Read more
Osho
- Ngón tay chỉ trăng
Chương
4. Phản chiếu trong gương
Thân thể này được làm từ chất tiết ra của mẹ và cha và đầy những chất bài tiết và thịt. Do đó, bằng cách đi khỏi nó như từ một chandra, tiện dân thấp kém, và trở thành Brahman, thực tại tuyệt đối, là được hoàn thành. Hỡi người tìm kiếm chân lí! Bằng cách biết cái một của linh hồn và linh hồn tối cao, giống hệt như cái một của ghatakash, bầu trời bên trong cái bình, và mahakash, bầu trời bên ngoài cái bình, một cách không phân chia được bao giờ cũng là an bình.
Việc trở thành cái hỗ trợ tự toả sáng, tự tạo của tất cả linh hồn và linh hồn vĩnh cửu, Brahman, thực tại tuyệt đối, là vứt bỏ cảm giác về thân thể ông và cả thân vũ trụ, dường như đấy chỉ là bình chứa chất bài tiết.
Làm cho cảm giác bản ngã, mà đã kiểm soát thân thể, trở thành cái ta ý thức phúc lạc, từ bỏ thân thể thô kệch và thành linh hồn đơn độc bất tử của ông.
Hỡi người hồn nhiên! Như thành phố có thể được nhìn được phản xạ trong gương, Ta là Brahman đó, thực tại tuyệt đối, trong người mà việc phản xạ thế giới này được thấy - biết điều này, hỡi người hồn nhiên, là được hoàn thành.
Chúng ta biết thân thể chỉ từ bên ngoài. Như một người có thể đi quanh lâu đài, nhìn hình dạng bên ngoài và cái đẹp của các bức tường của nó rồi kết luận rằng đây là toàn bộ lâu đài, tương tự như chúng ta thấy thân thể chỉ từ bên ngoài.
Thân thể không chỉ là cái được thấy được từ bên ngoài. Thấy được thân thể từ bên trong, người ta lập tức được tự do với nó. Hình dạng của thân thể thấy được từ bên ngoài chỉ lại cái che phủ. Thực tại của thân thể được thấy từ bên trong, cách thân thể thực sự hiện hữu.
Phật hay phái các đệ tử của mình tới chỗ hoả thiêu để xem các xác chết, để nhìn xương, nhìn sọ. Đó là cách thân thể hiện hữu: mọi thứ đều được bao phủ bởi tầng da, ngoài thứ ấy ra bạn sẽ thấy ghê tởm nó và sẽ không thể nào thèm khát nó quá, gắn bó với nó quá, và cảm thấy ‘cái của tôi’ về nó. Đôi khi thử quán tưởng thân thể từ bên trong mà xem; thế thì bạn sẽ có khả năng hiểu được kinh này. Đôi khi đi đến bệnh viện; xem bác sĩ phẫu thuật tiến hành ca mổ trong phòng mổ. Điều bạn sẽ thấy bên trong thân thể, đấy là thực tại.
Kinh này rất có ích cho thiền. Để nó rất rõ ràng cho bạn rằng không có kết án về thân thể trong kinh này. Tôn giáo không quan tâm tới việc kết án bất kì thứ gì, hay trong việc ca tụng bất kì thứ gì. Tôn giáo chỉ quan tâm tới việc biết cái đang hiện hữu.
Cho nên khi được nói rằng thân thể là đống thịt, xương, máu, tuỷ, chất bài tiết, vân vân, nhớ lấy không có ý định kết án chút nào. Không hề có ý định ruồng bỏ thân thể; thân thể chỉ là như vậy thôi. Toàn bộ sự việc chỉ là việc tiết lộ sự kiện cách thức thân thể là vậy, không gì khác.
Kinh này nói:
Thân thể này được làm từ chất tiết ra của mẹ và cha và đầy những chất bài tiết và thịt... Bằng cách đi khỏi nó như từ một chandal, tiện dân bậc thấp, và trở thành Brahman, thực tại tuyệt đối, là được hoàn thành.
Các từ chandal và sudra là rất có giá trị. Tâm lí học Ấn Độ cổ đại nói rằng bất kì ai tin tưởng mình là thân thể đều là sudra; ‘sudra’ nghĩa là người tin bản thân mình là thân thể. ‘Brahmin’ nghĩa là người đã biết bản thân mình là Brahman, cái tuyệt đối. Người ta không phải là brahmin chỉ bởi được sinh ra trong một gia đình brahmin, người ta không là sudra chỉ bởi được sinh ra trong gia đình sudra. Tính chất sudra hay brahmin không có liên quan gì tới nhà cửa hay gia đình, sudra là trạng thái của con người, và brahmin cũng vậy.
Mọi người sinh ra đều như sudra, chỉ một vài người chết đi như brahmin. Toàn thế giới đều là sudra. Sudra nghĩa là, tất cả những người trên thế giới sống với việc tin rằng bản thân họ là thân thể. Rất khó tìm được brahmin. Không khó nhận việc sinh ra trong nhà của brahmin, nhưng để là brahmin là khó.
Tôi đã từng nghe, Uddalaka nói với con mình Svetketu, “Đến đạo tràng của người thấy và quay về sau khi đã trở thành brahmin.”
Svetketu nói, “Nhưng con đã là brahmin, con là con của một brahmin.”
Thế rồi Uddalaka nói với con một cách quả quyết nhưng đầy yêu thương, “Chưa bao giờ xảy ra việc chỉ bởi được sinh ra trong nhà chúng ta một người trở thành brahmin. Chúng ta thực tại đã trở thành brahmin. Cho nên con tới đạo tràng của thầy và quay về khi đã trở thành một brahmin. Có đâu trên thế giới mà phẩm chất brahmin được nhận được từ người bố? Nó được nhận được từ thầy chứ! Và trong gia đình chúng ta chưa bao giờ có brahmin danh hiệu, chúng ta bao giờ cũng thực sự trở thành brahmin. Con đi đi và quay về khi con đã trở thành một brahmin.”
Kinh này nói: Đi ra khỏi thân thể bạn dường như bạn đang đi ra khỏi chandal hay tiện dân. Không phải là người ta phải đi xa; khoảnh khắc người ta hiểu, nó là rác rưởi tanh hôi, nó là chất bài tiết, nó là thịt, máu và tuỷ - ngay khi điều này được nhận ra, việc rời xa bắt đầu theo cách riêng của nó. Chúng ta bị hấp dẫn, chúng ta bị lôi kéo đến nơi chúng ta nghĩ là ngát hương. Chúng ta bắt đầu rời đi, chúng ta bị đẩy đi khỏi nơi chúng ta cảm thấy hôi hám. Thiên vị của chúng ta về thân thể là bởi vì dốt nát của mình về nó. Chúng ta không có ý tưởng gì về việc thân thể chúng ta thực tại là gì.
Cho nên quán tưởng cái bên trong thân thể bạn đi. Trở thành bác sĩ giải phẫu của riêng bạn và mở thân thể riêng của bạn ra. Da không dầy lắm đâu, nó mỏng thôi. Chúng ta đã phát triển quá nhiều gắn bó với mọi thứ bị giấu kín đằng sau làn da này, và chúng ta bắt đầu sống dường như đó là tất cả những cái có cho con người chúng ta. Cho nên chúng ta gắn bó với nó, buộc vào nó.
Nếu bạn bắt đầu nhận ra thực tại đích xác của thân thể mình, bạn sẽ thấy rằng việc rời xa đã bắt đầu; bạn không phải rời đi xa, việc rời đi tự nó bắt đầu theo cách riêng của nó. Thế thì nếu chúng ta phải đồng nhất lại với thân thể điều đó sẽ phải cần tới nỗ lực. Nhưng việc bị bị gắn bó với thân thể của chúng ta chỉ ngụ ý một điều, và điều đó là việc chúng ta chưa bao giờ nhìn vào thân thể từ bên trong của nó.
Chúng ta biết tới thân thể mình bởi việc thấy nó trong gương - nhưng cái được thấy trong gương chỉ là lớp che phủ bề ngoài của thân thể. Sẽ rất tốt nếu một ngày nào đó khoa học phát minh ra máy - kiểu như máy tia x - mà nếu người ta đứng trước nó, nó sẽ phơi bầy mọi thứ bên trong thân thể ra như đúng cách nó là vậy: xương, thịt, tuỷ, chất bài tiết và mọi thứ. Cái máy như thế sẽ rất hữu dụng.
Một khi bạn đi tới biết tình huống thực của cái bên trong thân thể mình, bạn lập tức sẽ thấy rằng một khoảng cách đã phát triển giữa thân thể và bản thân bạn; mọi nhịp cầu nối đó sẽ sập đổ, mọi đồng nhất sẽ biến mất và lỗ hổng sẽ bắt đầu tăng lên. Những người thấy của Upanishad đã cố tạo ra con mắt đó để qua nó bạn có thể có thoáng nhìn vào trong - đằng sau làn da, đằng sau lớp da riêng của bạn.
Chân lí giải thoát. Nếu chúng ta đi tới biết chân lí về thân thể mình, tâm trí chúng ta bắt đầu trở nên tự do với nó. Thiếu chân lí là tù túng. Bất kì điều gì chúng ta không biết trong thực tại của nó đều trở thành tù túng.
Hỡi người tìm kiếm chân lí! Bằng cách biết cái một của linh hồn và linh hồn tối cao, giống hệt như cái một của ghatakash, bầu trời bên trong cái bình, và mahakash, bầu trời bên ngoài cái bình, một cách không phân chia bao giờ cũng an bình.
Khi cái vô tích sự của thân thể được thấy và cái vô giá trị của thân thể được nhận ra, thân thể chỉ còn là cảm giác về đống rác rưởi và máu mủ. Và khi khoảng cách từ thân thể bắt đầu tăng lên, chỉ thế thì sự gần gũi với Thượng đế bắt đầu phát triển. Người ta càng gần với thân thể, càng xa với Thượng đế; càng xa với thân thể, người ta càng gần với Thượng đế. Ràng buộc với thân thể của chúng ta càng mạnh, khoảng cách tới tâm thức vô thân thể càng lớn. Khi ràng buộc này trở nên kém đi và khi khoảng cách với thân thể bắt đầu tăng lên, điều này chỉ có một nghĩa - rằng sự gần gũi với linh hồn đang tăng lên.
Linh hồn là một cực và thân thể là cực kia: chúng ta ở giữa hai cực. Khi chúng ta quá gần với thân thể, chúng ta ở xa linh hồn; khi chúng ta bắt đầu rời xa khỏi thân thể, chúng ta đang tới gần hơn với linh hồn. Đây là lí do tại sao hành động rời xa khỏi thân thể đã được lấy như quá trình thiền. Điều này cũng bị hiểu sai rất nhiều nữa.
Khi các kinh sách Ấn Độ lần đầu tiên được dịch sang tiếng phương Tây, mọi người nghĩ rằng những kinh sách này là kẻ thù của thân thể. Nhưng nó không phải như vậy. Chúng chỉ là phương sách thôi. Biết về thực tại thân thể, tâm thức chúng ta lập tức đi vào cuộc hành trình vào trong. Nhận ra chân lí thực tại về thân thể, mối nối với thân thể lỏng ra. Để làm lỏng mối nối đó, cần phải làm mạnh việc nhận ra này.
Suy ngẫm về cái chết, suy tư về thực tại của thân thể, mở ra thực tại của thân thể và thấy chúng một cách rõ ràng - đây là những phương pháp của thiền. Thông qua chúng người ta bắt đầu đi vào bên trong. Và việc đi đó dễ dàng xảy ra, không cần nỗ lực cho điều đó. Nếu bạn muốn đi vào bên trong mà không hiểu về thân thể điều đó sẽ rất khó khăn, bởi vì tâm trí sẽ vẫn còn quan tâm và bị buộc vào thân thể.
Một khất sĩ bhikkhus của Phật đi ngang qua một thôn làng. Ông ta rất đẹp trai, và thiền đã tăng thêm chân giá trị, vẻ duyên dáng cho cái đẹp của ông ấy. Im lặng đã kết tinh bên trong ông ta và tia sáng của nó toả ra từ đôi mắt và khuôn mặt của ông ta. Hào quang ánh sáng làm duyên dáng cho ông ta. Một gái mãi dâm rất nổi tiếng thấy ông và phải lòng ông. Rabindranath Tagore đã viết một bài thơ hay về sự kiện này.
Cô mãi dâm tới ông ta và đề nghị khất sĩ nghỉ lại một đêm trong lâu đài của cô ấy. Khất sĩ đáp, “Không có giới luật nào về điều này cho nên ta sẽ không từ chối lời mời của cô. Ta sẽ tới, nhưng thời gian còn chưa đúng. Khi thực tại thực tế của thân thể cô được lộ ra cho cô, đó là lúc ta sẽ tới. Ngay bây giờ cô còn đang lầm lẫn. Cái ngày cô thức tỉnh về thực tại của nó, ta sẽ tới.”
Cô mãi dâm đó không thể hiểu được điều này. Chính ý nghĩa của mãi dâm là người không hiểu bất kì ngôn ngữ nào khác ngoài ngôn ngữ thân thể. Cho nên đừng nghĩ rằng chỉ bởi vì người đàn bà là vợ ai đó mà cô ấy không phải là mãi dâm. Nếu cô ấy chỉ hiểu ngôn ngữ của thân thể, cô ấy là mãi dâm. Chừng nào ngôn ngữ của linh hồn còn chưa được hiểu, không ai có thể vượt lên trên việc mãi dâm được.
Và cũng đừng nghĩ rằng từ mãi dâm chỉ áp dụng cho đàn bà; không, nó áp dụng cho cả đàn ông nữa. Chỉ ngôn ngữ của thân thể là được hiểu; mọi giao tác đều được thực hiện trên mức thân thể. Toàn thể tâm trí bị tập trung chỉ vào thân thể, bản thân thân thể là việc buôn bán - đây là mọi điều được ngụ ý bởi từ mãi dâm này.
Khất sĩ nói, “Ta chắc chắn sẽ đến, nhưng chỉ khi thực tại của thân thể cô được lộ ra cho cô.”
Cô mãi dâm nói, “Ông có điên không đấy? Đây là lúc cho ông tới - trong khi tôi còn trẻ và ở đỉnh sắc đẹp của tôi.
Thân thể tôi sẽ không bao giờ trong hoàn cảnh tốt hơn nữa.”
Khất sĩ đáp, “Mối quan tâm không phải là ở cái tốt hơn, mối quan tâm là ở cái thực. Khi thân thể cô biểu hiện thực tại của nó, thế thì ta sẽ tới.”
Cô mãi dâm nói, “Tôi không thể nào hiểu được lời ông nói. Xin làm nó rõ hơn cho tôi.”
Khất sĩ nói, “Khi không ai đến với cô nữa thế thì ta sẽ đến, bởi vì đến lúc đó thân thể cô sẽ biểu hiện thực tại của nó. Thế thì thân thể sẽ trông giống nhau cả từ bên ngoài cũng như nó thực bên trong. Ngay bây giờ thì bên ngoài trông không giống như nó thực bên trong. Cho nên khi không ai tới cô nữa, ta sẽ tới.”
Nhiều năm qua đi, và cô mãi dâm trở nên già, bệnh hủi đã lan khắp thân thể cô, các chi đã bắt đầu teo lại, và người ta tống cô ra khỏi làng.
Đây đã là cùng những người đã quen dập dờn quanh cửa nhà cô! Đây là cùng những người đã xin chết để vào trong lâu đài của cô, những người quen coi họ là may mắn và có diễm phúc cho dù chỉ được thoáng nhìn xa xăm của cô. Cùng những người đó đã tống cô ra khỏi làng.
Đấy là một đêm đem kịt không trăng. Cô ấy đau đớn và khát. Không có người nào dù chỉ để cho cô ấy một cốc nước. Đêm đó khất sĩ tới; ông ta đặt tay lên đầu cô và nói, “Ta đã tới đây. Bây giờ thân thể cô trong hoàn cảnh thực của nó, bây giờ không ai lại gần cô. Bây giờ thân thể bên ngoài đã trở thành hệt như nó bên trong. Bây giờ khoảng cách giữa bên ngoài và bên trong đã biến mất, ảo tưởng rằng làn da này còn duy trì đã không còn nữa. Bây giờ rác rưởi và máu mủ bên trong cũng biểu hiện ra bên ngoài; bây giờ cô là như nhau ở bên trong và bên ngoài. Bây giờ ta đã tới. Đây là cái ngày ta đã hứa ta sẽ tới khi ta nói rằng khi không ai khác tới cô, ta sẽ tới.”
Khất sĩ còn nói thêm, “Như ta đã quan ngại trước, ngay tại lần gặp gỡ đầu tiên ta đã có thể thấy trong cô điều bây giờ biểu hiện ra. Vâng, thế nhưng cô đâu có thể thấy được nó. Ta có thể đã trở thành khách của cô ngay trong ngày đó, chẳng có gì khó khăn, nhưng ảo tưởng của cô chắc sẽ tăng lên: ‘Bây giờ ngay cả khất sĩ cũng bắt đầu trở thành khách của mình.’ Ta thì không có khó khăn gì, ta có thể đến ngay ngày đầu tiên đó, bởi vì ta có thể thấy thân thể cô như nó hôm nay. Điều cả làng bây giờ có thể thấy ta đã thấy từ ngày đó rồi.”
Nhưng cô mãi dâm đó, bây giờ nằm ngoài làng, đã không nhìn vào thân thể mình. Với mắt nhắm, cô ấy vẫn nhớ lại những ngày khi cô còn có thân hình đẹp đẽ, khi cô còn danh giá và sống tự hào trong làng.
Ngay cả trong tuổi già mọi người vẫn nghĩ về những ngày tuổi trẻ của mình. Khi thân thể biểu hiện chính nó dưới dạng đúng của nó, họ vẫn tiếp tục che đậy nó bằng tâm trí mình. Khi thậm chí làn da không thể che giấu được tuổi già của họ, họ nhắm mắt lại và sung sướng trong suy tư về quá khứ.
Khi người già tìm thấy nguồn cảm khoái trong suy nghĩ về tuổi trẻ của mình, người đó sẽ chết là một sudra. Và khi một thanh niên thấy tuổi già trong thân thể mình trước khi nó thực tế xuất hiện, người đó sẽ chết là một brahmin. Khi một người đang hấp hối còn mang thèm khát về cuộc sống, biết rõ rằng người đó là một sudra. Khi ngay cả tại đỉnh thanh xuân, ai đó bắt đầu thấy cái chết của mình, hiểu rằng brahmin đang được sinh ra trong người đó. Và điều cần thiết là chúng ta thấy được thực tại này của thân thể, sao cho dây buộc bị chùng ra và chúng ta có thể hướng tới nơi tâm thức hiện hữu.
Hỡi người tìm kiếm chân lí! Bằng cách biết cái một của linh hồn và linh hồn tối cao, giống hệt như cái một của ghatakash, bầu trời bên trong cái bình, và mahakash, bầu trời bên ngoài cái bình, một cách không phân chia bao giờ cũng an bình.
Chỉ quay lưng khỏi thân thể và nhìn vào cái mahakash đó thôi. Mahakash đó, sự tồn tại mênh mông đó, là rất gần.
Nếu một cái bình đất để trên mặt đất và chúng ta lộn ngược nó, đặt úp nó xuống, và thế rồi nếu cái bình nhìn lên, nó sẽ chỉ thấy cái thân bằng đất của nó, không thấy bầu trời. Để bình lộn ngược úp xuống đất, cho dù cái bình có nhìn lên, nó sẽ thấy gì? Tất cả những cái nó có thể thấy chỉ là cái đáy bình, tầng bùn của riêng nó - thân thể nó - nhưng không thấy bầu trời. Rồi chúng ta đặt cái bình thẳng đứng lại, miệng bình hướng lên trời. Thế thì khi nó nhìn lên trời nó sẽ có khả năng thấy, “ta không phải là thân thể.” Bây giờ cái bình cũng có khả năng thấy, “Bầu trời nhỏ bên trong ta cũng cùng là bầu trời bên ngoài; và giữa hai bầu trời đó của chúng ta không chỗ nào có lỗ hổng nào, chúng ta là không tách biệt. Chính ta là người đã mở rộng vào trong bầu trời bên trên, và chính bầu trời bên trên là nơi mọi con đường đã đi xuống theo mọi đường vào trong ta; không đâu có bất kì chướng ngại, bất kì biên giới, bất kì bức tường nào ở giữa.”
Điều tương tự cũng xảy ra khi bạn nhìn vào thân thể mình; bạn giống như cái bình bị lộn ngược - bạn chỉ thấy thân thể. Khi bạn rời xa khỏi thân thể mình, bạn trở thành giống như cái bình được dựng thẳng - bây giờ bạn đối diện với bầu trời. Khi một người rời xa khỏi thân thể, lập tức người đó được tập trung vào bầu trời và lần đầu tiên thấy rằng không có đến một hạt sạn khác biệt nào giữa người đó và sự tồn tại bao la này đang trải rộng khắp xung quanh. Người đó đã trở thành sự tồn tại bao la, sự tồn tại bao la đã vươn tới người đó.
Hỡi người tìm kiếm chân lí! Bằng cách biết cái một của linh hồn và linh hồn tối cao, giống hệt như cái một của ghatakash, bầu trời bên trong cái bình, và mahakash, bầu trời bên ngoài cái bình, một cách không phân chia bao giờ cũng an bình.
Ngay khi sự thống nhất này được nhìn thấy, an bình xảy ra.
Thực tế, bất ổn là gì? Bất ổn của chúng ta là gì? Bất ổn của ta là ở chỗ chúng ta quá lớn và bị cầm tù trong cái tí hon. Bất ổn của chúng ta giống như bất ổn của người đã bị nhét vào bộ quần áo trẻ con và không thể cử động tự do được, người đó cảm thấy rất gò bó. Và thêm nữa, nếu những quần áo này được làm bằng sắt, khó khăn còn lớn đến đâu? Khó khăn của chúng ta là tương tự.
Chúng ta lớn - không chỉ lớn mà còn bao la - và chúng ta bị cầm tù trong thân thể nhỏ. Ngôi nhà nhỏ mà cư dân rất lớn. Cảm giác bất tiện khắp mọi phía; mọi nơi đều dường như là đường biên và mọi nơi đều bất tiện. Dường như là không có chỗ nào người ta có thể chui ra. Và khó khăn còn nhân lên gấp bội bởi vì điều chúng ta nghĩ là ngôi nhà của mình lại là nhà tù của chúng ta. Chúng ta bận bịu trang trí nó, bầy biện đồ đạc và phát triển nó. Chúng ta thu xếp để trang hoàng vàng bạc bên trong nhà tù, chúng ta làm đẹp và trang điểm các bức tường nhà tù - và đây cũng chính là nhà tù mà chúng ta bị mắc bẫy vào. Chúng ta đối diện với các bức tường, không hướng ra cửa.
Nó sẽ là vậy, bởi vì bạn quay sang cái hấp dẫn bạn. Mặt đang hướng về nơi có hấp dẫn và lưng thì hướng về nơi có kinh tởm. Chừng nào bạn còn đồng nhất với thân thể, bạn sẽ còn đối diện với bức tường. Và khoảnh khắc có kinh tởm hướng về thân thể, bạn đã tìm thấy cánh cửa.
Trong thân thể bạn nữa cũng có cửa. Nhưng cửa đó sẽ chỉ được thấy khi hấp dẫn của bạn vào thân thể biến mất. Cửa đó trong thân thể được gọi là tâm. Đấy không phải là trái tim thực mà bạn vẫn gọi là tim; cái bạn gọi là tim đó chỉ là một cơ quan vẫn đập gần phổi. Không có cửa ở đó đâu, đấy chỉ là việc bố trí cho việc bơm máu thôi. Đấy không phải là tâm.
Tâm, theo ngôn ngữ yoga, là tên của cánh cửa đó nơi bạn bỗng nhiên thấy bản thân mình đứng khi bạn rời xa khỏi thân thể, khi bạn không còn mối quan tâm nào ngay cả trong việc nhìn vào thân thể - khi không còn hấp dẫn gì với thân thể và cái vô hạn được sinh trong bạn. Chính đây là cửa - nơi cái bình mở ra hướng tới bầu trời.
Có nhiều kiểu cửa trong thân thể bạn, nhưng bạn đi tới biết chúng chỉ khi bạn đạt tới chúng, không trước điều đó.
Nhìn đứa trẻ nhỏ: trẻ con không biết rằng có cửa dục trong thân thể nó. Nhưng khi trẻ con lớn lên và trở thành thanh niên, bỗng nhiên một ngày nào đó nó sẽ trở nên nhận biết về cửa đó. Qua cửa dục đó nó có thể đi vào trong thế giới; đấy nữa cũng là một cửa để đi ra khỏi thân thể. Và nhớ lấy, đây là lí do tại sao có nhiều ao ước đến thế về dục. Vì nó mà chúng ta có khả năng chảy ra khỏi thân thể mình trong thoáng chốc, nhưng chỉ thoáng chốc thôi. Trong thoáng chốc thân thể bị quên lãng đi và chúng ta đắm chìm trong tự nhiên.
Một trong những cửa của con người hướng ra tự nhiên - hướng xuống - và cửa nữa hướng tới tính thượng đế - hướng lên. Khi tâm trí chúng ta chất đầy những ham muốn dục thì chúng ta gần với thân thể nhất. Và khi chúng ta gần với thân thể nhất, thế thì cửa mở qua đó chúng ta đi vào trong thế giới của thân thể khác. Khi chúng ta dửng dưng và rời xa thân thể, thế thì cửa mở qua đó chúng ta đi vào trong thế giới của linh hồn. Cả hai cửa này đều có đó trong thân thể.
Trong thân thể có cửa dẫn tới vật chất, và cũng trong thân thể có cửa dẫn tới tính thượng đế. Nhưng việc không quan tâm vào thân thể sẽ không xảy ra chỉ bởi suy nghĩ như vậy. Nếu bạn cứ nghĩ rằng thân thể chỉ là thịt, xương, tuỷ và không có gì khác, điều này không ích lợi gì cả; suy nghĩ chỉ nói lên rằng bạn không biết - và đó là lí do tại sao bạn đang nghĩ.
Nhiều người tự cứ nhủ mãi trong nhiều kiếp, “Có gì trong thân thể?” Nhưng họ biết rằng có cái gì đó trong thân thể, nếu không tại sao cần tới lời tự kỉ ám thị này? Nếu không cần gì lặp lại lời gợi ý này cho chính bạn? Họ đang dự định thuyết phục chính mình, tâm trí mình, đừng đổ vì điều thân thể nói bởi vì không có gì trong nó cả. Nhưng tâm trí này là ai mà dính líu vào trong thân thể này? - đấy chính là bản thân họ. Và mối quan tâm của tâm trí vào thân thể vẫn còn bền vững, đó là lí do tại sao điều đó cần được thuyết phục.
Kinh này không ngụ ý thuyết phục. Đừng lặp lại nó; đừng bắt đầu tụng nó khi ngồi nhắm mắt. Kinh này là để khải lộ. Với việc hiểu kinh này, bằng mắt nhắm, cố tìm kiếm bên trong thân thể bạn xem liệu có đúng không, như kinh nói, rằng thân thể này không là gì ngoài xương, thịt và tuỷ.
Đừng chỉ tin vào nó. Việc tin vào nó sẽ nguy hiểm bởi vì bạn sẽ bắt đầu lặp lại nó. Không, thám hiểm nó đi, tìm kiếm nó đi. Có thể người thấy đơn giản đùa, có thể ông ta nói dối. Bất kì cái gì người thấy đã nói đều không phải để cho bạn tin, mà để biết qua tìm kiếm riêng của bạn.
Tìm kiếm bên trong bản thân bạn đi. Dò dẫm bên trong về xương bạn. Ấn ngón tay vào thịt và cảm. Sờ vào sọ và cảm xem cái gì có đó. Thử trở nên quen thuộc với thân thể bạn từ mọi phía. Cái ngày quen thuộc này được hoàn chỉnh... Và sao trì hoãn? - Nó có thể xảy ra hôm nay. Bạn đã được trao cho thân thể mình, nhưng bạn chưa bao giờ bận tâm thám hiểm nó, bạn chưa bao giờ bận tâm xem xét nó. Nhưng hành vi của con người không thể tin được đến mức có lẽ bạn có thể được tha thứ.
Tôi biết nhiều bác sĩ đã được học hành và nghiên cứu về xương, thịt và tuỷ, nhưng họ quá mê đắm như nhau với thân thể. Bác sĩ mê đắm với thân thể là phép màu! Điều đó có nghĩa là mù quáng của họ là vô song và không thể giải thích nổi. Là bác sĩ giải phẫu, họ cưa cắt, mổ xẻ thân thể trên bàn mổ, vậy mà, giống Majnu, họ cứ hát mãi bài ca ngợi về Laila. Đây là phép màu thực; tạo ra bùa hộ mạng, vân vân từ không khí bởi Satya Sai Baba chẳng phải là phép màu chút nào. Phép màu là ở chỗ bác sĩ, người ngày nào cũng cắt mở thân thể và biết mọi điều về thịt, tuỷ và chất bài tiết, người bịt mũi lại để cho mùi hôi thối từ bên trong thân thể không thể đi vào hơi thở ông ta, người quen thuộc với từng khúc xương và từng mạch máu trong thân thể và biết không có gì trong thân thể mà có thể gọi là đẹp cả, cũng trở nên điên khùng với ham muốn về thân thể ai đó.
Điều rất thú vị đã xảy ra... Tôi đã nói tất cả những điều này cho một bác sĩ - ông ta là bạn tôi. Ông ta nói, “Bây giờ, trong khi ông đang kể cho tôi điều này, tôi nhớ lại một tai nạn. Có lần tôi đã mổ bụng một người đàn bà. Khi mở bụng ra, tôi bị nôn vì tất cả những gì tôi thấy ở đấy; nó đảo lộn hết cả. Trong khi tất cả những điều này xảy ra,” ông bác sĩ kể cho tôi - ông ta là một người thật thà - “đứng cạnh nhau, sự hấp dẫn vào cô y tá đẹp đang đứng cạnh tôi tự khẳng định nó. Cái dạ dầy mở ra đang ở đó, và tôi nghĩ làm sao hoàn thành thật sớm ca mổ vì sau đó tôi định đi xem phim với cô y tá này.”
Bây giờ đấy là cách thức của tâm trí con người! Chúng ta đều khéo léo trong việc lừa dối chính mình. Con người này nữa cũng làm cùng điều như thế. Chẳng mấy chốc ông ta sẽ ra khỏi phòng mổ, ông ta sẽ cầm tay cô y tá và quên hoàn toàn, thực ra, cái tay là gì.
Cho nên người trung bình có thể được tha thứ - nhưng tôi đang nói như vậy chỉ để so sánh với vị bác sĩ này. Bằng không thì không người nào có thể được tha thứ cả, vì chúng ta có thân thể riêng của mình và chúng ta không có khả năng tự mình quen được với với thân thể ấy. Và mọi người bắt đầu lên đường đi tìm linh hồn của họ! Thậm chí không có khả năng tự mình làm quen được với thân thể mình, họ vẫn lên đường đi tìm linh hồn.
Mọi người hỏi tôi, “Làm sao đạt tới linh hồn?” Xin bạn đủ lòng tốt để trước hết biết rõ về thân thể. Trước hết làm quen với cái gần gũi với bạn đến thế đã. Và làm quen với nó trở thành cái thang để vươn lên linh hồn, vì bất kì ai trở nên quen thuộc với thân thể đều không đồng nhất với nó; và bất kì ai rời xa khỏi thân thể đều đối diện với linh hồn - lối mở của người đó hướng tới linh hồn. Và khi bầu trời gặp với ghatakash này, bầu trời nhỏ bé bên trong cái bình, thế thì điều xảy ra được gọi là an bình.
Vẫn còn bị cầm tù trong thân thể là nguyên nhân cho bất ổn, và kinh nghiệm là một với không gian bao la, tràn ngập khắp bên ngoài nhà tù thân thể, là đi tới an bình. Không có gặp gỡ với cái tối thượng, không ai đã bao giờ trở nên an bình. Do đó, mọi nỗ lực khác để trở nên an bình sẽ thất bại. Nhiều nhất chỉ có thể có ít nhiều bất ổn hơn thôi. Đôi khi còn nhiều bất ổn hơn, đôi khi ít hơn, tất cả chỉ có vậy. Điều bạn gọi là an bình không là gì ngoài ít bất ổn, không gì nhiều hơn thế này - chỉ là bất ổn thông thường. Khi có bất ổn thông thường, người ta nói mọi thứ là an bình, mọi thứ đều tốt! Khi bất ổn tăng lên một chút, người ta cảm thấy rắc rối.
Các nhà tâm thần nói rằng toàn bộ công việc của họ là giữ cho mọi người bất thường một cách bình thường, điên khùng một cách bình thường. Có hai kiểu người điên trên thế giới - thực ra chỉ có hai kiểu người thế này: một, người điên bất thường, họ phải bị giữ trong nhà thương điên; và người điên bình thường, họ ngồi ở nhà, văn phòng và cửa tiệm mọi nơi. Khác biệt giữa hai kiểu người này chỉ là ở mức độ điên. Bất kì người nào thuộc kiểu thứ hai vào bất kì lúc nào cũng đều có thể đột nhiên nhảy từ cửa tiệm vào nhà thương điên. Không khó khăn gì trong điều đó, đấy chỉ là vấn đề nảy sinh theo mức độ.
Và nhiều lần hàng ngày bạn đã tới rất gần nhà thương điên. Khi bạn tràn đầy tức giận, chỉ vài khoảnh khắc bạn đã trở thành điên. Vào lúc đó không có gì khác biệt giữa bạn và người điên. Bạn sẽ làm cùng những việc mà người điên làm. Khác biệt duy nhất là ở chỗ điều này thỉnh thoảng xảy ra cho bạn, tính điên khùng này của bạn chỉ thỉnh thoảng xảy ra, trong khi tính điên khùng của ai đó khác đã yên vị; nó không rời bỏ họ, nó trở thành tĩnh tại. Bạn có chút ít tính lỏng trong cái điên khùng của mình, nó giữ cho bản thân nó tuôn chảy. Ai đó khác đã đông đặc trong nó, đông cứng trong nó như băng.
Các nhà gia tâm thần nói rằng toàn thể công việc của họ là kéo lại những người đã đi xa hơn một chút trong cái điên của họ và đem họ trở lại cùng với đám đông điên thường. Họ nói họ không thể làm được gì nhiều hơn thế; rằng bằng cách nào đó, qua thuyết phục và dụ dỗ, chữa trị và liệu pháp, có thể trong một hay hai năm, nhiều nhất chúng ta có thể đưa họ trở lại với cửa tiệm hay văn phòng nơi họ đã từ đó tới. Họ được phép điên đến mức không làm ảnh hưởng đến công việc hàng ngày mà họ đang làm.
Bất ổn đã trở thành bản tính của chúng ta. Và điều tự nhiên duy nhất là như vậy bởi vì chỉ có một ý nghĩa cho việc trong an bình: khi con sông cuộc đời bạn rơi vào trong đại dương cuộc sống, trong khoảnh khắc gặp gỡ đó có an bình. Không gặp được cuộc sống vũ trụ, không có an bình.
Việc trở thành cái hỗ trợ tự toả sáng, tự tạo của tất cả linh hồn và linh hồn vĩnh cửu, Brahman, thực tại tuyệt đối, là vứt bỏ cảm giác về thân thể ông và cả thân vũ trụ, dường như đấy chỉ là bình chứa chất bài tiết.
Không chỉ có thân thể này phải từ bỏ, mà thân thể bao la này ta thấy như vũ trụ cũng phải bị từ bỏ. Con người là dạng thu nhỏ của vũ trụ. Có thân thể này bao quanh bạn, và bên trong nó bạn là ngọn lửa bất tử của linh hồn. Tương tự, thân thể của cái toàn thể là vũ trụ này, và bên trong nó là ẩn giấu Brahman, linh hồn vũ trụ. Giác quan của thân thể này cũng phải bị từ bỏ, nhưng ngay cả giác quan của thân vũ trụ bao la này trải khắp mọi nơi có được từ bỏ đi chăng nữa - điều đó cũng trở thành vô nghĩa.
Khi một người không đồng nhất với thân thể mình, người đó kinh nghiệm linh hồn mình. Cố hiểu điều này cho rõ ràng. Khi một người vứt bỏ gắn bó với thân thể mình, thế thì chói sáng tới từ đôi mắt người đó lần đầu tiên là chói sáng của ngọn lửa riêng của người đó, linh hồn riêng của người đó; đó chính là chói sáng của ghatakash - bầu trời bên trong cái bình. Và khi ai đó trở nên tự do ngay cả với thân thể vũ trụ của cái toàn thể, thế thì điều người đó kinh nghiệm là chói sáng của ngọn lửa Brahman, cái tuyệt đối.
Đây là khác biệt duy nhất giữa linh hồn và linh hồn vũ trụ. Linh hồn nghĩa là bạn kinh nghiệm chỉ ngọn lửa tí hon. Linh hồn vũ trụ nghĩa là bây giờ bạn đang đứng trước siêu mặt trời. Được tự do khỏi thân thể riêng của người ta, người ta kinh nghiệm linh hồn này, được tự do khỏi thân thể vũ trụ người ta kinh nghiệm linh hồn vũ trụ. Nhưng khác biệt chỉ ở mức độ. Cho nên với một người đã đạt tới linh hồn, không còn chướng ngại, không còn cản trở; người đó cũng có thể dễ dàng thực hiện bước nhảy thứ hai.
Làm cho cảm giác bản ngã, mà đã kiểm soát thân thể, trở thành cái ta ý thức phúc lạc, từ bỏ thân thể thô kệch và thành linh hồn đơn độc bất tử của ông.
Ý nghĩa của sannyas là ở chỗ khuôn mặt chúng ta thường xuyên hướng lên bầu trời. Grihastha, chủ hộ, thỉnh thoảng có được thoáng nhìn về bầu trời thông qua nỗ lực, nhưng lại sớm trở về nhà mình, thân thể.
Được rõ ràng về nghĩa của grihastha đi; grihastha nghĩa là người giữ việc trở về thân thể mình. Từ griha, ngôi nhà, không nói tới ngôi nhà bạn ở trong đó đâu, nó nói tới ngôi nhà - thân thể - nơi bạn được sinh ra. Và người đã trở nên yên vị trong ngôi nhà này là grihastha. Đôi khi người đó có thoáng nhìn về bầu trời nữa, nhưng người đó giữ việc quay trở về thân thể. Đôi khi miệng bình quay lên trời, nhưng rồi nó lại nhanh chóng quay ngược xuống - lại mắc kẹt. Vẫn còn quay ngược xuống đã trở thành thói quen của nó. Và bởi vì thói quen này, việc quay ngược xuống tạo ra cảm giác là điều đúng - vì thói quen này, thói quen lâu dài.
Nếu một người bị làm cho đầu quay xuống đất ngay từ lúc sinh ra và lớn lên vẫn trong cùng tư thế ấy, thế thì nếu một ngày nào đó người đó được yêu cầu đứng thẳng dậy - trên đôi chân mình - người đó sẽ hỏi tại sao người đó bị làm cho đứng sai đi thế này! Cũng là tự nhiên, bởi vì bây giờ người đó đã quen đứng đầu quay xuống đất.
Tôi đã từng nghe... Có một bộ lạc nhỏ tại Nam Mĩ; đó là một bộ lạc quãng ba trăm người sống trên một đỉnh núi nhỏ, và trên núi đó có một kiểu ruồi đốt làm cho người ta mù. Tất cả ba trăm người của bộ lạc đó đều mù. Tất cả trẻ con sinh ra đều có khả năng nhìn nhưng rồi chúng bị mù trong vòng ba tháng, vì vào lúc đó ruồi đã đốt chúng. Do đó không người nào trong bộ lạc đó nhận biết rằng có cái gì như khả năng nhìn. Làm sao đứa trẻ ba tháng có thể biết được về mắt? Trước khi nó lớn hơn ba tháng nó đã mù. Và tất cả những người khác cũng đều mù cả.
Bây giờ nếu do may mắn một đứa trẻ lớn lên và thị lực vẫn còn nguyên, các ông lang của bộ lạc đó chắc chắn sẽ liệt chúng là đứa trẻ bất thường và phải mổ mắt cho nó. Cuộc mổ như thế để phá huỷ mắt dường như là điều hoàn toàn bình thường phải làm. Họ sẽ nói, “Lại có những thứ như mắt sao? Đã ai có mắt chưa? Không có ai cả. Trường hợp này chắc chắn là sai lầm nào đó của tự nhiên!” Việc phá huỷ mắt qua mổ sẽ trở thành tuyệt đối cần thiết. Mù là tự nhiên đối với họ; nó đã trở thành thói quen.
Điều chúng ta đang là thông thường, dường như là tự nhiên. Nhưng không cần điều đó là tự nhiên. Cố hiểu điều này. Thói quen có thể dường như là bản tính của bạn, nhưng thói quen không phải là bản tính. Cái gì là khác biệt giữa hai điều này? Thói quen có nghĩa là cái chúng ta đã từng làm và do đó chúng ta tiếp tục làm nó. Bản tính nghĩa là cái sẽ tiếp tục xảy ra cho dù chúng ta vứt bỏ mọi việc làm của mình; nó là cái gì đó không cần phải làm.
Chính thói quen của chúng ta hết kiếp nọ đến kiếp kia là bị gắn vào thân thể, thói quen của vô lượng kiếp; nó không phải là bản tính của chúng ta. Cho nên một khi bạn đã có kinh nghiệm đúng về bản tính đúng đắn, thói quen này sẽ tan vỡ. Người ta có thể vẫn có thoáng nhìn, nhưng điều đó không tạo ra khác biệt gì. Thoáng nhìn tựa như tia sét đột nhiên xảy ra, và thế rồi bóng tối khép lại, thế rồi chúng ta lại yên vị trong thói quen cũ.
Sannyasin là người đã quyết định, “Bây giờ ta sẽ phá vỡ sự đồng nhất của tâm trí với ngôi nhà, thân thể, và ta sẽ tiếp tục giữ nhận biết về bầu trời rộng mở. Và nỗ lực của ta sẽ tiếp tục không dừng - ngồi, đi, bước và ngay cả trong ngủ nữa - để cho chừng nào ta có thể đảm đương được, ta sẽ nhận biết rằng tâm trí mình không đồng nhất bản thân mình với thân thể, rằng linh hồn ta vẫn giữ việc chảy vào đại dương bao la của cái toàn thể.”
Và khi tôi nói “giữ tuôn chảy,” tôi không chỉ dùng lời nói. Khi bạn làm thực nghiệm này, bạn sẽ kinh nghiệm rằng bạn thực tại là luồng chảy thường xuyên. Khi bạn sẽ đối diện với linh hồn, bạn sẽ cảm thấy rằng bạn liên tục được làm trống rỗng, rằng giống như sông Hằng bạn đang rơi vào trong đại dương. Ghi nhớ này nên còn liên tục.
Hỡi người hồn nhiên! Như thành phố có thể được thấy được phản xạ trong gương, Ta là Brahman đó, thực tại tuyệt đối, trong người mà việc phản xạ thế giới này thành thấy được - biết được điều này, hỡi người một hồn nhiên, là được hoàn thành.
Hệt như phản chiếu được thấy trong gương... Nhưng phản chiếu được thấy trong gương không phải là thực tại; thực tại là gương mà trong đó việc phản chiếu được thấy. Bạn có nhận biết rằng khi bạn nhìn vào trong gương, bạn thấy sự phản chiếu và không thấy gương không? Khi bạn đứng trước gương, bạn có bao giờ thấy bản thân mình đang nhìn gương không? Không, bạn bao giờ cũng thấy khuôn mặt mình, không thấy gương. Và khuôn mặt, không có đó trong gương được thấy gương có đó là không được thấy.
Nếu gương có thể được làm ra mà trong đó phản chiếu của khuôn mặt bạn không thể được thấy, thế thì bạn sẽ không chú ý chút nào rằng có gương ở đó. Bởi vì khuôn mặt bạn được thấy, bạn suy diễn rằng có gương. Gương chỉ được suy ra bởi vì bạn có khả năng thấy khuôn mặt mình; cho nên chỉ khuôn mặt được thấy, không phải gương. Vâng, nếu có khiếm khuyết nào đó trong gương, đó là vấn đề khác. Gương càng không khiếm khuyết, gương càng thuần khiết, nó sẽ càng ít được nhìn tới. Nếu chúng ta có thể làm ra một chiếc gương hoàn hảo không khuyết tật, nó sẽ không được thấy chút nào.
Toàn bộ câu chuyện về Mahbharata đã xảy ra bởi vì việc chế tạo ra chiếc gương không khiếm khuyết như thế. Đấy chỉ là chuyện đùa, nhưng chuyện đùa này đã chứng tỏ rất đắt giá. Duryodhana và tất cả anh em ông ta đều là con của một người mù, cho nên chuyện đùa là về họ. Dẫu sao chuyện đùa này cũng không có hương vị tốt lành, bởi vì chuyện đùa mà có thể làm tổn thương ai đó là nhiều bạo hành hơn là trò đùa.
Pandavas đã xây dựng một lâu đài mới và đã mời người anh họ tới thăm nó. Những gương tuyệt đối không khiếm khuyết đã được lắp vào ngôi nhà đó; các gương không lỗi đến độ chúng không thấy được như là gương. Cho nên nếu một gương được lắp đối diện với cửa ra vào, cửa dường như trong gương còn bản thân gương không thể được chú ý tới. Ông Duryodhana đáng thương, trong khi cố gắng đi qua những cánh cửa như thế, va đầu vào gương và ngã lăn. Draupadi thấy điều này và phá lên cười: cái cười đó sinh ra toàn bộ Mahabharata. Đó là sự trả thù cho cái cười đó.
Theo một cách nào đó, đấy không phải là điều gì nghiêm trọng cho lắm, nhưng đôi khi ngay cả một cái cười khẽ cũng có thể đem ra biết bao bạo hành! Điều mỉa mai đằng sau cái cười là thâm: “Ông là con kẻ mù, cho nên tự nhiên làm sao ông có thể thấy được? Nó nhất định là như vậy rồi, vì ông là con kẻ mù mà.” Do đó cái cười: “Ông nhất định phải ngã, ông con kẻ mù ơi - ông thấy cửa ở chỗ không có cửa!” Gương hoàn toàn không khiếm khuyết đã được dùng, do vậy phản xạ trong gương là được thấy nhưng gương không thấy được.
Người thấy nói:
Hỡi người hồn nhiên! Như thành phố có thể được thấy qua phản xạ trong gương, Ta là Brahman đó, thực tại tuyệt đối, trong người mà việc phản xạ thế giới này là thấy được - biết được điều này, hỡi người hồn nhiên, là được hoàn thành.
Linh hồn bên trong chúng ta là gương sạch bong, không khiếm khuyết; toàn thể thế giới được thấy được được phản xạ trong nó. Cho nên chúng ta chạy đuổi để tóm bắt thế giới nhưng chúng ta không thấy gương trong đó thế giới được thấy được phản xạ.
Nếu viên kim cương được thấy, viên Kohinoor, bạn chạy theo nó. Tuy nhiên, bạn thậm chí không xem xét tìm ra đây là ai trong người mà kim cương được phản xạ, người đang thấy nó. Cái gì là cái gương đó bên trong tôi mà phản xạ viên kim cương ngay vào chiều sâu bên trong? Trăng được thấy trên trời. Ai có đó bên trong đang phản xạ trăng?
Có một cái gương xoay tròn bên trong chúng ta cứ phản xạ toàn thể thế giới trong nó. Chừng nào bạn còn chạy đuổi bắt thế giới, bạn vẫn còn đang cố gắng bắt cái phản xạ. Ngày bạn bắt đầu nhận biết về gương bạn đã đi vào thế giới của chân lí. Và người thấy gương không trở nên mê đắm cái phản xạ. Điều đó không có nghĩa là sẽ không còn phản xạ trong gương; không, chúng sẽ hình thành, nhưng khăng khăng bắt chúng đã bị vứt bỏ.
Và gương không bao giờ bị ô nhiễm bởi phản xạ. Không thành vấn đề bạn có thể đã vẩn vơ lang thang qua bao nhiêu thế giới, gương của bạn bao giờ cũng vẫn thuần khiết và hồn nhiên. Hiểu điều này cho đúng. Đây là lí do tại sao trong kinh lại nói: “Hỡi người hồn nhiên!” Nó nói với bạn đấy, “Hỡi người hồn nhiên!” Ngay cả bạn cũng hoài nghi rằng người thấy có lẽ đã sai lầm nào đó trong việc nói với bạn. “Về tôi sao? Gọi tôi là hồn nhiên sao?” Nhưng không, điều đó được nói có lí do đấy. Dù bao nhiều lỗi lầm có xảy ra cũng không thành vấn đề, gương bao giờ cũng vẫn còn thuần khiết và hồn nhiên.
Bạn có thể đặt bất kì cái gì phía trước gương - ngay cả những chất bài tiết hôi hám - nó sẽ phản xạ đủ cả. Nhưng bạn có cho rằng gương bị ô nhiễm bởi thứ hôi hám ấy không? Không, dẹp bỏ những chất bài tiết bạn đã đặt trước nó, và gương lại vẫn như trước đây; sẽ không có dấu vết nào của rác rưởi còn lại đằng sau trong gương.
Cho nên nhiều điều đã xảy ra phía trước gương của bạn, nhưng nó chỉ xảy ra trước gương thôi, không cái gì đi vào bên trong nó. Không cái gì có thể đi vào trong nó. Đây là lí do tại sao người ta đã nói: “Hỡi người hồn nhiên.”
Đây là khác biệt rất cơ bản giữa Ki tô giáo và Hindu giáo. Ki tô giáo đòi hỏi bạn phải chấm dứt phạm tội, tư tưởng Hindu yêu cầu bạn biết rằng bạn đã hồn nhiên. Ki tô giáo nói, “Xoá sạch mọi tội lỗi, vứt bỏ mọi việc làm sai trái”; tư tưởng Hindu nói, “Cái gì có đó để bị xoá? Bạn là gương; chỉ cần biết ngần này và mọi thứ đã được xoá hết - thế thì bạn đã thuần khiết và hồn nhiên.”
Đấy là một và cùng điều. Cho dù người ta có tham gia vào việc xoá đi mọi thứ, theo thời gian mọi sai trái đã bị xoá đi trước gương, gương sẽ trông thuần khiết - nó đã thế rồi. Cho nên nó có thể bắt đầu từ đầu này nữa.
Cũng có cùng khác biệt giữa tư tưởng Jaina và Hindu nữa. Đây là điều rất thú vị. Nhấn mạnh của Jaina cũng nằm ở việc bỏ đi tội lỗi: vứt bỏ mọi tội lỗi, sao cho khi tất cả tội lỗi đã bị vứt bỏ, bạn sẽ có thể thấy gương thuần khiết - mặc dầu gương đã thuần khiết ngay chỗ đầu tiên. Tư tưởng Hindu nhấn mạnh: Tại sao phải làm những nỗ lực vô nghĩa trong việc vứt bỏ tội lỗi làm gì? Chỉ nhận ra chân lí, rằng bạn là gương; thế thì cho dù tội lỗi tiếp tục còn đó trước gương, bạn vẫn là hồn nhiên, vô tội. Do đó cả Jaina lẫn Ki tô giáo bao giờ cũng cảm thấy rằng tư tưởng Hindu có đôi chút nguy hiểm; nó không dành nhiều chỗ cho khái niệm của bạn về đạo đức và tội lỗi và đức hạnh.
Nó là nguy hiểm. Chân lí càng sâu sắc, nó càng nguy hiểm, vì chân lí càng sâu sắc, nó càng trở nên mạnh hơn. Và trong sức mạnh có nguy hiểm. Nếu nó rơi vào tay những người sai trái, thế thì có nguy hiển lớn. Thường những người sai đi tìm sức mạnh, cho nên nó lại rơi vào tay họ. Nhưng tư tưởng Hindu rất, rất sâu sắc. Toàn bộ vấn đề là ở chỗ tâm thức bên trong của bạn chỉ là gương. Bất kì cái gì bạn có bên trong, nó đều ở bên ngoài tâm thức bạn. Không cái gì đã bao giờ đi vào được bên trong tâm thức bạn, mặc dầu người ta cảm thấy rằng dường như điều này xảy ra.
Nếu bạn đặt cái gì đó trước gương, nó xuất hiện sâu bên trong gương cứ như là nó ở xa gương. Đấy chỉ là luật đơn giản của tia sáng và tỉ lệ của chúng: vật ở càng xa gương, nó xuất hiện càng sâu hơn bên trong gương. Cho nên chú ý đến một nguyên lí rất hay: cái gì đó dường như càng ở sâu bên trong bạn, biết rằng nó càng ở xa bạn. Nếu cái gì đó dường như hoàn toàn bên trong, bạn có thể tuyệt đối chắc chắn rằng không có thể có cái gì ở ngoài hơn nó. Như thường hay xảy ra, mọi người nói, “Tình yêu này rất sâu trong tôi.” Điều đó có nghĩa nó là cái gì đó xa hẳn bạn. Khi bạn nói rằng tình yêu của ai đó đã đi vào rất sâu trong tim bạn, bạn phải biết rằng bạn đang định chạm tới cái gì đó ở xa hẳn khỏi bạn. Điều đó có nghĩa là ai đó đã xa hẳn bạn và do đó được thấy như sâu bên trong gương của bạn.
Mọi thứ ở gần hơn dường như nông hơn, và những thứ ở xa hẳn dường như sâu hơn trong gương. Lần nữa không nhất thiết là nếu một vật dường như sâu trong gương, bản thân gương phải thực sự sâu bên trong. Ngay cả một chiếc hồ nhỏ mà mặt trăng cũng dường như sâu bên trong hồ cứ như là nó ở xa trên trời, còn hồ thì không sâu được đến như thế. Gương của bạn sâu thế nào? Đặt một gương trên đất và mặt trăng sẽ xuất hiện trong nó sâu như khoảng cách của nó xa trên trời.
Việc phản xạ có thể đi vào bên trong sâu đến đâu, chúng thực tại không bao giờ xuyên thấu vào được. Không cái gì có thể đi vào bên trong bạn được, nó không thể đi vào được. Nó chỉ dường như là đi vào bên trong bởi vì có gương bên trong. Tâm thức chúng ta là gương, gương thuần khiết nhất, thuần khiết đến mức... Vì dù kính có thuần khiết đến đầu cũng không thành vấn đề, nó vẫn cứ là kính; vật chất chừng ấy vẫn có đó. Nhưng tâm thức thuần khiết nhất...!
Cho dù chúng ta có làm ra gương bằng không khí, điều đó nữa cũng không thể thuần khiết như gương tâm thức. Nếu chúng ta làm gương không khí, và cái gì đó được phản xạ trong nó, chúng ta sẽ lên đường tìm kiếm cái phản xạ đó qua gương, vì gương sẽ không cản trở ta theo mọi cách. Nó là gương không khí; bạn sẽ đi qua nó.
Gương tâm thức thuần khiết hơn nhiều, vì tâm thức là hiện tượng tinh tế nhất trong thế giới. Nó là năng lượng vi tế nhất. Toàn bộ thế giới đều được phản xạ trong nó.
Người thấy nói, “Hỡi người hồn nhiên! Hệt như sự phản xạ thấy được qua gương, thế giới này cũng xuất hiện trong ông như qua gương. Biết được điều này - thừa nhận rằng ‘Ta là Brahman,’ rằng ‘ta là gương, không phải là cái được phản xạ mà là cái trong đó mọi vật được phản xạ’ - là được hoàn thành.”
Đơn giản không có sự hoàn thành nào khác hơn điều này. Chừng nào người ta còn chưa nhận ra sự thuần khiết của tâm thức mình, người ta vẫn còn chưa hoàn thành. Người đó có thể cứ làm bất kì cái gì, người đó có thể cứ đạt tới mọi thứ, nhưng tất cả những thành tựu đó sẽ đều vô dụng. Tất cả những cái được làm sẽ bị hoàn tác lại; mọi việc chạy quanh cũng chỉ như vẽ đường trên nước - chúng biến mất ngay trước khi người ta kết thúc việc vẽ chúng. Người ta có thể cứ vẽ mãi những đường này, nhưng chúng sẽ chỉ biến đi hoài.
Đến cuối đời, vào khoảnh khắc chết, mọi người đã tìm kiếm những cái phản xạ mới nhận ra rằng họ đã vẽ các đường trên nước. Mọi thứ biến mất: mọi kính trọng, mọi địa vị, mọi của cải, mọi tích luỹ - mọi thứ đều biến mất. Người ta phát hiện ra vào lúc chết rằng đó là sai lầm lớn, rằng người ta đã vẽ những đường dường như trên đá nhưng thực tại người ta vẽ trên nước. Nhưng điều đó chỉ được phát hiện ra khi không cái gì có thể được làm về nó.
Nhưng nếu nó có thể được biết hôm nay, nếu nó có thể được biết bây giờ, thế thì cái gì đó là có thể; việc vẽ trên nước có thể đi tới chấm dứt. Và người đã chọn dừng việc vẽ trên nước đi vào một thế giới khác, một thế giới trong đó không cái gì chết.
Có một thế giới của cái chết, có một thế giới khác của cái bất tử. Bất kì ai rời khỏi cái chết đều đạt tới cái bất tử.