Read more
Osho - Kinh Kim Cương
Chương 3. Bánh xe pháp
‘Bởi vì, dù bất cứ ở đâu, vị bồ tát khi bố thí
không nên chấp vào bất cứ một điều gì. Bồ tát nên bố thí mà không cần được trợ
giúp bởi một tín hiệu nào. Tại sao vậy? Bởi vì nếu bồ tát bố thí một cách hoàn
toàn vô tư thì phúc đức thật là vô lượng.’
Phật hỏi, ‘Subhuti, ông nghĩ sao, ông có cho rằng
thấy được các tướng của Như Lai là thấy được Như Lai không?’ Ông Subhuti thưa,
‘Bạch Thế Tôn, không thể cho rằng thấy được các tướng của Như Lai là thấy được
Như Lai. Tại sao vậy? Vì Như Lai đã dạy rằng các tướng của Như Lai không phải
thật là các tướng của Như Lai.’ Phật nói tiếp, ‘Bất kì cái gì có hình tướng đều
là giả. Nếu các ông hiểu rằng tất cả mọi hình tướng đều không thật, tức là các
ông thấy được Như Lai.’
Ông Subhuti hỏi Phật, ‘Bạch Thế Tôn, trong thời
vị lai, thời mạt pháp, trong năm trăm năm cuối cùng, vào lúc chính pháp suy đồi,
sụp đổ, chúng sinh nghe giảng Kinh này chẳng biết có hiểu được chân lí hay
không?’ Phật bảo, ‘Subhuti, ông chớ nói như vậy! Cả trong thời vị lai mạt pháp
cũng có những chúng sinh khi nghe giảng kinh này sẽ hiểu được chân lí. Bởi vì,
Subhuti, trong thời vị lai, mạt pháp vẫn sẽ có những vị bồ tát. Những vị này đã
trồng căn lành không phải chỉ một đời phật mà họ đã nhiều kiếp tu hành, từ vô
lượng vô số chư phật, nên khi được nghe những lời kinh này, họ sẽ hiểu và sẽ
tin. Subhuti! Như Lai biết rõ họ, nhờ trí huệ của phật, Như Lai thấy rõ họ, nhờ
huệ nhãn của phật. Subhuti! Như Lai hoàn toàn biết rõ họ. Và tất cả họ sẽ được
phước đức vô lượng vô biên.’
Vậy, Subhuti, lắng nghe cho rõ
và chăm chú, Phật Gautama nói. Những lời này thật kì lạ - kì lạ vì Phật đang
nói với vị bồ tát. Sẽ không có gì kì lạ nếu những lời này được nói cho người
thường. Ta có thể hiểu được rằng người thường cần phải lắng nghe cho rõ. Lắng
nghe sao khó thế. Lắng nghe có nghĩa là hiện hữu ở đây và bây giờ. Lắng nghe có
nghĩa hiện hữu nhưng không một ý nghĩ nào. Lắng nghe có nghĩa thật tỉnh táo và
nhận biết. Nếu những điều kiện này được đáp ứng, chỉ thế thì bạn mới lắng nghe.
Tâm trí của bạn như kẻ điên rồ
bên trong, kẻ điên rồ đắm đuối. Tâm trí cứ xoay tròn cả nghìn lẻ một ý nghĩ, và
tâm trí cứ vơ vẩn khắp thế giới - trong quá khứ, trong tương lai. Làm sao bạn
có thể lắng nghe được? Và dù bạn đang lắng nghe thế nào, việc nghe đó sẽ không
phải là nghe đúng chút nào. Bạn sẽ nghe cái gì đó khác, không được nói ra chút
nào, bạn sẽ cứ bỏ lỡ điều được nói ra - bởi vì bạn không trong hài hoà. Dĩ
nhiên bạn sẽ lắng nghe những lời, bởi vì bạn không điếc, nhưng chừng ấy không
phải là lắng nghe.
Đó là lí do tại sao mà Jesus cứ
luôn luôn nói với các đệ tử của ông ấy, "Nếu các ông có tai, nghe. Nếu các
ông có mắt, nhìn." Các đệ tử đó không điếc mà cũng chẳng mù. Họ có mắt
tinh như mắt bạn, họ có tai thính như tai bạn. Những lời của Jesus không lạ kì;
chúng có liên quan. Ông ấy đang nói cho những người bình thường; ông ấy phải
lôi kéo sự chú ý của họ, ông ấy phải nói to. Nhưng lời của Phật mới kì lạ - ông
ấy đang nói với vị bồ tát, một sinh linh thượng đẳng, một sinh linh bồ đề; một
người đã sắp sửa trở thành vị phật.
Khi ông ấy nói 'Vậy, Subhuti, lắng
nghe cho rõ và chăm chú’ thì điều này là có ý nghĩa đích xác gì?
Lắng nghe cho rõ thường có
nghĩa là lắng nghe trong trạng thái tiếp nhận, trong sự tiếp nhận sâu sắc. Khi
bạn nghe, bạn thường biện luận, bạn thường phán xét, bạn thường nói, "Ờ,
điều này đúng đấy, vì nó phù hợp với ý thức hệ của tôi, còn điều này thì không
đúng vì tôi thấy nó chẳng logic. Cái này phải, cái này không phải. Cái này tôi
có thể tin, cái này tôi không thể tin..." Nếu bạn cứ liên tục đưa ra mọi
thứ như thế bên trong, thì bạn vẫn đang nghe đấy, nhưng bạn lại không lắng nghe
cho rõ.
Bạn đang nghe cùng với sự can
thiệp của tâm trí quá khứ của mình. Ai là việc phán xét này? Đấy không phải là
bạn, đấy là quá khứ của bạn. Bạn đã từng đọc vài điều, bạn đã từng nghe vài điều,
bạn đã từng bị huấn luyện về vài điều. Đấy là quá khứ liên tục can thiệp vào.
Quá khứ muốn chính nó trường tồn. Nó không cho phép bất cứ cái gì làm ngắt
quãng nó. Nó không cho phép bất cứ cái gì mới; nó chỉ cho phép những cái cũ khớp
với nó. Đó là điều bạn cứ làm khi bạn phán xét, khi bạn chỉ trích, khi bạn thảo
luận bên trong và tranh luận.
Lắng nghe cho rõ nghĩa là nghe
một cách vâng lời. Từ ‘vâng lời -
obedience’ này thật tuyệt vời. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng nguyên gốc của
‘vâng lời’ là từ obedire - có nghĩa
là nghe thấu đáo. Tại sao ‘vâng lời’
lại có nghĩa là nghe thấu đáo? Chúng cùng nghĩa sao? Vâng, chúng cùng nghĩa. Nếu
bạn lắng nghe một cách toàn bộ, thấu đáo, bạn sẽ vâng lời. Nếu chân lí có đó, bạn
sẽ vâng theo. Bạn sẽ không cần bất kì quyết định gì về phần mình. Chân lí tự nó
là bằng chứng. Một khi đã được nghe, bạn sẽ trở nên vâng lời nó. Do đó từ ‘vâng
lời’ này có nguồn gốc từ obedire - lắng
nghe một cách thấu đáo. Hay như tín ngưỡng Do Thái nói: vạch trần lỗ tai ra.
Nếu bạn đã thực sự để mở tai mình và không có can thiệp, không có quấy rối bên
trong, không có phân tán vào bất kì đâu, thì bạn không chỉ để mở tai mình, bạn
còn để mở cả trái tim mình. Và nếu hạt mầm rơi vào trái tim, sớm hay muộn nó
cũng sẽ trở thành cây, sớm hay muộn nó cũng sẽ nở hoa. Có thể mất chút thời
gian để cho nó trở thành cây. Sẽ phải chờ đúng mùa vụ, chờ mùa xuân đến, nhưng
nó sẽ trở thành cây. Bạn sẽ vâng lời nó nếu bạn đã nghe thấy chân lí.
Đó là lí do tại sao tâm trí
không cho phép bạn nghe thấy điều ấy, vì tâm trí nhận biết rằng một khi chân lí
đã được nghe thấy thì không còn lối thoát. Cho nên nếu bạn muốn thoát, tốt hơn
cả là đừng nghe. Một khi đã nghe rồi, bạn bị bắt vào trong nó; thế thì không lối
thoát. Làm sao bạn có thể thoát ra được khi bạn biết chân lí là gì? Thế thì
chính hiện tượng bạn biết chân lí là gì sẽ tạo nên kỉ luật trong bạn. Bạn bắt đầu
tuân theo nó. Và đấy không phải là cái gì bạn áp đặt lên mình; nó đến theo ý
riêng của nó.
Cái chốt ở tai cần phải bị vứt
bỏ đi. Những chốt tai ấy là gì? Sợ chân lí là cái chốt cơ bản. Bạn sợ chân lí -
mặc cho điều bạn nói ra, mặc cho bạn cứ lắp đi lắp lại rằng "tôi muốn biết
chân lí". Bạn sợ chân lí vì bạn đã sống trong dối trá. Và bạn đã sống
trong dối trá lâu đến mức tất cả những điều dối trá đó đều sợ hãi, run rẩy - nếu
chân lí đến, tất cả chúng sẽ phải rời bỏ bạn. Chúng đã trở thành người chủ của
bạn. Hệt như bóng tối sợ ánh sáng, dối trá sợ chân lí. Khoảnh khắc bạn tiến tới
gần chân lí hơn, tâm trí sẽ trở nên rất rối loạn. Nó sẽ tạo ra nhiều náo động,
nó sẽ tung ra làn bụi mù, nó sẽ tạo ra đám mây bao phủ lấy bạn để cho bạn không
thể nào biết được chân lí là gì.
Các chốt tai cần phải bị vứt bỏ
đi. Cái chốt cơ bản là sợ hãi. Bạn đang bị khoá lại trong cái sợ. Phật đã nói rằng
chừng nào bạn còn chưa can đảm thì bạn vẫn chưa đạt tới được chân lí. Và nhìn
tôn giáo của bạn mà xem, nhìn điều bạn đã làm. Cái gọi là các tôn giáo của bạn
tất cả đều dựa trên sợ hãi. Và thông qua sợ hãi thì không có đường tới chân lí;
chỉ có can đảm mới biết chân lí là gì.
Khi bạn cúi mình trong nhà thờ,
đền chùa, hay bạn cúi đầu trước pho tượng, kinh sách, tín ngưỡng, việc cúi mình
đó xuất phát từ đâu? Quan sát bên trong - và bạn sẽ thấy chỉ toàn sợ hãi với sợ
hãi. Từ sợ hãi thì không có niềm tin, nhưng cái gọi là niềm tin thì tất cả đều
dựa trên sợ hãi. Đó là lí do tại sao trên thế giới này rất hiếm khi bắt gặp được
người có niềm tin, vì niềm tin chỉ xảy ra khi sợ hãi đã biến mất. Niềm tin chỉ
xuất hiện trên cái chết của sợ hãi.
Niềm tin nghĩa là tin cậy. Làm
sao người luôn luôn sợ hãi có thể tin cậy được? Người đó bao giờ cũng nghĩ ngợi,
người đó bao giờ cũng ranh mãnh, người đó bao giờ cũng bảo vệ, đề phòng. Làm
sao người đó có thể tin cậy được? Để tin cậy, bạn cần dũng cảm. Để tin cậy, bạn
cần phải bạo dạn. Để tin cậy, bạn cần có khả năng mạo hiểm. Để tin cậy, bạn cần
đi vào trong hiểm nguy.
Mấy hôm trước đây, tôi đã nhìn
một chữ biểu ý Trung quốc nói về khủng hoảng và trí tò mò của tôi bị kích
thích, vì chữ biểu ý Trung quốc cho khủng hoảng bao gồm hai biểu tượng: một có
nghĩa hiểm nguy, và biểu tượng kia có nghĩa cơ hội. Đúng đấy, khoảnh khắc đó là
cốt yếu khi bạn đối diện với cả hai: nguy hiểm và cơ hội. Nếu bạn không đi vào
trong nguy hiểm này, bạn sẽ bỏ lỡ cơ hội. Nếu bạn muốn có cơ hội, bạn sẽ phải
đi vào trong nguy hiểm. Những người biết cách sống nguy hiểm, chỉ họ mới là người
tôn giáo. Sợ hãi là cái chốt tai cơ bản. Rồi còn có những cái chốt khác, nhưng
chúng nảy sinh từ cái sợ - nào phán xét, biện luận, níu bám với quá khứ, không
cho phép cái mới đi vào trong bản thể bạn.
Trong rất nhiều dạng, trong rất
nhiều ngôn ngữ, từ chỉ sự vâng lời là dạng nhấn mạnh của từ lắng nghe. Horchen, gehorchen, obedire vân vân - tất
cả những từ này đơn giản nói tới việc lắng nghe toàn bộ, mãnh liệt, đam mê. Một
điều nữa. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng từ ‘absurd’ - ngớ ngẩn - đích xác là ngược lại với từ vâng lời. Chữ la
tinh ‘absurdus’ nghĩa là điếc đặc.
Cho nên nếu bạn nói cái gì đó là ngớ ngẩn, absurd,
thì bạn đơn giản nói ‘Tôi hoàn toàn điếc đặc với điều người ta đang nói cho
tôi.’ Thay thế thái độ điếc đặc bằng thái độ vâng lời và thế thì bạn sẽ có khả
năng lắng nghe, thế thì bạn sẽ để trần tai ra nghe, thế thì bạn sẽ cởi mở hoàn
toàn.
Điều tốt là nên nói với người
bình thường "Lắng nghe chăm chú vào." Nhưng sao Phật lại nói điều đó
với ông Subhuti? Có cái gì đó rất có ý nghĩa cần phải được hiểu. Lời nói tự nó
chẳng có nghĩa gì cả; ý nghĩa chỉ được tạo ra khi lời nói được đề cập tới ai
đó. Lời nói được dành cho ai đó sẽ xác định ra ý nghĩa. Cho nên bạn không thể
tìm thấy nghĩa đó trong bất kì từ điển nào vì từ điển không soạn riêng cho bồ
tát; chúng được soạn cho những người bình thường.
Vậy thì câu này có nghĩa gì - lắng
nghe cho rõ và chăm chú. Nó hàm ý một đôi điều cần phải được hiểu. Một: khi một
người như tôn giả Subhuti có đó, hoàn toàn không có vấn đề chốt lỗ tai, không
có chút nào. Không có vấn đề gì về sự cởi mở của ông ấy đối với Phật, không có
nghi ngờ gì về điều đó cả; ông ấy cởi mở rồi. Chắc chắn là ông ấy không còn gì
tranh luận với Phật; ông ấy hoàn toàn hài hoà với Phật, tuôn chảy với Phật.
Nhưng khi một người đã đạt tới trạng thái bồ tát, khi một người đã tới rất gần
phật tính, lại có vài vấn đề mới.
Mỗi giai đoạn mới của tâm thức
đều có vấn đề riêng của nó. Đây là vấn đề đối với bồ tát: ông ấy cởi mở, ông ấy
tiếp nhận, ông ấy sẵn sàng, nhưng ông ấy đã trở nên bị bật rễ khỏi thân thể.
Trái tim ông ấy cởi mở, bản thể ông ấy cởi mở, nhưng ông ấy lại không còn được
bắt rễ vào thân thể. Ông ấy đã trở nên tách ra khỏi thân thể; thân thể chỉ còn
treo quanh đó. Ông ấy không sống trong thân thể, ông ấy gần như không đồng nhất
với thân thể nữa - đấy là vấn đề.
Khi ai đó bảo bạn, "Lắng
nghe cho rõ", người đó muốn nói rằng thân thể bạn đang lắng nghe, nhưng bạn
thì không lắng nghe. Khi Phật nói điều đó với ông Subhuti, ông ấy ngụ ý
"Ông lắng nghe, nhưng thân thể ông không lắng nghe." Điều đó hoàn
toàn đối lập. Khi bạn nghe, thân thể bạn ở đây, bạn không ở đây. Lời nói đi vào
tai này, tạo nên âm thanh và tiếng động ở đó, rồi đi ra tai kia. Chúng chưa bao
giờ đi vào bản thể bạn; bản thể bạn không chạm vào chúng. Đối với một người như
ông Subhuti, chính là điều ngược lại. Bản thể ông ấy có đấy, nhưng thân thể ông
ấy lại không có đấy. Ông ấy đã mất dấu vết của thân thể. Ông ấy quên mất, ông ấy
có xu hướng quên thân thể. Có những khoảnh khắc mà ông ấy chẳng còn nghĩ đến
thân thể chút nào. Ông ấy sẽ có đó nhưng thân thể sẽ không có đó. Ông ấy đã tới
trạng thái vô thân thể.
Bây giờ, lắng nghe chỉ có thể thực hiện được
khi thân thể và linh hồn cùng kết hợp nhau. Trong bạn thân thể hiện diện, linh
hồn vắng mặt. Trong ông Subhuti linh hồn hiện diện nhưng thân thể vắng mặt. Đó
là ý của Phật khi ông ấy nói, "Subhuti, lắng nghe cho rõ". Đem thân
thể ông lại đây. Để thân thể ông vận hành. Nhập xác, bắt rễ trong thân thể, vì
thân thể là phương tiện, thân thể là công cụ, cái trung gian.
Và Phật nói... và chăm chú. Phải
chăng ông Subhuti thiếu chú ý? Điều này không thể có, vì nếu như vậy thì ông ấy
không thể là sinh linh bồ đề. Sinh linh bồ đề là người đã đạt tới sự chú ý, người
nhận biết, người tỉnh táo, người có ý thức, người không còn là người máy nữa.
Thế thì tại sao Phật lại bảo "Chú ý, chăm chú lắng nghe?" Lần nữa một
ý nghĩa khác cần phải được hiểu.
Một người như ông Subhuti có xu
hướng rút vào nội tâm. Nếu ông ấy không nỗ lực, ông ấy sẽ chìm vào trong bản thể
mình, ông ấy sẽ bị mất hút ở đó. Ông ấy chỉ có thể ở bên ngoài nếu ông nỗ lực.
Đối lập lại là trường hợp bạn: phải nỗ lực lắm thì bạn hãn hữu mới có thể rút
vào bản thể nội tâm mình. Trong một khoảnh khắc ý nghĩ dừng lại và bạn mất hút
vào cảnh tuyệt vời của nội tâm. Nhưng điều này hiếm khi xảy ra, và bạn chỉ đạt
được tới đó bằng những cố gắng lâu dài gian nan - thiền, yoga, thế này thế nọ -
và thế thì chỉ trong một vài khoảnh khắc bạn có cái đẹp đó, phúc lành đó. Bầu
trời rộng mở, mây mù biến mất nhường chỗ cho ánh sáng, và có cuộc sống, có niềm
vui hoàn toàn. Nhưng chỉ hiếm hoi lắm mới có các khoảnh khắc đó... lần nữa rồi
lần nữa nó lại mất đi. Nếu bạn hết sức cố gắng để chú ý thì bạn đạt tới kinh
nghiệm nội tâm này.
Đối với ông Subhuti, lại là điều
ngược lại. Ông ấy đã mất hút trong bản thân mình, hoàn toàn chìm ngập trong niềm
vui nội tâm. Chừng nào ông ấy còn chưa nỗ lực, ông ấy sẽ không thể nào lắng
nghe được điều Phật đang nói. Ông ấy hoàn toàn có khả năng nghe im lặng của Phật.
Nếu Phật im lặng, sẽ có giao cảm, nhưng nếu Phật nói cái gì đó, ông ấy phải cố
gắng, ông ấy phải kéo mình, ông ấy phải đi ra, ông ấy phải ra khỏi bản thể và
nhập xác, ông ấy phải rất chăm chú. Ông ấy bị say với rượu nội tâm.
Do đó Phật nói những lời kì lạ
này: lắng nghe cho rõ và chăm chú. Và đây là lần đầu tiên tôi giải thích cho
các bạn về những lời này. Từ hai mươi nhăm thế kỉ rồi, chưa có ai bình giải về
những lời này. Chúng đã bị hiểu một cách bình thường, cứ như là Phật đang nói với
bất kì ai, "Lắng nghe cho rõ và chăm chú". Phật không nói với người
bình thường đâu.
Đã hai mươi nhăm thế kỉ rồi mà
không ai bình giải cho đúng. Người ta cứ tưởng rằng họ đã hiểu ý nghĩa của những
lời này. Ý nghĩa của những lời này thay đổi: nó phụ thuộc vào người dùng chúng,
vào người nghe chúng. Ý nghĩa của những lời này tuỳ theo ngữ cảnh và hoàn cảnh.
Lời, tự chúng không có ý nghĩa. Lời là vô nghĩa. Ý nghĩa chỉ nảy sinh trong
tình huống đặc biệt.
Bây giờ tình huống này là rất
hi hữu. Phật đã dùng những lời này cả nghìn lần; ngày nào ông ấy cũng phải dùng
những lời này cho mọi người - "Lắng nghe cho rõ, chăm chú". Cho nên
những người đã bình giảng về Kinh Kim Cương đều bỏ lỡ. Tôi cho là người bình giảng
không phải là người chứng ngộ. Họ biết về ngôn ngữ nhưng họ hoàn toàn không nhận
biết về tình huống kì lạ này. Phật không nói với người bình thường nào đó; Phật
đã nói với ai đó, người rất gần với phật tính, người đang ở ngay biên giới của
nó, sắp đi vào phật tính.
Và ông ấy bắt đầu câu này bằng
chữ ‘vậy’: Vậy,
Subhuti, lắng nghe cho rõ và chăm chú. Chữ ‘vậy’ này cũng rất phi
logic. Chữ ‘vậy’ chỉ logic khi nó tới như một phần, như phần kết của logic tam
đoạn luận. ‘Tất cả mọi người đều chết. Socrates là một người, vậy Socrates chết.’
Thế thì ‘vậy’ là hoàn toàn phải. Nó là một phần của tam đoạn luận, một kết luận.
Nhưng ở đây không có logic, chẳng có gì đứng trước nó cả, không có tiền đề. Và
Phật bắt đầu bằng phần kết - vậy.
Điều đó nữa cũng có tính kì lạ
trong nó. Và đó là cách thức của Phật. Đó là cách thức mà trong Tâm Kinh, ông ấy đã nói với ông
Sariputra (Xá Lợi Phất): Vậy! Sariputra... Bây giờ ông ấy nói: Vậy, Subhuti...
Subhuti chẳng nói điều gì để cần đến chữ ‘vậy’, Phật chẳng nói điều gì để cần đến
chữ ‘vậy’, nhưng cái gì đó đang hiện diện trong bản thể ông Subhuti. Chữ ‘vậy’
có quan hệ tới sự hiện diện đó; chẳng điều gì đã được thốt ra.
Thầy đáp ứng cái đang hiện diện
trong bạn. Thầy đáp ứng im lặng của bạn hơn là lời của bạn. Thầy quan tâm đến
việc truy tìm của bạn hơn những câu hỏi của bạn. Thầy quan tâm đến nhu cầu của
bạn hơn là câu hỏi của bạn. Chữ ‘vậy’ này chỉ ra một nhu cầu tinh tế trong bản
thể sâu thẳm của Subhuti. Có thể tự ông Subhuti cũng chưa nhận biết được về nó,
có thể ông Subhuti sẽ cần có một chút thời gian để trở nên nhận biết về điều
đó.
Thầy phải cứ nhìn vào trong bản
thể của đệ tử và thầy phải đáp ứng lại cái nhu cầu nội tâm đó - được diễn đạt,
không được diễn đạt, đấy không phải là vấn đề. Có thể nếu bị bỏ lại một mình, đệ
tử sẽ mất nhiều tháng để tìm ra nhu cầu đó - hay thậm chí nhiều năm, hay thậm
chí nhiều kiếp sống nữa. Nhưng thầy không chỉ nhìn vào quá khứ của bạn, không
chỉ nhìn vào hiện tại của bạn, mà còn nhìn cả vào tương lai của bạn nữa. Cái gì
sẽ là nhu cầu của bạn ngày mai, ngày kia, kiếp này và kiếp tiếp - thầy đưa ra
toàn bộ cuộc hành trình. Chữ ‘vậy’ này có liên quan đến một nhu cầu nào đó bên
trong bản thể nội tâm của tôn giả Subhuti.
Và bây giờ là lời kinh:
‘Bởi vì, dù bất cứ ở đâu, vị bồ tát khi bố thí
không nên chấp vào bất cứ một điều gì.’
Đó là cái nhu cầu mà vì nó Phật
đã dùng 'Vậy, Subhuti, lắng nghe cho rõ và chăm chú'. Trong thâm tâm, chắc hẳn
ông Subhuti có ý niệm này, một ý niệm rất tinh vi - "Nếu ta đem bố thí cho
mọi người những gì ta chứng đắc thì phước đức của ta sẽ lớn."
Điều này có thể chưa thành lời,
điều này có thể chưa thành ý nghĩ; nó có thể mới chỉ là một cảm giác, một gợn
sóng khởi lên sâu trong thâm tâm. "Nếu ta bố thí pháp cho chúng
sinh..." và đó là bố thí lớn nhất, Phật đã từng nói thế. Bố thí lớn nhất
là bố thí chứng ngộ của bạn cho mọi người, chia sẻ nó. Điều đó phải là điều lớn
nhất. Ai đó chia sẻ tiền bạc: điều đấy chẳng là gì cả. Ngay cả nếu người đó
không có ý định chia sẻ, thì tiền bạc vẫn cứ bị bỏ lại đây khi người đó chết.
Ai đó chia sẻ cái gì đó khác. Nhưng chia sẻ chứng ngộ, đó là chia sẻ cái vĩnh hằng,
chia sẻ chứng ngộ là chia sẻ điều thiêng liêng, chia sẻ điều tối thượng. Phật
đã gọi đó là bố thí lớn nhất.
Bây giờ Phật đang bảo ông
Subhuti chia sẻ bất kì cái gì ông ấy đã chứng đắc. Và tạo ra một quyết tâm,
chittopad, tạo ra một quyết tâm lớn trong bản thể bạn rằng bạn sẽ không rời khỏi
bờ bên này chừng nào bạn còn chưa giải thoát hết cho mọi chúng sinh. Tạo ra một
hành động quyết định lớn trong bản thể bạn trước khi bạn bắt đầu tan biến. Trước
khi con thuyền của bạn bắt đầu tiến về bờ bên kia, khởi lên một ước muốn lớn
lao giúp đỡ mọi người. Ước muốn giúp đỡ mọi người đó sẽ đóng vai trò dây xích cột
vào bờ bên này. Trước khi điều đó thành quá muộn, bạn tạo ra chittopad. Dùng hết
sức mình trong việc đó - rằng "ta sẽ không rời khỏi bờ bên này, cho dù bờ
bên kia có hấp dẫn đến đâu."
Và sức hấp dẫn thật lớn. Khi tất
cả đã biến chuyển và bạn đã trở nên có khả năng sang bờ bên kia, nơi bạn đã từng
khao khát trong cả triệu kiếp sống, hấp dẫn rời bỏ bên này thật là lớn. Vì cái
gì? Bạn đã đau khổ đủ rồi, và bây giờ bạn đã có hộ chiếu để vào niết bàn. Thế
mà Phật lại nói "Từ chối hộ chiếu đi, vứt bỏ nó đi và phát nguyện rằng ông
không rời bỏ bờ bên này chừng nào ông còn chưa giải thoát cho tất cả các chúng
sinh."
Khi nghe những lời này, một ước
muốn tinh tế phải đã nảy sinh trong tim ông Subhuti, tận nơi sâu thẳm trong bản
thể của ông, rằng "Đó sẽ là điều vĩ đại. Ta sẽ được vô lượng phước đức vì
nó, vô lượng punya, vô lượng công đức." Điều đó phải đã là một gợn sóng nhỏ.
Cũng khó ngay cả cho ông Subhuti để đọc được nó, đọc được nó là gì. Nó phải đã
loé lên, một tia chớp trực giác, trong một giây, hay chỉ một phần giây, nhưng
nó đã được phản chiếu trong tấm gương của Phật.
Thầy là tấm gương. Bất kì cái
gì trong bạn đều được phản chiếu trong thầy. Đôi khi thầy sẽ không trả lời câu
hỏi bạn nêu ra bởi lẽ câu hỏi của bạn có thể chỉ là tò mò và chẳng liên quan gì
đến bản thể nội tâm của bạn, hoặc câu hỏi của bạn có thể chỉ là phô bầy tri thức
của bạn. Hay câu hỏi của bạn có thể chỉ để chứng tỏ cho người khác: "Xem đấy,
tôi là người tìm kiếm tâm linh lớn đấy chứ. Tôi hỏi những câu hỏi thật tuyệt vời."
Câu hỏi không thể mang tính tồn tại, nó có thể chỉ là trí năng. Thế thì thầy sẽ
không định trả lời nó.
Và đôi khi thầy sẽ trả lời câu
hỏi mà bạn đã không hỏi; không chỉ không hỏi, mà bạn còn chưa bao giờ biết đến
sự tồn tại của nó trong bạn. Nhưng nó sẽ liên quan tới nhu cầu và đòi hỏi sâu
thẳm của bạn.
Phật nói:
‘Bởi vì, dù bất cứ ở đâu, vị bồ tát khi bố thí
không nên chấp vào bất cứ một điều gì.’
Chấp vào, dựa vào, tức là có động
cơ. Chấp vào nghĩa là "ta sẽ có được cái gì đó từ điều đó." Thế thì bạn
đã bỏ lỡ toàn bộ vấn đề. Thế thì đấy là sự mặc cả, thế thì đấy không còn là bố
thí nữa. Và niết bàn chỉ có thể là bố thí, nó không thể là mặc cả. Nó không phải
là kinh doanh. Bạn phải cho nó đơn giản vì niềm vui tuyệt đỉnh của việc cho nó.
Bạn không nên mang bất kì động cơ thu về bất kì điều gì từ nó. Nếu bạn mang động
cơ thu được cái gì từ nó thì bạn chẳng thể giúp được ai cả; trên thực tế, bản
thân bạn vẫn cần được giúp đỡ. Bạn vẫn còn chưa được giải thoát, bạn chưa có hộ
chiếu sang bờ bên kia. Bạn có thể dẫn sai đường nhưng bạn không thể hướng dẫn được.
Bố thí chân chính là sự tràn đầy.
Bạn chứng ngộ viên mãn đến mức nó đơn giản tràn ra. Điều đó cần mọi người đến
mang đi. Và bạn cảm thấy biết ơn đối với bất cứ ai mang điều đó đi hộ bạn vì
người đó làm nhẹ gánh cho bạn. Khi đám mây tới và trút mưa xuống mặt đất, nó cảm
thấy biết ơn mặt đất vì mặt đất đã nhận và đám mây được nhẹ gánh. Thế đấy, sự
việc hệt như vậy.
Khi chứng ngộ nảy sinh, nó cứ
tuôn chảy mãi. Bạn có thể cứ chia sẻ nó, bao nhiêu tuỳ ý, mà nó thì cứ tới mãi,
cứ tràn ngập mãi, tràn ngập mãi. Không có chấm dứt cho nó. Bạn đã tới được cội
nguồn vĩnh hằng. Từ nay bạn đừng bủn xỉn nữa và đừng có động cơ nào nữa và cũng
đừng có bất kì ý niệm nào về việc thu lại được cái gì đáp lại.
‘Bởi vì, dù bất cứ ở đâu, vị bồ tát khi bố thí
không nên chấp vào bất cứ một điều gì.
Bồ tát nên bố thí mà không cần được trợ giúp bởi
một tín hiệu nào.’
Người đó sẽ không nghĩ
"Đây là bố thí" và người đó sẽ không nghĩ rằng "Ta là người cho
và kẻ kia là người nhận." Không, tất cả những ý niệm và khái niệm này phải
bị vứt bỏ hết. Không có người cho, không có bố thí, không có người nhận; tất cả
là cái một. Kẻ được bạn giúp cũng chính là bạn thôi. Người bạn đang cho chỉ là
một dạng khác của bạn... giống như bạn đang cho từ tay trái sang tay phải vậy.
Không cần phải cảm thấy vĩ đại về điều đó. Không có người cho, không có người
nhận mà cũng chẳng có bố thí nốt.
‘Bồ tát nên bố thí mà không cần được trợ giúp
bởi một tín hiệu nào. Tại sao vậy?
Bởi vì nếu bồ tát bố thí một cách hoàn toàn vô
tư thì phúc đức thật là vô lượng.’
Bây giờ đây là vấn đề mà bạn sẽ
nhiều lần phải đối diện. Vấn đề đó là, phước đức của bạn lớn nếu bạn không nghĩ
đến nó. Nếu bạn nghĩ đến nó, nó liền biến mất. Nếu bạn ham muốn nó, bạn sẽ
không bao giờ được nó. Nếu bạn không ham muốn nó, thì nó cứ mưa mãi lên bạn.
Trên bình diện thấp hơn, phát
biểu của Jesus là phải. Phát biểu đó được trao cho người bình thường, "Hỏi
và điều đó sẽ được cho. Tìm kiếm và ông sẽ tìm thấy. Gõ và cửa sẽ được mở ra
cho ông." Nhưng Phật đang nói với ông Subhuti, và ông ấy nói chính xác,
"Hỏi và điều đó sẽ không được cho. Tìm kiếm và ông sẽ không tìm thấy. Gõ cửa
và cửa sẽ biến thành Vạn lí trường thành Trung Quốc; chúng sẽ không bao giờ mở."
Và nhớ lấy, khác biệt là do ở người nghe. Jesus nói với những người bình thường,
Phật nói với người xuất chúng.
Phật hỏi:
‘Subhuti, ông nghĩ sao, ông có
cho rằng thấy được các tướng của Như Lai là thấy được Như Lai không?’
Ông Subhuti thưa :
‘Bạch Thế Tôn, không thể cho rằng
thấy được các tướng của Như Lai là thấy được Như Lai. Tại sao vậy?
Vì Như Lai đã dạy rằng các tướng
của Như Lai không phải thật là các tướng của Như Lai.’
Phật nói tiếp:
‘Bất kì cái gì có hình tướng đều
là giả.
Nếu các ông hiểu rằng tất cả mọi
hình tướng đều không thật, tức là các ông thấy được Như Lai.’
Những lời trên đây có vẻ khó hiểu.
Chúng không khó hiểu. Chúng có vẻ khó hiểu nhưng chúng không khó hiểu. Nhưng ở
trình độ cao mà Phật nói, tất cả đều trở nên mâu thuẫn: mâu thuẫn trở thành
cách duy nhất để diễn đạt. Ở trình độ viên mãn như vậy của bản thể, người ta phải
thành ngược đời. Logic mất hết ý nghĩa. Nếu tiếp tục bám giữ logic, người ta sẽ
không thể đi vào sự viên mãn đó và người ta không thể nào diễn đạt được chân lí
đó. Chân lí đó nhất định phải là mâu thuẫn.
Phật hỏi, "Subhuti, ông có
cho rằng thấy được các tướng của Như Lai là thấy được Như Lai không?" Kinh
sách Phật giáo chép rằng vị phật được đặc trưng bởi ba mươi hai tướng tốt, là
những dấu hiệu của siêu nhân xuất chúng. Vậy ba mươi hai tướng tốt ấy có phải
là yếu tố quyết định không?
Đối với người bình thường, các
tướng đó là quyết định, vì bạn không có con mắt khác; bạn chỉ có thể thấy dấu
hiệu bề ngoài. Bạn sống theo dấu hiệu, theo hình tướng. Nhưng đối với một người
như tôn giả Subhuti, người có thể thấy được nội tâm, có thể thấy được bên trong
Phật, thì những dấu hiệu bề ngoài, những tướng tốt ấy chẳng liên quan gì cả. Và
hơn nữa, việc có được cái gì đó không phải là phẩm hạnh của vị phật - cho dù là
ba mươi hai tướng tốt đi chăng nữa. Chúng chẳng liên quan gì. Vị phật phải hoàn
toàn rất bình thường, vì ông ấy chẳng có gì cả. Đó là dấu hiệu thực của ông ấy:
không có gì cả. Không có cả đến phật tính, đấy mới là dấu hiệu thực của phật
tính. Đây là cách mọi thứ trở thành mâu thuẫn.
Vị phật thực là người thậm chí
không nhận mình là phật nữa, bởi vì mọi điều tự nhận đều giả dối. Tự nhận là
công việc của kẻ dối trá. Vị phật không nhận điều gì, ông ấy không tuyên bố.
Ông ấy chẳng ham muốn gì. Ông ấy không mảy may quan tâm tới phô trương. Ông ấy
không quan tâm tới việc thuyết phục bất kì ai về việc ông ấy là ai. Ông ấy hoàn
toàn hiện hữu ở đó - bạn có thể chia sẻ ông ấy, bạn có thể cùng nhảy múa với
ông ấy, bạn có thể chia sẻ lễ hội của ông ấy - nhưng ông ấy không có đó để chứng
minh bất kì cái gì. Chứng minh bất kì điều gì chỉ chứng tỏ rằng bạn còn chưa đạt
tới. Ông ấy chẳng có gì để phòng giữ cả.
Những dấu hiệu bề ngoài ấy có
thể được tạo ra bởi những kẻ không phải là chư phật. Bất cứ cái gì cũng có thể
được tạo ra. Thí dụ, hơi thở của Phật hoàn toàn im lặng, dường như ông ấy không
thở chút nào. Nhưng điều đó thì bất kì nhà yoga nào không phải là vị phật cũng
có thể làm được. Bạn có thể tập tành, luyện thở, và bạn có thể đưa hơi thở tới
điểm gần ngừng thở. Bạn có thể vượt qua Phật.
Hơi thở của ông ấy chậm bởi vì
ông ấy đã làm chậm lại, không phải vì ông ấy đã luyện tập bất kì bài tập thở
nào. Hơi thở ông ấy chậm vì ông ấy không đi đâu cả, vì tất cả mọi ham muốn đều
đã tan biến; đó là lí do tại sao hơi thở ông ấy lại chậm, gần như không thấy được.
Lí do không phải là ở chỗ ông ấy là một nhà yoga vĩ đại, không. Lí do là ở chỗ
ham muốn đã bị vứt bỏ, chẳng có gì vội vã cả. Ông ấy chỉ đi dạo buổi sáng, ông ấy
không định đi đâu cả. Ông ấy không có tương lai, không lo nghĩ.
Bạn đã bao giờ quan sát chưa?
Khi bạn lo nghĩ, việc thở của bạn trở thành rối loạn. Khi bạn giận dữ, việc thở
của bạn trở thành bạo hành. Khi bạn làm tình và đam mê nổi lên, việc thở của bạn
trở nên rất rối loạn, hừng hực. Niềm đam mê của vị phật đã trở thành lòng từ
bi, ham muốn của ông ấy đã bị vứt bỏ, tan biến... như những chiếc lá vàng rụng
khỏi cây. Và hơi thở của ông ấy chậm dần, chậm dần, chậm dần.
Nhưng nếu đây là dấu hiệu, thế
thì bất kì kẻ giả vờ nào cũng có thể phô diễn được dấu hiệu ấy. Phật ngồi hoàn
toàn im lặng, tư thế ông ấy bất động, ông ấy cứ lưu mãi một tư thế. Nhưng điều
này có thể được bất kì ai thực hiện, chỉ cần một chút ít thực hành, nhưng với
thực hành ấy bạn sẽ không trở thành vị phật.
Cho nên Phật nói:
Phật nói tiếp:
‘Bất kì cái gì có hình tướng đều
là giả...’
Nếu ai đó tự nhận, "Tôi có
những tướng Phật đây này. Nhìn đây, tôi là phật đấy!" thì đó chỉ là giả dối,
vì chính sự tự nhận là bằng chứng của giả dối.
Nếu các ông hiểu rằng tất cả mọi
hình tướng đều không thật, tức là các ông thấy được Như Lai.’
Nhưng tại sao Phật bỗng nhiên lại
hỏi ông Subhuti câu ấy? Một ham muốn đã nảy sinh trong Subhuti. Hừ? - có một số
điều cần phải được hiểu. Một ham muốn phải đã nảy sinh trong Subhuti. Ông ấy sắp
sửa thành vị phật. Một ham muốn phải đã nảy sinh, "Ta sắp được ba mươi hai
tướng tốt. Ta sắp trở thành phật, ta sẽ được tôn là phật. Ta sẽ có ba mươi hai
tướng tốt."
Điều này có thể chỉ là một ham
muốn vô ý thức, chỉ là một gợn sóng... Khi nhìn thấy Phật với ba mươi hai tướng
tốt, sự duyên dáng của ông ấy, vẻ đẹp của ông ấy, ai mà không bắt đầu ham muốn?
Và ông Subhuti bây giờ có khả năng, đang ở ngay ngưỡng phật tính. Khi Phật đang
nói về việc cho cứ như bạn không cho, khi Phật đang nói rằng nếu bạn có thể cho
mà không mang ý niệm về người cho, vật tặng và người nhận thì được vô lượng phước
đức... lắng nghe điều này, ông ấy phải đã khao khát. Niềm khao khát có thể vẫn
còn là một hạt mầm tinh tế, nhưng ông ấy phải đã khao khát. "Thế thì với
phước đức vô lượng như vậy, ta sẽ thành vị phật. Ta sẽ có ba mươi hai tướng tốt
- cùng hương thơm vẫn bao quanh Phật, cùng duyên dáng, cùng rực rỡ, cùng phúc
lành! A ha!" Ông ấy phải đã tạo ra đâu đó ham muốn này.
Thấy được ham muốn ấy, Phật nói
"Subhuti, ông nghĩ sao, ông có cho rằng thấy được các tướng của Như Lai là
thấy được Như Lai không?" Chừng nào bạn còn chưa thấy được dòng chảy tiềm
tàng ấy trong tâm thức hay vô thức của ông Subhuti, bạn sẽ không hiểu được Kinh
Kim Cương.
Ông Subhuti hỏi Phật:
‘Bạch Thế Tôn, trong thời vị
lai, thời mạt pháp, trong năm trăm năm cuối cùng, vào lúc chính pháp suy đồi, sụp
đổ, chúng sinh nghe giảng Kinh này chẳng biết có hiểu được chân lí hay không?’
Bây giờ bạn sẽ ngạc nhiên: bây
giờ là thời đại mà ông Subhuti đang nói tới, và các bạn là các chúng sinh đó.
Hai nghìn năm trăm năm đã trôi qua. Ông Subhuti đã hỏi về các bạn.
Phật đã nói rằng bất kì khi nào
một tôn giáo sinh ra, bất kì khi nào vị phật quay bánh xe pháp, dĩ nhiên bánh
xe này sẽ dần dần bắt đầu dừng lại. Nó mất dần đà. Bạn quay bánh xe; nó sẽ bắt
đầu chuyển động. Rồi dần dần, một khoảnh khắc sẽ tới khi nó sẽ dừng lại.
Khi vị phật chuyển bánh xe
Pháp, mất hai nghìn năm trăm năm bánh xe mới dừng hẳn. Cứ năm trăm năm trôi
qua, bánh xe lại giảm đi một ít đà. Do vậy mà có năm thời của Pháp. Sau mỗi năm
trăm năm pháp sẽ lại kém dần, giảm dần và giảm dần, và sau hai mươi nhăm thế kỉ
bánh xe dừng lần nữa. Nó sẽ cần vị phật khác để quay bánh xe cho hai mươi nhăm
thế kỉ tiếp theo.
Đó là một hiện tượng hi hữu. Thật
lạ lùng rằng ông Subhuti đã hỏi Phật:
‘Bạch Thế Tôn, trong thời vị
lai, thời mạt pháp, trong năm trăm năm cuối cùng, vào lúc chính pháp suy đồi, sụp
đổ, chúng sinh nghe giảng Kinh này chẳng biết có hiểu được chân lí hay không?’
Phật bảo: ‘Subhuti, ông chớ nói như vậy!
Cả trong thời vị lai mạt pháp
cũng có những chúng sinh khi nghe giảng kinh này sẽ hiểu được chân lí. Bởi vì,
Subhuti, trong thời vị lai, mạt pháp vẫn sẽ có những vị bồ tát. Những vị này đã
trồng căn lành không phải chỉ một đời Phật mà họ đã nhiều kiếp tu hành, từ vô
lượng vô số chư Phật, nên khi được nghe những lời kinh này, họ sẽ hiểu và sẽ
tin.
Subhuti! Như Lai biết rõ họ, nhờ
trí huệ của Phật,
Như Lai thấy rõ họ, nhờ huệ
nhãn của Phật.
Subhuti! Như Lai hoàn toàn biết
rõ họ.
Và tất cả họ sẽ được phước đức
vô lượng vô biên.’
Phật đang nói về các bạn đấy.
Kinh này đang được nói cho các bạn đấy. Hai mươi nhăm thế kỉ đã qua rồi. Ông
Subhuti đã hỏi về các bạn đấy.
Hôm trước tôi đã nói với các bạn
rằng nhiều người trong số các bạn sẽ thành bồ tát, nhiều người trong số các bạn
đang đi trên con đường này. Thật kì lạ rằng ông Subhuti đã đặt câu hỏi như
trên. Và càng lạ lùng hơn nữa là Phật đã nói "Những chúng sinh ấy sau hai
mươi nhăm thế kỉ sẽ chẳng kém phước đức hơn ông mà lại còn phước đức hơn."
Tại sao vậy? Tôi đã nói với các
bạn nhiều lần rằng các bạn là những người cổ đại, rằng các bạn đã bước đi trên
thế gian này nhiều nhiều lần rồi, rằng các bạn đâu có nghe pháp lần đầu, rằng
các bạn đã bắt gặp nhiều vị phật trong những kiếp trước của mình - đôi khi có
thể là một Krishna và đôi khi có thể là một Christ và đôi khi có thể là một
Mahavira và đôi khi có thể là một Mohammed, nhưng các bạn đã bắt gặp nhiều nhiều
vị phật, nhiều người chứng ngộ.
Và các bạn thật có phước lớn được
gặp nhiều chư phật đến thế, và nếu các bạn trở nên tỉnh táo hơn một chút, các hạt
mầm mà chư Phật quá khứ đã gieo vào các bạn sẽ bắt đầu nẩy mầm, sẽ mọc ra. Các
bạn sẽ bắt đầu nở hoa.
Phật nói :
‘Như Lai biết rõ họ, nhờ trí huệ
của Phật, Như Lai thấy rõ họ, nhờ huệ nhãn của Phật. Subhuti! Như Lai hoàn toàn
biết rõ họ.’
Điều này rất bí ẩn, nhưng rất
có thể. Vị phật có thể có cái nhìn về tương lai. Ông ấy có thể nhìn thấy xuyên
qua lớp sương mù của tương lai. Sáng tỏ của ông ấy là thế đấy, linh ảnh của ông
ấy là thế đấy, ông ấy có thể phóng tia sáng vào tương lai chưa biết. Ông ấy có
thể thấy được. Điều có vẻ rất bí ẩn là Phật thấy các bạn đang lắng nghe Kinh
Kim Cương. Từ quan điểm của các bạn điều ấy dường như không thể tin được, vì
các bạn thậm chí còn không biết cách nhìn trong hiện tại. Làm sao bạn có thể
tin rằng ai đó lại có thể thấy được trong tương lai?
Bạn chỉ biết một khả năng: đó
là khả năng nhìn vào quá khứ. Bạn chỉ có thể nhìn lại phía sau. Bạn là người
thiên quá khứ. Tất cả những gì các bạn nghĩ về tương lai đều không phải là linh
ảnh của tương lai, nó chỉ là phóng chiếu của quá khứ được biến đổi. Nó không phải
là tương lai chút nào. Đấy là cái hôm qua của bạn cố gắng được lặp lại cho ngày
mai.
Hôm qua bạn đã nếm cái gì đó và
nó thật ngọt ngào và bạn muốn ngày mai lại ăn món ăn đó nữa: đấy là tương lai của
bạn. Bạn đã yêu một người nào đó và bạn muốn lại làm tình lần nữa trong tương
lai: đấy là tương lai của bạn. Đấy là sự lặp lại của quá khứ. Nó không phải là
tương lai chút nào.
Bạn không biết tương lai là gì
chút nào. Bạn không thể biết được tương lai là gì vì thậm chí bạn còn không biết
hiện tại là gì. Và hiện tại thì đang sẵn đấy mà bạn mù đến nỗi bạn không thể thấy
được cái thậm chí đã có đấy rồi.
Vậy rồi mở mắt ra, bạn có thể
thấy cái chưa hiện diện, cái sắp xảy ra. Bạn có thể có những thoáng nhìn về điều
đó. Cách nhìn thấy tương lai là trước hết phải thấy được hiện tại. Một người có
thể hoàn toàn trong hiện tại trở thành có khả năng nhìn vào tương lai.
Thật cực lạc khi nghĩ rằng Phật
Gautama đã nhìn thấy các bạn nghe giảng Kinh Kim Cương. Trong Kinh Kim Cương các bạn đang được nhắc tới.
Đó là lí do tại sao tôi đã chọn nó. Khi tôi bất chợt gặp những lời này, tôi đã
nghĩ, "Đây đúng là cái cần cho người của tôi. Họ phải biết rằng họ đã được
Phật nhìn thấy; rằng đôi điều về họ đã được nói ra từ hai mươi nhăm thế kỉ trước
đây; rằng họ đã được tiên đoán trước."
Cái bánh xe Phật đã quay khi
đó, nay đã dừng lại. Cái bánh xe này phải được chuyển động lại. Và điều đó đang
là công trình của cả đời tôi và cả đời các bạn - cái bánh xe đó phải được chuyển
động lại. Một khi nó bắt đầu quay, nó sẽ lại có cuộc sống hai mươi nhăm thế kỉ.
Một khi nó bắt đầu chuyển, nó sẽ cứ chuyển trong ít nhất hai mươi nhăm thế kỉ.
Và việc này cứ phải được làm lại,
làm lại, làm lại mãi vì mọi thứ đều mất dần đà, mọi thứ đều vận hành theo luật
tự nhiên - entropy. Bạn ném một hòn đá, bạn ném mạnh, nhưng nó sẽ đi vài chục
mét và nó rơi xuống. Hệt như vậy, cứ phải làm sống lại pháp. Thế thì nó thở
trong hai mươi nhăm thế kỉ rồi chết đi. Bất cứ cái gì có sinh đều có diệt.
Nhưng Phật bảo, "Subhuti,
ông chớ nói như vậy." Có lẽ ông Subhuti nghĩ rằng, "Chỉ có chúng ta
được phước đức.
Chúng ta được nghe Phật thuyết
pháp, được sống với Phật, được đi cùng Phật. Chúng ta thật có phước đức lớn,
chúng ta là những người được ân huệ. Cái gì sẽ xảy ra sau hai mươi nhăm thế kỉ
nữa, khi bánh xe pháp hoàn toàn dừng lại?" Ông nghĩ về các bạn những kẻ vô
phước.
Nhưng Phật đã uốn nắn,
"Subhuti, ông chớ nói như vậy. Chớ nên nghĩ rằng chỉ mình ông được phước đức
lớn!" Đó là bản ngã rất tinh vi, "Chúng ta thật phước đức, chẳng ai
khác được phước đức như ta." Phật lập tức đưa tay lên mồm ông Subhuti :
‘Subhuti, ông chớ nói như vậy!
Cả trong thời vị lai mạt pháp cũng có những chúng sinh khi nghe giảng kinh này
sẽ hiểu được chân lí.’
Và tôi biết, ở đây là những người
hiểu chân lí. Chầm chậm rồi buổi sáng sẽ tới, bóng tối tan dần. Chầm chậm hạt mầm
tìm được đất, len vào trong trái tim bạn.
‘Bởi vì, Subhuti, trong thời vị
lai, mạt pháp vẫn sẽ có những vị bồ tát.’
Nhiều người trong số các bạn ở
đây sắp trở thành bồ tát. Chỉ một chút ít công phu, một chút ít vui đùa, một
chút ít cố gắng đi tới trạng thái thiền, rót thêm một chút ít năng lượng, tập
trung thêm một chút năng lượng, tránh những xao lãng, thế là điều đó sắp xảy
ra. Và nó vẫn đang xảy ra cho nhiều người. Và các bạn là những người được phước
đức đó, Phật nói.
Những vị này đã trồng căn lành
không phải chỉ một đời Phật mà họ đã nhiều kiếp tu hành, từ vô lượng vô số chư
Phật, nên khi được nghe những lời kinh này, họ sẽ hiểu và sẽ tin...
Nếu bạn có thể hiểu được, dù chỉ
một lời trong Kinh Kim Cương, nếu các bạn có thể hiểu ánh mắt của tôi trong mắt
bạn, nếu các bạn có thể hiểu động tác trong vũ khúc nội tâm tôi...
Phật nói:
‘... vẫn sẽ có những vị bồ tát.
Những vị này đã trồng căn lành không phải chỉ một đời Phật mà họ đã nhiều kiếp
tu hành, từ vô lượng vô số chư Phật, ‘Như Lai biết rõ họ, nhờ trí huệ của Phật,
Như Lai thấy rõ họ, nhờ huệ nhãn của Phật.
Subhuti! Như Lai hoàn toàn biết
rõ họ.
Và tất cả họ sẽ được phước đức
vô lượng vô biên.’
Và các bạn là những người mà Phật
đang nói đến. Và các bạn là những người tôi tuỳ thuộc vào. Bánh xe Pháp đã ngừng.
Nó cần phải được quay lại.