗi trái tim người. Ngay cái danh
từ 'tổng hợp' này xem chừng cũng không được ổn. Phải là sự khám phá về mối hợp
nhất thuần khiết trước khi bạn đã nghĩ rằng Ðông và Tây, nam và nữ, âm và
dương, là hoàn toàn tách biệt. Phải rơi chìm vào khối hỗn mang nguyên thủy, vào
sự hợp nhất này khi mà mọi chuyện còn là một nhất thể. Trong tận cùng của bạn
chúng vẫn luôn là một, thế nhưng bạn đã không đi đến được, không đụng tới được
chỗ sâu thẳm này, và đó chính là chân lý. Bạn vẫn còn ở trên bề mặt. Tất cả mọi
chia cắt đều chỉ là mặt nổi. Nếu bạn đi sâu vào chính mình, cuộc gặp gỡ đầu tiên
-nếu bạn là người nam- sẽ là với một con người nam, cuộc gặp gỡ thứ hai sẽ là với
một con người nữ, và cuộc gặp gỡ thứ ba sẽ là một cái gì đó vượt qua cả hai. Ðó
chính là thực tại.
Câu hỏi thứ hai:
Ðiểm khác nhau giữa Triết học, Tâm lý học, và tôn giáo là
gì?
Ý thức có thể hướng ngoại hay hướng nội; đây là hai con đường
mở ra cho ý thức. Khi ý thức hướng ngoại, nó suy nghĩ về đối thể, về tha nhân,
về cái ngươi. Khi ý thức hướng nội, suy tư biến mất -bởi vì không còn tha nhân,
đối thể. Nó trở thành chủ thể.
Khi ý thức hướng ngoại, triết học được sáng tạo.Triết học là
tư duy về đối thể. Triết học hướng ra bên ngoài. Khi ý thức hướng nội, nó quên
hết tất cả mọi đối thể, nó bắt đầu an vui với chủ thể hiện sinh, với nội tâm. Bạn
an trú ở đó với cảm nhận là mình đang sống, đang tỉnh thức. Không còn đối thể,
bạn là một chủ thể hoàn toàn tự do. Không còn tư duy, bạn là một khối ý thức
thuần khiết.
Hướng ra ngoài là triết học, hướng vào bên trong là tâm lý học
và vượt lên trên cả hai là tôn giáo.
Đức Phật dùng hai từ. Ngài dùng dhatu để nói về hướng ngoại,
đối thể. Triết học liên quan đến đối thể. Nó bỏ qua một bên người quan sát, nó
chỉ biết đến đối tượng quan sát. Mũi tên được nhắm đến bên ngoài, dhatu, đối thể.
Về hành trình tâm linh Đức Phật dùng từ chitta, chủ thể. Khi bạn hướng nội, tâm
lý học được sáng tạo, khi bạn hướng ngoại, triết học được sáng tạo. Và khoa học
chính là sự trưởng thành của triết học.
Tuy nhiên nền tâm lý học hiện đại, cái-gọi-là tâm lý học,
không mang cùng một ý nghĩa như Đức Phật đã dùng trong tiếng 'tâm lý' bởi vì nền
tâm lý học hiện đại cũng chỉ là những suy nghĩ về tâm trong một cách thế hoàn
toàn khách quan. Nó dùng phương pháp triết học. Và như vậy nó đã lạc mất trọng
điểm. Đó là sự khác nhau giữa tâm lý học hiện đại và tâm lý học thực sự.
Gurdjieff đã từng nói rằng nền tâm lý học thật sự chưa hề được
khai sanh. Ông ta muốn bao hàm ý nghĩa gì khi nói đến tâm lý học thực sự? Phải
chăng Freud không phải là một nhà tâm lý hoc thật sự? Kể cả Carl Gustav Jung và
Adler? Không, tất cả họ đều suy nghĩ trong một vị thế hoàn toàn khách quan. Tâm
lý học của họ không gì khác hơn là triết học. Đó chỉ là sự suy nghĩ về tâm; coi
tâm như một đối tượng. Họ chỉ đứng ngoài và nghĩ về tâm. Họ nhìn. Họ quan sát.
Họ phân tích. Họ chẻ sợi tóc ra làm tư. Nhưng kẻ quan sát luôn luôn là người
ngoại cuộc; họ chỉ suy nghĩ về.
Gurdjieff nói rằng nền tâm lý học thật sự chưa hề được khai
sanh. Nhận định này có điểm đúng mà cũng có điểm sai. Điều này đúng đối với những
trường hợp như Freud, Jung, Adler và những người tương tự, tuy nhiên nếu áp dụng
cho Pantajali, Đức Phật, Lão Tử, Huệ Năng thì nó hoàn toàn sai. Tâm lý học thật
sự đã hiện hữu cả hàng ngàn năm. Tâm lý học thật sự có mặt lâu đến độ mà hầu
như người ta đã quên bẵng nó đi. Còn cái mới bây giờ, cái được gọi là tâm lý học,
thật ra chưa được chín chắn lắm. Nó xuất hiện rất trễ -chỉ mới khoảng chừng một
trăm năm trở lại đây. Nó còn rất non trẻ.
Nền tâm lý học thật sự là tâm lý học của chư Phật. Nền tâm
lý học thật sự là đi sâu vào sinh thể của bạn -chứ không phải là quan sát xem
những con chuột ứng xử như thế nào, không phải là nhìn ở cái bề mặt bên ngoài,
mà là đi sâu vào trong bằng đôi mắt nhắm, sâu lắng, thiền quán, tỉnh thức, hoàn
toàn tỉnh thức, nhìn xem những gì xảy ra ở bên trong. Buông bỏ bên ngoài để đi
sâu vào trong, vào nội tâm của bạn. Quên đi cái thế giới của khách thể, rồi tới
cái thế giới của suy tưởng, của cảm thọ -buông bỏ hết, buông bỏ tất cả. Và rồi
cái khoảnh khắc đó sẽ đến khi tâm thức của bạn an trú ở đó mà không còn chứa đựng
bất cứ thứ gì.
Hiểu biết được cái tâm thức này tức là hiểu được tâm lý học
thật sự là gì -nền tâm lý học của chư Phật.
Bây giờ bạn hỏi: Tôn giáo là gì? Sự chia cách giữa cái
"ngoài" và cái "trong" vẫn là một sự chia cắt, Thế nên cái
"trong" này cũng chưa hẵn là "trong" mà chỉ là môt phần của
"cái ngoài", chỉ là cái mặt bên kia của một đồng tiền. Một mặt ghi là
"ngoài", mặt kia ghi là "trong". Triết học và Tâm lý học
cũng thế, cũng chỉ là hai mặt của một đồng tiền: một cái hướng ngoại, một cái
hướng nội.
Như vậy tôn giáo là gì? Tôn giáo tức là quẳng bỏ toàn bộ cái
đồng tiền này đi. Không còn chuyện đi ra ngoài hay đi vào trong, ngay cả chuyện
"đi" cũng không còn. Khi cái đi không còn, khi cuộc hành hương chấm dứt,
lúc đó bạn thực sự là bạn -không còn là một đối thể cũng không là một chủ thể.
Không còn người biết và đối tượng được biết, không còn người quan sát và vật được
quan sát -lúc đó chỉ còn là một nhất thể, một biển cảm thụ của nhất thể. Lúc đó
bạn có mặt khắp nơi. Trong đoá hồng, trong cây cỏ, trong đất đá, trong con người.
Bạn chan hoà cùng vạn hữu. Đấy là tôn giáo.
Triết học là hướng ngoại, tâm lý học là hướng nội, còn tôn
giáo thì không hướng vào đâu cả. Mọi hành trình đều được quẳng bỏ, không còn vướng
mắc vào bất cứ cái gì, trong cũng như ngoài. Cái siêu việt này chính là tôn
giáo.
Còn một cách khác... Nếu bạn đặt vấn đề này với Thiền gia, họ
có một lối trả lời theo cung cách của họ. Họ bảo triết lý là cái đó, tâm lý học
là cái này và tôn giáo chỉ là cái như thị, tathata. Cái đó là đối thể; cái này
là chủ thể; cái như thị, tathata, hiện hữu, isness, konomama hoặc sonomama, chỉ
là như thị không mang bất cứ dấu ấn nào, không có nhãn hiệu nào được gắn vào,
không căn cước lý lịch, chỉ là một sinh thể tinh khôi -đó là tôn giáo.
Thế nên chuyển động đầu tiên là từ cái đó đến cái này, rồi từ
cái này đến cái như thị. Tathata là danh từ rốt ráo cuả Thiền gia. Một người đạt
đến cái như như -tathata- này thì được gọi là Như Lai. Đó là lý do tại sao Như
Lai là một trong những danh hiệu của Đức Phật -người đã đạt đến tình trạng như
như.
Một khi bạn được giải phóng ra khỏi cái này và cái đó, bạn
hoàn toàn tự do.
Như một bài Thiền thi:
Xuân đến trăm hoa nở
Thu về mảnh trăng tròn
Hạ nồng cơn gió mát
Mùa Đông tuyết theo chân
Nếu những chuyện đời vô nghĩa không còn vướng tâm
Thì bất cứ mùa nào cũng đều tốt đẹp cả.
Xuân đến trăm hoa nở - chân như.
Bạn là những đoá hoa kia, là chim chóc hát ca, là những tinh
cầu lấp lánh, là những giòng sông tuôn chảy.
Xuân đến trăm hoa nở
Thu về mảnh trăng tròn
-bạn là mảnh trăng đó.
Hạ nồng, cơn gió mát
-bạn là cơn gió kia.
Mùa Đông tuyết theo chân
- bạn là tuyết trắng kia.
Nếu những chuyện đời vô nghĩa không còn vướng tâm
-những chuyện vô nghĩa, cái này cái nọ,
nếu chúng không vướng mắc trong tâm
và bạn an trú trong chân như,
thì bất cứ mùa nào cũng đều tốt đẹp cả.
Phương pháp của triết học là tư duy, luận lý; phương pháp của
tâm lý học là quán chiếu, vô niệm; còn tôn giáo không hề có phương pháp. Cứ ngồi
tĩnh lặng, vô tác, và cây cỏ tự nó sẽ đâm chồi.
Câu hỏi thứ ba:
Thiền có đối kháng với chính trị không?
Thiền rất đối lập với chính trị đến độ nó không bao giờ đề cập
đến chính trị. Nó chống chính trị đến độ không còn cả chống đối. Nếu bạn chống
đối có nghĩa là nó sẽ vẫn còn tác động lên bạn, và như vậy, trên một phương diện
nào đó, bạn sẽ vẫn còn liên hệ đến nó. Chống đối tức là liên quan. Khi bạn cực
kỳ chống đối cái gì, bạn càng dính dấp triệt để với nó. Đó là một cách thế liên
hệ -bạn liên hệ với cả kẻ thù của bạn, đôi khi còn hơn cả với bạn bè.
Thiền rất đối lập với chính trị đến độ nó không bao giờ đề cập
đến chính trị, nhưng nó chống chính trị. Bất kỳ tôn giáo nào để đáng được gọi
là tôn giáo, đều có khuynh hướng chống lại chính trị bởi vì tôn giáo trên cơ bản
là vô chính trị.
Chính trị là gì? Chính trị là khát vọng, là ngã chấp, là gây
hấn, là bạo động, là một cuộc phiêu lưu của bạn ngã? Làm thế nào mà một con người
tín ngưỡng lại có thể bị chính trị hoá? Làm thế nào mà một con người chính trị
lại có thể trở thành tín ngưỡng được? Y có thể làm bộ tín ngưỡng nhưng y không
bao giờ có thể là một người tín ngưỡng.
Hai chuyện này không thể nào đi đôi với nhau bởi vì để là
người tín ngưỡng, bạn phải buông bỏ khát vọng. Và một khi bạn buông bỏ khát vọng,
chính trị cũng biến mất. Để là người tín ngưỡng, bạn phải buông bỏ cái ngã, và
một khi bạn buông bỏ cái ngã, chính trị cũng biến mất theo. Một con nguời tín
ngưỡng luôn luôn phải là một người vô ngã.
Tôn giáo như thế thường là chống chính trị hay vô chính trị.
Thế nhưng những tôn giáo mà bạn thấy chung quanh mình -Ấn giáo, Hồi giáo, Cơ Đốc,
Kỳ Na giáo, Phật giáo- tất cả đều là chính trị. Chúng đã không còn là những tín
ngưỡng. Bất cứ lúc nào tôn giáo trở thành môt hệ thống tổ chức, trở nên một thiết
định, bất cứ lúc nào tôn giáo rơi vào những quyền lợi được đảm bảo trong xã hội,
trong một tầng lớp đặc biệt nào đó, trong một thực tế chính trị nào đó, lúc bấy
giờ nó sẽ không còn là một tín ngưỡng. Một vị Phật là một tín ngưỡng, nhưng Phật
giáo không phải là tín ngưỡng. Chúa Giêsu là một tín ngưỡng -đó là lý do tại
sao ngài bị những chính trị gia đóng đinh lên thánh giá -tuy nhiên những người
Cơ Đốc không phải là những con người tín ngưỡng, họ rất chính trị.
Trong một buổi tụ tập chính trị đông đảo, một cậu bé tìm
cách gạ bán bốn con chó con còn chưa mở mắt. Cuối cùng, một người đàn ông đến gần
hỏi đùa: "Những con chó con này có chính trị không hả cưng?"
"Vâng, đúng vậy, thưa ông."
"OK. Vây thì ta sẽ mua hai con."
Cũng tại địa điểm này vào tuần lễ sau có một cuộc tụ tập tôn
giáo và người ta lại thấy cậu bé kia xuất hiện tìm cách gạ bán hai con chó còn
lại. Một người đàn ông đến gần hỏi, "Này cưng, mấy con chó con này của
cưng thuộc loại gì vậy?»
«Ðây là những con chó con rất thuần thành tín ngưỡng.»
Người đàn ông mua hai con chó đầu tiên bất ngờ cũng có mặt
hôm đó, nghe được mẩu đối thoại này liền chất vấn, «Này em, có phải lần trước
em đã nói với tôi rằng những con chó mà tôi mua của em tuần rồi là chính trị
mà?»
«Vâng, thưa ngài đúng thế,» cậu bé bán chó trả lời, «Thế
nhưng những con này thì không -bởi vì bây giờ chúng đã mở mắt rồi. »
Chính trị là mù lòa. Nói rõ ra, đó là một cuộc hành trình mù
lòa của bản ngã. Người ta cứ mãi bon chen chạy đi tìm kiếm những mối manh chính
trị để tạo cho mình cái cảm giác rằng, «tôi là một cái gì đó.» Chính trị phát
xuất từ một mặc cảm tự ti. Từ nơi sâu thẳm nhất bạn mang cảm giác rằng mình chẳng
là cái gì cả, bạn sợ hãi khi cảm thấy rằng mình chỉ là một con số không. Bạn
không thể nào chấp nhận một chuyện như thế. Bạn phải phủ nhận nó với bất cứ giá
nào. Chính trị chính là chuyện chối bỏ cái không này, trong khi tôn giáo lại chấp
nhận nó một cách vui vẻ.
Hãy để tôi lập lại điều này. Chính trị là một nỗ lực nhằm chối
bỏ cái trống rỗng ở trong bạn. Dĩ nhiên bạn sẽ chẳng bao giờ thành công trong
việc này bởi vì cái tánh không này chính là cái bản thể rốt ráo của bạn, nó
không thể bị chối bỏ. Ðiều diễn giải của bạn hoàn toàn sai lầm. Cái tánh không ở
trong bạn chẳng liên hệ gì đến cái mặc cảm tự ti, chính sự lý giải của bạn đã tạo
ra cái mặc cảm này. Và cũng chính từ cái mặc cảm tự ti này bạn bắt đầu muốn
mình trở thành siêu nhân -muốn trở thành một ông thủ tướng, muốn trở thành một
ông tổng thống hoặc là một cái gì đó. Cái tâm trạng mình không là cái gì cả này
thúc đẩy bạn chạy lung tung đi tìm kiếm khắp nơi -có thể là tiền bạc, là quyền
lực, là danh vọng, là kiến thức, và ngay cả việc lẩn tránh cuộc đời; nó thúc đẩy
bạn đi tìm một cách thế nào đó để quên đi rằng bạn là không cái gì cả, để bắt đầu
cảm thấy rằng mình là một cái gì đó, rất quan trọng, rất đáng giá, rất có ý
nghĩa, rằng trái đất này sẽ rất thua thiệt nếu như không có mặt bạn.
Cái trống rỗng ở trong bạn chính là cái lực đẩy hướng đến
chính trị, thế nhưng không ai có thể thành công trong việc chối bỏ nó. Bạn có
thể tìm cách để trì hoãn nhưng rồi nó sẽ lại tự khẳng định, nó sẽ lại lên ngôi,
và rồi bất cứ lúc nào bạn nghĩ rằng bạn đã đạt đến điều gì bạn sẽ lại nhận thức
được rằng, trong thẳm sâu của bạn, nếu bạn nhìn vào bên trong, bạn chẳng bao giờ
đạt đến cái gì cả. Cái trống rỗng ở trong bạn không hề được chạm tới cho dù bạn
làm bất cứ chuyện gì, tích lũy được bất cứ cái gì, thành tựu được bất cứ chuyện
gì -nó vẫn không hề được chạm tới, cái tánh không vẫn luôn ở đó. Ðó chính là
cái khổ nạn của một người thành công. Không có gì thất bại thảm hại bằng sự
thành công. Sự thất bại không hề là thất bại như là sự thành công bởi vì trong
thất bại người ta vẫn còn hy vọng, trong thất bại bạn vẫn còn nuôi hy vọng rằng
một ngày nào đó mình sẽ thành công, thế nhưng trong thành công, tất cả các mối
hy vọng đều tan biến.
Tôi đã được nghe một câu chuyện về Tổng Thống Coolidge, một
trong những vị tổng thống vĩ đại của Hoa Kỳ. Khi nhiệm kỳ đầu tiên chấm dứt,
ông đã từ chối ra tái tranh cử mặc dù ông có rất nhiều triển vọng để đắc cử.
Ông là người rất được quần chúng ái mộ -ông là người có bản tính trầm lặng.
Thế rồi người ta đã tiếp xúc với ông và nêu câu hỏi, «Tại
sao? Tại sao ngài lại không tái tranh cử? Chắc chắn là ngài sẽ được đắc cử mà.»
Tuy nhiên ông ta vẫn khăng khăng trả lời không với đôi mắt sâu thẳm đượm buồn.
Cuối cùng có người đã cố gắng tìm hiểu lý do sâu xa tại sao ông ta cứ mãi từ chối
chuyện tái tranh cử. Ông đã trả lời, «Bởi vì tôi đã nhận chân được một điều rằng
chẳng có gì ở trong đó cả và bây giờ phải lập lại một lần thứ hai nữa thì quả
là chuyện ngu xuẩn. Tôi nhận chân một điều rằng tôi cũng chẳng được thêm cái gì
cả khi đạt được vai trò đó. Tôi vẫn là tôi.»
Một chiếc ghế làm sao có thể thay đổi được con người? Bạn có
thể ngự trên chiếc ngai vàng hay ngồi trên một chiếc ghế đẩu, có gì khác biệt
đâu -bạn vẫn là con người cũ. Chiếc ghế đâu có thể thay đổi được con người bạn?
Thế nhưng đây là cung cách mà các nhà chính trị cứ thường tìm cách lừa dối
chính mình.
Không bao giờ. Một con người tín ngưỡng không thể nào dính dấp
với chính trị. Bản chất tín ngưỡng của y là phi chính trị. Y tiếp cận đời sống
trong một cách thế hoàn toàn khác biệt. Sự khác biệt đó là gì? Ðâu là sự khác
biệt cơ bản? Sự khác biệt cơ bản là y đã không diễn giải cái trống rỗng của
mình như là một mặc cảm tự ti. Ðây là một cuộc cách mạng. Nó xảy ra vào cái
ngày mà bạn nhận thức được rằng cái trống rỗng ở trong bạn không còn là chuyện
mặc cảm tự ti, rằng cái tánh không của bạn chính là sinh thể của bạn... Đó cũng
là cách thế mà Thượng Đế hiện hữu trong bạn. Cách thế có mặt của Thượng đế là vắng
mặt -đó là cách mà Thượng Đế đã hiện hữu trong thế gian này. Thượng Đế bất bạo
động đến độ luôn ở trong tình trạng khiếm diện.
Trong tận cùng của bạn là cái hố thẳm mà bạn có cảm giác như
là một cái hố thẳm đen ngòm, thật ra nó không đen tối như thế. Nó tỏa chiếu với
ánh sáng. Hãy đi vào đó. Đó không phải là cái trống không, mà là cái bí ẩn của
toàn bộ đời sống, của vạn hữu. Đó là tất cả. Cái trống không đó chính là cách
thế mà Thượng Đế xuất hiện đối với những ai không chịu nhìn sâu vào mình. Đó là
một sự ngộ nhận.
Con người tín ngưỡng gắn bó với cái tánh không của mình. Đó
là tất cả những gì mà thiền định muốn vươn đến: gắn bó với cái tánh không của bạn.
Y an vui với nó, chúc tụng nó, ca hát và nhảy múa với nó. Y thể nhập vào nó. Bất
cứ lúc nào mà y có cơ hội, có dịp may, y nhắm nghiền đôi mắt lại, thể nhập vào
cái tánh không của mình, biến mất vào đó. Đó chính là cánh cửa của Thượng Đế. Từ
đó bạn nối liền mình với dòng thánh.
Một khi bạn đã bắt đầu an vui với cái tánh không của mình, bạn
đâu còn quan tâm gì đến chuyện chính trị?
TT Nixon đang đi dạo dọc theo bải biển San Clemente và quyết
định xuống biển lội một vòng. Ông bị những cơn sóng cuốn ra xa và sắp sửa bị chết
đuối. Ba thanh niên tình cờ đi ngang qua liền phóng xuống và cứu Nixon lên bờ.
Sau khi tỉnh lại, Nixon cảm ơn đám trẻ và nói, "Với lòng
cảm kích, tôi sẽ dùng ảnh hưởng của tôi để giúp đỡ các cậu trong khả năng của
mình. Có gì đặc biệt mà các cậu muốn không?"
"Tôi muốn được vào học trường West Point!" một
thanh niên yêu cầu.
"Tôi nghĩ là tôi có thể sắp xếp được chuyện này,"
vị cựu tổng thống hứa.
"Tôi thì thích vào trường Annapolis!" một thanh
niên khác trả lời.
"Tôi sẽ thực hiện việc này ngay," Nixon tuyên bố.
"Còn tôi thì muốn được an táng tại Nghĩa Trang Quốc Gia
Arlington." người thanh niên thứ ba yêu cầu.
"Điều yêu cầu này quả là lạ lùng," Cựu TT Nixon hỏi
tiếp, "Nhưng tại sao cậu lại muốn được an táng tại Nghĩa Trang Quốc Gia
Arlington?"
"Dà," người thanh niên trẻ nhất trong đám trả lời,
"bố tôi là một người rất tín ngưỡng và ông ta sẽ giết tôi ngay lập tức nếu
khi về nhà tôi kể cho ông ta nghe rằng tôi đã cứu ai khỏi bị chết đuối!"
Hãy nhớ một điều rằng con người chính trị luôn có mặt ở đó.
Cho đến khi nào cái ngã hoàn toàn bị liệng bỏ, nó vẫn có mặt ở đó. Cái bản ngã
chính là nhà chính trị. Nếu bạn là người vị kỷ, bạn là chính trị. Có thể là bạn
không ra ứng cử, có thể là bạn không đi tìm kiếm một quyền lực chính trị nào,
thế nhưng nếu còn cái ngã, bạn vẫn làm chính trị dưới những hình thức rất vi tế.
Có thể là bạn đang thống trị vợ hay chồng mình, có thể là bạn đang thống trị
con cái, kẻ ăn người ở. Bạn vẫn luôn thủ đoạn và không để lỡ bất cứ cơ hội nào
để thống trị.
Thế nên khi dùng hai chữ "chính trị" không phải là
tôi chỉ đề cập đến chuyện đại sự quốc gia, không phải thế, tôi muốn nói đến tất
cả mọi thứ có dính dấp đến chuyện thống trị. Cụ thể như nếu bạn muốn có nhiều
tiền hơn, bạn vẫn đang làm chính trị bởi vì muốn có nhiều tiền hơn, bạn phải
bóc lột kẻ khác. Nếu bạn muốn có nhiều quyền lực hơn, bạn phải chiến đấu. Bạn
muốn có nhiều danh vọng hơn, bạn sẽ phải tranh đua. Cái mà bạn gọi là những ông
thánh, tất cả đều là chính trị. Họ chứa đầy khát vọng. Mỗi ông thánh đều muốn
trở thành một vị đại thánh -thế nên ông ta cũng làm chính trị, ông ta sẽ phải
chiến đấu với những ông thánh khác, những người đang cạnh tranh với mình.
Con người tín ngưỡng là vô tranh thế nên đó là lý do tại sao
tôi cứ phải lập đi lập lại nhiều lần với bạn -tôi không hề cảm thấy mệt mỏi
trong chuyện này - về chuyện hành thiền, bởi vì duy chỉ có thiền định là mang đến
cho bạn niềm an lạc mà vô tranh, một niềm vui duy nhất mà khi bạn đạt đến không
làm cho ai bị mất mát điều gì. Không hề có ai là kẻ thua cuộc.
Nếu bạn có nhiều tiền hơn có nghĩa là có người sẽ phải nghèo
hơn; nếu bạn có nhiều quyền lực hơn tức là có người sẽ bị giảm mất quyền lực; nếu
Morarji trở thành thủ tướng, Indra sẽ không còn là thủ tướng nữa. Sẽ có người
thua cuộc, mất mát. Người này được tức là sẽ có kẻ khác mất.
Tuy nhiên một người tín ngưỡng sẽ không làm bất cứ điều gì
biến kẻ khác trở thành người mất mát, thua cuộc. Những chuyện bạo động, những
chuyện ghê tởm, những chuyện phi nhân. Thế thì sẽ còn lại những gì cho một người
tín ngưỡng? Y đi làm cái công việc chúc tụng sự hiện hữu của mình. Y có thể
hành thiền. Trong thiền định bạn chỉ được mà không làm ai mất. Chỉ có Thượng Ðế
là vô hạn, tất cả những thứ khác đều hữu hạn. Tiền bạc, quyền lực,... đều có giới
hạn. Nếu bạn được tức là sẽ có người mất. Chỉ có Thượng Ðế là vô cùng. Bạn muốn
có bao nhiêu cũng được. Bạn có thể có nguyên cả Thượng Ðế mà không ai bi mất
mát cái gì. Ðó là tất cả những gì tuyệt với nhất của tôn giáo -đó là niềm vui bất
bạo động và vô tranh.
Một tên ăn mày chặn một dân biểu Quốc hội trên đường phố thủ
đô Washington và hỏi xin 10 xu.
"Mười xu đâu mua được cái gì trong thời buổi này,"
nhà chính trị góp ý, "Bạn có muốn 25 xu không?"
"Không bao giờ," tên ăn mày trả lời, "với quá
nhiều bóng dáng các nhà chính trị chung quanh đây, mang nhiều tiền mặt như thế
quả là điều nguy hiểm!"
Y hoàn toàn có lý.
Và đây là một câu chuyện xảy ra ở đâu đó trong thế kỷ hai
mươi...
Người phụ trách một kênh truyền hình giáo dục trong chương
trình về khuya đã làm ngạc nhiên thính giả với lời thông báo sau đây:
Chúng tôi xin loan báo đến qúy vị một số tin vui và tin buồn.
Trước tiên là tin buồn: Người sao Hoả đã xâm chiếm địa cầu. Và sau đây là tin
vui: Chúng ngốn hết các chính trị gia và đái ra... xăng.»
Cây hỏi thứ tư:
Ichazo (1) cho rằng mức độ ý thức của nền văn hoá chúng ta,
của toàn thể xã hội, hiện đang gia tăng, rằng chúng ta không còn trên hành
trình đơn lẻ mà cả nhân loại đang bắt đầu tỉnh thức. Ông ta cũng nói rằng cái
viễn kiến không tưởng xem nhân loại như một đại gia đình bây giờ là một thực tế
cần yếu.
Đây là cách mà chính trị đã xâm nhập vào tôn giáo như thế
nào. Và điều này cũng chẳng có gì mới mẻ. Trải qua bao thời đại đã không thiếu
gì những người lập đi lập lại câu nói này. Đây cũng là cách mà chủ nghĩa phát
xít xâm nhập vào tôn giáo. Đây cũng là điều mà Friedrick Nietzsche phát biểu và
trở thành người tiên khởi cuả Adolf Hitler và chủ thuyết của ông ta. Nietzsche
đã nói rằng bây giờ nhân loại đã đến một thời điểm bắt đầu bước vào một kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên siêu nhân loại, kỷ nguyên của những siêu nhân.
Đây cũng là những gì mà Sri Aurobindo (2) đã từng nói tại Ấn
Độ -ông ta trên cơ bản là một nhà chính trị và vẫn là nhà chính trị cho đến cuối
đời. Ông ta cũng đã từng nói rằng bây giờ chúng ta đã đến một thời điểm mà một
nỗ lực tập thể chứ không phải cá nhân đã trở nên cần thiết.
Hãy nhớ rằng những ý tưởng về nỗ lực tập thể rất là nguy hiểm.
Đó là cách thế mà chính trị đã xâm nhập vào tôn giáo như. Tôn giáo là hoàn toàn
cá thể và vẫn luôn là cá thể. Chỉ cá nhân mới có thể đi vào thiền định. Khi bạn
hành thiền, bạn biến mất ra khỏi cái cộng đồng thế giới. Cụ thể như nếu bạn bắt
đầu hành thiền ở đây với năm trăm người tham dự, bạn có thể bắt đầu với năm
trăm người, nhưng một khi bạn nhập thiền, bạn chỉ còn lại một mình. Bốn trăm
chín mươi chín người kia không còn có mặt. Thiền định là một chuyển động cực kỳ
đơn độc. Nó chẳng dính dấp gì đến tập thể. Bạn có thể hành thiền cùng nhau
nhưng khi nhập thiền bạn chỉ một mình.
Có ba từ ngữ cần phải được thông suốt: tập thể, cá thể, và
phổ quát. Ichazo đã tỏ ra rất mơ hồ giữa hai khái niệm tập thể và phổ quát. Cá
thể đứng ở chặng giữa, thấp ở dưới là tập thể và cao hơn là phổ quát. Nếu cá thể
trở thành một thành phần của tập thể, y đã đánh mất một cái gì đó, y không còn
có ý thức như lúc trước, y không còn tỉnh táo. Ðó là lý do tại sao trong đám
đông bạn không còn gánh chịu trách nhiệm như là khi bạn đang ở một mình. Ðám
đông có thể gây ra những chuyện đại ác. Trong đám đông bạn cảm thấy mình không
có trách nhiệm. Tập thể thấp kém hơn cá thể là thế -tất cả những tội ác lớn lao
nhất trong lịch sử đều có thể được quy trách cho tập thể. Cá thể vẫn luôn tốt đẹp
hơn tập thể.
Bạn chứng kiến một đám đông hỗn loạn đang đốt phá một đền thờ
Ấn giáo hay một thánh đường Hồi giáo. Nếu bạn lôi từng cá nhân trong đám đông
này ra và chất vấn, y sẽ nói rằng, «Thực tình tôi không muốn làm chuyện như vậy,
nhưng những người khác đang làm chuyện này và tôi có mặt ở đó thế là tôi cũng
làm theo.» Sẽ không có một người Hồi giáo nào có thể nói bằng một lương tâm
thanh thản rằng mình đã làm được một việc lớn lao, một công tác trọng đại, một
hành động tín ngưỡng khi đốt phá một đền thờ Ấn giáo. Cũng sẽ không có một người
Ấn giáo nào nói rằng họ làm một chuyện đại sự khi giết môt người Hồi giáo hay đốt
phá một thánh đường. Thế nhưng y sẽ nói như vậy một khi đã chìm ngập vào cái
đám đông này.
Bạn cũng có thể đã cảm nhận được điều đó. Trong đám đông bạn
biến thành nhỏ bé hơn lúc bình thường. Trong đám đông bạn trở nên hèn hạ hơn,
thấp kém hơn; bạn súc vật hơn là con người. Tập thể là một bầy súc vật, cá thể
mới là con người, và phổ quát là thánh thiện. Khi một người nhập thiền, y không
còn là một bộ phận của tập thể, y tan biến chan hòa vào trong phổ quát, vượt
lên trên khỏi cá thể của mình.
Tuy nhiên những chính trị gia thì không ngừng nói đến chuyện
tập thể. Họ rất thích thú trong việc làm thay đổi xã hội -bởi vì với việc thay
đổi xã hội, với những nỗ lực làm đổi thay cấu trúc xã hội thế này thế nọ, họ trở
nên có quyền lực. Xã hội không bao giờ thay đổi. Nó vẫn luôn y như cũ -cũng vẫn
những gì thối rửa đó. Và nó sẽ vẫn mãi hoài như thế trừ phi nó hiểu được rằng tất
cả ý thức giác ngộ chỉ xảy ra trong mỗi cá nhân. Và khi điều đó xảy ra, cá thể
trở thành phổ quát. Nếu nó xảy ra cho nhiều cá nhân lúc đó xã hội sẽ được thay
đổi -nhưng đó không phải như là một sự kiện xã hội có tính tập thể.
Hãy để tôi giải thích điều này rõ ràng hơn với bạn. Có năm
trăm người hiện đang hiện diện ở đây. Không thể nào có chuyện cả năm trăm người
này được thay đổi như một đơn vị tập thể, không bao giờ. Bạn không thể nào biến
thành thánh thiện như một đơn vị tập thể, không bao giờ. Linh hồn của bạn là cá
thể, tâm thức của bạn là cá thể.
Tuy nhiên nếu ba trăm trong số năm trăm người này được chuyển
hoá thì lúc đó cả tập thể này sẽ mang một phẩm chất mới. Nhưng ba trăm người
này sẽ phải tự mình trải qua những biến chuyển cá nhân, thông qua những biến đổi
cá nhân. Lúc đó cả tập thể này sẽ có một trình độ tâm thức cao hơn bởi vì ba
trăm người này đã chan hòa tâm thức của họ vào tập thể, họ có mặt ở trong đó.
Khi một người giác ngộ thành một vị Phật, cả vạn hữu đều trở nên tỉnh giác hơn
-chỉ với sự hiện diện của vị Phật. Ngay cả nếu ông ta chỉ là một giọt nước
trong đại dương, thì cái đại dương đó, tối thiểu cũng sẽ tỉnh thức hơn, giác ngộ
hơn. Khi cái giọt nước đó tan biến vào trong đại dương, nó sẽ nâng cao cái phẩm
chất của cả đại dương này. Mỗi cá nhân được chuyển hoá sẽ làm đổi thay xã hội.
Khi càng có nhiều cá nhân được chuyển hoá, xã hội cũng sẽ được biến cải theo.
Ðây là con đường duy nhất để thay đổi xã hội, ngoài ra không còn một con đường
nào khác. Bạn không thể nào làm thay đổi được xã hội này. Nếu bạn muốn thay đổi
nó một cách trực tiếp, những nỗ lực đó tức là chính trị.
Ichazo chắc là đã dính vào chính trị. Chuyện thường xảy ra
như thế. Khi bạn trở thành một nhân vật thế lực trong tôn giáo, khi bạn bắt đầu
dẫn dắt nhiều người, khi bạn trở thành một nhà lãnh đạo, lúc đó những ý tưởng lớn
lao bắt đầu khởi dậy ở trong tâm. Cái tâm sẽ bảo rằng bây giờ cả nhân loại này
có thể được biến đổi, bây giờ chúng ta nên hoạch định cho một sự thay đổi lớn
lao. Thế rồi tham lam trổi dậy, tham vọng trổi dậy, bản ngã lên ngôi.
Ðừng bao giờ trở thành một nạn nhân của ý niệm về tập thể; tập
thể ở vị trí thấp kém hơn bạn. Bạn phải trở thành phổ quát. Phổ quát không phải
là xã hội, phổ quát là hiện sinh. Bạn phải hoà điệu cùng với vạn hữu, bắt nhịp
cùng với khúc luân vũ của cả vũ trụ này -không phải chỉ với xã hội, không phải
chỉ với một cộng đồng nhỏ bé hay giáo phái của mình, không phải chỉ với người
Cơ Ðốc, Ấn giáo hay Hồi giáo, cũng không phải chỉ với trái đất này, với Ðông
phương, Tây phương, với thế kỷ. Bạn phải bắt nhịp với cả nguyên khối, với vạn hữu.
Nhưng đây là mức độ cao hơn đối với cá nhân. Cái đám đông vẫn
luôn là một cạm bẫy. Cái đám đông bát nháo vẫn luôn có mặt ở đó để kéo bạn nhập
bọn. Ðiều này cũng xảy ra với cái gọi là những người tín ngưỡng. Tuy nhiên
Ichazo, đối với tôi, thực ra không phải là con người tôn giáo. Ông ta chỉ thu
nhặt một số kỹ thuật ở chỗ này chỗ khác, và chiết trung lại. Của Gurdjieff, của
Sufis. Ông ta là một chuyên viên. Ông ta biết kỹ thuật nhưng không biết mục
tiêu và ngay cả chính ông ta cũng chưa hề giác ngộ. Tuy nhiên ông ta là một
chuyên viên rất lành nghề, thiện xảo. Phong trào của ông ta, Arica, có thể biến
thành một phong trào phát xít bất cứ lúc nào. Nó tạo nên một kiểu cách phát xít
trong hàng ngũ môn đệ.
Tôi biết hiện có một vài người đó ở đây -những người cựu
Arica. Phương cách của những người Arica rất là chính trị. Chỉ mới một vài
tháng trước đây, Amida -một nhân vật rất thân cận với Ichazo trong bao nhiêu
năm- nhận được một lá thư thông báo rằng bà ta đã bị trục xuất ra khỏi Arica.
Trục xuất, trên căn bản là một hành động chính trị. Làm sao bạn trục xuất được?
Thế nào gọi là trục xuất? Ðây là chuyện độc quyền. Bà ta đã đến với tôi và thế
là bà ta bị trục xuất ra khỏi Arica. Bây giờ sách và băng của tôi bị cấm phổ biến
ở đó. Không có một người Arica nào được phép đọc sách của tôi. Thật là một chuyện
hoàn toàn chính trị. Nó vô nghĩa làm sao! Ðây là chuyện độc quyền, chuyện chiếm
hữu. Ðây là cách thế mà chính trị đi vào con người.
Tâm tôn giáo là một cái tâm rộng mở. Bạn phải thấy, bạn phải
lắng nghe, phải học hỏi từ mọi người. Bạn không nên khép kín. Hiện hữu với một
vị Thầy thực sự giác ngộ bạn sẽ mở rộng tâm mình ra với vạn hữu, hoàn toàn rộng
mở. Bạn cũng mở rộng ra cả với Qủy Sa tăng nếu y tìm cách đến để dạy bạn điều
gì. Bạn sẽ được khai mở, sẽ được học hỏi và sẽ tin cậy vào chính mình. Không có
gì để phải sợ hãi bởi vì đâu có ai hiểu bạn bằng chính bạn -nó không hề lừa dối
bạn.
Những người này đã lo sợ rằng các con chiên của mình có thể
sẽ bỏ đàn, sẽ cuốn gói theo người khác, và như vậy, trên cơ bản họ đã thực sự
hoài nghi chủ thuyết của chính mình. Họ không hề tin tưởng vào chủ thuyết của họ.
Họ biết rằng ở một nơi nào khác có thể có điều gì tốt đẹp hơn, có người có
trình độ phẩm cách cao hơn, và rồi người ta sẽ từ bỏ mình để tìm đến đó. Mối lo
sợ của họ là lo sợ bị mất tín đồ, thế nên họ đã dựng lên những bức Vạn Lý Trường
Thành chung quanh mình.
Không, chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra đối với một con
người tôn giáo thực sự. Y cho bạn tình yêu thương, sinh thể, trí tuệ của y, và
để cho bạn hoàn toàn tự do. Như thế bạn cứ việc tìm cầu học hỏi và mỗi lần học
hỏi sẽ càng chứng tỏ rằng vị Thầy của bạn là đúng. Ðó là sự tin cậy. Bạn có thể
đi đến bất cứ nơi đâu, ngay cả đến với những người đang chống lại tôi và lắng
nghe, nếu tôi đúng, khi lắng nghe họ sẽ càng minh chứng rằng tôi đúng. Chẳng có
gì mất mát cả, ngược lại bạn sẽ càng trở nên phong phú hơn.
Sự tin cậy không đặt căn bản trên sợ hãi, tình thương yêu
không đặt căn bản trên sợ hãi. Thế nhưng ở đây ta thấy chẳng hề có yêu thương,
chẳng hề có tin cậy, chỉ có nỗi sợ hãi -một mối lo sợ đã được tạo ra, rằng, nếu
bạn đi đến nơi khác, bạn sẽ bị trục xuất. Và rồi người ta sợ hãi về những chuyện
đại loại như thế. Phải chăng đây là cái đảng cộng sản hay gì đó? Trục xuất? Con
người thường rất lo sợ bị trục xuất bởi vì họ muốn mình thuộc về một phe nhóm,
bởi vì họ không có cái hồn riêng. Ở trong một phe nhóm họ cảm thấy thoải mái, họ
thấy mình thuộc về một cộng đồng nào đó -một thiểu số được lựa chọn, là bộ phận
ưu tú, là những sứ giả của một thế giới mới đang hình thành, những nhà lãnh đạo
của thế giới tương lai, những siêu nhân, giòng giống đầu tiên của những siêu
nhân... Thế là họ cảm thấy vô cùng thoải mái.
Nhưng những cảm giác này chỉ đến với bạn khi bạn còn ở trong
nhóm; khi còn lại một mình bạn sẽ không dấu được nỗi nghi ngờ. Và khi còn ở
trong nhóm bạn không cảm thấy mình có trách nhiệm. Tổ chức đã lấy nó ra khỏi bạn,
đã chu toàn cho bạn, bạn hoàn toàn thư giãn.
Bạn đã được nuôi dưỡng trong một bầu khí lệ thuộc như thế. Ðầu
tiên bạn lệ thuộc vào cha mẹ, lớn lên bạn lệ thuộc vào gia đình của chính mình
-vào chồng, vào vợ- rồi thì lệ thuộc vào con cái. Bạn luôn sống một cuộc sống đầy
lệ thuộc -vào xã hội, vào quốc gia, vào nhà thờ, vào gia đình, xã hội, cộng đồng.
Một đời sống của loại cây chùm gởi.
Thế rồi khi bạn tìm đến một vị Thầy bạn cũng muốn có ai đó để
núp bóng. Tuy nhiên một vị Thầy thực sự sẽ không bao giờ giúp bạn dựa vào ông
ta, một vị Thầy thực sự sẽ cố gắng tìm cách làm cho bạn trở thành độc lập. Toàn
bộ nỗ lực của ông ta sẽ là tạo điều kiện để cho bạn có thể đứng vững trên đôi
chân mình, bạn trở thành chính bạn. Ðó là những gì mà Thiền gia đang làm.
Tôi mới đọc một câu chuyện vào ngày hôm kia...
Có một người trẻ tuổi đã không ngừng tìm đến Huệ Năng để cầu
đạo. Ngài Huệ Năng nổi tiếng là rất thô lỗ. Chỉ có những vị Thiền sư mới thường
thô lỗ như thế. Tại sao? Bởi vì nếu họ thực sự muốn bạn trở thành độc lập, họ
thường đối xử rất mực thô bạo với bạn. Ngài Huệ Năng cũng thế. Ông ta tát vào mặt
người thanh niên, ông ta đóng sầm cửa lại, ông ta la hét mắng chữi -và có một lần
ông ta liệng người thanh niên ra khỏi cửa sổ, y rơi khoảng mười lăm bộ và rớt
xuống một đường mương. Chưa thôi, ngài Huệ Năng còn mở cửa sổ nhìn theo và cười
lớn tiếng.
Thế là người thanh niên dứt khoát bỏ đi. Ðây là giọt nước
sau cùng của chiếc ly đầy. Thế là quá đủ. Y bỏ đi ngay tức khắc, và đã không trở
lại cho đến một năm sau. Y tìm đến những vị Thiền sư khác, học được rất nhiều
điều, rồi lại vân du đi khắp nơi, cuối cùng vào một ngày, trong lúc ngồi tĩnh tọa
trong một hang động, y đạt đến giác ngộ -hoát nhiên đạt ngộ. Và rồi bạn biết
chuyện gì xảy ra không? Y hối hả quay trở về tìm kiếm Huệ Năng để cảm tạ ngài.
Cái ngày mà y hoát nhiên đạt ngộ, y biết là mình đang ở trong một trạng huống
giống y như đã được tạo ra vào ngày mà y bị ngài Huệ Năng liệng xuống đường
mương. Lần đó y đã để lỡ mất cơ hội.
Tuy nhiên bây giờ y biết được bởi vì bây giờ y đã đạt tới điểm
đó, y đã đạt đến cái trạng huống nội tâm đó. Ngay khoảnh khắc trước khi đạt ngộ,
y đã ngạc nhiên khi thấy rằng trạng huống nội tâm của mình lúc này hoàn toàn giống
với lúc mà ngài Huệ Năng đã cố tình tạo ra khi liệng y ra khỏi cửa sổ và nhìn
xuống cả cười. Và y đã lỡ mất dịp này! Ðó là một con người thật đại từ bi.
Y chạy vội đến Huệ Năng, sờ vào chân ông ta, và thốt lên lời
biết ơn, «Bạch Thầy, cảm ơn Thầy. Cảm ơn về những đối xử thô lỗ với con. Cảm ơn
về chuyện Thầy đã không dạy dỗ điều gì ngoài việc đánh mắng con. Cảm ơn tất cả
những gì mà Thầy đã làm cho con.»
Một vị Thầy thực sự luôn luôn mong muốn cho đệ tử của mình
trở thành những vị Thầy thực sự. Thế nhưng thông thường bạn không muốn tự mình
độc lập, bạn muốn có ai đó để tựa vào. Bạn là một tên bám víu. Bạn muốn có một
ai đó đầy quyền năng ngự ở trên ngai cao và phán cùng bạn, « Ðừng lo lắng nữa.
Ta sẽ lo hết mọi chuyện. Ngươi hãy quên hết tất cả mọi việc. Ta có mặt ở đây sẽ
giải quyết tất cả. Ngươi chỉ đến đây và đi theo ta, đơn giản như thế. » Tuy
nhiên nếu quả thật có những người như thế -đầy quyền năng, có thể gánh hết
trách nhiệm của kẻ khác- thì bạn nhớ cho rằng đây là một dấu hiệu chắc chắn là
chính bản thân ông ta chỉ muốn cho người khác lệ thuộc vào mình. Và chính ông
ta cũng lại nương tựa vào những người đang nương tựa vào ông ta. Bản thân y
cũng vẫn là một kẻ lệ thuộc, hãy nhớ như vậy; y cũng chẳng khác hơn gì bạn. Ðây
cũng chỉ là một cuộc hành trình giống nhau xuất phát từ phía đối diện. Nếu tất
cả các bạn lìa bỏ y, y cũng sẽ khổ đau như chính bạn khổ đau. Ðôi khi y còn đau
đớn hơn bạn nữa vì y đã đầu tư vào đó quá nhiều. Nếu bạn lìa bỏ một người như
Ichazo, nếu tất cả những môn đệ của ông ta biến mất, có thể ông ta sẽ phát
khùng hay tự tử mất. Ông ta sẽ vô cùng rúng động, run rẩy, sẽ không biết điều
gì đã xảy ra, sẽ mất hết tất cả lòng tự tin. Tất cả những niềm tự tin mà ông ta
có được là khi ông ta nhìn vào mắt bạn và thấy rằng bạn đang hướng vọng đến ông
ta, cảm nhận rằng ông ta ở một vị trí cao hơn, ông ta là chân lý, ông ta là bậc
Thầy. Khi ông ta thấy được đôi mắt hướng vọng của bạn, những phản chiếu ở trong
đó, niềm tin của ông ta được củng cố. Vâng. Sự thực là như thế. Ðây chỉ là một
sự đồng lõa trong dối gạt.
Cách tiếp cận của tôi tuyệt đối là phi chính trị, trên căn bản
hoàn toàn cá nhân. Và đó cũng chính là cách tiếp cận của tôn giáo. Tôn giáo vẫn
luôn là chuyện của từng cá thể, nó không bao giờ trở thành một hiện tượng tập
thể, không thể như thế. Chính trị thì khác, nó sẽ luôn là chuyện tập thể, và sẽ
không bao giờ trở thành cá thể.
Chính trị là tập thể, tôn giáo là cá thể, và tâm linh là phổ
quát. Hãy nhớ như vậy.
Câu hỏi thứ năm:
Tại sao lại không thể có một tôn giáo duy nhất cho toàn
thể nhân loại?
Bởi vì con người luôn khùng điên. Bởi vì con người luôn mê
ngủ.
Một ngày nào đó có thể chỉ có một tôn giáo duy nhất, chúng
ta có thể hy vọng như vậy -thế nhưng cái tôn giáo duy nhất này sẽ không giống
như Cơ Ðốc khi tất cả mọi người trở thành những người Cơ Ðốc, không bao giờ như
thế; nó cũng sẽ không giống như Ấn giáo, khi tất cả mọi người cải đạo thành Ấn
giáo; cái tôn giáo duy nhất này cũng sẽ không hề giống như Do Thái giáo, không
bao giờ.
Khi tôi nói rằng một tôn giáo duy nhất có nghĩa là sẽ không
có một tôn giáo như kiểu Cơ Ðốc giáo, Ấn giáo, Hồi giáo, Kỳ Na giáo hay Phật
giáo. Sẽ có một loại hình tín ngưỡng phổ biến. Có thể như thế và nên như thế.
Tuy nhiên hãy nhớ rằng, hãy lưu ý rằng -khi tôi nói một tôn giáo duy nhất không
có nghĩa là chỉ còn lại một tôn giáo, một tổ chức, tôi muốn nói đến một tôn
giáo phổ quát... một tôn giáo không mang một nhãn hiệu nào, không có một thánh
đường riêng biệt nào, không có một học thuyết hay Thánh kinh đặc thù nào, chỉ
là một loại hình tôn giáo, một cách thức quán tưởng, cầu nguyện. Chỉ như thế,
may ra.
Trong quá khứ, con người đã từng cố gắng để tạo nên một tôn
giáo duy nhất. Những người Cơ Ðốc đã nỗ lực tối đa và đã làm thiệt mạng hàng
triệu người. Hồi giáo cũng đã có những cố gắng tương tự để quy tôn giáo về một
mối. Nhưng một tôn giáo theo kiểu này đã là một hình thái chính trị. Người ta
muốn rằng tất cả mọi người đều ở chung cùng dưới một mái nhà. Thế nên khi tôi
nói một tôn giáo duy nhất, có nghĩa là sẽ không có một mái nhà nào cả. Tất cả mọi
người nên được tự do theo đuổi tín ngưỡng riêng của mình, làm những chuyện của
riêng mình. Con người vốn khác nhau. Thế nên tôi có kiểu cách cầu nguyện của
riêng tôi. Tại sao lại chỉ có một lối cầu nguyện duy nhất? Vì con người vốn
khác nhau, những nhu cầu của họ cũng khác nhau -đây chính là điểm hợp nhất.
Có thể có người thờ phượng một cái cây và sẽ có người chế diễu
về chuyện này. Họ sẽ cho rằng đó là chuyện ngu xuẩn, vô nghĩa -tại sao lại đi
thờ phượng một cái cây? Có thể có người thuộc khuynh hướng đa thần -với việc thờ
phượng một cái cây họ thể nhập vào Thượng Ðế, thông qua màu xanh, thông qua những
nụ hoa, thông qua tàn lá. Ðối với một nhà thẩm mỹ học, cái cây có thể là một biểu
hiện tuyệt vời của Thượng Ðế; đối với người không có óc thẩm mỹ, một nhà toán học
chẳng hạn, đó giống như là chuyện diễu chơi. Bạn đang làm gì vậy? Với một cái đầu
óc toán học nó chẳng có vẻ như là chuyện tín ngưỡng tí nào. Có rất nhiều những
bộ óc toán học và với họ, toán học chính là lời kinh nguyện.
Albert Einstein đã từng nói rằng, «Toán học đối với tôi là
kinh nguyện và tôi đã thể nhập vào Thượng Ðế qua ngõ Toán học,» Vâng, có thể
như thế, và ông ta ngày càng trở nên một con người tín ngưỡng. Khi cái chết gần
kề ông ta đã trở nên một người tín ngưỡng thuần thành; thực ra, ngay trước phút
lâm chung, hầu như ông đã trở thành một vị thánh. Ðiều đáng nói là ông không hề
đến một nhà thờ nào, không bao giờ tin vào những Bible, Koran hay Upanishads.
Những Koran, Bible, Upanishads của Einstein là vũ trụ, không gian, thời gian,
những tinh cầu và tất cả những gì vượt khỏi những tinh cầu này.
Ði sâu vào những bí mật này, liên tục không mỏi mệt, ông đã
trở thành một vị thánh. Ông bắt đầu cảm nhận được cái hiện hữu của vô ảnh, vô
hình; cái diễn tả được đã không còn ý nghĩa, cái không diễn tả được, không nói
ra được ngày càng trở nên có ý nghĩa hơn. Cái nhìn thấy được đã biến mất, cái
không thể thấy được bằng mắt thường hiện ra. Ông ta trở thành một thánh nhân.
Tâm thức của một vài người có thể chuyển khoa học thành tôn
giáo nhưng với một số người khác thì khoa học là loại rất khó nuốt, toán học chẳng
hạn, đối với họ quả thật rắc rối -thi ca may ra có thể là tôn giáo của họ. Con
người không hề giống nhau.
Thế nên khi tôi nói chỉ một tôn giáo không có nghĩa là sẽ chỉ
có một lời kinh nguyện chung và mọi người sẽ cầu nguyện trong một cách thế giống
nhau, những tiếng kinh cầu sẽ được rập khuôn như nhau, không phải như thế. Khi
tôi nói rằng có thể chỉ có một tôn giáo duy nhất, tôi muốn nói đến chuyện tín
ngưỡng -có người sẽ cầu nguyện trước một hình tượng, có người không cần hình tượng,
có người cầu nguyện trước một cái cây, có người cúi mình xuống trước một dòng
sông, có người cầu nguyện thông qua khoá lễ, có người đi vào chốn núi non và biến
mất vào trong chốn hoang dã, thế nhưng tất cả họ đều cầu nguyện. Và tất cả phẩm
chất của sự nguyện cầu đều giống nhau; không nhất thiết là bạn nguyện cầu trước
một bức tượng, trước một cái cây, hay trong căn phòng trống. Sẽ không có vấn đề
bởi vì sự cầu nguyện không dính dấp gì đến một vật thể hình tượng. Vật thể chỉ
là một cái cớ.
Có người sẽ cầu nguyện bằng tiếng Tàu, có người sẽ cầu nguyện
bằng tiếng Đức, tiếng Anh -ngôn ngữ cũng không thành vấn đề. Có người có thể
yêu thích những lời của Chúa Giêsu và dùng đó làm lời kinh nguyện, cũng có người
có thể thích những lời của Mohammed. Mọi người dều có những yêu thích khác
nhau... nhưng đều chỉ có thể có một tín ngưỡng duy nhất.
Bây giờ đã có đến khoảng ba trăm tôn giáo trên hoàn cầu và
ba trăm tôn giáo này, tất cả đều chống lại cái tôn giáo mà tôi vừa nói đến. Đây
là những kẻ thù thực sự.
Một người bất ngờ phải kẹt lại ở một thành phố nọ vào hôm Chủ
Nhật, y bắt đầu đi ra phố để dự khoá lễ tại một nhà thờ thuộc truyền thống tín
ngưỡng của mình. Nhưng bị lạc đường và khi trông thấy một ngôi nhà thờ ở bên
kia đường đang mở cửa, y vội bước vào và quên nhìn cả dấu hiệu của ngôi nhà thờ
này thuộc về phái nào. Khi khoá lễ diễn tiến đến một lúc mà tình cảm tôn giáo
trở nên nồng đượm hơn, không dằn được, y thốt lên, "Cầu nguyện Thượng Đế!"
Ngay lập tức một trong những người hướng dẫn gõ vào vai y nhắc nhở, "Thưa
ngài, không thể làm điều đó ở đây."
Y chỉ nói một câu rất đơn giản, "Cầu nguyện Thượng Đế!"
Thế nhưng có thể đó không phải là cách thức của nhà thờ này. Và người hướng dẫn
nhắc nhở, "Thưa ngài, không thể làm như vậy ở đây." Bạn có thấy chuyện
khôi hài chưa? Cầu nguyện Thượng Đế lại không được phép thể hiện tại nhà thờ?
Con người không hề giống nhau. Có người cầu nguyện bằng cách
nhảy múa và cũng có người có thể chỉ muốn ngồi lặng yên và không làm gì cả. Tất
cả đều nên được tôn trọng. Trong thế giới của một tôn giáo, với một tín ngưỡng
chan hoà khắp nhân loại, tất cả đều được tôn trọng như nhau. Không có vấn nạn
gì cả. Nếu bạn đang đọc kinh Koran và cảm thấy thích thú hứng khởi, cứ việc vui
thú, hoà điệu với thực tại này. Một số người khác có thể có cùng một cảm giác
như vậy thông qua Thánh Kinh, thông qua "Bài Giảng ở trên Núi". Có gì
sai lầm đâu? Cũng có thể có những người khác đạt đến sự phấn khích khi nhảy múa
hát ca bài hát của Meera (3). Ðâu có gì sai trái?
Thế nhưng ba trăm cái được gọi là tôn giáo này mà trên căn bản
thực ra là những tổ chức chính trị lại đang kình chống lẫn nhau.
Một bà Công giáo rất thuần thành trở về từ phố chính New
York trông có vẻ nhếch nhác và rối trí.
Một bà bạn Công giáo khác liền hỏi, "Có chuyện gì xảy
ra với bồ vậy?"
"Tôi vừa mới ở khu phố Garment vào lúc mà những người
Tin Lành đang tụ tập tại đây. Cái đám bát nháo này thật là đông và vô trật tự.
Bất thình lình hai thằng khốn nạn chụp lấy tôi và kéo vào ngỏ hẽm. Chúng xé quần
áo tôi ra và hiếp tôi. Thật là kinh khủng."
"Thế bà có la lên không?" Một người khác hỏi.
"Cái gì? Làm như vậy để bọn Tin Lành tưởng là tôi đang
la lên ủng hộ chúng hả?"
Ðây là những gì đang thực sự xảy ra. Con người đang kình chống
lẫn nhau về mặt tín ngưỡng. Ðiều này cho ta thấy rằng họ chẳng hiểu gì hết về
tôn giáo, nếu không tại sao họ lại có thể kình chống nhau về chuyện tín ngưỡng?
Ðây cũng chỉ là những kiểu cách của bản ngã.
Con người không hề giống nhau. Họ khác nhau về đủ mọi thứ
chuyện. Họ khác nhau về những gì yêu thích, họ cũng sẽ khác nhau về cầu nguyện,
về cung cách ứng xử, giao tiếp, một cách đơn giản là họ hoàn toàn khác nhau.
Ðây là một điều tốt. Thế giới phong phú đa dạng hơn bởi vì con người không ai
giống ai. Ðiều này phải được chấp nhận. Thế giới có thể chỉ có một tôn giáo,
nhưng không phải như là một tổ chức, một khuôn mẫu, mà là một bầu khí chan hoà
tín ngưỡng.
Câu hỏi thứ sáu:
Bhagwan, Tôi lại cứ quên hết những gì ông đã nói. Tôi phải
làm gì bây giờ?
Ðúng ra là phải nên như vậy, chính xác là như vậy. Ai bảo bạn
phải ghi nhớ những gì tôi nói? Bạn phải quên đi những lời nói của tôi; bạn phải
nhớ cái ý, chứ không phải lời. Mà cái ý cũng không cần phải nhớ, nó phải được thấu
hiểu.
Nếu bạn lắng nghe tôi một cách đúng đắn bạn không cần phải
ghi nhớ những gì tôi nói ra. Mà thực ra, nếu bạn chỉ cố gắng để nhớ lời, bạn sẽ
đánh mất toàn bộ trọng điểm. Thế rồi lời còn mà ý mất. Hãy quên hết lời đi nếu
không nó sẽ trở thành gánh nặng cho bạn và rồi bạn sẽ lạc lối.
Bạn chỉ cần cố gắng để lãnh hội. Khi tôi nói "cố gắng để
lãnh hội" có nghĩa là hãy lắng nghe một cách yên lặng, thụ động và tỉnh thức.
Ðừng phán đoán, tranh luận hay đi đến quyết định cho dù tôi đang nói điều gì đó
đúng hay sai. Chỉ lắng nghe một cách yên lặng. Nếu bạn trở nên quá lo lắng về
chuyện đúng sai của những gì tôi đang nói ra, tức là bạn chẳng hề lắng nghe.
Tôi cũng không hề bảo rằng bạn phải tin tưởng vào những gì tôi đang nói ra,
không bao giờ. Chỉ việc lắng nghe. Và đấy là sự tuyệt vời của lắng nghe thuần
khiết -nếu bạn có thể lắng nghe một cách đơn thuần, những gì là chân lý sẽ lắng
sâu vào lòng bạn và những gì sai lạc sẽ bị loại bỏ. Không có gì để bạn phải lo
lắng chuyện này. Trái tim của bạn sẽ nhận ra một cách hầu như tự nhiên. Chẳng
khác gì khi bạn đang được tiếp huyết, máu của bạn sẽ khước từ nếu như không
cùng chung một loại máu. Nó cần một loại máu nào đó, một số lượng tương xứng
nào đó. Nếu bạn đang được giải phẫu và cần phải vá da, không phải da của bất cứ
người nào cũng dùng được. Cơ thể của bạn sẽ không chấp nhận, nó biết rất rõ. Nó
sẽ chỉ chấp nhận da của chính bạn được lấy ra từ một nơi nào đó trên cơ thể.
Vấn đề là như thế. Chân lý là thực phẩm của tâm hồn. Khi
nghe được chân lý, trái tim sẽ chấp nhận nó một cách tự nhiên. Ðây không phải
là vấn đề quyết định đúng hay sai -đây là cung cách của tâm. Cái tâm cứ không
ngừng lo lắng về chuyện đúng sai, và do sự lo lắng này, nó không hề lắng nghe.
Cái tâm đã bị điếc. Nó giả vờ lắng nghe nhưng thực ra không bao giờ. Bây giờ bạn
chỉ việc để tâm thức của bạn qua một bên và hãy để trái tim bạn lắng nghe tôi,
chan hoà cùng tôi, hoà điệu cùng tôi. Và rồi cái gì là chân lý nó sẽ tự động trở
về nhà -trái tim. Nếu không phải là chân lý, bạn cũng không cần phải lo lắng,
nó sẽ tự động biến mất.
Bạn không cần phải lo lắng về những lời tôi nói. Hãy lo lắng
về tôi, không phải về lời. Tôi không đề xuất ra một triết thuyết ở đây, mà một
cách đơn giản, tôi dâng hiến chính tôi cho bạn.
Có một câu nói khá nổi tiếng của Trang Tử -chắc là ông ta đã
nói ra để trả lời một câu hỏi tương tự như câu hỏi này.
Cái lưới để bắt cá.
Ðược cá hãy quên lưới.
Cái bẩy để bắt thỏ.
Ðược thỏ hãy quên bẩy.
Câu hỏi thứ bảy:
Tôi thực hiện năm thiền khoá mỗi ngày một cách thường
xuyên trong ba năm và vì vậy tôi đã không làm điều gì khác được. Tôi cảm thấy rất
hạnh phúc, nhưng gia đình của tôi rất lo lắng. Tôi phải làm gì bây giờ?
Thế là quá độ rồi đó, thưa ngài. Bạn chỉ cần chọn một thời
khoá thôi. Một là đủ rồi. Năm là quá mức. Dĩ nhiên bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc bởi
vì bạn không có việc gì khác để làm. Nhưng nếu gia đình trở nên lo lắng thì đó
cũng là điều tự nhiên, và họ có lý khi lo lắng.
Một ông trại chủ lớn ở Yorkshire có việc cần phải đi London
trong vài tháng và quyết định chọn một trong những người làm công giỏi nhất của
mình chịu trách nhiệm về công việc của trang trại. «Ta muốn ngươi săn sóc hết tất
cả mọi chuyện, Harry, như chính ta đang có mặt ở đây vậy. Hiểu không? » Harry gật
đầu.
Bốn tháng sau ông chủ trở về và thấy mọi chuyện đều rất ổn cố.
Harry chỉ hết mọi thứ và giải thích, «Ông chủ thấy không, mọi chuyện đâu vào đó
cả. Bầy gà đẻ rất nhiều trứng, cánh đồng luá mì nay đã lớn gấp đôi, rau cải bây
giờ tốt tươi hơn trước nhiều, và ngay cả kinh nguyệt của vợ ông, tôi cũng đã
cho nó ngưng luôn. »
Như vậy là quá mức. Như vậy là đi quá xa.
Xin bạn làm ơn nên hành một khoá thiền thôi. Ðây có thể là
chuyện khó khăn, tôi biết vậy, sau khi bạn đã trải qua ba năm. Có lẽ bạn nên hỏi
tôi trước. Sẽ là một chuyện khó khăn khi quay trở lại đời thường và làm việc,
đó sẽ là chuyện tương đối nặng nề đối với bạn, nhưng phải làm như thế. Ở đây
tôi không dạy bạn chủ nghĩa thoát ly -đây là một hình thức trốn chạy đời sống
vì bạn đã không còn làm bất cứ việc nào khác.
Bạn đã quẳng bỏ tất cả những trách nhiệm của bạn, và tôi
không hề ủng hộ chuyện này. Những trách nhiệm đó bạn phải hoàn thành -hoàn
thành trong niềm vui lớn lao. Những vợ dại, con thơ, cha già, mẹ yếu đều rất cần
bạn. Ðó là tất cả những gì mà Thượng Ðế đã đặt lên vai bạn -một trách nhiệm nào
đó. Bạn phải hoàn thành chúng.
Tôi hoàn toàn chống lại những kẻ thoát ly chạy trốn đời sống
và trở thành kẻ hành thiền hai-mươi-bốn-giờ-trong-ngày. Tôi chống lại những người
này. Hoàn toàn chống đối. Một giờ thiền định là đủ rồi. Thiền định có một năng
lực lớn lao mà chỉ cần một giờ trong hai mươi bốn giờ là đủ. Ðủ để thắp sáng cả
cuộc đời bạn.
Và đó cũng chính là phương cách trắc nghiệm sự thành công
hay thất bại của thiền trong cuộc sống của bạn. Khi bạn hành thiền, bạn đi vào
chợ và rồi sẽ biết được là mình thành công trong thiền định hay không. Bạn có
còn tham đắm như trước đây khi bạn đi vào cửa hàng? Bạn có còn nổi giận khi ai
đó nói trái ý bạn? Người ta có còn bấm nút bạn dễ dàng như trước đây? Chợ búa
hay chợ đời chính là nơi để trắc nghiệm tất cả những công phu hành thiền của bạn.
Nếu bạn chỉ hành thiền thôi mà không chịu làm chuyện gì khác
thì cũng chẳng khác gì bạn cứ học hành chuẩn bị mãi mà chẳng bao giờ chịu đi
thi cử. Ðây là điều sai lầm. Bạn phải đi thi -một giờ thiền, hai mươi ba giờ
còn lại là thi cử. Như vậy bạn sẽ càng ngày càng lớn mạnh thêm.
Và câu hỏi cuối cùng:
Zen là gì?
Ði tới, vượt qua. Ðúng như những gì mà Kinh Kim Cương đã
nói. Yết đế, Yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế bồ đề, tát bà ha. Gate,
gate, para gate, para samgate bodhi svaha -đi tới, đi tới cùng với toàn thể
chúng sinh, đi từ vô minh đến giác ngộ.
Ði tới, vượt qua. Ðó là Thiền.
Ðó không phải là triết lý để được thấu hiểu, đó không phải
là sự thay đổi để kinh qua. Ðó không phải là một cái gì giống như kiến thức,
ngay cả cũng không phải là sự cải tổ; đây là sự chuyển hoá, hoàn toàn thay đổi,
tuyệt đối thay đổi đến tận nguồn gốc. Là chết và phục sinh. Chết trong Thiền và
tái sanh trong Thiền.
Tiếng 'Zen' có nghĩa là dhyana -thiền định, nó bắt nguồn từ
chữ dhyana. Ðến Trung quốc nó biến thành chan -Thiền, và tại Nhật bản nó trở
thành Zen -nhưng tựu trung nó phát xuất từ ngôn từ của Phật dhyana. Zen có
nghĩa là dhyana, thiền định.
Xem tiếp Tập 2 - Quay về Mục lục
Tập 1 – Quay về Mục lục Toàn tập