Read more
Thiền không phải là thần học. Thiền là một tôn giáo – và một tôn giáo không thần học là một hiện tượng độc nhất vô nhị. Tất cả những tôn giáo khác đều hiện hữu chung quanh ý niệm về Thượng Ðế. Họ có những hệ thống thần học. Thượng Ðế là trung tâm, chứ không phải là con người; con người không phải là cứu cánh, mà Thượng Ðế mới là cứu cánh. Thiền thì không như vậy. Với Thiền, con người là mục tiêu, con người là cứu cánh cho chính mình. Thượng Ðế không bao giờ là một cái gì đó vượt lên trên con người, Thượng Ðế là cái gì đó ẩn tàng ở chính trong con người. Con người mang theo Thượng Ðế với mình như là một năng lực tiềm ẩn.
Thế nên không hề có ý niệm Thượng
Ðế trong Thiền. Và nếu bạn muốn, bạn cũng có thể nói rằng ngay cả nó cũng không
phải là một tôn giáo – bởi vì làm thế nào lại có một tôn giáo mà không mang ý
niệm về Thượng Ðế? Chắc chắn là những người được nuôi dưỡng trong bầu khí
Ki-tô, Hồi giáo, Ấn Ðộ giáo, hay Do Thái giáo sẽ không quan niệm nổi Thiền thuộc
loại tôn giáo nào. Nếu không Thượng Ðế
thì phải là phiếm thần. Nhưng không phải như thế. Thiền hữu thần ngay tự bản chất
– nhưng không có mặt Thượng Ðế.
Ðây là điểm cơ bản đầu tiên cần
phải được thông suốt. Hãy để cho ý niệm này thấm sâu vào lòng bạn, và rồi mọi
việc sẽ sáng tỏ. Thiền cho rằng Thượng Ðế không hiện hữu ở ngoài tôn giáo mà là
ở trong. Nó không ở một nơi nào đó mà ngay tại đây. Thật ra, đối với Thiền,
không hề có ý niệm “ở đó”, tất cả đều hiện hữu ngay tại đây. Và Thượng Ðế cũng
không bao giờ hiện hữu ở lúc đó mà là bây giờ – Thượng Ðế hiện hữu ngay lúc
này, không phải ở một thời điểm nào khác. NGAY BÂY GIỜ và TẠI ÐÂY. Không có một
không gian hay thời gian nào khác. Khoảnh khắc này là tất cả. Trong khoảnh khắc
này tất cả hiện hữu đều tụ hội. Trong khoảnh khắc này tất cả đều có mặt. Nếu bạn
không thấy được điều này, không có nghĩa là chúng không có mặt – mà đơn giản là
vì bạn không có thị kiến để nhìn thấy nó. Thượng Ðế không phải là cái gì đó để
bạn tìm kiếm. Bạn chỉ cần mở rộng đôi mắt của mình ra. Thượng Ðế đã luôn sẵn ở
đó.
Cầu nguyện cũng chẳng dính dấp gì đến Thiền
– bạn cầu nguyện với ai? Không hề có một ông Thượng Ðế ngự sẵn ở một nơi nào đó
ở trên Thiên Ðường và điều khiển cuộc sống con người. Không hề có một ông kiểm
soát viên như thế. Dòng sống chuyển động một cách nhịp nhàng và hài hòa với
chính nó. Không hề có ai đó ở bên ngoài để ra lệnh, chỉ huy. Khi có
một thứ quyền lực ở bên ngoài như thế, lập tức nó tạo ra tình trạng nô lệ… những
người Cơ Ðốc là những kẻ nô lệ. Những người Hồi giáo cũng thế. Khi có một vị
Thượng Ðế đứng ở đâu đó chỉ huy, dứt khoát là bạn trở thành kẻ tôi tớ, hay tệ hại
hơn, một tên nô lệ. Bạn mất hết tất cả phẩm cách.
Thiền không như thế. Thiền cho
bạn phẩm cách con người. Không hề có một quyền lực nào ở bất cứ nơi đâu. Tự Do
là hoàn toàn và tuyệt đối.
Nếu Frederick Nietzsche có đôi
chút hiểu biết về Thiền, có lẽ ông ta đã trở thành trầm mặc thay vì nổi điên.
Ông ta đã rơi tỏm vào một sự thực vĩ đại: “Không hề có Thượng Ðế. Thượng Ðế đã
chết. Con người được hoàn toàn tự do.” Ông đã rơi tỏm vào chân giá trị của tự
do, nhưng điều này quả là quá mức đối với ông. Tâm của ông không chuyên chở nổi
vì quá tải. Nó làm ông phát khùng, nổi điên.
Con người có thể có niềm tin tôn giáo mà
không cần đến Thượng Ðế. Thực ra, vấn đề là làm sao con người tín
ngưỡng được với một vị Thượng Ðế? Ðây là vấn nạn mà Thiền nêu ra, một vấn nạn
khá nhức nhối. Làm sao con người có thể có niềm tin tôn giáo nếu có bóng dáng của
Thượng Ðế? – Bởi vì Thượng Ðế sẽ hủy diệt tự do của bạn, Thượng Ðế sẽ thống trị
bạn. Không tin ư? Hãy nhìn vào Cựu Ước và nghe Thượng Ðế phán: “Ta là một Thượng
Ðế rất ganh tỵ và ta không thể khoan dung với bất cứ một Thượng Ðế nào khác. Những
ai không theo ta là kẻ thù ta. Ta cũng là một Thượng Ðế rất bạo động và hung dữ
và ta sẽ trừng phạt ngươi, sẽ quẳng ngươi vào hỏa ngục đời đời.”
Làm sao con người có thể có được
niềm tin tôn giáo với một vị Thượng Ðế như thế? Làm sao bạn có tự do và làm sao
bạn có thể thăng hoa nhân cách? Không có tự do, dứt khoát không có nở hoa trí
tuệ. Làm sao bạn có thể trở thành một con người thực với nhân cách toàn vẹn khi
có một ông Thượng Ðế luôn ở bên cạnh giam hảm bạn, lên án bạn, buộc bạn phải
làm điều này, điều kia và điều khiển bạn?
Thiền cho rằng với sự hiện hữu
của Thượng Ðế, con người sẽ mãi mãi ở trong tình trạng nô lệ; với Thượng Ðế,
con người mãi mãi chỉ là những kẻ chuyên môn qùy lạy; với Thượng Ðế con người
luôn sống trong tình trạng sợ hãi. Làm sao đời sống của bạn sẽ nở hoa trong
tình trạng sợ hãi? Bạn sẽ co rúm lại, bạn sẽ khô héo đi, và bạn sẽ chết dần chết
mòn.
Thiền cho rằng khi Thượng Ðế
không còn có mặt, Tự Do sẽ chan hòa, sẽ không có một quyền lực hiện hữu. Từ đây
sẽ lớn dậy trách nhiệm. Hãy nhìn kỹ đi… Nếu bạn bị kẻ khác thống trị, bạn sẽ
không bao giờ có ý niệm trách nhiệm. Quyền lực thống trị tạo ra tinh thần vô
trách nhiệm; quyền lực thống trị tạo ra chống đối, phản kháng, nổi loạn ở trong
bạn – bạn muốn thủ tiêu Thượng Ðế. Ðó là ý nghĩa câu nói của Nietzsche, Thượng
Ðế đã chết – không phải Thượng Ðế tự sát, mà là bị giết chết.
Thượng Ðế phải bị giết chết. Bởi
vì với sự hiện hữu của Thượng Ðế, con người không hề được tự do – y phải bị loại
trừ. Nhưng rồi sau đó thì Nietzsche kinh hoàng. Sống không Thượng Ðế, con người
phải rất can đảm; sống không Thượng Ðế đòi hỏi sự quán tưởng sâu xa; sống không
Thượng Ðế con người cần tỉnh thức cao độ – tất cả những điều này đã chưa hề được
chuẩn bị. Ðó là lý do tại sao tôi nói rằng Nietzsche bị rơi tỏm vào sự thực,
ông ta không hề khám phá ra chân lý.
Ðối với Thiền, đây là sự khám
phá. Ðây là một chân lý đã được thiết định: Thượng Ðế không hề hiện hữu. Con người chịu trách nhiệm với
chính mình và với thế giới mà y đang sống. Nếu có khổ đau, bạn là
người gánh chịu trách nhiệm, đừng có đổ lỗi cho ai khác. Bạn không thể chạy trốn
trách nhiệm của mình. Nếu thế giới này xấu xa và đầy thống khổ, tất cả chúng ta
đều có trách nhiệm – mà không là ai khác. Nếu chúng ta không trưởng thành,
chúng ta không thể quẳng gánh nặng trách nhiệm lên vai kẻ khác. Chúng ta phải
nhận lấy trách nhiệm.
Khi Thượng Ðế không còn hiện hữu,
bạn được trả về nguyên vị. Bạn đã trưởng thành. Bạn buộc phải trưởng thành. Bạn
phải gánh lấy trách nhiệm cuộc đời mình; bạn phải nắm lấy nó trong đôi tay
mình. Bây giờ thì bạn đã trở thành chủ nhân ông của chính mình. Bạn trở nên cảnh
giác hơn, tỉnh táo hơn, vì bất cứ điều gì xảy ra, bạn sẽ là người hoàn toàn nhận
chịu trách nhiệm. Bạn đã đón nhận một trọng trách. Khi một người bắt đầu cảnh
giác hơn, tỉnh táo hơn, họ bắt đầu có một cuộc sống hoàn toàn khác biệt. Họ sống
tỉnh thức. Họ trở thành chứng nhân.
Và khi không còn gì ở ngoài tầm…
Cái gì ở ngoài tầm cũng đang hiện hữu ở trong bạn, không có gì là xa xôi ở phía
bên kia. Ðối với niềm tin Cơ Ðốc, cái ở phía bên kia đó luôn ở ngoài tầm; đối với
Thiền nó ở bên trong. Thế nên bạn đâu có cần phải hướng đôi mắt của mình lên bầu
trời để cầu khấn – một việc làm nhảm nhí, vô nghĩa; bạn đang cầu khấn với một
khoảng không. Trong tâm tưởng, bầu trời kia còn thấp hơn là chính bạn.
Có một số người đứng khấn vái
trước một cái cây. Không ít người Ấn Ðộ giáo khấn cầu với một cái cây, có rất
nhiều những người Ấn Ðộ giáo khác tìm đến sông Hằng và khấn cầu với một giòng sông,
có nhiều người lại cầu khấn với một tảng đá, có người cầu khấn với bầu trời, thậm
chí với một ý niệm, một tư tưởng. Kẻ bề trên lại đi cầu khấn với kẻ dưới. Thật
là một việc làm nhảm nhí vô nghĩa.
Thiền nói rằng: Chỉ có một con đường duy nhất
là thiền quán. Bạn không còn phải qùy trước bất cứ ai. Hãy liệng bỏ
thói quen nô lệ cũ. Bạn chỉ cần một chút lặng lẽ, yên tĩnh và quán chiếu nội
tâm để tìm ra cái cốt lõi. Ðây cũng chính là cái cốt lõi của hiện hữu. Khi bạn
đạt đến điểm rốt ráo tận cùng này ở trong bạn, thì đây cũng chính là cái rốt
ráo tận cùng của hiện hữu. Ðó là Thượng Ðế ở trong Thiền. Nhưng người ta không
gọi đó là Thượng Ðế. Quả là một điều may.
Như vậy, điều cần phải ghi nhớ
đầu tiên, rằng Thiền không phải là thần học, nó là một tôn giáo – một tôn giáo
hoàn toàn khác biệt với những tôn giáo khác. Hãy lấy một thí dụ. Nó không giống
với Hồi giáo. Hồi giáo cần ba điều cơ bản: một Thượng Ðế, một cuốn thánh kinh
và một nhà tiên tri. Thiền không cần Thượng Ðế, không cần thánh kinh, không cần
nhà tiên tri. Hiện hữu toàn vẹn chính là lời tiên tri của Thượng Ðế. Hiện hữu toàn vẹn
chính là thông điệp của Thượng Ðế.
Nên nhớ rằng Thượng Ðế không hề
cách ly với chính thông điệp của mình. Thông điệp tự thân đã thiêng liêng. Nó
không cần đến người trung gian – tất cả những điều nhảm nhí vô nghĩa này không
có trong Thiền. Thần học được dựng lên bằng một cuốn sách. Nó cần đến một cuốn
sách giả bộ như là thánh kinh, nó cần một cuốn sách tự nhận là rất đặc biệt –
không hề giống với bất cứ một cuốn sách nào khác. Vì đây là lời Thượng Ðế, vì
đây là Phúc Âm. Nó được mang tên là Bible. Nó được mang tên là Koran…
Thiền thì cho rằng tất cả mọi thứ đều nhiệm
mầu, thiêng liêng, tại sao lại có cái này đặc biệt hơn cái khác? Tất
cả đều đặc biệt như nhau. Không có gì là không đặc biệt, thế nên không có gì
cũng là đặc biệt. Mỗi cọng lá trên mỗi cành cây, mỗi viên sỏi trên từng bờ biển
đều đặc biệt, nhất thể, thánh hoá. Không phải chỉ có Bible là thiêng liêng,
cũng không phải chỉ có kinh Koran là thiêng liêng. Khi một tình nhân viết thư
cho người mình yêu dấu, lá thư đó cũng là một thiêng liêng.
Thiền đem thiêng liêng mầu nhiệm đến với cuộc
sống đời thường. Bokogu, một vị đại thiền sư, luôn luôn nói: “Thật
là tuyệt vời! Thật là mầu nhiệm! Tôi đang khiêng dầu, tôi đang gánh nước.” “Thật
là tuyệt vời! Thật là mầu nhiệm!” Việc khiêng dầu và gánh nước từ giếng lên được
ông tán thán “Thật là mầu nhiệm!” Ðó chính là tinh thần của Thiền. Nó chuyển
hoá cái bình thường thành phi thường. Nó chuyển hoá cái ô trọc thành thiêng
liêng. Nó xóa nhòa biên giới giữa phàm và thánh. Ðó cũng là lý do tại sao tôi
nói rằng Thiền không phải là thần học. Thần học làm nhiễm độc tôn giáo. Trên
bình diện tôn giáo, sẽ không có gì khác nhau giữa một người Hồi giáo, Cơ Ðốc
hay Ấn Ðộ giáo, nhưng trên bình diện thần học là cả một sự cách biệt lớn lao. Họ
được xây dựng trên những nền tảng thần học khác nhau. Và rồi con người đánh
nhau cũng chỉ vì thần học.
Tôn giáo chỉ có một, mà thần học
thì đủ thứ. Thần học bao hàm triết học về Thượng Ðế, luận lý về Thượng Ðế… tất
cả đều nhảm nhí vô nghĩa bởi vì không có cách gì chứng minh có Thượng Ðế – cũng như không
có Thượng Ðế. Tranh cãi những điều chẳng dính dấp vào đâu cả. Vâng,
người ta có thể nói có những điều chỉ có thể thực chứng mà không thể chứng minh
– và đó là điều mà thần học tiếp tục làm những công việc ngu xuẩn – chẻ sợi tóc
ra làm tư. Khi bạn là người khách quan đứng ở xa nhìn vào, bạn sẽ không khỏi bật
cười. Sao mà lại có chuyện lố bịch như thế.
Trong thời đại Trung Cổ, các
nhà thần học Cơ Ðốc đã vô cùng quan tâm, vô cùng lo lắng, vô cùng hoang mang với
những vấn nạn mà xem ra sẽ chẳng bao giờ là vấn nạn của bạn cả. Thí dụ như, có
bao nhiêu thiên thần có thể cùng đứng được trên một mũi kim? Ðã có không biết
bao nhiêu sách vở luận bàn về đề tài này – đã nổ ra một cuộc tranh luận khá lớn
lao.
Mulla Nasrudin, chủ nhân của
hai con chim vẹt xanh, một hôm mang chim đến cho một vị bác sĩ thú y nhờ chăm
sóc: “Tôi lo quá, những con chim của tôi không đi cầu cả tuần nay rồi.”
Nhà thú y sĩ nhìn vào lồng và hỏi,
“Ông luôn luôn lót lồng chim với những tấm bản đồ thế giới?”
"Không," Mulla
Nasrudin trả lời, “Tôi chỉ mới thay nó vào hôm thứ Bảy vừa rồi vì hết cả giấy
báo.”
“Ðấy là lý do!” nhà thú y sĩ trả
lời. “Vẹt xanh là giống vật rất nhạy cảm. Nó nín đi cầu vì sợ rằng trái đất này
sẽ lấy hết phân mà nó có thể bài tiết nổi!”
Thần học là thứ cặn bả phế thải.
Tôn giáo đã bị đầu độc bởi thần học. Một người có tín ngưỡng đích thực không hề
biết đến thần học. Vâng, y sẽ thực chứng, sẽ đạt đến chân lý, đến điểm linh
quang mà không cần đến thần học. Nhưng thần học lại giúp ích cho các nhà học giả,
bác học, những người được gọi là trí thức. Nó còn cần thiết hơn nữa cho giới tu
sĩ, các ông giáo hoàng, các Shankaracharyas. Nó mang lại mối lợi lớn cho họ.
Toàn bộ cái dịch vụ làm ăn của họ đều nương tựa vào đây.
Thiền thì khác, nó cắt đứt tất
cả mọi gốc rễ. Nó hủy diệt cái dịch vụ cơ bản nhất của giới tu sĩ. Và đây cũng
là cái dịch vụ tồi tệ nhất trên thế giới vì được đặt trên sự dối gạt lớn lao.
Nhà tu sĩ không hề biết gì cả nhưng lại tiếp tục đi rao giảng; nhà thần học
không hề biết gì cả nhưng lại tiếp tục đi nói chuyện huyên thuyên về học thuyết.
Ðương sự cũng dốt nát như bao nhiêu người khác – có khi còn dốt nát hơn nữa là
khác, nhưng là một sự dốt nát rất có lớp lang bài bản, được tô vẽ bởi nhiều thứ
– tô vẽ bởi kinh sách, tô vẽ bởi học thuyết; tô vẽ một cách xảo quyệt và thông
minh khiến người ta khó mà tìm ra được kẻ hở. Thần học như thế chẳng có ích lợi
gì cho nhân loại, nhưng chắc chắn là nó giúp ích cho một số người: những tu sĩ.
Từ đó nhân danh những học thuyết xuẩn động, họ khai thác con người.
Hai nhà phân tâm học gặp gỡ
nhau tại một nhà hàng đông khách và bắt đầu nói chuyện. Một người khoe là mình
đang chữa trị một ca phân sinh nhân cách khá thích thú. Người kia chặn họng:
“Phân sinh nhân cách có gì mà đặc biệt? Những trường hợp này xảy ra thông thường
quá mà!”
“Thích thú ở chỗ là tớ được cả
hai người trả tiền!”
Những nhà thần học cũng sống
như thế. Thần học là chính trị. Nó chia rẽ con người. Chia để trị là thủ thuật
muôn đời.
Thiền không thế, nó nhìn nhân
loại không bằng ánh mắt phân chia – nó không chia rẽ. Nó có một cái nhìn toàn
diện. Ðó là lý do tại sao tôi hay nói rằng Thiền là tôn giáo của tương lai.
Nhân loại ngày càng trưởng thành dần trong tỉnh thức, lúc đó thần học sẽ bị loại
trừ và tôn giáo sẽ được chấp nhận một cách thuần khiết như là một thực chứng
tâm linh.
Nhật Bản có một từ ngữ đặc biệt
để diễn tả điều này. Họ gọi đó là konomama
hay sonomama – “Cái Ðây là” của hiện
hữu. Một chữ Ðây viết hoa - không là cái gì khác. Chính cái như thị này của đời
sống mới là Thượng Ðế, không là cái gì khác. Chính cái như thị trong khoảnh khắc
này đây, mới thánh hóa, thiêng liêng: cái như thị của một cành cây, cái như thị
của một hòn đá, cái như thị của một người nam, cái như thị của một người nữ,
cái như thị của một đứa trẻ. Và cái như thị đó không hề được định nghĩa, không
thể được định nghĩa. Bạn có thể tan biến vào đó, thể nhập vào đó, nếm được
hương vị của nó. “Thật là tuyệt vời! Thật là mầu nhiệm!”
Vâng, bạn không thể định nghĩa
được nó, không thể phân tích nó một cách luận lý, không thể đóng khung nó vào một
ý niệm dứt khoát, rõ ràng. Nó sẽ bị giết chết bởi ý niệm. Nó sẽ không còn là
như thị nữa mà là một sản phẩm cấu trúc của tâm. Cái danh từ “Thượng Ðế” không
phải là Thượng Ðế, cái ý niệm về Thượng Ðế không phải là Thượng Ðế. Cũng vậy ý
niệm về “tình yêu” không phải là tình yêu, ý niệm về “thực phẩm” không phải là
thực phẩm.
Thiền đã nói ra điều này một
cách rất đơn giản: Hãy nên nhớ rằng thực đơn không phải là món ăn. Bạn đừng có
xơi luôn thực đơn nhé. Nhưng đó là điều mà người ta đã làm hàng bao thế kỷ qua:
xơi luôn cả thực đơn!
Thế thì bạn đừng ngạc nhiên khi
thấy con người ốm đói, con người không thể thăng hoa, con người không sống động,
con người không sống một cách trọn vẹn; dĩ nhiên thôi, ai cũng có thể thấy trước
điều này. Họ không hề sống bằng thực phẩm thực. Họ nói quá nhiều về thực phẩm đến
độ quên mất đi thực phẩm là cái gì.
Thượng Ðế phải được ăn, Thượng Ðế phải được nếm, Thượng Ðế phải được sống – không phải là để tranh luận. Cái tiến trình “nói về” này chính là thần học. Cái “nói về” này dẫn ta đi lòng vòng, chẳng bao giờ đưa ta đến cái đích thực. Ðây là cái vòng luẩn quẩn. Luận lý chỉ là cái vòng lẩn quẩn. Và Thiền chính là những nỗ lực nhằm đưa ta thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn đó.
Tại sao luận lý là cái vòng lẩn
quẩn? Bởi vì chính trong tiền đề đã hàm chứa kết luận. Kết luận chẳng có gì là
mới mẻ, nó đã được chứa sẵn trong tiền đề. Và rồi trong kết luận, tiền đề được
chứa sẵn. Cũng chẳng khác gì một cái hạt: cái cây được chứa sẵn trong cái hạt,
rồi cái cây sản sinh ra vô số hạt, rồi trong những hạt này sẽ lại ươm mầm những
cái cây. Cái vòng lẩn quẩn là như thế. Hạt, rồi cây, rồi hạt. Tiếp tục như thế
mãi. Cũng giống như trứng, rồi gà, rồi trứng, rồi gà, rồi trứng… tiếp tục không
ngừng. Một cái vòng bất tận.
Thiền là tất cả những gì nhằm bẻ
gãy cái vòng lẩn quẩn này – tâm của bạn sẽ không còn tiếp tục lang thang qua những
ngôn từ và ý niệm mà trực nhập ngay vào hiện hữu của tự thân.
Nanin, một vị đại thiền sư đang
đốn củi ở trong rừng. Một vị giáo sư đại học tìm đến thăm. Nghĩ rằng gã tiều
phu này chắc biết Nanin đang sống ở đâu trong vùng núi non này, ông ta liền hỏi
thăm. Gã tiều phu nâng cái búa lên và nói: “Ta phải trả giá cái này đắt lắm đấy.”
Dĩ nhiên vị giáo sư đâu có hỏi
về cái búa. Ông muốn tìm hỏi xem Nanin đang ở đâu; ông muốn biết Nanin có đang ở
trong chùa hay không để ông đến gặp. Gã tiều phu lại nâng cái búa lên và nói:
“Nhìn đây này. Ta phải trả giá cái búa này đắt lắm đấy.” Vị giáo sư hơi hoang
mang và trước khi kịp tháo lui thì người tiều phu đã tiến sát đến gần hơn, đưa
lưỡi búa hạ xuống ngay sát trên đỉnh đầu ông. Vị giáo sư hoảng hồn đứng run lên
thì người tiều phu nói tiếp: “Cái búa này bén lắm đó.” Ðến đây thì vị giáo sư bỏ
chạy.
Sau đó, khi tìm được đến chùa,
ông mới biết được rằng gã tiều phu kia không ai khác hơn là Nanin. Ông mới hỏi,
“Bộ ông ấy điên hả?”
“Không,” người đệ tử trả lời.
“Khi ngài hỏi rằng Nanin có ở trong đó không thì ông ta trả lời rằng có bằng
cách chỉ cho ngài thấy cái “ở trong” và cái “như thị” của ông ấy. Trong khoảnh
khắc đó, Nanin là gã tiều phu; trong khoảnh khắc đó, cái búa ở trong tay ông
ta, ông ta hoàn toàn thể nhập vào sự sắc bén của cái búa. Ông ta đã trả lời
‘Tôi đang ở trong’ bằng cái hiện sinh lập tức và toàn vẹn của mình ngay chính
trong khoảnh khắc hiện tại đó. Ngài đã không lãnh hội được ý nghĩa này. Ông ta
đã chỉ cho ngài thấy cái phẩm chất của Thiền.”
Thiền là vô niệm và vô trí –
không hề là sản phẩm của ý niệm, và trí tuệ. Ðây là tôn giáo duy nhất trên thế
giới rao giảng về trực nhận tức thời; trực nhận tức thời trong từng khoảnh khắc,
trực nhận tức thời trong từng sát na; hiện hữu ngay trong chính hiện tại, không
quá khứ, không tương lai.
Thế nhưng con người bị bao
quanh bởi thần học. Những lý thuyết thần học này giữ họ mãi trong tình trạng ấu
trỉ, không cho phép họ trưởng thành. Bạn không thể nào trưởng thành được khi bị
giam hảm ở trong hàng rào thần học, khoác lên người chiếc áo Ky tô hữu, hay Ấn
Ðộ giáo, hay Hồi giáo, và ngay cả Phật tử. Bạn không thể trưởng thành. Bạn
không đủ chỗ để lớn dậy. Bạn bị giam hảm quá kỹ, trong một không gian nhỏ hẹp;
bạn đang bị cầm tù.
Một vị mục sư trẻ thụt két một
trăm ngàn đô-la của qũy nhà thờ và đem nướng hết vào thị trường chứng khoán. Rồi
bà vợ trẻ đẹp của ông ta cũng chán ngán bỏ đi. Quá đổi tuyệt vọng, ông ta tìm đến
một dòng sông và sắp sửa buông mình ra khỏi chiếc cầu để tự tử thì bị chặn lại
bởi một người đàn bà trong chiếc áo khoác dài đen, khuôn mặt nhăn nheo, mái tóc
quăn queo màu muối tiêu.
“Ðừng nhảy”, người đàn bà với
giọng the thé, "Ta là mụ phù thủy đây, và ta sẽ ban cho ngươi ba điều ước
nếu ngươi làm cho ta một việc!"
“Không ai có thể giúp tôi được
nữa,” ông ta trả lời.
“Này, đừng có ngớ ngẩn như thế,”
bà ta đọc thần chú, “Alakazam! Tiền bị mất sẽ trở lại hộp an toàn của nhà thờ!
Alakazam! Vợ ngươi hiện đang ở nhà chờ ngươi với tình yêu say đắm nhất.
Alakazam! hai trăm ngàn đô la hiện ở trong nhà băng của ngươi!”
“Thật là tuyệt…tuyệt…tuyệt vời,”
vị mục sư lắp bắp, “bây giờ thì tôi phải làm điều gì cho bà đây?”
“Ngủ và làm tình với ta trong
đêm nay.”
Cái ý tưởng phải ăn nằm với một
mụ già không răng xấu như ma đã bị đẩy lùi vì quả tình nó rất đáng giá, thế rồi
họ ngủ lại qua đêm với nhau tại một khách sạn cạnh đó. Buổi sáng, sau khi màn
trao đổi ghê tởm kết thúc, vị mục sư đang sửa soạn bận áo quần để về nhà thì có
tiếng nói vọng lên từ trên giường: “Này con trai cưng, bao nhiêu tuổi rồi vậy?”
“Bốn mươi hai! Có chuyện gì
không?”
“Có phải ngươi chưa đủ già đến
nỗi tin rằng chuyện phù thủy là có thực?”
Ðó là những gì đang xảy ra. Nếu
bạn tin tưởng vào Thượng Ðế, bạn cũng có thể tin tưởng vào chuyện phù thủy,
cũng cùng một loại thôi. Nếu bạn tin tưởng vào một chuyện nhảm nhí vô nghĩa, bạn
có thể tin tưởng vào tất cả những chuyện nhảm nhí vô nghĩa khác. Thế là bạn
không bao giờ trưởng thành. Bạn vẫn luôn là trẻ con dễ bị lừa.
Thiền có nghĩa là chín chắn. Thiền
có nghĩa là loại bỏ tất cả những mụ phù thủy hoang đường để nhìn thẳng vào vấn
đề. Ðừng mang những giấc mộng của bạn vào thực tại. Hãy chùi sạch đôi mắt mơ ngủ
của mình để nhìn rõ thực tại. Cái như thị đó được gọi là konomama hay sonomama.
Kono hay sonomama có nghĩa là cái như thị của một sự vật – cái thực tướng trong
cái như thị của nó.
Tất cả mọi ý thức hệ đều ngăn chặn tầm nhìn
của bạn. Những ý thức hệ là những chiếc khăn bịt mắt cản trở thị kiến của bạn.
Một người Ky tô hữu không thể thấy được cái gì cả, người Ấn Ðộ giáo cũng thế, kể
cả người Hồi giáo. Bởi vì bạn bị chiếm ngự bởi những ý tưởng của riêng mình nên
bạn chỉ trông thấy những gì muốn trông thấy, cái thực tại không hề xuất hiện, bạn
đang phóng chiếu, bạn đang diễn dịch, bạn đang tạo ra một thực tại riêng tư của
chính bạn vốn không hề hiện hữu ở đó. Ðiều này tạo ra một sự phá sản tâm linh. Trong số một
trăm người được gọi là ông thánh của bạn, có đến chín mươi chín người là kẻ mất
trí.
Thiền mang lại sự lành mạnh
tinh thần cho thế giới, một sự lành mạnh hoàn toàn. Nó giải trừ tất cả mọi giáo
điều, ý thức hệ, khi nói: “Hãy trở nên trống rỗng. Hãy nhìn bằng đôi mắt vô niệm.
Nhìn thẳng vào bản tánh của vạn pháp, mà không khởi lên một ý niệm, không thiên
kiến, không giả định.” Không nên để bị nhồi nhét trước, đó là một trong những
điều cơ bản nhất. Thế nên thần học phải bị loại trừ, nếu không bạn sẽ vẫn mãi mãi
bị nhồi nhét bởi những thiên kiến.
Bạn đã thấy được trọng tâm của
vấn đề chưa? Khi bạn đã mang sẵn một ý tưởng ở trong đầu, thường một điều chắc
chắn là bạn sẽ tìm thấy nó ở trong thực tế – bởi vì tâm rất là sáng tạo. Dĩ
nhiên cái sáng tạo này chỉ thuần là tưởng tượng. Nếu bạn đang tìm kiếm Christ,
có thể bạn sẽ thấy những ảo ảnh về Jesus Christ, và tất cả đều là hư huyễn. Nếu
bạn đang tìm kiếm Krisna, bạn có thể bắt đầu thấy Krisna, và tất cả cũng chỉ là
hư huyễn.
Thiền rất mực thực tế. Nó cho rằng những gì
là ảo tưởng cần phải được loại trừ. Ảo tưởng đến từ quá khứ. Từ thuở
ấu thơ bạn đã bị điều kiện hoá bởi một số ý tưởng. Từ thuở ấu thơ bạn đã được
đưa đến nhà thờ, đưa đến chùa, đưa đến thánh đường Hồi giáo; bạn đã được dẫn đến
các nhà học giả, các nhà thông thái, các nhà tu sĩ; bạn đã bị buộc phải lắng
nghe những bài thuyết pháp – đủ mọi thứ chuyện được nhét vào tâm trí của bạn. Với
gánh nặng chồng chất như thế, bạn chớ vội đi tìm chân lý – vì nếu không, bạn sẽ
không bao giờ biết rõ được chân lý là cái gì.
Phải cởi bỏ cái gánh nặng đó. Cởi bỏ cái
gánh nặng đó tức là Thiền.
Một vị mục sư đang rao giảng
Phúc Âm trong một bệnh viện tâm thần cho những người mất trí. Bài giảng của ông
ta nửa chừng đột nhiên bị cắt đứt bởi tiếng ré lớn: “Này, nghe tôi nói đây này,
chúng ta có nên lắng nghe những chuyện vớ vẩn này không?”
Vị mục sư hơi ngạc nhiên và bối
rối hỏi người canh giữ: “Tôi có nên ngưng nói không?”
Người gác trả lời: “Không,
không, hãy cứ tiếp tục. Chuyện này tôi bảo đảm là sẽ không xảy ra nữa đâu, ít
nhất là bảy năm nữa. Cái tên điên này cứ bảy năm hắn mới tỉnh táo được một lần
đó mà.”
Quả thật là rất khó khăn để tỉnh táo trong
một thế giới đang điên loạn.
Thiền dễ nhưng mà khó. Thiền như
ta được biết là những gì đơn giản – rất mực đơn giản, đơn giản nhất, bởi vì đây
là sự tự phát - nhưng lại rất khó khăn, bởi vì tâm của ta đã bị điều kiện hóa,
bởi vì cái thế giới khùng điên mà chúng ta đang sống, chúng ta được nuôi dưỡng
lớn lên, nó làm cho chúng ta hư hỏng.
0 Đánh giá