Read more
Osho - Tự truyện (Cuộc đời Luận sư Osho)
Phần I. Chỉ là một hữu thể người bình thường:
Lịch sử đằng sau truyền thuyết
PV: Ông thực sự là ai?
Osho: Tôi chỉ là chính mình. Không là kẻ tiên tri, không là Messiah (Đấng cứu thế), không là Christ. Chỉ là một con người bình thường… giống y như bạn.
PV: Ồ, không phải hoàn toàn như thế !
Osho: Đúng … không hoàn toàn như thế! Bạn vẫn còn ngủ – nhưng cái đó không khác biệt bao nhiêu. Trước đây, tôi cũng đã ngủ; một ngày kia, bạn sẽ có thể tỉnh dậy. Bạn có thể tỉnh dậy ngay khoảnh khắc này, không ai ngăn cản được điều đó. Cho nên sự khác biệt cũng không có gì đáng kể.
(Từ một cuộc phỏng vấn với Robert Green, Santa Anna Register, quận Cam, California)
Xem Chương 2 -
Quay về Mục lục
Chương 1. Nhìn lại thời thơ ấu vàng son
Tôi chưa bao
giờ là người "tâm linh" theo cái nghĩa mà bạn thường hiểu. Tôi chưa
bao giờ đi lễ đền, hoặc đi nhà thờ, hoặc đọc kinh điển, hoặc theo những pháp
môn tu tập nào đó để tìm ra chân lý, hoặc phụng thờ Thượng đế, hoặc nguyện cầu
Thượng đế. Đó không phải là cách của tôi chút nào. Do vậy, chắc chắn bạn có thể
nói, rằng tôi không đang làm một cái gì "tâm linh". Nhưng đối với
tôi, tính tâm linh có một ý nghĩa hoàn toàn khác. Nó cần một cá tính trung thực.
Nó không chấp nhận bất cứ loại lệ thuộc nào. Nó tạo ra một sự tự do cho chính
mình, bất luận phải trả giá nào. Nó không bao giờ ở giữa đám đông, nhưng một
mình, bởi vì đám đông chưa bao giờ tìm thấy bất cứ chân lý nào. Chân lý đã từng
được tìm thấy chỉ trong sự cô độc của con người.
Do vậy, tính
tâm linh, theo quan niệm của tôi, có một nghĩa khác với ý tưởng của bạn về nó.
Những câu chuyện về thời thơ ấu của tôi, nếu bạn có thể hiểu chúng, sẽ trỏ vào
tất cả những phẩm chất này trong cách này hay cách khác. Không ai có thể gọi
chúng là tâm linh. Tôi gọi chúng là "tâm linh" bởi vì với tôi, chúng
đã cho con người tất cả những gì mà họ có thể hoài vọng đạt tới.
Trong khi lắng
nghe những câu chuyện tuổi thơ của tôi, bạn nên cố tìm phẩm chất nào đó – không
chỉ là câu chuyện, mà phẩm chất nội tại nào đó – nó chạy như một sợi chỉ mỏng qua suốt tất cả
những tự thuật của tôi. Và cái sợi chỉ mỏng đó là "tính tâm linh".
Tính tâm
linh, đối với tôi, chỉ đơn giản có nghĩa là phát hiện ra chính mình. Tôi không
bao giờ cho phép bất cứ ai làm công việc này thay tôi – bởi vì không ai có thể
làm công việc này thay cho bạn; bạn phải tự làm lấy cho mình.
1931 – 1939
KUCHWADA,
MADHYA PRADESH, ẤN ĐỘ
Tôi nhớ lại
ngôi làng nhỏ nơi tôi ra đời. Tại sao sự hiện hữu lại chọn ngôi làng nhỏ đó,
trước hết, thì không thể giải thích được. Nó xảy ra như nó phải thế. Đó là một
ngôi làng đẹp. Tôi đã du hành rộng khắp, nhưng tôi chưa bao giờ tình cờ gặp lại
cái vẻ đẹp ấy một lần nữa. Sự vật không bao giờ giữ nguyên như cũ. Những sự thể
đến và đi, nhưng chúng không bao giờ nguyên như cũ.
Tôi có thể
hình dung lại ngôi làng nhỏ, tĩnh mịch đó. Chỉ có vài túp lều gần một cái ao,
và một vài cây cao nơi mà tôi thường chơi đùa.
Không có trường học nào trong làng. Điều đó là hết sức quan trọng, bởi
vì tôi ở trong tình trạng gân như “vô giáo dục” trong thời gian gần 9 năm, mà
đó là những năm quan trọng nhất cho việc hình thành tính cách. Sau đó, cho dẫu
bạn cố gắng, bạn cũng không thể "được" giáo dục. Do vậy, trên một
phương diện, tôi vẫn không "được" giáo dục, mặc dù tôi có nhiều học vị
– và không chỉ là bất cứ học vị nào, mà là một bằng MA hạng nhất. Bất cứ gã
khùng nào cũng có thể làm cái đó; quá nhiều gã khùng làm việc đó hằng năm, đến
nỗi nó không còn ý nghĩa gì nữa. Cái có ý nghĩa, là trong những năm đầu tiên của
đời mình, tôi đã không "bị" giáo dục. Không có trường học, không đường
sá, không đường xe lửa, không bưu điện. Thật là một phúc lành! Cái làng nhỏ đó
tự mình là một thế giới. Ngay cả trong
nhiều lần ở xa ngôi làng đó, tôi vẫn ở trong thế giới đó, không "bị"
giáo dục.
Và tôi đã gặp
hằng triệu người, song những người dân của làng đó thì chất phác hơn bất cứ ai,
bởi vì họ rất bán khai. Họ không biết gì về thế giới. Thậm chí, cũng chưa bao
giờ có lấy một tờ nhật báo vào làng đó – bây giờ bạn có thể hiểu tại sao không
có trường học nào. Thậm chí, không có lấy một trường tiểu học – thật là một
phúc lành! Không một đứa trẻ hiện đại nào có thể có được cái "may mắn"
đó.
Trong quá khứ,
có những đứa trẻ kết hôn trước khi chúng lên mười. Đôi khi, có những đứa trẻ đã
kết hôn thậm chí khi chúng còn nằm trong bụng mẹ. Hai người bạn thường quyết định,
"Vợ chúng ta đang mang thai, vậy, nếu một người sinh con trai, và người
kia sinh con gái, thì chúng mình kết thông gia." Không hề có vấn đề hỏi ý
kiến bé trai hay bé gái; chúng chưa ra đời! Nhưng nếu một đứa là trai, và đứa
kia là gái, thì hôn sự được giải quyết. Và người ta giữ lời hứa của họ.
Chính mẹ tôi
kết hôn khi bà lên 7. Cha tôi thì mới 10
tuổi, và ông không hiểu cái gì đang xảy ra. Tôi thường hỏi ông, “Điều có ý
nghĩa nhất – mà cha khoái chí – trong
đám cưới của mình là gì?”
Ông nói, “Cưỡi
một con ngựa.” Thật là tự nhiên! Lần đầu tiên ông được ăn vận như một vị vua, với
một con dao treo lủng lẳng cạnh sườn, và ông ngồi trên một con ngựa, trong khi
mọi người đi bộ xung quanh ông. Ông khoái chí hết sức. Đó là cái mà ông khóai
nhất trong đám cưới của mình. Tuần trăng mật là điều không thể có. Bạn sẽ đưa một
cậu trai 10 tuổi và một bé gái 7 tuổi đi hưởng tuần trăng mật ở đâu? Do vậy, tại
Ấn Độ, tuần trăng mật không bao giờ có, và trong quá khứ, không nơi nào khác
trên thế giới có chuyện đó.
Khi cha tôi
10 tuổi, và mẹ tôi 7 tuổi, thì bà nội tôi mất. Sau hôn lễ, có lẽ một hay hai
năm sau đó, toàn bộ trách nhiệm đổ lên vai mẹ tôi, bà chỉ mới lên 9. Bà nội tôi
đã để lại hai đứa bé gái, và hai bé trai. Do vậy, có bốn đứa trẻ, và trách nhiệm
chăm sóc chúng đổ lên vai một bé gái 9 tuổi, và một cậu trai 12 tuổi. Ông nội
tôi không bao giờ thích sống trong thành phố, nơi mà ông có một cửa tiệm. Ông
yêu vùng quê, và khi bà nội tôi mất, ông hoàn toàn tự do. Chính phủ thường cấp
đất cho dân, bởi vì có quá nhiều đất và không có nhiều người canh tác. Do vậy,
ông tôi có 50 mẫu đất từ chính phủ, và ông chuyển nhượng toàn bộ cửa tiệm cho
con cái mình – cha tôi và mẹ tôi – lúc ấy cha tôi chỉ mới có 12 tuổi, còn mẹ
tôi thì 9 tuổi. Ông ưa thích dựng một khu vườn, xây một nông trại, và ông thích
sống ở nơi không khí thoáng đãng. Ông ghét thành phố.
Cho nên, cha
tôi không bao giờ có được bất cứ kinh nghiệm nào về tự do của những người trẻ
hôm nay. Ông không bao giờ trở nên một thanh niên trong cách đó. Trước khi ông
có thể trở nên một thanh niên, ông đã già giặn, phải chăm sóc những đứa em
trai, em gái và trông coi cửa tiệm. Và ở tuổi 20, ông đã sắp xếp việc hôn nhân
cho những đứa em gái, lo việc học hành và cưới vợ cho những đứa em trai của
mình.
Tôi chưa bao
giờ gọi mẹ tôi là "Mẹ", bởi vì trước khi tôi ra đời, bà đang chăm sóc
bốn đứa trẻ, chúng thường gọi bà là bhabhi. Bhabhi có nghĩa là "vợ của anh
trai." Và bởi vì bốn đứa trẻ đang gọi mẹ tôi là bhabhi, tôi cũng bắt đầu gọi
bà là bhabhi. Tôi đã học cái danh xưng đó ngay từ đầu, khi bốn đứa trẻ gọi bà
như vậy.
Tôi được ông
bà ngoại nuôi nấng. Hai vị ở một mình và muốn có một đứa trẻ để vui cửa vui nhà
trong những ngày cuối đời của họ. Do vậy, cha mẹ tôi đồng ý: Tôi là đứa con
trai cả, đứa con đầu lòng; tôi được gửi đến sống với ông bà ngoại.
Tôi không nhớ
bất cứ mối quan hệ nào với gia đình cha tôi trong những năm đầu tiên của thời
thơ ấu của mình. Tôi đã trải qua những năm bé dại với ông bà ngoại tôi và một
người lão bộc già – ông ta rất đẹp lão. Ba người này… và khoảng cách về tuổi
tác thì quá lớn, nên tôi hoàn toàn cô độc. Họ đều đã già, họ không phải là bè bạn,
không thể là bè bạn của tôi. Và tôi không có ai khác để làm bạn, bởi vì trong ngôi làng đó gia đình tôi là
giàu nhất; và ngôi làng thì lại quá nhỏ – tổng cộng không quá 200 người – và quá nghèo, đến nỗi ông bà tôi thường không
cho phép tôi chơi chung với lũ trẻ trong làng. Chúng bẩn thỉu, và dĩ nhiên,
chúng gần như là những đứa ăn xin. Cho nên, không cách nào để có bạn. Cái đó tạo
ra một ảnh hưởng lớn.Trong suốt đời mình, tôi chưa từng biết ai là bạn. Vâng,
tôi có những người quen biết.
Trong những
năm đầu tiên sớm sủa ấy, tôi quá cô đơn, đến mức tôi bắt đầu ưa thích nó – và nó thực sự là một niềm vui. Cho nên nó
không phải là một sự nguyền rủa đối với tôi, nó cho thấy đó là một phúc lành.
Tôi bắt đầu ưa thích nó, và tôi bắt đầu cảm thấy tự đủ; tôi không lệ thuộc vào
bất cứ ai.
Tôi chưa bao
giờ quan tâm đến những trò chơi, vì lý do đơn giản, là ngay từ thuở ấu thơ,
không có cách nào để chơi; không có ai để chơi cùng. Tôi vẫn có thể hình dung
chính tôi trong những năm thơ ấu đó: chỉ ngồi một mình. Ngôi nhà tọa lạc tại một
địa điểm đẹp, ngay đằng trước một cái hồ. Nó trải ra xa nhiều dặm… và nó quá đẹp
và quá yên tĩnh. Chỉ thỉnh thoảng bạn mới thấy một đàn sếu trắng đang bay, hay
cất lên những tiếng kêu gọi tình, và sự yên tĩnh sẽ bị khuấy động; nếu không,
thì đó là nơi lý tưởng nhất cho việc thiền định. Thỉnh thoảng một tiếng chim gọi
tình khuấy động sự yên tĩnh… sau tiếng gọi của nó, sự tĩnh mịch lại càng sâu thêm.
Cái hồ đầy
hoa sen, và tôi thường ngồi hằng giờ, quá tự hài lòng, như thể thế giới bên
ngoài không thành vấn đề; những hoa sen, những con sếu trắng, sự tĩnh mịch…
Và ông bà
ngoại tôi trở nên rất ý thức về một điều –
rằng tôi rất ưa thích sự cô độc của mình. Họ đã thấy rằng, tôi không hề
ao ước đi vào làng để gặp bất cứ ai, hay nói chuyện với bất cứ ai. Cho dù họ muốn
nói chuyện, thì những câu trả lời của tôi chỉ là "vâng" và
"không"; tôi cũng không quan tâm đến việc nói chuyện nữa. Họ trở nên
ý thức về một điều – rằng tôi ưa thích sự
cô độc của mình, và bổn phận thiêng liêng của họ, là không quấy rầy tôi.
Do vậy,
trong 7 năm liên tục, không ai cố làm hỏng sự hồn nhiên của tôi; không có ai cả.
Ba người già này, sống trong nhà – người lão bộc và ông bà ngoại tôi – tất cả họ
đều che chở tôi trong mọi cách có thể được, sao cho đừng ai quấy rầy tôi. Quả
thực, khi tôi lớn lên, tôi bắt đầu cảm thấy một chút áy náy, rằng vì tôi mà họ
đã không thể chuyện trò, họ đã không thể sống bình thường như mọi người khác.
Bình thường, người lớn thường nói, "Hãy im đi nào, cha đang suy nghĩ, ông
(bà) đang nghỉ ngơi. Hãy im nào, hãy ngồi im." Trong thời thơ ấu của tôi,
sự thể đã xảy ra một cách ngược lại. Bây giờ tôi không thể trả lời tại sao và
như thế nào; nó chỉ đơn giản đã xảy ra. Cái công trạng đó không thuộc về tôi.
Tất cả những
người già này đều đang ra dấu cho nhau: "Đừng quấy rầy nó – nó đang rất
thích thú." Và họ bắt đầu yêu thích sự im lặng của tôi.
Sự im lặng
có tần số rung động riêng của nó; nó dễ lây lan, nhất là sự im lặng của một đứa
trẻ không bị cưỡng bách: không phải là bởi vì nó bị đe nẹt, "Ta sẽ đánh
con, nếu con gây phiền hà hay làm ồn." Không, đó không phải là sự im lặng.
Nó sẽ không tạo ra sự rung động vui sướng mà tôi đang nói về, khi một đứa trẻ tự
mình im lặng, yêu thích nó mà không có lý do; niềm hạnh phúc của nó là không
nguyên nhân. Cái đó tạo ra những gợn sóng lớn, lan tỏa khắp xung quanh.
Cho nên, do
một sự tình cờ ngẫu nhiên, mà trong suốt 7 năm, tôi không hề bị ai quấy rầy
– không ai cằn nhằn, chuẩn bị cho tôi
vào thế giới của kinh doanh, chính trị, ngoại giao. Ông bà ngoại tôi quan tâm
hơn đến việc để cho tôi được tự nhiên như có thể được – nhất là bà ngoại tôi.
Bà là một trong những nguyên nhân – những điều nhỏ nhặt này ảnh hưởng đến toàn
bộ mẫu mực sống của bạn – đã tạo ra cho tôi niềm kính trọng đối với toàn bộ nữ
giới. Bà là một người phụ nữ chất phác, không được học hành, nhưng vô cùng nhạy
cảm. Bà làm rõ với ông tôi và người lão bộc: "Tất cả chúng ta đều đã sống
một loại cuộc sống mà đã không đưa chúng ta tới đâu cả. Chúng ta vẫn trống rỗng
như bao giờ, và bây giờ cái chết đang đến gần." Bà nhấn mạnh, "Hãy để
cho đứa bé này sống tự nhiên, đừng tìm cách uốn nắn nó. Chúng ta có thể có ảnh
hưởng gì nào? Chúng ta chỉ có thể làm cho nó giống như chúng ta, mà chúng ta
thì chả là cái gì cả. Hãy cho nó một cơ hội được là chính mình."
Ông ngoại
tôi – tôi nghe họ bàn bạc trong đêm, nghĩ rằng tôi đang ngủ – thường nói với
bà, "Bà đang bảo tôi làm điều này và tôi đang làm theo ý bà; nhưng mà thằng
bé là con trai của người ta, và chẳng sớm thì muộn, nó phải về với cha mẹ nó. Rồi
tụi nó sẽ nói gì? Ông bà đã không dạy cháu một chút xíu nào về phép lịch sự, về
phép xã giao, nó hoàn toàn mọi rợ.”
Bà nói,
"Đừng lo lắng về chuyện đó. Trên toàn thế giới, mọi người đều được
"văn minh hóa" – để được cái gì chứ? Cùng lắm, thì cha mẹ nó sẽ giận
chúng ta. Vậy thì đã sao nào? Cứ để cho tụi nó giận. Tụi nó đâu dám làm gì
mình. Tới lúc đó, thằng nhỏ đã đủ cứng, tụi nó chẳng làm thay đổi được gì đâu.”
Tôi vô cùng
biết ơn bà ngoại. Ông tôi thì thỉnh thoảng lại lo lắng rằng, chẳng sớm thì muộn,
ông sẽ phải chịu trách nhiệm. Rồi tụi nó sẽ nói, ' Chúng con giao nó cho cha mẹ,
và cha mẹ chả dạy nó cái gì cả.'
Bà tôi thậm
chí không cho phép thuê một gia sư. Có một người đàn ông trong làng, ông ta ít
nhất có thể dạy tôi kiến thức sơ đẳng về ngôn ngữ, toán, một chút địa lý. Ông
chỉ mới học đến lớp bốn – nhưng ông là người được học hành nhiều nhất tại thị
trấn đó. Ông tôi năn nỉ: “Cứ để thầy đến dạy. Ít nhất, nó sẽ biết cách đánh vần,
một chút toán, để khi nó về lại với cha mẹ nó, tụi nó sẽ không bảo rằng, 7 năm
của thằng bé đã hoàn toàn bị lãng phí.”
Nhưng bà tôi
nói, “Kệ. Về sau, tụi nó muốn làm gì đó thì làm. Nhưng bao lâu thằng nhỏ còn ở
đây, cứ để cho nó sống tự nhiên, đừng có xía vô.” Và luận cứ của bà luôn luôn
là, “Ông biết cách đánh vần, thì sao nữa? Ông biết toán, thì sao nữa? Ông đã kiếm
một ít tiền; ông có muốn nó cũng kiếm một ít tiền và sống hệt như ông?”
Chừng đó là
đủ để khiến cho ông ngoại im lặng. Làm gì được bây giờ? Ông bị kẹt, bởi vì ông
không thể biện luận – và ông biết rằng, ông sẽ phải nhận chịu trách nhiệm, chứ
không phải bà, bởi vì cha tôi thường hỏi ông, “Cha đã làm gì?” Và thực ra, cái
đó có lẽ đã xảy ra, nhưng may thay, ông mất trước khi cha tôi kịp hỏi.
Về sau, cha
tôi luôn nói, “Tại ông già hết. Chính ổng đã làm hỏng thằng nhỏ.” Nhưng bấy giờ
tôi đã đủ mạnh, và tôi làm rõ ra với ông: “Trước mặt con, xin đừng nói một lời
nào đổ tội cho ông ngoại. Ông đã cứu thoát con khỏi bị cha mẹ làm hỏng – cái đó
mới là nguyên nhân chính khiến cha tức giận. Nhưng cha còn có những đứa con
khác – xin cứ làm hỏng tụi nó. Và cuối cùng, cha sẽ thấy là ai bị làm hỏng.”
Ông có những
đứa con khác, và ngày càng nhiều thêm những đứa trẻ ra đời. Tôi thường trêu
ông, "Xin làm ơn mang đến thêm một đứa, cho đủ một tá. Mười một đứa con?
Người ta hỏi bao nhiêu đứa con? Mười một có vẻ không tròn trịa; một tá thì ấn
tượng hơn." Và trong những năm về sau, tôi thường nói với ông, "Cha
hãy tiếp tục làm hỏng tất cả những đứa con của cha đi; con thì hoang dã, và con
sẽ vẫn mãi hoang dã." Một cách nào đó, tôi vẫn ở ngoài cái vòng cương tỏa
của văn minh.
Ông ngoại
tôi là một người hào phóng. Ông nghèo, nhưng rất giàu sự hào phóng. Ông cho mỗi
người và mọi người bất cứ cái gì mà ông có. Tôi đã học nghệ thuật
"cho" từ nơi ông; tôi không bao giờ thấy ông nói "không" với
người hành khất nào, hay bất cứ ai.
Tôi gọi ông
là Nana; đó là cách mà tại Ấn người ta gọi người cha của mẹ mình. Bà ngoại, được
gọi là Nani. Tôi thường hỏi ông tôi, "Nana, ông kiếm ở đâu một người vợ
xinh đẹp như thế?" Những đường nét của bà không có vẻ Ấn Độ, bà giống người
Hy Lạp, và bà là một phụ nữ mạnh mẽ, rất mạnh mẽ. Khi ông ngoại tôi mất, bà
chưa quá 50. Bà ngoại tôi sống đến 80, và bà hoàn toàn khỏe mạnh. Ngay cả lúc
đó, không ai nghĩ rằng bà sắp chết. Tôi hứa với bà một điều, rằng, khi bà mất
tôi sẽ về. Và đó là lần viếng thăm cuối cùng của tôi dành cho gia đình – bà mất
vào năm 1970. Tôi phải giữ trọn lời hứa của mình.
Trong những
năm đầu tiên của đời mình, tôi xem bà ngoại tôi như là mẹ mình. Người Mẹ sinh
ra tôi chỉ là người mẹ thứ hai; lúc ấy, tôi đã lớn lên, đã hình thành một phong
cách sống nào đó. Và bà ngoại tôi đã giúp tôi hết sức nhiều. Ông ngoại tôi yêu
thương tôi, nhưng không thể giúp tôi nhiều. Ông dành cho tôi nhiều mến thương,
nhưng muốn giúp đỡ, thì phải cần thêm nhiều thứ – một loại sức mạnh nào đó. Ông
luôn luôn sợ bà tôi. Theo một nghĩa nào đó, thì ông là người sợ vợ. Nhưng mà
ông thương yêu tôi, ông giúp đỡ tôi… tôi có thể làm gì nếu ông là một người chồng
sợ vợ? 99.9 % những ông chồng đều sợ vợ, cho nên cũng không sao cả.
Tôi có thể
hiểu ông tôi, và sự rắc rối mà những trò nghịch ngợm của tôi đã gây ra cho ông.
Suốt ngày ông thường ngồi trên cái gaddi của mình, lắng nghe những khách hàng của
ông thì ít, mà nghe người ta than phiền, thì nhiều! Nhưng ông thường nói với họ,
"Tôi sẵn sàng bồi thường cho bất cứ thiệt hại nào mà thằng bé đã gây ra,
nhưng hãy nhớ, tôi sẽ không phạt nó."
Có lẽ chính
sự kiên nhẫn của ông đối với tôi, một đứa trẻ nghịch ngợm… ngay cả tôi cũng
không thể tha thứ nó. Nếu một ông nhóc giống như thế được giao cho tôi trong
nhiều năm… trời đất ơi! Thậm chí trong vài phút, hẳn tôi sẽ ném nó ra khỏi cửa
mãi mãi. Có lẽ những năm đó tạo ra một phép lạ cho ông tôi; sự kiên nhẫn to lớn
đó phải trả giá. Ông trở nên ngày càng im lặng hơn. Tôi thấy nó tăng trưởng lên
từng ngày. Thỉnh thoảng tôi lại nói, "Nana, ông cứ phạt con đi. Ông đâu cần
phải quá khoan dung như thế." Và, bạn có tin được không, ông thường khóc!
Nước mắt ông chảy ra, và ông thường nói, "Phạt con ư? Ta không thể làm điều
đó. Ta có thể phạt chính mình, nhưng không thể phạt con."
Tôi chưa bao
giờ – trong một khoảnh khắc riêng lẻ – từng thấy ông giận tôi, dù chỉ là một
thoáng giận dữ trong mắt ông. Và hãy tin tôi, tôi đã làm mọi thứ mà một ngàn đứa
trẻ mới có thể làm. Vào buổi sáng, ngay cả trước bữa điểm tâm, tôi đã bắt đầu
những trò nghịch ngợm cho đến tận khuya. Đôi khi tôi về nhà quá muộn – 3 giờ
sáng – nhưng ông là một người kỳ lạ! Ông không bao giờ nói, “Con về muộn quá;
đây đâu phải là lúc một đứa trẻ nhỏ về nhà.” Không, thậm chí không một lần. Thật
ra, trước mặt tôi, ông thường tránh nhìn chiếc đồng hồ trên tường.
Ông không
bao giờ đưa tôi đến ngôi đền mà ông thường đến. Tôi cũng thường đi tới ngôi đền
đó, nhưng chỉ khi nó đóng cửa, chỉ để ăn cắp những chụp đèn thủy tinh rất đẹp,
bởi vì trong ngôi đền ấy có nhiều chiếc đèn chùm với những tấm lăng kính đẹp.
Tôi nghĩ, chẳng bao lâu, tôi đã ăn cắp hầu hết trong số chúng. Khi người ta bảo
cho ông biết về chuyện đó, ông nói, "Vậy thì sao nào! Tôi đã tặng những
cái đèn chùm, nên tôi có thể tặng những cái khác. Nó không ăn cắp; đó là tài sản
của ông ngoại nó. Tôi xây ngôi đền đó." Vị tu sĩ hết than phiền. Để làm gì
chứ? Ông ta chỉ là một thuộc hạ của Nana.
Nana thường
đi lễ đền mọi buổi sáng, thế nhưng ông không bao giờ nói, "Hãy đi với
ông." Ông không bao giờ "truyền giáo" cho tôi. Cái vĩ đại là…
không truyền giáo. Thật là quá đổi "con người" khi cưỡng bách một đứa
trẻ cô thế theo những tín ngưỡng của bạn, nhưng ông vẫn không bị cám dỗ. Vâng, tôi
gọi nó là cám dỗ lớn nhất. Cái khoảnh khắc mà bạn thấy một ai đó lệ thuộc vào bạn
trên bất cứ phương diện nào đó, bạn sẽ bắt đầu truyền giáo. Thậm chí ông không
bao giờ nói với tôi, "Con là một tín đồ của đạo Jaina."
Tôi nhớ rất
rõ – đó là thời điểm mà cuộc điều tra dân số đang được tiến hành. Một viên chức
đã đến nhà tôi. Ông ta điều tra về nhiều thứ. Ông ta hỏi về tôn giáo của ông
tôi; ông nói, "đạo Jaina." Rồi ông ta hỏi về tôn giáo của bà tôi.
Nana nói, "Ông có thể hỏi chính bà ấy. Tôn giáo là một vấn đề riêng tư.
Chính tôi chưa bao giờ hỏi bà ấy." Thật là một người kỳ lạ!
Bà tôi trả lời,
"Tôi không tin vào bất cứ tôn giáo nào. Mọi tôn giáo đều nom có vẻ trẻ con
với tôi." Viên chức này bị sốc. Ngay cả tôi cũng bị bất ngờ. Bà không tin
vào tôn giáo nào cả! Tại Ấn, tìm ra một người phụ nữ mà không tin vào bất cứ
tôn giáo nào, thật là không thể được. Nhưng bà sinh ra tại Khajuraho, có lẽ
trong một gia đình có những tantrikas, mà họ không bao giờ tin vào bất cứ tôn
giáo nào. Họ đã thực hành thiền định, nhưng họ chưa bao giờ tin vào tôn giáo
nào.
Thiền định
mà không tôn giáo? Điều này nghe có vẻ rất không logic với một tâm trí phương
Tây. Vâng… thật ra, nếu bạn tin vào bất cứ tôn giáo nào, bạn không thể thiền định.
Tôn giáo là một sự can thiệp vào trong thiền định của bạn. Thiền định không cần
Thượng đế nào, thiên đường, địa ngục nào, không sợ hãi sự trừng phạt, và không
có sự luyến chấp vào lạc thú. Thiền định không dính dáng gì tới tâm trí; thiền
định vượt quá nó, trái lại, tôn giáo chỉ là tâm trí, nó ở bên trong tâm trí.
Tôi biết
Nani không bao giờ đi lễ đền, nhưng bà dạy tôi một mantra (câu thần chú) mà tôi
sẽ tiết lộ lần đầu tiên. Nó là một mantra của đạo Jaina, nhưng nó không dính
dáng gì tới đạo Jaina như cách mọi người hiểu. Chỉ hoàn toàn ngẫu nhiên mà nó
có quan hệ với đạo Jaina mà thôi…
Cái mantra
này quá đẹp; sẽ rất khó dịch nó, nhưng tôi sẽ cố để có một bản dịch tốt nhất
(hay tệ nhất)… Trước hết, hãy lắng nghe
cái mantra trong vẻ đẹp nguyên gốc của nó:
Namo arihantanam
namo namo/ Namo siddhanam namo namo/ Namo uvajjhayanam namo namo/ Namo loye
savva sahunam namo namo / Aeso panch namukaro/ Savva pavrappanano/ Mangalam cha
savvesam padhamam havai mangalam/
Arihante saranam pavajjhami/ Siddhe sananam pavajjhami/ Sahu saranam
pavajjhami/ Namo arihantanam namo namo/ Namo siddhanam namo namo / Namo
uvajhayanam namo namo / Om, shantih, shantih, shantih…
Bây giờ, là
nỗ lực dịch thuật của tôi:
"Tôi đến
bên hai bàn chân của những vị arihanta, và cúi xuống đảnh lễ các ngài…"
Arihanta, trong đạo Jaina, cũng như chữ "A la hán" trong Phật giáo,
dùng để chỉ người đã đã đạt tới cái (chân lý) tối hậu, nhưng không quan tâm đến
bất cứ ai khác. Ông đã về tới nhà và quay lưng lại với thế gian. Ông không tạo
ra một tôn giáo, ông thậm chí không thuyết pháp, ông thậm chí không tuyên bố (sự
chứng ngộ của mình). Dĩ nhiên, ông phải được nhớ đến trước tiên. Cái sự tưởng
nhớ đầu tiên là dành cho tất cả những ai đã biết (chân lý) và giữ im lặng. Sự
tôn kính đầu tiên không phải dành cho lời nói, mà dành cho sự im lặng. Không phải
dành cho việc phục vụ kẻ khác, mà đơn thuần dành cho sự thành tựu chân ngã. Việc
có phục vụ kẻ khác hay không, thì không quan trọng; cái đó là thứ yếu, không phải
là chủ yếu. Cái chủ yếu, là người ta đã đạt tới chân ngã, và đạt tới chân ngã
là việc thật khó trên thế gian này. Những người Jaina gọi arihanta là người đã
đạt tới chính mình (chân ngã) và vì quá say sưa với phúc lạc của việc thành tựu
ấy, đến nỗi vị ấy quên toàn bộ thế gian. Cái từ arihanta, theo nghĩa đen, là
"người đã giết kẻ thù" – và kẻ thù đó là cái ego. Phần thứ nhất của
mantra có nghĩa là: "Tôi sờ vào hai bàn chân của vị đã đạt tới chân
ngã."
Phần thứ hai
là: "Namo siddhanam namo namo." Cái mantra này là bằng tiếng Prakrit,
chứ không phải Sanskrit. Prakrit là ngôn ngữ của người Jaina; nó cổ xưa hơn tiếng
Sanskrit. Chính từ "sanskrit" có nghĩa là "được tinh lọc. Qua từ
“Sanskrit”, bạn có thể hiểu rằng ắt phải có một cái gì đó trước nó, nếu không,
thì bạn "tinh lọc" cái gì? Prakrit có nghĩa là "chưa tinh lọc",
tự nhiên, sống sít, và những người Jaina có lý khi họ nói ngôn ngữ của họ là cổ
xưa nhất trên thế giới. Tôn giáo của họ cũng là tôn giáo cổ xưa nhất. Cái
mantra đó thì bằng tiếng Prakrit, sống sít và chưa tinh lọc. Dòng thứ hai là:
Namo siddhanam namo namo – "Tôi sờ vào hai bàn chân của người đã trở thành
bản thể của chính mình." Vậy thì,
đâu là sự khác biệt giữa dòng một và hai?
Vị arihanta không bao giờ nhìn lại đằng sau, không bao giờ bận tâm về bất
cứ loại phục vụ nào, có tính Kytô giáo hay thuộc tôn giáo nào khác. Vị siddha
(thành tựu) thỉnh thoảng chìa tay ra cho nhân loại đang chìm đắm – nhưng chỉ thỉnh
thoảng thôi, không phải luôn luôn. Đó không phải là một điều tất yếu; nó không
có tính bắt buộc. Ông ta có thể, hay không.
Kế đó, dòng
thứ ba: Namo uvajjhaya namo namo – " Tôi sờ vào hai bàn chân của những vị
đạo sư, những uvajjhaya." Họ đã đạt tới cùng một điều, nhưng họ hướng mặt
về thế gian, họ phục vụ thế gian. Họ ở trong thế gian, và không thuộc về nó…
nhưng vẫn ở trong nó.
Dòng thứ tư:
Namo loye savva sahunam namo namo – "Tôi sờ vào hai bàn chân của những vị
"giáo thụ". Bạn biết, có một khác biệt tinh tế giữa vị "đạo sưvà
vị "giáo thụ". Bậc "đạo sư" đã biết (chân lý), và trao truyền
lại cái mà vị ấy biết. Còn vị "giáo thụ" thì chỉ tiếp nhận từ người
đã biết, và trao truyền nó lại y nguyên cho thế gian, nhưng chính ông ta chưa
biết. Những soạn giả của cái mantra này thật sự có một cái tâm rất đẹp; họ thậm
chí sờ vào hai bàn chân của những người (mà) chưa biết chính mình, nhưng ít ra
họ đang mang cái thông điệp của những bậc đạo sư tới quần chúng.
Dòng thứ năm
là một trong những câu có ý nghĩa nhất mà tôi từng gặp trong suốt đời mình. Thật
kỳ lạ, là nó được trao cho tôi bởi bà ngoại tôi khi tôi còn là một đứa trẻ nhỏ.
Khi tôi giải thích nó cho bạn, bạn cũng sẽ thấy vẻ đẹp của nó. Chỉ có bà mới có
khả năng trao nó cho tôi. Tôi không biết bất cứ ai khác mà đã có gan để thực sự
công bố nó, mặc dù tất cả những người Jaina lặp lại nó trong các ngôi đền của họ.
Nhưng lặp lại là một chuyện; trao truyền nó cho người mà bạn yêu thương, lại
hoàn toàn là một chuyện khác.
"Tôi sờ
vào hai bàn chân của những ai mà đã biết chính mình…" không phân biệt họ
là người Hindu, Jaina, hay Phật giáo, Kytô giáo, Hồi giáo. Cái mantra nói,
"Tôi sờ vào hai bàn chân của tất cả những ai đã biết chính mình." Đây
là cái mantra duy nhất, theo như tôi biết, là hoàn toàn phi tông phái.
Bốn phần kia
cũng không khác biệt với phần thứ năm; tất cả chúng đều được chứa đựng trong
nó, nhưng nó có một sự bao la mà những phần khác không có. Phần 5 phải được viết
ra trên tất cả những ngôi đền, tất cả nhà thờ, bất luận chúng thuộc về ai, bởi
vì nó nói, "Tôi sờ vào hai bàn chân của tất cả những ai mà đã biết
nó." Nó không nói, "những ai đã biết Thượng đế," ngay cả chữ
"nó" cũng có thể bỏ đi: tôi chỉ đặt "nó" thêm vào trong bản
dịch. Nguyên bản chỉ có nghĩa "sờ vào hai bàn chân của những ai mà đã biết."
– không có chữ "nó". Tôi đang đưa vào từ "nó" chỉ là để
theo đúng ngữ pháp trong ngôn ngữ của các bạn; nếu không, một ai đó sẽ hỏi
"Biết. Biết cái gì? Đâu là đối tượng của sự biết?" Không có đối tượng
nào của sự biết; không có cái gì để biết, chỉ có người biết mà thôi.
Cái mantra
này là cái điều tôn giáo duy nhất, nếu bạn gọi nó là tôn giáo, đã được bà ngoại
trao cho tôi – không phải bởi ông tôi, mà là bà tôi. Một đêm bà nói, "Con
đang thức. Con không ngủ được à? Con đang lập kế hoạch cho chuyện nghịch ngợm
ngày mai?"
Tôi nói,
" Dạ không. Nhưng, một cách nào đó, một câu hỏi đang khởi lên trong con. Mọi
người đều có một tôn giáo, và khi người ta hỏi con, 'Cháu theo đạo nào?'
thì con nhún vai. Nhưng, nhún vai không
phải là một tôn giáo, nên con muốn hỏi bà, con nên nói gì?"
Bà nói,
"Chính ta không thuộc về một tôn giáo nào, nhưng ta yêu cái mantra này, và
đây là tất cả những gì mà ta có thể cho con – không phải bởi vì nó thuộc về đạo
Jaina theo truyền thống, nhưng chỉ vì ta đã biết vẻ đẹp của nó. Ta đã lặp lại
nó hằng triệu lần, và ta luôn tìm thấy sự bình an to lớn… chỉ là cái cảm nhận của
việc sờ vào hai bàn chân của tất cả những ai mà đã biết. Ta chỉ có thể cho con
cái mantra này; nhiều hơn thế, ta không thể cho con."
Bây giờ tôi
có thể nói rằng, người phụ nữ này là thực sự vĩ đại, bởi vì trong chừng mực có
liên quan đến tôn giáo, thì mọi người đều đang nói dối. Những người Kytô, Do
Thái giáo, Hồi giáo –mọi người đều đang nói dối. Tất cả họ đều nói về Thượng đế,
thiên đàng và địa ngục, thiên thần và đủ loại vớ vẩn, mà chả biết cái gì cả. Bà
vĩ đại, không phải bởi vì bà đã biết (chân lý), mà bởi vì bà không thể nào dối
trá với một đứa trẻ.
Không ai nên
nói dối – ít ra, với một đứa trẻ; cái đó là không thể tha thứ được. Trẻ con đã
bị bóc lột qua nhiều thế kỷ chỉ vì chúng sẵn sàng tin cậy. Bạn có thể nói dối
chúng rất dễ dàng, và chúng sẽ tin cậy bạn. Nếu bạn là một người cha, người mẹ,
chúng sẽ nghĩ bạn nhất thiết phải đúng. Đó là cách mà toàn bộ nhân loại sống
trong bại hoại, trong một vũng bùn rất nhớp nháp của những lời dối trá được nói
ra với trẻ con trong nhiều thế kỷ. Nếu chúng ta chỉ có thể làm một điều, một điều
đơn giản – không nói dối trẻ con và tự thú với chúng sự ngu dốt của chúng ta –
rồi thì chúng ta sẽ có tính tôn giáo và chúng ta sẽ đặt chúng trên lối đi của
tôn giáo. Trẻ con chỉ là sự hồn nhiên; hãy để lại cho chúng không phải là cái gọi
là kiến thức của bạn. Nhưng trước hết, chính bạn phải hồn nhiên, chân thật,
không dối trá.
Đạo Jaina là
tôn giáo khổ hạnh nhất trên thế giới, hay nói khác đi, là tôn giáo thống dâm và
bạo dâm nhất. Những tu sĩ Jaina tra tấn chính mình quá nhiều, đến mức người ta
tự hỏi, họ có điên không. Họ không điên. Họ là những doanh nhân, và những tín đồ
của những tu sĩ Jaina đều là doanh nhân. Thật kỳ lạ, toàn bộ cộng đồng những
người Jaina chỉ bao gồm những doanh nhân – nhưng thực ra, cũng không có gì kỳ lạ,
bởi vì chính bản thân tôn giáo này về cơ bản là có động cơ về lợi nhuận trong
thế giới bên kia. Người Jaina tự tra tấn mình để đạt tới một cái gì đó trong thế
giới bên kia, mà y biết mình không thể đạt tới trong thế giới này.
Hẳn tôi chỉ
mới vào khoảng 4 – 5 tuổi, khi tôi thấy ông thầy tu Jaina trần truồng đầu tiên,
được mời vào nhà bà tôi. Tôi không nhịn được, phải cười to lên. Ông tôi bảo
tôi, "Im nào! Ta biết con là một đứa gây rối, ta có thể tha thứ cho con
khi con là cái gai đối với láng giềng, nhưng ta không thể tha thứ cho con, nếu
con nghịch phá guru của ta. Ông ấy là đạo sư của ta; ông điểm đạo cho ta được
vào trong những bí mật bên trong của tôn giáo."
Tôi nói,
"Con không quan tâm về những bí mật 'bên trong', con quan tâm về những bí
mật 'bên ngoài' mà ông ta đang phô bày quá rõ ràng. Tại sao ông ta lại ở truồng
chứ? Ông ta không thể ít ra mặc một cái khố hay sao?"
Ngay cả ông
tôi cũng cười to. Ông nói, "Con không hiểu đâu."
Tôi nói,
" Được rồi, con sẽ hỏi ông ta."
Tất cả dân
làng đã tụ họp để dự cái darshan của ông thầy tu Jaina. Giữa cái gọi là bài giảng
đạo, tôi đứng dậy. Việc đó diễn ra cách đây chừng 40 năm, và từ đó, tôi vẫn
liên tục chống lại những tên ngu xuẩn như thế này. Ngày đó, một cuộc chiến
tranh bắt đầu, mà nó sẽ chỉ chấm dứt khi tôi không còn trên thế gian này nữa.
Có lẽ ngay cả lúc đó, nó cũng sẽ không chấm dứt; người của tôi có thể tiếp tục
nó.
Tôi đã hỏi
những câu hỏi đơn giản mà ông ta không thể trả lời. Tôi ngỡ ngàng. Ông tôi xấu
hổ. Bà tôi vỗ nhẹ lên lưng tôi và nói, "Tuyệt! Con đã làm được điều đó! Ta
biết con có thể làm được mà."
Tôi đã hỏi
cái gì? Chỉ là những câu hỏi đơn giản trong đạo Jaina, bởi vì đạo Jaina không
là gì khác hơn ngoài nỗ lực để đừng bị tái sinh một lần nữa. Nó là một khoa học
dốc toàn bộ nỗ lực vào việc ngăn cản sự tái sinh. Cho nên tôi đã hỏi ông câu hỏi
căn bản, "Có phải ông không muốn bị tái sinh?"
Ông ta nói,
"Ừ, không bao giờ."
Rồi, tôi hỏi,
"Vậy, tại sao ông không tự sát? Tại sao ông vẫn đang thở? Tại sao ăn? Tại
sao uống nước? Chỉ cần biến đi, tự sát đi. Tại sao làm ầm ĩ về một điều đơn giản
như thế?" Ông chưa quá tuổi 40. Tôi nói với ông, "Nếu ông tiếp tục
trong cách này, ông có thể sống thêm bốn mươi năm hay hơn nữa." Thuở đó,
tôi chưa biết một sự kiện khoa học, là ai ăn ít đi, sẽ sống lâu hơn…
Do vậy, tôi
nói với ông thầy tu – lúc đó, tôi không biết những sự kiện này – "Nếu ông không muốn bị tái sinh trở lại,
tại sao ông đang sống? Chỉ để chết? Vậy thì, tại sao không tự sát đi?" Tôi
không nghĩ rằng có ai đã hỏi ông một câu hỏi như thế. Trong xã hội lịch sự,
không ai từng hỏi một câu hỏi thực sự, và câu hỏi về sự tự sát là câu hỏi thực
nhất.
Gabriel
Marcel nói, "Tự sát là vấn đề triết học thực thụ duy nhất." Thuở đó
tôi không có khái niệm nào về Marcel. Có lẽ, vào thời điểm đó, không có Marcel
nào, và sách của ông chưa được viết ra. Nhưng đây là điều mà tôi đã nói với ông
thầy tu Jaina: "Nếu ông không muốn bị tái sinh một lần nữa, là điều mà ông
nói là ông ước muốn, thì tại sao ông lại (tiếp tục) sống? Vì mục đích gì? Hãy tự
sát đi! Cháu sẽ chỉ cho ông một cách. Mặc dù cháu chưa có nhiều kinh nghiệm sống,
về chuyện tự sát, cháu có thể cho ông một chút lời khuyên. Ông có thể nhảy từ
trên đồi ở cuối làng, hay ông có thể nhảy xuống sông."
Tôi nói với
ông thầy tu : "Vào mùa mưa, ông có thể nhảy xuống sông với cháu. Chúng ta
có thể làm bạn một lát, rồi ông có thể chết, và cháu sẽ bơi sang bờ bên kia.
Cháu bơi khá tốt."
Ông nhìn tôi
một cách dữ tợn, quá giận dữ, đến nỗi tôi phải bảo ông, "Hãy nhớ, ông sẽ bị
tái sinh lần nữa, nếu ông vẫn còn đầy sân hận. Đây không phải là cách để thóat
khỏi cái thế giới đầy lo âu này. Tại sao
ông nhìn cháu một cách giận dữ như thế? Hãy trả lời câu hỏi của cháu một cách
thân thiện và trầm tĩnh. Hãy trả lời một cách vui sướng! Nếu ông không thể trả
lời được, thì hãy cứ nói, 'Tôi không biết.' Nhưng xin đừng giận dữ."
Ông thầy tu
nói, "Tự sát là một tội ác. Ta không thể tự sát. Nhưng ta muốn sẽ không
bao giờ bị tái sinh trở lại. Ta sẽ đạt tới trạng thái này bằng cách chậm rãi từ
bỏ mọi thứ mà ta sở hữu."
Tôi nói,
"Làm ơn cho cháu xem một cái gì đó mà ông sở hữu – bởi vì, như cháu có thể
thấy, thì ông trần truồng và không sở hữu cái gì cả. Ông có những tài sản gì
nào?"
Ông tôi cố
ngăn tôi lại. Tôi chỉ tay về phía bà tôi và rồi nói với ông, "Xin hãy nhớ,
con đã xin phép Nani, và bây giờ không ai có thể ngăn cản con, ngay cả chính
ông. Con đã nói với bà về ông, bởi vì con lo rằng nếu con cắt ngang lời guru của
ông, và cái gọi là bài giảng đạo rác rưởi của ông ta, thì ông sẽ giận con. Bà
nói, 'Chỉ cần chỉ tay về phía ta, chừng đó là đủ. Đừng lo lắng: ta chỉ cần liếc
nhìn ông, thì ông sẽ im miệng lại.' "Và thật kỳ lạ… đúng như vậy! Ông tôi
im lặng, thậm chí Nani không cần liếc nhìn ông.
Về sau, cả
tôi lẫn Nani tôi đều cười lớn. Tôi nói với bà, "Thậm chí ông ngoại không
dám nhìn bà."
Bà nói,
" Ông không thể, bởi vì hẳn ông đã sợ rằng ta sẽ nói, ‘Mình im đi! Đừng
can thiệp vào đứa trẻ đó.’ Cho nên, ông tránh mắt ta. Cách duy nhất để tránh ta
là đừng can thiệp vào chuyện của con."
Thật vậy,
ông nhắm mắt lại, như thể là đang thiền định. Tôi nói với ông, "Nana, tuyệt
lắm! Ông đang giận dữ, sôi sục, có lửa bên trong ông, thế mà ông ngồi nhắm mắt
như thể là ông đang thiền định. Guru của
ông đang giận dữ bởi vì nhưng câu hỏi của con đang làm ông ta bực mình. Ông giận
dữ bởi vì guru của ông không đủ năng lực để trả lời. Nhưng con nói, người đàn
ông đang giảng đạo ở đây chỉ là một gã đần độn." Và lúc đó tôi chưa quá bốn,
năm tuổi.
Từ lần đó về
sau, đó vẫn là thứ ngôn ngữ của tôi. Tôi lập tức nhận ra một tên ngu xuẩn, bất
cứ y ở đâu, bất luận y là ai. Không ai có thể thoát khỏi đôi mắt X–quang của
tôi.
Tôi không nhớ
tên của ông thầy tu Jaina đó, có lẽ tên ông là Shanti Sagar, có nghĩa là 'đại
dương của phúc lạc’. Chắc chắn ông không phải là cái đó. Đó là lý do tại sao
tôi đã quên ngay cả tên ông. Ông ta chỉ là một vũng bùn dơ bẩn, không phải là một
đại dương của phúc lạc hay bình an. Và chắc chắn ông không phải là một người của
sự im lặng, bởi vì ông trở nên rất giận dữ.
Shanti có thể
hàm ý nhiều điều. Nó có thể có nghĩa là sự bình an, hoặc sự im lặng, đó là hai
nghĩa căn bản. Cả hai đều thiếu vắng nơi ông. Ông không bình an, cũng không im
lặng, không chút nào cả. Bạn cũng không thể nói rằng không có sự xáo động nào
bên trong ông, bởi vì ông quá giận dữ, đến nỗi ông quát to bảo tôi ngồi xuống.
Tôi nói,
"Không ai có thể bảo cháu ngồi xuống trong ngôi nhà của chính cháu. Cháu
có thể bảo ông đi ra, nhưng ông không thể bảo cháu ngồi xuống. Nhưng cháu sẽ
không bảo ông đi ra, bởi vì cháu có thêm một vài câu hỏi nữa. Làm ơn đừng giận
dữ. Hãy nhớ cái tên của ông, Shanti Sagar – đại dương của bình an và im lặng.
Ít ra, ông có thể là một vũng nước nhỏ. Và đừng bị khuấy động bởi một đứa trẻ
nhỏ."
Không bận
tâm về chuyện ông có im lặng hay không, tôi hỏi bà tôi, bây giờ đang cười thích
thú. "Bà nói gì, Nani? Con có nên hỏi ông ta thêm vài câu hỏi, hay bảo ông
ra khỏi nhà?"
Đó là người
phụ nữ mà tôi yêu quý. Đó là người phụ nữ mà đã khiến cho tôi trở thành một kẻ
nổi loạn. Ngay cả ông tôi cũng bị sốc, khi thấy bà ủng hộ tôi trong một cách thức
như vậy. Cái gã mệnh danh là 'đại dương của phúc lạc' ngay tức thì câm như hến,
ngay khi ông ta thấy rằng bà tôi ủng hộ tôi. Không chỉ có bà, mà những người
dân làng ngay lập tức đứng về phía tôi. Cái gã thầy tu Jaina khốn khổ đó bị bỏ
lại hoàn toàn cô độc.
Tôi hỏi ông
ta thêm vài câu hỏi nữa. Tôi hỏi, "Ông đã nói, 'Đừng tin bất cứ điều gì,
trừ khi bạn đã tự mình thể nghiệm nó.'
Cháu thấy chân lý trong câu nói đó, do vậy, cháu có câu hỏi này…"
Những người
Jaina tin rằng có 7 tầng địa ngục. Lên tới tầng thứ 6, vẫn có khả năng sẽ trở lại,
nhưng tầng thứ 7 thì vĩnh cửu. Có lẽ tầng thứ 7 là địa ngục của người Kytô
giáo, bởi vì, một khi bạn đã ở đó, thì bạn cũng sẽ ở đó mãi mãi. Tôi tiếp tục,
"Ông đã nói đến 7 tầng địa ngục, nên câu hỏi khởi lên, là ông đã viếng
thăm tầng thứ 7 chưa? Nếu đã, thì ông không thể có mặt ở đây. Nếu chưa, thì dựa
trên thẩm quyền nào mà ông bảo rằng nó hiện hữu? Ông nên nói rằng, chỉ có 6 tầng
địa ngục, chứ không phải 7. Bây giờ, xin hãy chính xác: Hãy nói rằng, chỉ có 6
tầng địa ngục, hay nếu ông muốn khăng khăng rằng có 7, thì hãy chứng minh rằng
ít nhất một người, Shanti Sagar, đã trở về từ tầng thứ 7."
Ông chết điếng.
Ông không thể tin rằng, một đứa trẻ lại có thể hỏi một câu hỏi như thế. Hôm
nay, chính tôi cũng không thể tin được! Làm thế nào mà tôi đã có thể hỏi một
câu hỏi như thế? Câu trả lời duy nhất mà tôi có thể đưa ra, là bởi vì tôi không
được học hành, và hoàn toàn không có chút kiến thức nào cả. Kiến thức khiến cho
bạn rất tinh ranh. Tôi không tinh ranh. Tôi chỉ đơn thuần hỏi cái câu hỏi mà bất
cứ đưa trẻ nào cũng đã có thể hỏi, nếu nó không được học hành. Sự "giáo dục"
là tội ác lớn nhất mà con người đã phạm đối với những đưa trẻ đáng thương. Có lẽ
sự giải phóng lớn nhất trong thế giới này, là sự giải phóng trẻ con.
Tôi hồn
nhiên, ngây thơ, hoàn toàn không có kiến thức. Lúc ấy tôi chưa biết đọc, hoặc
viết, thậm chí cũng không biết đếm quá mười ngón tay mình. Ngay cả hôm nay, khi
tôi phải đếm một cái gì đó, tôi bắt đầu với những ngón tay của tôi, và nếu tôi
bỏ sót một ngón tay, thì tôi trở nên lẫn lộn. Ông ta không thể trả lời. Bà tôi
đứng lên và nói, "Ông phải trả lời câu hỏi đó. Đừng nghĩ rằng chỉ một đưa
trẻ đang hỏi, chính tôi cũng đang hỏi, và tôi là nữ thí chủ của ông."
Bây giờ, tôi
phải giới thiệu với bạn một quy ước của người Jaina. Khi một tu sĩ Jaina đến một
gia đình để nhận thực phẩm của mình, sau khi thọ thực xong, như là một sự ban
phúc cho gia đình, ông cho một bài giảng. Bài pháp thoại được nói (trước hết) với
người nữ chủ nhân. Bà tôi nói, "Tôi là nữ thí chủ của ông hôm nay, và tôi
cũng đang hỏi câu hỏi đó. Ông đã viếng thăm tầng địa ngục thứ 7 chưa? Nếu chưa,
hãy nói một cách thành thật rằng chưa, nhưng, nếu vậy, ông không thể nói là có
7 tầng địa ngục."
Ông thầy tu
trở nên quá bối rối – càng khó xử hơn,
vì bị đối đầu bởi một người phụ nữ đẹp – đến nỗi ông quay người định bỏ đi. Bà
tôi quát to lên, "Hãy dừng lại! Đừng bỏ đi! Ai sẽ trả lời câu hỏi của cháu
tôi? Và nó vẫn còn một vài câu nữa để hỏi. Ông là loại người gì, mà chạy trốn
những câu hỏi của một đứa trẻ?"
Ông thầy tu
dừng lại. Tôi nói với ông tôi, "Con bỏ câu hỏi thứ hai, bởi vì ông thầy tu
này không thể trả lời nó.”
Ông ta cũng
chưa trả lời câu hỏi thứ nhất, cho nên con sẽ hỏi ông ta câu hỏi thứ ba; có lẽ
ông ta sẽ có thể trả lời câu hỏi đó."
Ông ta nhìn
tôi. Tôi nói, "Nếu ông muốn nhìn cháu, hãy nhìn vào đôi mắt cháu." Mọi
người bỗng im phăng phắc, không ai nói một lời nào. Ông thầy tu cụp mắt xuống,
và rồi tôi nói, "Bây giờ cháu không muốn hỏi nữa. Hai câu hỏi đầu tiên của
cháu đã không được trả lời, và cháu không muốn hỏi câu hỏi thứ ba, bởi vì cháu
không muốn ông khách mời bị xấu hổ. Cháu rút lui." Và tôi thực sự rút lui
khỏi đó, và tôi quá vui sướng khi bà tôi đi theo tôi.
Gã thầy tu
được ông tôi tiễn ra về, nhưng ngay khi ông ta đi khỏi, ông tôi lao vụt vào
trong nhà và hỏi bà tôi, "Mình có điên không đấy? Trước tiên, mình ủng hộ
đứa bé trai này, nó là một kẻ gây rối bẩm sinh, rồi mình đi với nó, thậm chí
không nói lời chào ông đạo sư của tôi."
Bà tôi nói,
"Ông ta không phải là đạo sư của tôi, nên tôi không quan tâm một chút xíu
nào. Vả lại, người mà ông nghĩ là một kẻ gây rối bẩm sinh, nó là hạt giống.
Không ai biết cái gì sẽ mọc ra từ nó."
Bây giờ tôi
biết cái gì đã mọc ra từ nó. Nếu người ta không phải là một kẻ gây rối bẩm
sinh, thì người ta không thể trở nên một vị Phật. Và tôi không chỉ là một vị Phật,
như Phật Gautama; cái đó thì quá truyền thống. Tôi là Phật Zorba. Tôi là một sự
gặp gỡ của phương Đông và phương Tây. Thật ra, tôi không phân chia Đông và Tây,
thấp và cao, đàn ông và phụ nữ, thiện và ác, Thượng đế và quỷ sứ. Không, một
ngàn lần không – tôi không phân chia. Tôi kết nối lại với nhau tất cả những gì
cho tới nay đã từng bị phân chia. Đó là công việc của tôi.
Cái ngày đó
thì vô cùng có ý nghĩa để hiểu những gì đã xảy ra trong suốt cuộc đời tôi, bởi
vì, nếu bạn không hiểu cái hạt giống, bạn sẽ bỏ mất cái cây, sự trổ hoa, và có
lẽ ánh trăng xuyên qua những cành cây.
Từ cái ngày
đó, tôi đã luôn luôn chống lại bất cứ cái gì có tính thống dâm. Dĩ nhiên, mãi
sau này tôi mới biết cái từ đó, nhưng điều đó không quan trọng. Tôi vẫn luôn chống
lại tất cả những gì khổ hạnh; thuở đó, tôi chưa hề biết cái từ đó, nhưng tôi đã
có thể ngửi thấy một cái gì đó thối tha. Bạn biết tôi dị ứng với mọi loại tự
tra tấn. Tôi muốn mọi con người sống cho tới mức đầy đủ nhất; sự tối thiểu
không phải là phương cách của tôi. Sống cho tới mức tối đa, hay nếu bạn có thể,
đi quá cái tối đa, rồi cái kỳ ảo. Hãy đi! Đừng đợi! Và đừng lãng phí thời gian
đợi chờ Thượng đế… Tôi không chống lại ý tưởng về việc kết liễu cuộc sống. Nếu
người ta quyết định kết thúc nó, thì dĩ nhiên đó là quyền của y. Nhưng chắc chắn
tôi chống lại việc biến nó thành một cuộc tra tấn lâu dài. Khi ông thầy tu
Shanti Sagar này chết, ông ta nhịn ăn 110 ngày. Một người, nếu khỏe mạnh bình
thường, có thể tồn tại 90 ngày không ăn, một cách dễ dàng. Nếu khỏe mạnh một
cách phi thường, thì y có thể sống thêm lâu hơn nữa.
Do vậy, hãy
nhớ, tôi đã không lỗ mãng với người đàn ông đó. Trong bối cảnh đó, câu hỏi của
tôi là hoàn toàn đúng, có lẽ càng như thế, bởi vì ông ta đã không thể trả lời
nó. Và, thật kỳ lạ khi kể lại với bạn hôm nay, cái đó là sự khởi đầu không chỉ
của sự tra vấn của tôi, mà cũng là sự bắt đầu của những ai không (thể) trả lời.
Tôi đã gặp nhiều người mệnh danh là tâm linh, nhưng chưa ai từng trả lời bất cứ
câu hỏi nào của tôi. Trên một phương diện, cái ngày đó quy định toàn bộ cái
phong vị của tôi, toàn bộ đời tôi.
Shanti Sagar
bỏ đi, rất bực bội, nhưng tôi vô cùng vui sướng, và tôi không giấu ông tôi điều
đó. Tôi nói với ông, "Nana, có lẽ ông ta bỏ đi với sự bực bội, nhưng con
đang cảm thấy rằng mình hoàn toàn đúng đắn. Guru của ông chỉ (là) xoàng thôi.
Ông nên chọn một ai đó khá hơn một chút."
Ngay cả ông
cũng cười to và nói, "Có lẽ con nói đúng, nhưng bây giờ, ở tuổi ta, thì việc
thay đổi guru là không mấy thực tế." Ông hỏi Nani tôi, "Mình nghĩ sao?"
Bà tôi, bao
giờ cũng trung thực với bản tính của mình, nói, "Không bao giờ quá muộn để
thay đổi. Nếu ông thấy cái mình đã chọn là không đúng, thì hãy thay đổi nó. Thực
vậy, hãy nhanh lên, bởi vì ông đang già thêm. Đừng nói. 'Tôi già rồi, nên tôi
không thể thay đổi.' Một chàng trai trẻ nói vậy thì còn khả thứ, nhưng một ông
già thì không được – và ông thì đủ già rồi. "
Và chỉ một
vài năm sau thì ông mất, nhưng ông không thể thu hết can đảm để thay đổi guru của
mình. Ông tiếp tục trong cùng khuôn mẫu cũ. Bà tôi thường nói khích ông, nói,
"Bao giờ thì ông mới thay đổi guru và những phương pháp tu tập của
mình?"
Ông thường
nói, "Vâng, tôi sẽ, tôi sẽ."
Một hôm, bà
tôi nói, "Hãy thôi đi tất cả những thứ vớ vẩn này! Không ai từng thay đổi
trừ khi người ta thay đổi ngay bây giờ. Đừng nói, 'Tôi sẽ, tôi sẽ.' Hoặc thay đổi
hoặc không, nhưng hãy rõ ràng."
Người phụ nữ
ấy đã có thể trở thành một lực hết sức hùng mạnh. Bà sinh ra không chỉ để sống
trong cái ngôi làng nhỏ đó. Lẽ ra, toàn bộ thế giới nên biết về bà. Có lẽ tôi
là cái "kênh chuyển tải của bà; có lẽ bà đã rót chính mình vào trong tôi.
Bà yêu thương tôi quá sâu xa, đến mức tôi chưa bao giờ xem bà mẹ đẻ ra tôi là mẹ
ruột. Tôi luôn xem Nani là người mẹ đích thực của tôi.
Bất cứ khi
nào tôi phải thú nhận một cái gì đó, bất cứ sự sai trái nào đó mà tôi đã làm
cho ai đó, thì tôi chỉ có thể thú nhận với bà, chứ không ai khác. Bà là người
mà tôi trao trọn tâm tư của mình. Tôi có thể tâm sự bất cứ cái gì với bà, bởi
vì tôi đã dần nhận thức ra một điều, và đó là, bà có khả năng để hiểu.
… Cái khoảnh
khắc đó trong đời tôi, khi tôi hỏi ông thầy tu Jaina những câu hỏi kỳ lạ, chọc
tức ông và quấy rầy ông, tôi không cho rằng mình đã làm một cái gì đó sai trái.
Có lẽ tôi đã giúp ông. Có lẽ, một ngày nào đó ông sẽ hiểu. Nếu ông đã có lòng
can đảm, thì có lẽ ông đã hiểu, ngay buổi đó, nhưng ông là một kẻ hèn nhát –
ông chạy trốn. Và từ đó, cái này đã là kinh nghiệm của tôi. Những người mệnh
danh là mahatma và những vị thánh, tất cả họ đều là những kẻ hèn nhát. Tôi chưa
từng gặp một mahatma nào – Hindu, Hồi giáo, Kytô, Phật giáo – mà ông ta có thể
được gọi là một tâm hồn nổi loạn. Trừ khi người ta nổi loạn, người ta không là
người tôn giáo. Sự nổi loạn chính là nền tảng của tôn giáo.
Nana không
chỉ là một ông ngoại. Thật khó định nghĩa ông là gì đối với tôi. Ông thường gọi
tôi là Rajah – rajah có nghĩa là "
vị vua" – và trong 7 năm đó, ông xoay xở thành công để cho tôi sống như một
ông hoàng. Vào ngày sinh nhật của tôi, ông thường mang đến một con voi từ một
thị trấn gần đó… Tại Ấn, thời đó, voi thường được nuôi, hoặc là bởi những ông
vua – bởi vì nó rất tốn kém, việc bảo dưỡng, thức ăn, và dịch vụ mà con voi đòi
hỏi – hoặc là bởi những vị thánh. Hai loại người này thường nuôi chúng. Những vị
thánh có thể nuôi voi bởi vì họ có quá nhiều đệ tử. Những đệ tử chăm sóc con
voi cẩn thận, y như họ đã chăm sóc vị thánh. Sống gần đó là một vị thánh, ông
ta có một con voi, cho nên, vào sinh nhật của tôi, ông ngoại tôi thường đặt tôi
lên con voi với hai cái túi, mỗi túi ở một bên, đầy những đồng tiền xu.
Trong thời
thơ ấu của tôi, tiền giấy chưa xuất hiện tại Ấn Độ; bạc (kim loại) vẫn còn được
dùng cho những đồng rupee. Ông tôi thường đổ đầy hai túi lớn, treo lủng lẳng ở
hai bên, với những đồng xu, và tôi thường đi xung quanh làng ném những đồng xu
đó. Đó là cách mà ông thường cử hành sinh nhật của tôi … Một khi tôi đã khởi
hành, ông thường đến trong cái xe bò của ông, với thêm nhiều đồng rupee, và ông
thường luôn miệng nói với tôi, "Đừng hà tiện – Ta còn đủ tiền. Con không
thể ném nhiều hơn ta có. Cứ ném đi."
Ông tìm đủ mọi
cách có thể được, để tạo cho tôi ý tưởng rằng tôi thuộc về một gia đình hoàng tộc
nào đó.
Sự chia ly
có cái chất thơ của riêng nó, người ta chỉ cần học cái ngôn ngữ của nó, và người
ta phải sống trong chiều sâu của nó. Rồi từ trong nỗi buồn, xuất hiện một loại
niềm vui… mà nom có vẻ như là không thể được, nhưng mà nó xảy ra. Tôi đã biết
nó, do cái chết của Nana tôi. Nó là một sự chia ly toàn diện. Chúng tôi sẽ
không gặp lại nhau nữa, thế nhưng có một vẻ đẹp trong nó. Ông già rồi, và đang
chết dần, có lẽ từ một cơn đột quỵ nghiêm trọng. Chúng tôi không ý thức về nó,
bởi vì ngôi làng không có bác sĩ, thậm chí một dược sĩ cũng không, không thuốc
men, cho nên chúng tôi không biết nguyên nhân cái chết của ông, nhưng tôi nghĩ
nó là một cơn đột quỵ nghiêm trọng.
Tôi hỏi nhỏ
vài tai ông, "Nana, ông có cái gì để nói trước lúc ra đi? Có lời trăn trối
sau cùng nào không? Hoặc, ông có muốn cho con cái gì đó để nhớ ông mãi
mãi?" Ông tháo chiếc nhẫn và đặt nó vào tay tôi. Bây giờ cái nhẫn đó đang ở
trong tay một sannyasin nào đó; tôi đã tặng nó cho một ai đó. Nhưng mà cái nhẫn
đó luôn là một bí ẩn. Suốt đời ông, ông thường không cho phép bất cứ ai thấy
cái gì trong nó, thế nhưng, ông cứ thỉnh thoảng lại nhìn vào nó. Chiếc nhẫn đó
có một cái cửa sổ bằng thủy tinh ở cả hai mặt, mà bạn có thể nhìn xuyên suốt
qua. Trên đỉnh là một hạt kim cương; ở mỗi mặt của nó, có một cái cửa sổ thủy
tinh.
Ông không
cho phép bất cứ ai thấy cái mà ông thường nhìn vào, xuyên qua cái cửa sổ. Bên
trong có một bức tượng Mahavira, tirthankara của người Jaina, và hai cửa sổ đó
là những thấu kính phóng đại. Chúng phóng đại nó (bức tượng) và nó có vẻ thực sự
khổng lồ.
Với những giọt
lệ trong mắt, ông nói, "Ta không có cái gì khác để cho con, bởi vì tất cả
những gì ta cho con, đều sẽ bị tước mất
khỏi con, y như nó đã bị tước đi khỏi
ta. Ta chỉ có thể cho con tình yêu mà ta dành cho kẻ đã biết chính
mình."
Mặc dù tôi
không giữ chiếc nhẫn đó, tôi đã chu toàn ước muốn của ông. Tôi đã biết vị đó,
và tôi đã biết chân lý trong chính mình. Trong một chiếc nhẫn, thì có gì là
quan trọng? Nhưng cụ già đáng thương, ông yêu vị minh sư của mình, Mahavira, và
ông trao tình yêu đó cho tôi. Tôi kính trọng tình yêu của ông dành cho vị thầy
của mình, và dành cho tôi. Những lời nói cuối cùng trên môi ông là, "Đừng
lo lắng, bởi vì ta không hề đang chết."
Tất cả chúng
tôi chờ để xem ông có định nói cái gì khác nữa không, nhưng đó là tất cả. Đôi mắt
ông khép lại, và ông không còn nữa.
Tôi vẫn còn
nhớ sự im lặng đó. Cái xe bò "đang đi băng qua một lòng sông. Tôi nhớ
chính xác mỗi chi tiết. Tôi không nói gì bởi vì tôi không muốn khuấy động bà
tôi. Bà không nói một lời. Có một vài lời bình phẩm của ai đó, rồi tôi trở nên
lo lắng một chút về bà, và nói, "Hãy nói một cái gì đi, Nani; xin đừng im
lặng quá như vậy, thật không thể chịu đựng nổi."
Bạn có tin
được không, Nani hát một bài ca! Đó là cách mà tôi đã học được, rằng cái chết
phải là lễ hội. Bà hát chính bài ca mà bà đã từng hát khi yêu ông tôi lần đầu.
Điều sau đây
cũng đáng được ghi nhận: cách đây 90 năm, tại Ấn, Nani đã có dũng cảm để
"buông rơi" vào tình yêu. Bà vẫn chưa lấy chồng cho đến tuổi hai mươi
tư. Cái đó là rất hiếm. Có một lần, tôi
đã hỏi bà, tại sao bà không chịu lấy chồng trong một thời gian dài như thế. Bà
là một người phụ nữ đẹp… Tôi chỉ nói đùa với bà, rằng ngay cả vua của
Chattarpur, tiểu bang Khajuraho, có thể đã phải lòng bà.
Bà nói,
"Thật kỳ lạ, là con đã đề cập đến chuyện đó, bởi vì chính ông ta đã phải
lòng bà. Nhưng bà đã từ chối ông ta, không chỉ ông ta, mà còn rất nhiều người
khác nữa." Vào thời đó, tại Ấn, những cô gái kết hôn khi họ mới 7 tuổi, hay
tối đa, là 9 tuổi. Chỉ vì sợ tình yêu… nếu họ lớn thêm, họ có thể phải lòng một
ai đó. Nhưng bố của bà tôi là một nhà thơ; những bài ca của ông vẫn còn được
hát tại Khajuraho và những làng gần đó. Ông cương quyết rằng, trừ khi bà đồng
ý, ông sẽ không gả con gái mình cho bất cứ ai. Như một sự tình cờ, bà phải lòng
ông tôi.
Tôi hỏi,
"Cái đó lại càng kỳ lạ hơn; bà từ chối vua của Chattarpur, và thế nhưng bà
lại phải lòng người đàn ông nghèo này. Vì lý do gì? Chắc chắn ông không đẹp
trai cho lắm, cũng không phi thường trên bất cứ phương diện nào. Tại sao bà lại
phải lòng ông?"
Bà nói,
"Con đang hỏi một câu hỏi sai. Việc 'phải lòng' không có 'tại sao'. Ta chỉ
đơn giản thấy ông, chừng đó là đủ. Ta thấy đôi mắt ông, và một niềm tin cậy khởi
lên trong ta, mà nó không bao giờ lung lay."
Tôi cũng đã
hỏi ông tôi, "Nani bảo bà phải lòng ông. Cái đó là ổn về phần bà, nhưng tại
sao ông cho phép cuộc hôn nhân xảy ra?"
Ông nói,
" Ta không phải là một nhà thơ hay một nhà tư tưởng, nhưng ta có thể nhận
ra cái đẹp khi ta thấy nó."
Tôi chưa bao
giờ thấy một phụ nữ nào đẹp hơn Nani tôi. Chính tôi yêu bà, và tôi yêu bà suốt
đời bà. Khi bà mất ở tuổi 80, tôi vội vã về nhà và thấy bà đang nằm ở đó, đã chết.
Tất cả họ đều chỉ chờ một mình tôi, bởi vì bà đã bảo họ rằng, họ không nên đặt
thi thể bà lên giàn hỏa cho tới khi tôi về. Bà đã nhấn mạnh rằng, tôi sẽ châm lửa
vào giàn hỏa táng của bà, do vậy, họ đang chờ tôi. Tôi đi vào, vén khăn liệm
lên… và bà vẫn còn đẹp! Thật vậy, đẹp hơn bao giờ cả, bởi vì tất cả đều im lặng,
ngay cả cái náo động của hơi thở, của sự sống cũng không có ở đó. Bà chỉ là một
sự hiện diện.
Châm lửa vào
giàn hỏa táng là nhiệm vụ khó khăn nhất mà tôi từng làm trong đời mình. Nó như
thể là tôi đang châm lửa vào một trong những bức họa đẹp nhất của Leonard de
Vinci, hay Vincent Van Gogh. Dĩ nhiên, đối với tôi, bà quý giá hơn cả Mona
Lisa, đẹp hơn cả Cleopatra. Đó không phải là một sự phóng đại. Tất cả những gì
đẹp trong cái nhìn của tôi, một cách nào đó, đều đã đến bằng cách thông qua bà.
Bà giúp tôi trên mọi phương diện, để tôi có thể sống theo cách của mình. Không
có bà, có lẽ tôi đã là một chủ tiệm hay một bác sĩ, hay một kỹ sư, bởi vì khi
tôi đỗ kỳ thi tuyển sinh, thì cha tôi quá nghèo, thật khó để cho tôi vào đại học.
Nhưng mà ông sẵn sàng vay tiền để làm điều đó. Ông cương quyết rằng tôi phải
vào đại học. Tôi sẵn sàng, nhưng tôi sẽ không học ngành y, và tôi cũng sẽ không
vào trường kỹ sư. Tôi thẳng thừng từ chối trở thành bác sĩ, hay kỹ sư. Tôi bảo
ông, "Nếu cha muốn biết sự thật, thì con muốn là một sannyasin, một hobo.
Ông nói,
"Cái gì? Một hobo?"
Tôi nói,
"Vâng, con muốn học triết, để có thể trở thành một hobo triết học."
Ông từ chối
: "Trong trường hợp đó, ta sẽ không vay tiền và hãy nhận lấy mọi sự rắc rối."
Bà tôi nói,
"Đừng lo lắng, con trai. Con cứ vào đại học và làm bất cứ cái gì mà con muốn
làm. Ta còn sống, và ta sẽ bán mọi thứ mà ta có, chỉ để giúp con là chính mình.
Ta sẽ không hỏi là con muốn đi đâu, và con muốn học cái gì."
Bà không bao
giờ hỏi, và bà gửi tiền cho tôi một cách liên tục, ngay cả khi tôi đã trở thành
một giáo sư đại học.
Tôi phải bảo
bà rằng, bây giờ tôi đang tự kiếm được tiền, và tôi gửi tiền cho bà thì đúng
hơn.
Bà nói,
" Đừng lo lắng, ta không cần dùng món tiền này, và con hẳn đang dùng nó tốt
đẹp hơn."
Người ta thường
tự hỏi, tôi lấy đâu ra tất cả số tiền để mua sách, bởi vì tôi có hằng ngàn cuốn sách. Ngay cả khi
tôi mới chỉ là một học sinh trung học, tôi đã có hằng ngàn cuốn sách trong nhà.
Khắp nhà đầy sách, và mọi người tự hỏi tôi kiếm đâu ra tiền để mua. Bà tôi đã bảo
tôi, "Đừng bao giờ nói với ai là con lấy tiền ở đâu, bởi vì nếu cha con và
mẹ con biết rằng con lấy tiền từ nơi ta, thì họ sẽ bắt đầu hỏi xin tiền ta, và
ta sẽ khó lòng từ chối."
Bà tiếp tục
gửi tiền cho tôi. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng, ngay cả trong cái tháng mà
bà mất, bà đã gửi món tiền thường lệ cho tôi. Vào buổi sáng trong ngày bà mất,
bà đã ký tờ ngân phiếu. Bạn cũng sẽ kinh ngạc khi biết rằng, đó là số tiền cuối
cùng mà bà có trong ngân hàng. Có lẽ, bằng cách nào đó, bà biết rằng sẽ không
có ngày mai nào nữa.
Tôi may mắn
trên nhiều phương diện, nhưng may mắn nhất, là tôi đã có ông bà ngoại tôi… và
những ngày thơ ấu vàng son đó.