Read more
Các cõi vô hình
...Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô
hình. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là
một người Ai cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi.
Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác
sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có
khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng
rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập.
Giáo sư Evans-Wentz vào đề :
- Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng
huyền bí…
Pháp sư thản nhiên :
- Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.
- Như thế ông tin rằng có ma…
Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết :
- Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn
là đối tượng nghiên cứu của tôi.
- Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ?
- Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con
người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông
thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ
thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp
nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ
hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng ?
- Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên …
- Được lắm, các ông hãy nhìn đây.
Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len
và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả :
- Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.
Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo sư
Mortimer nóng nảy :
- Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về
quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ?
Vị pháp sư nghiêm giọng :
- Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn
chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải
chỉ có một cõi này.
- Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy
cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi
là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy
theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp
với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi.
Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp
thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một
người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy
khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng
nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với
cảnh giới này.
Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần
tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp
nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời
gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh
giới cao hơn.
Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những
bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho
đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng.
Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động
nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân,
người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú
tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng
nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người,
nửa thú.
Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là
những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong
linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường tìm cách trở về cõi trần.
Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên
người cõi trần không nhìn thấy chúng được.
Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu
quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất
tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài
mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng,
xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt.
Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn,
rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu
người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ
không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để
hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thoa? mãn nên theo thời
gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong
linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên
cõi giới tương ứng.
Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ
không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống,
tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng,
đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã
diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn
vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có
thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu
chăng ?
Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người :
- Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt
nghiệp đại học Oxford …
Giáo sư Harding giật mình kêu lên :
- Oxford ư ? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao ?
- Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu
tiên tốt nghiệp về ngành này.
(Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đã phối kiểm chi
tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là
Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật
lý).
- Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này ? Ông đã đọc
sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ?
- Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành
trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình
(metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một
lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học.
Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo
sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ.
Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây
tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị
này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác
quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học
hỏi và cõi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu
hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.
Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng :
- Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ?
- Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này,
nên tôi có rất đông bạn bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một
vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người
và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…
- Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không ?
- Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp
với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm
kiến thức rõ ràng…..
- Như thế có nguy hiểm không?
- Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một
số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc
thư phù, nguyền rủa….
- Ông có thể làm như vậy không ?
Vị pháp sư nghiêm mặt :
- Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược
luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều
tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh
này, vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng
chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một
thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh.
- Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.
- Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài
các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể
hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự.
Luật thiên nhiên cho thấyvật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật
nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một
nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ
hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những
cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới.
Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu
ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống
nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng
thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần
mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở
dưới đáycũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau.
Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong
linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị
lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dụcvọng hành hạ
mà không thể thoa? mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn
nhưng không so thoa? mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do
đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng
giảm bớt và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu.
Cõi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cõi trần, tại
đây các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận
tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thoa? mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông,
hờn giận, v…v… Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không
rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi
này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ,
nói chuyên vu vơ nhằm thoa? mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi
còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt,
họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham
muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới
thứ năm.
Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong
linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những
âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn về
cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những
kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ,
v…v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là
những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là
Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves), v…v… Một số bị thu phục
bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện
diện của những “hình tư tưởng”.
Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh
thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp. Đời sống
của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con
người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngaỵ Một người tập
trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài
ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay cả
thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông tạ Các
phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình
để sai khiến.
Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một
nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ,
họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ
tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm,phong tục, thành kiến của
quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc
tính”.
Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của
hình tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm
của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý
trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một
dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc
dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một
số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán.
Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi
này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những
nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh
ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn,
quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưỏong lẫn nhau, và đôi khi kêt
những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay quốc gia.
Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung độgn nhẹ nhàng. Tại
đâu có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu
trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới
của một số thần linh (devas) như Cảmđục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần
(Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và
tiến hoá cao hơn trình độ của nhân loại.
Cõi giới thứ hai và
thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh
và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tệ
nhị không còn dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nhigệm,
phát triển ccác đức tính riêng trước khi siêu thoát len cảnh giới cao hơn.
- Như thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao
nhiêu lâu ?
- Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con
người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây
hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn
toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ
như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung
giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một
cảnh giới tương ứng.
Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích
hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào.
Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm
không thể nhìn thấy được ? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại
học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít
nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ
không mê tín dễ chấp nhận một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao
có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng
tuyệt đối ở khoa học.
Hamud mỉm cười tiếp tục :
- Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ
những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là
hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống
mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp
lý và khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ.
Khi còn sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được
thoa? mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng
nề sẽ bị thu hút vào thể vía.
Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý
trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là
gì ?
Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ, quyết định điều
kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa
tử.
Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh.
Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, thì khi
về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững
chắc thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ?
Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được
đòi hỏi thể xác, thì các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên
nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham
muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt
các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn.
Trái lại những người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu
chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu
hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi
trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm.
Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến,
ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt
bỏ mọi phiền não để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị Ở cõi trần sẽ rút ngắn
thời gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao hơn.
- Nhưng còn các ma quỷ thì sao ?
- Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó,
khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới
thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng
không sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở
lại cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần
trong một thoáng giây có thể nhìn thấy chúng…Khoan đã, các ông hãy xem kìa, người
bạn của tôi đã làm xong việc.
Hamud chỉ vào góc phòng nơi ông ta để bó len và cây kim đan
áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình
từ lúc nào không ai rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực
có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích :
- Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu
cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông
cho rằng tôi làm trò ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khác, tôi yêu cầu hắn
thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng
từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng
cho các ông thì còn ai nữa ?
Qủa thế, vị pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo đan to tướng
, rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ,
so với những người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng khổng lồ, rất hiếm có của
ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim mũi chỉ rất
ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai muạ Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị
pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng.
Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc :
- Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao?
- Tôi không phải là một phù thuỷ, lợi dụng quyền năng cho tư
lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô hình bên cõi âm. Tôi hiểu rõ
các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để
mưu cầu một cái gì. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình một cách
đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một khoa học hết sức đứng
đắn, chứ không phải mê tín dị đoạn.
Nhiều người thường tỏ ý chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ,
nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay cho là loạn trí.
Nếu người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma
quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, còn như phủ nhận không dám chứng minh
chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hãi. Điều khoa học chưa chứng minh được không
có nghĩa là điều này không có thật, vì một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức
mà họ có thể chứng minh tất cả.
Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường
gặp sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có kiến
thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong
“Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có
khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết.
Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự mình qua hẳn
thế giới đó nghiên cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường
duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất
để nghiên cứu ngoại cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cõi giới khác
nhau và mỗi thể con người tương ứng với một cõi, thì ta thấy ngay rằng thể xác
cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được thôi.
Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan
thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ
trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không còn sử dụng được nữa thì linh hồn sẽ
tập phát triển các giác quan thể vía ngaỵ Nếu biết cách khai mở các giác quan
này khi còn sống, ta có thể nhìn thấy cõi âm một cách dễ dàng.
Giáo sư Allen ngập ngừng :
- Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn
sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ?
Hamud lắc đầu :
- Đó là một quan niệm không hợp lý, vì điều này cho rằng khi
chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu
để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cõi thiên đàng hoặc là
linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ
bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lý vì sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột
ngột được.
Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi
chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại;
tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui
chột, không thể phát triển.
Một người tu thân là một người biết mình, lo vun xới tinh thần
để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại.
Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu.
Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có
khác ở chỗ, điều này sẽ không còn được thoa? mãn vì thể xác đã hư thối, tan rã
mất rồi. Sau khi chết, tìm về nhà thấy con cháu ăn uống linh đình mà họ thì
không sao ăn được, lòng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau
khổ không sao tả được.
- Như ông đã nói, loài ma đói thường rung động theo không
khí quanh đó, như thế họ có thoa? mãn không ?
- Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài
ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao
thoa? mãn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan
khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thoa? mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại
ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, lò sát sinh để rung động
theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô tình mời
gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất
là cho nhũng người dễ thụ cảm.
- Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở
nghĩa địa, điều này ra sao ?
- Sự hiện hình ở nghĩa địa chỉ là hình ảnh của thể phách
đang tan rã, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì
thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan rã theo. Thể
phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần.
Nhưng trong đó có nhiều nguyên tử 'dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực
còn rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa.
Vì đang tan rã nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa
địa có những hình ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người
không hiểu thì gọi đó là mạ Theo sự hiểu biết của tôi, thì việc thiêu xác tốt đẹp
hơn việc chôn cất, vì để thể xác tan rã từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít
và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu
xác khiến vong linh thấy mình không còn gì quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh
hơn nhiều.
- Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xã hội ?
- Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi còn sống.
Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già vì còn
nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội,
giận hờn và có ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ
hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cõi âm xác nhận rằng,
“Chính cáidục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu
hay mau.”
- Số phận của những người quân nhân tử trận thì ra sao ?
- Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng
cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một tương lai tốt
đẹp hơn, vì cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đã
quên mình để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết đó có khác nào những vị
thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý tưởng và những
kẻ giết chóc vì oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn.
- Như ông nói thì người chết vẫn thấy người sống ?
- Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể
xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng vì
các giác quan thể vía. Không những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm
liên hệ; mặc dù họ không còn nghe thấy như chúng tạ Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn
hiểu điều chúng ta muốn diễn tả.
- Như vậy thì họ Ở gần hay ở xa chúng ta ?
- Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đình,
bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ý thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách
rời các ràng buộc gia đình để sống hẳn ở cõi giới của họ.
- Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân
quá cố không ?
- Điều này không có gì khó. Hãy nghĩ đến họ trong giấc ngủ.
Thật ra nếu hiểu biết thì ta không nên quấy rầy, vì làm thế chỉ gây trở ngại
cho sự siêu thoát.
Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước
vẫn hướng ra ngoài, thì nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng
một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau
cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không còn bị ảnh
hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức, cả cuộc đời
sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory
projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến
đời sống cõi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt
hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể
phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp
nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ Ở trong. Sự thu xếp này ấn định
cõi giới nào vong linh sẽ đến.
- Ông du hành sang cõi âm thế nào ?
- Nói như thế không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ
nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều
không gian và thời gian. Sang cõi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan
thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần
không thấy cõi âm vì nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không
thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cõi âm.
Quan niệm về không gian cũng khác vì đây là cõi tư tưởng,
nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ hình ảnh người đó trong
tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngaỵ Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi,
bay bỗng vì không còn đi bằng hai chân như thể xác.
- Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao ?
- Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức
tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cõi trần
là bao. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo tình cảm,
dục vọng mà họ hành động.
Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này cứ
quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và
đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống với kỷ
niệm xưa nhưng ông buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả ai để ý đến ông. Họ
tin rằng ông đã lên thiên đàng, vì họ đã bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi
lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế nào ông cũng được lên thiên
đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ
chối. Một vài người thân đã qua đời cũng đến tìm gặp, nhưng ông cũng không nghe
họ. Có lẽ ông ta sẽ còn ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai
nhạt hết.
Tôi đã gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy
dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận vì không còn ảnh hưởng được gì, họ rất
khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp.
Tôi đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có
kẻ tìm ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doa. nạt những
người bén mảng đến gần nơi chốn dấu.
Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa; họ không muốn người
họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự
âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm gì được
nên vô cùng khổ sở.
Những nhà lãnh đạo, những vua chúa, những người hống hách
quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được nữa, nên họ hết sức
đau khổ.
Hãy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, vì y không tin
mình đã chết, nên cứ ở trong tình trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc
hôn mê, nên y không nhìn thấy cõi âm, mà vẫn giữ nguyên hình ảnh cõi trần, dĩ
nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như
ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng
nói gì y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi,
nên cũng không sao trở về được.
Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm được tên tuổi, và địa chỉ
thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để
cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mãnh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy
vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi
cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc
mình đã chết và siêu thoát…
- Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau ?
- Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và
ích lợi , vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời
kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cõi âm nếu người ta tụng niệm chú
tâm, sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một
hình thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết
tập trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức
mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”.
- Như ông nói thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay
sao ?
- Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo
và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập
trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn
giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành
thành tâm.
- Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì không
?
- Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người
tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì
như được một vé phi cơ lên thiên đàng, còn không y sẽ xuống địa ngục. Điều này
gây nhiều sợ hãi, lo âu vô ích. Nếu một người chết thình lình thì sao? Phải
chăng họ sẽ xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài
trận mạc thì sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ?
Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu
ta đã có một đời sống cao đẹp, thì tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại,
ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi
lễ to lớn, linh đình nhất.
Dù sao, tư tưởng chót trước khi lìa đời cũng rất hữu ích cho
cuộc sống mới bên kia cửa tử . Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với
hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn
quại, chết không nhắm mắt được.
Theo tôi thì sự hiểu biết về cõi vô hình, sự chuẩn bị cho
cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng rãi, nhưng tiếc là
ít ai chú ý đến việc này.
- Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ gì ?
- Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng mẹ, và
chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cõi trần chỉ là một
phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một vòng tròn mà
sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cõi âm, dương, giữa thế
giới hữu hình và vô hình. Trên con đường tiến hoá, còn hằng ha sa số các chu
ký, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cõi thượng giới cũng phải qua
cõi trung giới. Phần ở cõi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp sống mà thôi.
Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ vòng tròn tiến sâu vào cõi trần và bắt
đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất, mà có
ý hướng về tâm linh. Các cổ thư đã vạch ra một đời sống ở cõi trần như sau : 25
năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đình, đây là giai đoạn tiến sâu
vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời
điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ
bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm.
Đối với người Á châu thì 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng
về tâm linh, nhưng người Âu châu lại khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng,
cho đến già vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngã, cho sự sống
còn, cho sự thụ hưởng . Do đó, đa số mất quân bình và khi chết hay gặp các nghịch
cảnh không tốt.
Theo ý tôi, chính vì sự thiếu hiểu biết về cõi âm nên con
người gây nhiều tai hại ở cõi trần. Chính vì không nhìn rõ mọi sự một cách tổng
quát, nên họ mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cõi trần đối với toàn
kiếp người, thì không ai dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lãng các
cõi trên. Nếu con người hiểu rằng quãng đời ở cõi trần rất ngắn ngủi, đối với
trọn kiếp người và đời sống các cõi khác còn gần với chân lý, sự thật hơn thì
có thể họ đã hành động khác đi chăng ? Có lẽ vì quá tin tưởng vào giác quan
phàm tục, nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cõi khác là không có…
- Nhưng nếu ông cho rằng các cõi kia còn gần với sự thật
hơn, thì tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cõi trần làm gì ? Tại sao không
rũ nhau đi sang cõi khác có tốt hơn không ?
Hamud mỉm cười :
- Tuy cõi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, vì
con người chỉ có thể tìm hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển
này thôi. Cõi trần có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu khác. Chính các bậc
chân tiên, bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các
công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người
phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần, nhờ học hỏi những bài học này, họ mới trở
nên nhạy cảm với các rung động ở cõi trên...
Trích Hành Trình Về Phương Đông - tác giả
Blair T. Spalding do Nguyên Phong dịch