Read more
Phật Gautama là bước đột phá vĩ đại nhất mà nhân loại đã từng biết tới cho tới giờ. Thời gian đáng ra không nên được phân chia theo tên của Jesus Christ; nó nên được phân chia theo tên của Phật Gautam. Chúng ta nên phân chia lịch sử thành trước Phật và sau Phật, không phải là trước Christ và sau Christ, bởi vì Christ không phải là một đột phá; ông ấy là sự liên tục. Ông ấy đại diện cho quá khứ trong cái đẹp và cái vĩ đại vô cùng của nó. Ông ấy là chính tinh hoa của toàn thể việc tìm kiếm của nhân loại trước ông ấy. Ông ấy là hương thơm của tất cả nỗ lực quá khứ của con người để biết Thượng đế, nhưng ông ấy không phải là bước đột phá. Theo nghĩa thực của từ này thì ông ấy không phải là người nổi dậy.
Phật là người nổi dậy, nhưng Jesus có vẻ mang tính nổi dậy hơn Phật bởi lẽ đơn giản là việc nổi dậy của Jesus là hữu hình còn việc nổi dậy của Phật là vô hình. Bạn sẽ cần sáng suốt lớn lao để hiểu điều Phật đã đóng góp cho tâm thức nhân loại, cho tiến hoá nhân loại, cho sự trưởng thành của nhân loại. Con người chắc đã không được như vậy nếu như đã không có Phật. Con người chắc vẫn còn như cũ nếu như đã không có Christ, không có Krishna; chắc sẽ không có nhiều khác biệt. Loại bỏ Phật và cái gì đó cực kì quan trọng bị mất đi; nhưng sự nổi dậy của ông ấy là rất vô hình, rất tinh tế.
Trước Phật, việc tìm kiếm - việc tìm kiếm tôn giáo - về căn bản đã làmối quan tâm tới Thượng đế: một Thượng đế ở bên ngoài, một Thượng đế ở đâu đó trên trời. Việc tìm kiếm tôn giáo đã liên quan tới một đối thể của ham muốn, cũng tựa như việc tìm kiếm trần tục. Phàm nhân tìm tiền bạc, quyền lực, danh vọng, còn người thế giới khác tìm kiếm Thượng đế, cõi trời, vĩnh hằng, chân lí. Nhưng một điều là chung: cả hai đều tìm kiếm ở bên ngoài bản thân họ, cả hai đều hướng ngoại. Hãy nhớ từ này, bởi vì đây sẽ là sự giúp đỡ cho bạn hiểu Phật.
Trước Phật, việc tìm kiếm tôn giáo đã không quan tâm tới bên trong mà tới bên ngoài; nó là hướng ngoại, và khi tìm kiếm tôn giáo mà hướng ngoại nó không thực mang tính tôn giáo. Tôn giáo bắt đầu chỉ với hướng nội, khi bạn bắt đầu chìm sâu vào bên trong bản thân mình. Mọi người đã đi tìm Thượng đế trong nhiều thế kỉ: Ai là người làm ra vũ trụ này? Ai là đấng sáng tạo của vũ trụ này? Và có nhiều người vẫn sống vào thời tiền Phật, những người vẫn đang hỏi các câu hỏi như vậy: Ai là đấng sáng tạo của thế giới? Khi nào ông ấy đã tạo ra thế giới? Có một số người ngu thậm chí đã từng xác định ngày, ngày tháng và năm Thượng đế đã tạo ra thế giới. Có những nhà thần học Ki tô giáo nói rằng đích xác bốn nghìn linh bốn năm trước Jesus Christ - Thứ hai, ngày mồng một tháng giêng! - Thượng đế đã tạo ra thế giới hay đã bắt đầu sáng tạo ra thế giới, và ngài đã kết thúc công việc này trong sáu ngày. Chỉ một điều là đúng về nó: rằng ngài phải đã kết thúc công việc này trong sáu ngày, bởi vì bạn có thể thấy đống lộn xộn thế giới này - nó là công việc của sáu ngày mà! Và kể từ đó người ta đã không nghe nói về ngài nữa. Vào ngày thứ bẩy ngài nghỉ ngơi, và kể từ đó ngài đã nghỉ suốt...
Có thể Friedrich Nietzsche là đúng, rằng ngài không nghỉ ngơi đâu - ngài chết rồi! Ngài đã không biểu lộ bất kì mối quan tâm nào. Thế thì điều gì đã xảy ra cho sự sáng tạo của ngài? Nó dường như đã hoàn toàn bị quên lãng. Nhưng người Ki tô giáo nói, "Không, ngài đã không quên đâu. Trông đấy! Ngài đã phái Jesus Christ, con trai duy nhất của ngài, tới cứu thế giới. Ngài vẫn còn quan tâm chứ." Đó là mối quan tâm duy nhất mà người Ki tô giáo nói ngài đã biểu lộ, trong việc phái Jesus Christ tới... nhưng thế giới lại không được cứu. Nếu đó là mục đích của việc phái Jesus Christ tới thế giới này, thế thì Jesus đã thất bại và qua ông ấy Thượng đế đã thất bại - thế giới vẫn như cũ. Và đây là cái loại quan tâm gì vậy - rằng sứ giả của ngài đã bị đóng đinh và ngài chẳng thể làm gì được?
Có nhiều người vẫn đang sống trong thế giới quan tiền Phật. Phật đã thay đổi toàn thể chiều hướng tôn giáo, ông ấy đã cho nó một bước ngoặt đẹp: ông ấy đã hỏi những câu hỏi thực. Ông ấy không phải là nhà siêu hình, ông ấy chưa bao giờ hỏi câu hỏi siêu hình nào; với ông ấy siêu hình tất cả đều là rác rưởi. Ông ấy là nhà tâm lí học đầu tiên mà thế giới biết tới, bởi vì ông ấy đã đặt tôn giáo của mình không dựa trên triết học mà dựa trên tâm hồn học. Tâm hồn học theo nghĩa căn nguyên của nó nghĩa là khoa học về linh hồn, khoa học về cái bên trong.
Ông ấy đã không hỏi: Ai tạo ra thế giới? Ông ấy hỏi: Tại sao tôi lại ở đây? Tôi là ai? Ai tạo ra tôi? Và đó không phải là câu hỏi về quá khứ - "Ai đã tạo ra tôi?" - chúng ta thường xuyên được tạo ra. Cuộc sống của chúng ta không giống như vật được tạo ra một lần cho tất cả; nó không phải là một vật. Nó là hiện tượng trưởng thành, nó là sự tuôn chảy của dòng sông. Từng khoảnh khắc nó đi qua vùng lãnh thổ mới. "Ai tạo ra cuộc sống này, năng lượng này, tâm trí này, thân thể này, tâm thức này, cái tôi đang là?" Câu hỏi của ông ấy là hoàn toàn khác. Ông ấy đang biến đổi tôn giáo từ hướng ngoại thành hướng nội.
Tôn giáo hướng ngoại cầu nguyện Thượng đế; tôn giáo hướng nội thiền. Lời cầu nguyện là hướng ngoại; nó được nói cho Thượng đế vô hình nào đó. Ngài có thể có đó, ngài có thể không có đó - bạn chẳng thể đảm bảo hay chắc chắn được; hoài nghi nhất định vẫn còn dai dẳng. Do đó mọi lời cầu nguyện đều được bắt rễ ở đâu đó trong hoài nghi, trong sợ hãi, trong không chắc chắn, trong tham lam.
Thiền được bắt rễ trong bạo dạn, trong vô tham. Thiền không cầu xin cáigì từ bất kì ai, nó không hướng tới bất kì ai. Thiền là trạng thái của im lặng bên trong. Lời cầu nguyện vẫn còn ồn ào, bạn vẫn còn nói - nói với Thượng đế, người có thể không có đó. Thế thì điều đó là không lành mạnh, thần kinh; bạn đang cư xử theo cách điên khùng. Người điên cứ nói hoài; họ không bận tâm nhiều liệu có ai nghe họ hay không. Đó là dấu hiệu chắc chắn rằng họ điên - họ tưởng tượng rằng ai đó có đó; không chỉ thế, họ gần như có thể thấy người khác. Quán tưởng của họ là lớn, tưởng tượng của họ là rất vật chất. Họ có khả năng thay đổi hình bóng thành chất liệu, tưởng tượng thành hiện thực, hư cấu thành sự kiện.
Với bạn họ dường như tham dự vào cuộc độc thoại; với mình họ đang tham dự vào đối thoại rồi. Bạn không thể thấy được ai đang hiện diện ở đó - một mình họ thôi - nhưng họ thấy rằng ai đó có đó. Chính bởi vì sự kiện này mà phân tâm học rất thận trọng về tôn giáo, bởi vì người tôn giáo hành xử như người thần kinh. Và có nhiều nhà phân tâm cứ nghĩ rằng tôn giáo chẳng là gì ngoài thần kinh của đám đông - và họ có một điểm đúng: tôn giáo hướng ngoại là thần kinh của đám đông.
Nhưng nhà phân tâm phải chưa trở nên nhận biết về Phật rồi. Phật sẽ cho họ sự sáng suốt mới vào tôn giáo, vào tôn giáo đúng. Không có lời cầu nguyện, không Thượng đế. Thiền không phải là đối thoại, hay thậm chí độc thoại - thiền là im lặng thuần khiết. Mọi người hỏi tôi, "Đối tượng của thiền nên là gì?" Họ đang hỏi câu hỏi sai, nhưng tôi có thể hiểu được tại sao họ hỏi nó. Họ đã sống trong tôn giáo của lời cầu nguyện, và lời cầu nguyện không có được nếu không có ai ở đó để mà cầu nguyện. Lời cầu nguyện cần một đối tượng của sự tôn thờ; lời cầu nguyện là sự phụ thuộc. Người tôn thờ không độc lập; người đó phụ thuộc vào đối tượng của sự tôn thờ của mình và người đó cũng sợ. Nhưng thiền nhân không có đối tượng nào. Thiền không ngụ ý thiền về cái gì đó. Từ tiếng Anh 'meditation' cho quan niệm sai; trong tiếng Anh không có từ nào để dịch từ Phật giáo dhyana. Thực tế, không ngôn ngữ nào khác của thế giới có từ tuyệt đối đồng nghĩa với dhyana. Chính bởi vì sự kiện này mà khi Phật giáo đạt tới Trung Quốc họ đã không thể nào dịch được nó sang tiếng Trung Quốc; do đó dhyana trở thành ch'an - nó là cùng một từ. Từ tiếng Phạn là dhyana, nhưng Phật dùng tiếng Pali, ngôn ngữ khác, ngôn ngữ đã được hiểu bởi những người mà ông ấy đã sống cùng. Trong tiếng Pali, dhyana trở thành jhana; từ jhana, trong tiếng Trung Quốc nó trở thành ch'an, và từ ch'an, trong tiếng Nhật Bản nó trở thành zen. Tiếng Trung Quốc không có tương đương, tiếng Nhật Bản không có tương đương. Thực tế, không ngôn ngữ nào khác có từ tương đương bởi vì không ngôn ngữ nào khác đã cho sinh thành ra một người như Phật. Và không có Phật thì không thể nào cho nghĩa mới này, tầm nhìn mới này, chiều hướng mới này.
Trong tiếng Anh, 'meditation - thiền' nghĩa là ngẫm nghĩ về cái gì đó; nhưng thế thì đó là suy nghĩ, nhiều nhất là suy tư thôi - nó không phải là thiền. Thiền nghĩa là mang tính thiền, im lặng, an bình, không có ý nghĩ trong tâm trí, tâm thức không có nội dung. Đó là nghĩa đúng của thiền: tâm thức thuần khiết, tấm gương phản chiếu không cái gì. Khi tấm gương không phản chiếu cái gì, nó là thiền.
Phật đã làm rẽ ngoặt toàn thể cuộc truy tìm tôn giáo từ siêu hình vào tâm hồn vĩ đại, bởi vì ông ấy hỏi: Nguyên nhân của cuộc sống của tôi và cái chết của tôi là gì? Ông ấy không quan tâm tới vũ trụ. Ông ấy nói: Chúng ta nên bắt đầu từ đầu, và bất kì cái gì, để có ý nghĩa thực trong cuộc sống, đều phải có liên quan tới chính bản thân tôi: tôi là ai và tại sao lại là tôi? Nguyên nhân gì cứ tạo ra tôi?
Lời kinh thứ nhất của ông ấy là:
Tôi tìm vô vọng người làm nhà của mình qua vô hạn kiếp sống.
Ông ấy đang nói, "Tôi đã từng tìm và kiếm Thượng đế trong vô hạn kiếp. Tất cả đều vô vọng, điều đó là vô tích sự. Tôi không thể tìm thấy được Thượng đế nào, bởi vì thực tế Thượng đế không phải là người và tôi không thể tìm được ngài. Thượng đế không phải là một 'ông ấy'." Bây giờ có tranh luận gay gắt về liệu Thượng đế là ông hay là bà. Ngài chẳng là cả hai. Và nếu bạn cứ khăng khăng rằng chúng ta phải chọn giữa hai từ này, 'ông' và 'bà', tôi sẽ gợi ý rằng 'bà' còn tốt hơn nhiều bởi vì bà chứa ông, nhưng ông không chứa bà. Nhưng trong chân lí, Thượng đế không là người chút nào; do đó câu hỏi về liệu ngài là ông hay bà là không liên quan.
Thượng đế là tính chất, không là vật. Thượng đế không phải là Thượng đế mà là tính thượng đế - và tính thượng đế phải được tìm thấy trước hết ở bên trong bạn. Chừng nào bạn còn chưa nếm trải về nó trong bản thể riêng của mình bạn sẽ không có khả năng thấy nó ở bất kì đâu khác. Một khi bạn đã nếm trải nó, một khi bạn đã trở nên say sưa với điều thiêng liêng, thế thì bạn sẽ thấy điều đó trong cây cối - trong mầu xanh của cây, trong mầu đỏ của cây, trong mầu vàng của cây. Bạn sẽ thấy nó trong mặt trời, trong mặt trăng, trong các vì sao. Bạn sẽ có khả năng thấy nó trong con vật, chim chóc, mọi người, dòng sông, núi non. Toàn thể sự tồn tại sẽ phản xạ hiểu biết của bạn, sẽ trở thành tấm gương cho bạn. Bạn sẽ có khả năng thấy khuôn mặt riêng của mình ở mọi nơi. Chúng ta có thể thấy cái chúng ta đang là, chúng ta không thể thấy cái chúng ta không là.
Đây là đóng góp lớn lao của Phật: ông ấy đã vứt bỏ lời cầu nguyện, ông ấy đã vứt bỏ ý tưởng về Thượng đế, và ông ấy cho một cách tiếp cận mới - cách tiếp cận mới đó là thiền. Ông ấy nói: Tôi tìm vô vọng người làm nhà của mình qua vô hạn kiếp sống. Tôi không tìm được người đó... Không phải bởi vì cái gì đó bị thiếu trong nỗ lực của ông ấy, không phải bởi vì nỗ lực của ông ấy là bộ phận và không toàn bộ, không. Ông ấy không phải là loại người đó: nỗ lực của ông ấy toàn bộ tới mức nó không thể nào toàn bộ được hơn nữa.
Chính bởi vì nỗ lực toàn bộ của ông ấy mà ông ấy đã đi tới hiểu biết vĩ đại này, mà ông ấy đã đi tới việc nhận ra vĩ đại này. Ông ấy đi tới đủ mọi loại thầy giáo và bất kì điều gì thầy giáo bảo ông ấy làm, ông ấy đều làm nó với đam mê, mãnh liệt tới mức không thầy nào có khả năng tìm ra bất kì lỗi nào với ông ấy. Và bất kì nhiệm vụ nào được trao cho ông ấy, ông ấy bao giờ cũng hoàn thành nó. Và điều đó đã xảy ra với nhiều thầy tới mức chung cuộc họ đã nói với ông ấy, "Đây là tất cả những gì chúng tôi biết, và chúng tôi không thể nói rằng anh đã không theo chúng tôi. Anh đã theo toàn bộ tới mức không có vấn đề gì về sự chân thành và việc tìm kiếm của anh, nhưng hơn thế nữa thì chúng tôi không biết. Anh sẽ phải đi và tìm bậc thầy nào đó khác - đây là tất cả những điều chúng tôi biết. Chúng tôi rất tiếc là chúng tôi không thể giúp được anh thêm nữa. Và nếu bất kì lúc nào anh có thể tìm thấy cái gì đó hơn điều này, hãy nhớ tới chúng tôi, và nếu chúng tôi vẫn còn sống, hãy truyền đạt việc nhận ra mới của anh cho chúng tôi."
Điều này rất hãn hữu mới xảy ra. Bao giờ cũng dễ dàng tìm ra lỗi ở đệ tử, và nếu đệ tử phạm lỗi, thế thì chắc chắn thầy, cái gọi là thầy, thấy thoải mái. Đệ tử thực là nguy hiểm đối với thầy giả, bởi vì với đệ tử thực thì giả dối của ông ấy chẳng chóng thì chầy sẽ bị phơi bầy ra. Chính bởi vì đệ tử giả mà thầy giả mới sống được. Và có nhiều người tìm kiếm giả... chỉ vì tò mò thôi, họ tìm kiếm chỉ vì tò mò; nó không mang tính tồn tại. Rất hãn hữu mới tìm thấy một đệ tử như Phật, bởi vì nếu bạn tìm thấy một đệ tử như Phật, chẳng chóng thì chầy, hoặc bạn sẽ được chứng minh là đúng qua sự biến đổi của ông ấy, hoặc bạn sẽ được chứng minh là giả. Nhưng bạn không thể trách ông ấy được, bởi vì ông ấy sẽ đặt toàn bộ năng lượng của mình vào trong nỗ lực này.
Phật đã thử mọi cách có thể có. Ông ấy đã đi tới tất cả những thầy giáo nổi tiếng và không nổi tiếng lắm những người còn sống trong nước này, và từ mọi nơi ông ấy đều quay về với đôi bàn tay trống rỗng. Cuối cùng ông ấy đã quyết định, "Có cái gì đó sai trong việc hỏi người khác, có cái gì đó sai về căn bản trong việc đi đằng sau người khác, theo sau người khác. Tốt hơn cả, đã đến lúc, mình phải chìm sâu vào bên trong bản thân mình, đến lúc mình phải tìm và kiếm một mình thôi." Và đó là cách thiền được sinh ra.
Phật đã vứt bỏ tất cả mọi nỗ lực hướng ngoại, đã trở nên hướng nội toàn bộ, toàn thể năng lượng của ông ấy quay vào trong. Ông ấy bắt đầu điều chỉnh bản thân mình vào cốt lõi bên trong nhất của mình. Thượng đế không thể được tìm thấy ở bên ngoài bạn đâu, bởi vì không có Thượng đế nào đã bao giờ ở bên ngoài bạn cả. Thượng đế là hương thơm tối thượng của tâm thức bạn. Khi tâm thức bạn mở ra như hoa sen, hương thơm được thoát ra này chính là Thượng đế đấy - tốt hơn thì nên gọi nó là tính thượng đế.
Thượng đế không phải là danh từ mà là động từ. Hãy để điều này chìm sâu vào trong tim bạn: rằng Thượng đế không phải là danh từ mà là động từ. Thực tế, toàn thể sự tồn tại là động từ. Hãy đổi tất cả danh từ của bạn thành động từ đi và bạn sẽ ở đường đúng, bởi vì mọi thứ đều sống và tuôn chảy - làm sao bạn có thể gọi nó là danh từ được? Danh từ cho một ý tưởng cố định. Danh từ bao giờ cũng chết và động từ bao giờ cũng sống.
Và Thượng đế thì sống. Ngài là sự sống trong bạn, ngài là sự sống trong chim chóc. Bất kì chỗ nào có sự sống, đều có Thượng đế; Thượng đế đồng nghĩa với sự sống. Tôi tìm vô vọng người làm nhà của mình qua vô hạn kiếp sống. Đó đã là hiểu lầm và, không may là, hiểu lầm này vẫn cứ còn dai dẳng. Thay vì đi tìm cái ta riêng của mình, mọi người cứ đi tìm Thượng đế. Họ sẽ không tìm thấy Thượng đế, và trong khi đó họ bỏ lỡ cơ hội tìm thấy bản thân mình.
Chính từ 'Thượng đế' đã tạo ra rắc rối. Hãy bắt đầu dùng 'tính thượng đế', 'điều thiêng liêng', 'tình yêu'. Hãy vứt Thượng đế đó đi! Từ 'Thượng đế' có vẻ giống như tảng đá chết: không tuôn chảy, không chuyển động, không phát triển. Hãy để Thượng đế của bạn trở thành dòng sông.
Hãy nhớ tới Siddhartha của Herman Hesse: ông ấy đã học những cõi giới sâu nhất của thiền bằng việc sống bên bờ dòng sông, nhìn dòng ông trong những tâm trạng khác nhau, trong các mùa vụ khác nhau. Vào mùa hè nó mảnh mai thế, như một đường kẻ bạc, và vào mùa mưa nó ngập lụt thế. Và đôi khi nó im lặng thế và nhạc điệu thế, và đôi khi nó có vẻ giận dữ thế, trong thịnh nộ; đôi khi nó từ bi thế, và đôi khi nó độc ác thế. Chỉ ngồi trên bờ sông, dần dần, dần dần ông ấy trở nên nhận biết về cuộc sống vĩ đại của dòng sông, xúc động của nó, tâm trạng của nó...
Điều đầu tiên cha tôi dạy tôi - và điều duy nhất ông ấy đã từng dạy tôi - là tình yêu với dòng sông nhỏ chảy ngay bên cạnh thị trấn của tôi. Ông ấy đã dạy tôi chỉ mỗi điều này - bơi trong dòng sông. Đó là tất cả mọi điều ông ấy đã từng dạy tôi, nhưng tôi vô cùng biết ơn ông ấy bởi vì điều đó đã đem lại biết bao nhiêu thay đổi trong đời tôi. Đích xác như Siddhartha, tôi đã rơi vào tình yêu với dòng sông này. Bất kì khi nào tôi nghĩ về nơi sinh của mình tôi chẳng nhớ gì ngoại trừ dòng sông này.
Cái ngày cha tôi mất đi tôi chỉ nhớ ngày đầu tiên ông ấy đã đem tôi tới bờ sông để dạy tôi bơi. Toàn bộ tuổi thơ tôi đã dành cho chuyện tình thân thiết với dòng sông. Việc thường ngày của tôi là ở bên sông trong ít nhất năm tới tám tiếng. Từ ba giờ sáng tôi đã ở bên sông; bầu trời đầy sao phản chiếu trong dòng sông. Và nó là dòng sông đẹp; nước của nó ngọt tới mức mọi người đã đặt tên cho nó là Shakkar - shakkar nghĩa là đường. Đó là một hiện tượng đẹp.
Tôi đã thấy nó trong bóng tối của ban đêm với các vì sao, nhảy múa trong tiến trình của nó đi ra đại dương. Tôi đã thấy nó cùng với mặt trời mọc buổi sớm. Tôi đã thấy nó trong buổi trăng tròn. Tôi đã thấy nó cùng mặt trời lặn. Tôi đã thấy nó khi ngồi cạnh bờ sông cùng bạn bè, thổi sáo, nhảy múa trên bờ, thiền trên bờ, chèo thuyền trong nó hay bơi qua nó.
Trong mùa mưa, trong mùa đông, trong mùa hè...
Tôi có thể hiểu Siddhartha của Herman Hesse và kinh nghiệm của ông ấy với dòng sông. Điều đó đã xảy ra đối với tôi: nhiều điều đã diễn ra, bởi vì dần dần, dần dần, toàn thể sự tồn tại trở thành dòng sông với tôi. Nó mất đi tính vững chắc; nó trở thành lỏng, chất lỏng. Và tôi biết ơn vô cùng với cha tôi. Ông ấy chưa bao giờ dạy tôi toán học, ngôn ngữ, văn phạm, địa lí, lịch sử. Ông ấy chưa bao giờ quan tâm tới việc học hành của tôi. Ông ấy có mười con... và tôi đã thấy điều đó xảy ra nhiều lần: mọi người sẽ hỏi, "Con ông đang học lớp nào thế?" - và ông ấy sẽ phải hỏi ai đó khác bởi vì ông ấy không biết. Ông ấy chưa bao giờ bận tâm tới bất kì việc học hành nào khác. Việc giáo dục duy nhất mà ông ấy cho tôi là giao cảm với dòng sông. Bản thân ông ấy cũng trong tình yêu sâu sắc với dòng sông này.
Bất kì khi nào bạn đang trong tình yêu với những thứ tuôn chảy, những thứ chuyển động, bạn có tầm nhìn khác về cuộc sống. Con người hiện đại sống với những con đường trải nhựa, những toà nhà xi măng và bê tông. Đây là các danh từ, hãy nhớ, đây không phải là động từ. Các toà nhà chọc trời không tiếp tục mọc cao lên; con đường vẫn còn như cũ dù đó là đêm hay ngày, dù đó là đêm trăng tròn hay đêm tối mù mịt. Chẳng thành vấn đề đường trải nhựa, chẳng thành vấn đề với các toà nhà xi măng và bê tông.
Con người đã tạo ra thế giới các danh từ và con người đã trở nên bị giam cầm trong thế giới riêng của mình. Con người đã quên mất thế giới của cây cối, thế giới của dòng sông, thế giới của núi non và các vì sao. Ở đó chúng không biết tới danh từ nào, chúng chưa bao giờ nghe nói tới danh từ; chúng chỉ biết động từ. Mọi thứ đều là tiến trình. Thượng đế không phải là vật mà là tiến trình. Nhưng từ có thể dẫn bạn đi lạc lối. Từ 'Thượng đế' này đã đưa hàng triệu người đi lầm lạc. Nó cho bạn một quan niệm, một quan niệm rất ngây thơ tất nhiên, nhưng một khi nó lắng đọng trong bạn, bạn mang nó đi cả đời mình. Bạn có một quan niệm về Thượng đế: một người nào đó trông rất cổ kính với bộ râu bạc dài, ngồi trên ngai vàng tít trên trời, cai trị, ra lệnh, chỉ huy toàn thế giới. Và bất kì ai không nghe lời ông ta đều bị khổ sở nhiều - một người cha rất độc đoán. Ông ấy vẫn chưa tha thứ cho Adam và Eve bởi vì họ đã không vâng lời ông ấy.
Trong vườn Địa đàng có hai cây: cây này là cây tri thức và cây kia là cây cuộc sống. Thượng đế đã nói, "Không được ăn quả từ hai cây này." Nhưng trẻ con vẫn cứ là trẻ con - nếu bạn cấm chúng không cho làm cái gì đó thì chúng nhất định sẽ làm nó. Con rắn chẳng cần thiết; đó chỉ là một phương kế, một chiến lược cổ điển của con người, để đổ trách nhiệm lên ai đó khác. Chính bản thân Eve là người trở nên tò mò.
Họ đã không vâng lời Thượng đế và Thượng đế trở nên sợ hãi: "Bây giờ chúng nó đã ăn quả của cây tri thức - chẳng mấy chốc chúng sẽ thấy cây kia và chúng sẽ ăn quả của cuộc sống, và thế rồi chúng sẽ trở thành vĩnh viễn như các thần." Và ông ấy trở nên rất ghen tị, bởi vì một khi họ đã ăn từ cây tri thức, họ sẽ có khả năng tìm ra cây cuộc sống; điều đó sẽ không lâu. Chẳng mấy chốc họ sẽ tìm thấy nó. Họ đã trở nên đủ khôn ngoan, và người khôn ngoan nhất định tìm và kiếm cái bất tử. Sợ rằng họ sẽ trở nên giống như các thần, Thượng đế đã tống họ ra khỏi vườn Địa đàng và đóng cửa lại. Bây giờ có những lưỡi kiếm tuốt trần ngăn cản con người trở lại thiên đường. Đây là khái niệm rất trẻ con về Thượng đế, lấy con người làm trung tâm. Nhưng hàng triệu người vẫn sống với quan điểm này về Thượng đế. Điều đó là việc hiểu sai vô cùng. Trẻ con có thể được tha thứ, nhưng bạn không thể được tha thứ.
0 Đánh giá