Read more
Khoa học và Phật giáo (2)
The Universe and Man" - Image courtesy of Photodisc, Inc. |
Có những Nền Tảng Nào Cho Một Cuộc Đối Thoại?
Khoa Học và Phật Giáo vốn có những phương thức khác biệt rất
cơ bản trong việc nghiên cứu thực tại. Trên bình diện khoa học, tri thức và luận
lý nắm giữ những vai trò then chốt. Khoa học thu lượm những hiểu biết về thế giới
thực tại rồi cô đọng chúng lại thành những quy luật có thể kiểm chứng được. Bằng
cách phân chia, xếp loại, phân tích, so sánh, và đo lường, nhà khoa học diễn giải
những quy luật này thông qua một loại ngôn ngữ khá trừu tượng của toán học. Dĩ
nhiên trong khoa học, trực giác không phải là không có chỗ đứng, tuy nhiên nó
chỉ mang lại kết quả khi nào được hệ thống hoá trong một cấu trúc chặt chẽ của
toán học mà hiệu độ được đảm bảo bằng quan sát và phân tích. Ngược lại, chính
trực giác –hay kinh nghiệm nội tâm- lại đóng vai trò chủ yếu trong phương cách
Phật giáo dùng để tiếp cận thực tại. Trong khi khoa học hướng ngoại thì Phật
giáo hướng nội, dùng quán chiếu làm phương thức tiếp cận. Trong khi khoa học chỉ
bận tâm về thế giới khách quan thì mối quan tâm chính yếu của Phật giáo là cái
ngã tự thân.Thay vì chẻ nhỏ thực tại ra thành từng bộ phận khác biệt như phương
pháp quy giản của khoa học, Phật giáo với phương thức tiếp cận toàn bộ sự vật
mà mục đích là để hiểu chúng như một tổng thể nguyên trạng. Phật giáo không cần
đến những thiết bị đo lường và cũng không cần nương tựa vào bất cứ phương tiện
quan sát tinh vi nào vốn là xương sống của nền khoa học thực nghiệm. Nó thiên về
định phẩm hơn là định lượng.
Tuy nhiên sự khác biệt chính yếu giữa sự theo đuổi kiến thức
trong khoa học và Phật giáo là do ở những mục tiêu rốt ráo của chúng. Mục tiêu
của khoa học là tìm hiểu về thế giới hiện tượng. Trọng tâm chính yếu của nó là
những kiến thức về vũ trụ vật lý, được xem như mang tính khách quan và có thể xác
định số lượng, cũng như nhằm đạt đến việc kiểm soát thế giới tự nhiên. Ngược lại
trong Phật giáo, kiến thức được thu nhận chủ yếu chỉ nhằm vào những mục đích trị
liệu. Mục tiêu của Phật giáo vì thế không phải tìm hiểu vũ trụ vật lý cho lợi
ích của riêng mình mà chỉ để nhằm giải phóng nhân sinh ra khỏi những khổ đau hệ
lụy gây ra bởi sự dính mắc thái quá vào cái thực tại biểu kiến của thế giới ngoại
tại. Những tra vấn mang tinh thần thực nghiệm được thúc đẩy bởi tính tò mò tri
thức không phải là mục tiêu chính mà Phật giáo nhắm đến. Thay vào đó, họ muốn
hiểu rõ bản tánh chân thật của vạn pháp để có thể xóa tan đi đám mây mờ vô minh
và mở ra cánh cửa vào Giác Ngộ và con đường giải thoát. Thay vì dùng viễn vọng
kính, hạt gia tốc hay kính hiển vi, Phật giáo dùng tâm như là một khí cụ để
nghiên cứu vũ trụ. Nó nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của sự giải thích bản
tánh của tâm thông qua kinh nghiệm thiền quán trực tiếp. Trải qua hàng thế kỷ
Phật giáo đã đề ra một phương thức tiếp cận sâu sắc và nghiêm nhặt liên quan đến
những hiểu biết về những trạng thái tâm linh và bản tánh rốt ráo của tâm. Tâm đứng
đằng sau mỗi một kinh nghiệm của đời sống. Nó khẳng định cách thế mà ta nhìn thế
giới. Chỉ một thay đổi cực nhỏ trong tâm thức của ta, qua cách thức mà ta đối
phó với những trạng thái tâm linh và nhận thức về người và vật như thế nào cũng
đủ để thế giới của “ta” hoàn toàn đảo lộn. Như thế, thay vì chuyên chú hoàn
toàn vào ngôi-thứ-ba, tức là lãnh vực của thế giới khách quan hiện tượng như là
nền khoa học cổ điển, Phật giáo đồng thời cũng đặt trọng tâm của mình vào lãnh
vực liên quan đến ngôi-thứ-nhất.
Với những khác biệt có vẻ cơ bản trong cả phương pháp và mục
tiêu, như vậy có thể có một nền tảng chung để đối thoại giữa khoa học và Phật
giáo hay không? Phật giáo có gì để nói về bản chất của hiện tượng khi đây không
phải là mối quan tâm chính, mà là những mối bận tâm của những bộ môn khoa học?
Ta có một câu trả lời dứt khoát cho những câu hỏi này là có. Một trong những
nhiệm vụ chính của triết học Phật giáo là nghiên cứu về bản chất của thực tại.
Trong khi khoa học không phải là mối bận
tâm chính của Phật giáo, nó cũng đã từng đặt ra những câu hỏi tương tự với những
vấn đề được nêu lên bởi nền khoa học đương đại. Có thể nào những hạt rời bất khả
phân là những khối cấu trúc cơ bản của thế giới hiện tượng? Có phải chúng thực
sự hiện hữu hay chỉ là những ý niệm giúp ta hiểu biết về thực tại? Phải chăng
những định luật vật lý là bất biến, có những hiện hữu tự thân như những quan niệm
lý tưởng của Plato? Phải chăng có một thực tại chắc thật đằng sau những sắc tướng?
Đâu là nguồn gốc ban đầu của thế giới hiện tượng, và cái thế giới chung quanh
mà chúng ta cho là “thực” có thực sự hiện hữu? Đâu là mối liên hệ giữa động và
tĩnh, giữa chủ thể và khách thể? Bản chất của không gian và thời gian là gì? Những
triết gia Phật giáo trong suốt 2,500 năm qua đã không ngừng nghiên cứu, trăn trở
về những vấn nạn này. Kinh văn Phật giáo phong phú với những bộ luận bàn thảo về
tri thức cũng như lý giải về những cấp độ khác nhau của thế giới hiện tượng, kể
cả những bộ luận về tâm lý học khám phá những lãnh vực khác biệt của ý thức và
bản chất rốt ráo của tâm.
Trong khi những phương pháp nghiên cứu của Phật giáo và khoa
học nhằm khám phá thế giới hiện tượng thoạt nhìn có vẻ rất khác nhau, nhưng khi
nhìn kỹ hơn người ta thấy rằng Phật giáo cũng như khoa học đều dựa vào phương
pháp thực nghiệm để khám phá thực tại. Phương pháp phân tích của Phật giáo
thông thường sử dụng ‘suy nghiệm’ cũng được dùng rộng rãi trong khoa học. Đây
là những thí nghiệm tưởng tượng được tiến hành trong tâm thức, dẫn đến những kết
luận khó thể bác bỏ được, cho dù là những thí nghiệm này thực sự không hề được
tiến hành. Kỹ thuật này thường được sử dụng bởi những chuyên gia hàng đầu trong
khoa học, cụ thể như Einstein. Thí dụ, khi khảo sát về bản chất của không gian
và thời gian, nhà vật lý tưởng tượng ra mình đang cưỡi lên một hạt ánh sáng. Thế
là khi nghĩ đến trọng lực, lập tức y cảm thấy mình đang ở trong sự vận hành của
gia tốc. Cũng một kiểu cách như vậy, những nhà Phật học dùng phép suy nghiệm để
phân tích mổ xẻ thực tại. Phật giáo cũng giống với khoa học ở chỗ khuyến khích
tinh thần hoài nghi trong việc xây dựng niềm tin. Đức Phật đã từng khuyến khích
chúng ta không nên chấp nhận một cách mù quáng giáo thuyết của ngài nếu như
không tự mình suy nghĩ thấu đáo. Ngài dạy rằng: “Giống như một người khôn ngoan
biết đâu là vàng thật sau khi đã thử nghiệm bằng cách cắt ra, nung chảy hay chà
xát, những lời dạy của ta cũng thế, chỉ được chấp nhận sau khi đã suy xét thấu
đáo chứ không phải là do kính trọng ta.” Nếu chúng ta xem “khoa học” mang ý
nghĩa “một hệ thống kiến thức chính xác, chặt chẽ và có thể kiểm chứng được” hoặc
như là “một loạt những quy luật và tiến trình liên hệ đến sự nhận ra và công thức
hoá một vấn nạn, công thức dựa trên những giả thiết và dữ kiện được thu thập
thông qua quan sát và thí nghiệm để kiểm chứng những giả thiết này” ( từ điển
Webster), thì Phật giáo có thể được mô tả như là một “khoa học quán tưởng” hay
nói rõ hơn, “một khoa học về tâm”. Thế nhưng ở đây, phạm trù nghiên cứu không
phải chỉ đơn thuần là một thế giới vật chất “khách quan” mà ta có thể khảo sát,
đo lường, tính toán một cách vật lý, một thế giới chỉ có thể được mô tả qua
ngôn ngữ của phương pháp định lượng ngôi-thứ-ba, nhưng là một thế giới được
nhân rộng ra bao gồm toàn thể phạm vi của kinh nghiệm sống “chủ quan” của con
người bao gồm cả lãnh vực tâm thức chỉ có thể nhận thức được thông qua nội quan
ngôi-thứ-nhất.
Trong những phần tiếp theo, chúng tôi sẽ cố gắng so sánh những
quan điểm về thực tại được trình bày qua lăng kính của khoa học lẫn Phật giáo,
cũng như bắc lên những chiếc cầu nối liền giữa khoa học của thế giới vật lý và
khoa học về tâm. Mục đích của chúng tôi ở đây không nhằm khoác lên khoa học một
chiếc áo thần bí cũng như không hề biện hộ cho những trụ chống của Phật giáo
trước những khám phá của nền khoa học đương đại. Khoa học hành xử chức năng của
mình một cách tốt đẹp, nó mang tính độc lập và hoàn thành những mục tiêu đã vạch
một cách hoàn hảo mà không cần đến sự hỗ trợ triết học từ Phật giáo hay bất kỳ
tôn giáo nào. Mà thực ra, một khi tôn giáo nghĩ rằng mình có thể mang “chân lý”
đến cho khoa học thì đó cũng là lúc vấn nạn xuất hiện, cụ thể như thảm kịch mà
Giáo Hội lên án Gallileo vào năm 1633. Phật giáo là khoa học của sự Tỉnh Thức,
thế nên cho dù Quả Đất có quay quanh Mặt Trời hay ngược lại, điều đó cũng không
hề tạo nên bất kỳ hệ quả nào đối với nền tảng triết lý của nó. Phật giáo đã hiện
hữu trên hành tinh này 2,500 năm rồi trong khi nền khoa học hiện đại chỉ mới bắt
đầu từ thế kỷ thứ 16. Tuy nhiên bởi lẽ cả hai đều khao khát đi tìm chân lý, và
để đạt mục tiêu này đều sử dụng đến những tiêu chuẩn mang tính chân xác, chặt
chẽ và luận lý, những thế giới quan tương ứng của họ vì thế không thể đưa đến kết
quả đối nghịch không thể vượt qua mà ngược lại cả hai có thể bổ sung nhau một
cách hài hoà. Nhà vật lý Werner Heisenberg đã phát biểu quan điểm này một
cách đầy thuyết phục như sau: “Tôi xem
cái hoài vọng nhằm khắc phục những đối nghịch, trong đó một sự tổng hợp bao gồm
cả nhận thức thuần lý lẫn kinh nghiệm thần bí về nhất thể, là cái ‘mythos’ (*),
dù có được nói ra hay không, của thời đại chúng ta.”
Vô Thường giữa lòng thực tại
Phật giáo phân chia ra hai loại vô thường, thô và tế. Thô
bao gồm tất cả những đổi thay hiển nhiên của cả con người và sự vật mà chúng ta
chứng kiến trong cuộc sống hàng ngày: sự đổi mùa, núi mòn sông lở, quá trình biến
đổi từ tuổi trẻ đến tuổi già, những tình cảm luôn biến chuyển trong ta. Thể vi
tế của vô thường cụ thể như: trong mỗi sát na, bất cứ những gì có vẻ hiện hữu đều
thay đổi. Vũ trụ không phải được tạo thành bởi những thực thể riêng biệt, rắn
chắc mà ngược lại, giống như một dòng suối bao la của những sự kiện, và những
dòng chảy năng động mà trong đó tất cả đều được nối kết và liên tục tác động lẫn
nhau. Khái niệm về sự thay đổi không ngừng và khắp nơi trong Phật giáo tương ứng
với chủ đề quan trọng về thuyết tiến hoá trong mọi lãnh vực khoa học của thế kỷ
20.
Bây giờ hãy nhìn đến khoa vũ trụ học đương đại. Khái niệm về
những thiên giới không hề biến đổi của Aristote và vũ trụ tĩnh lặng của Newton
đã đi vào quá khứ. Mọi sự mọi vật đều biến đổi và chuyển động, tất cả đều vô
thường, từ một hạt cơ bản cực nhỏ cho đến toàn thể vũ trụ, kể cả những dải ngân
hà, tinh tú, hành tinh cũng như nhân loại. Vũ trụ không ở thể tỉnh, mà không ngừng
trương giản do bởi những xung lực ban đầu nhận được từ vụ nổ sơ khởi. Cái vũ trụ
năng động này được mô tả bởi những phương trình về luật Tương Đối Tổng Quát. Với
lý thuyết “Big Bang”, vũ trụ không còn là một cái gì đó thường hằng vĩnh cửu.
Nó có một khởi đầu, một quá khứ, một hiện tại và một tương lai. Nó đang có một
lịch sử. Theo những quan sát gần đây, nó sẽ trương giản bất tận, ngày càng lạnh
giá hơn và cuối cùng chết trong trạng thái băng giá. Bên cạnh sự chuyển động
trương giản, tất cả những cấu trúc của vũ trụ -những vẫn thạch, sao chổi, hành
tinh, tinh tú, những dảy ngân hà, nhóm thiên hà -tất cả đều không ngừng chuyển
động và dự phần vào một khúc luân vũ mênh mông của toàn vũ trụ: chúng quay
quanh trục của mình, quanh tinh thể khác, xúm lại hay dang ra khỏi nhau. Chúng
cũng có một quá trình, được sinh ra, trưởng thành, rồi chết. Những tinh tú có một
sinh mệnh kéo dài hàng triệu hoặc hằng tỷ năm.
Thay đổi và tiến hoá cũng đi vào những lãnh vực khác của
khoa học. Trong địa chất học, những đại lục mà chúng ta nghĩ rằng đã dính chặt
vào vỏ Trái Đất bây giờ được biết là đã di động khoảng vài cm mỗi năm, tạo nên
những núi lửa và động đất tại những vùng tiếp giáp của các thềm lục địa. Mặt
Trái Đất luôn luôn thay đổi và tự tu sửa. Trong lãnh vực sinh học cũng thế,
khái niệm về thuyết tiến hoá đã được nhà tự nhiên học Charles Darwin đưa ra vào
năm 1859. Con người không còn là một cái
gì đó thuộc giòng giỏi thánh thần. Họ không là những hậu duệ của Adam và Eve do
Thượng Đế sáng tạo ra như trước đây người ta đã nghĩ mà là sản phẩm của cả một
chuổi dài tiến hoá được hình thành bởi sự lựa chọn tự nhiên. Đi ngược lại quá
khứ, tổ tiên của con người từng là những động vật linh trưởng, những loài bò
sát, cá tôm, những loài động vật không xương sống và những sinh thể đơn bào sơ
khai.
Định luật vô thường không phải chỉ có mặt ở trong thế giới
vĩ mô mà ngay cả ở trong những lãnh vực nguyên tử và hạ nguyên tử (subatomic).
Những hạt được biết là có khả năng tự sửa đổi bản chất của mình: quark có thể tự
thay đổi gia hệ hoặc ‘hương vị’, proton có thể biến thành nơtron trong khi phát
xạ pozitron và neutrino. Vật chất và phi-vật-chất có thể tiêu diệt lẫn nhau để
trở thành năng lượng thuần khiết. Năng lượng chuyển động của một hạt có thể
chuyển hoá vào trong một hạt khác và ngược lại, cụ thể như phẩm tánh của một vật
thể có thể biến thành một vật thể. Những hạt điện tử trong những vật thể bao
quanh chúng ta không bao giờ đứng yên một chỗ. Ngay chính trong khoảnh khắc này
đây, có đến hàng tỉ những hạt phù du neutrinos đi ngang qua thân xác chúng ta
trong từng giây một. Do tính lượng tử bất định của năng lượng, khoảng không
gian chung quanh ta đầy ắp một số lượng khó tưởng tượng nổi của những hạt ‘ảo’,
hiện hữu phù du như những bóng ma. Chúng xuất hiện và biến mất liên miên; và
đây chính là hình ảnh tuyệt vời nhất của tính vô thường vì chúng có một đời sống
cực kỳ ngắn ngủi. Không còn nghi ngờ gì nữa: sự ‘vô thường vi tế’ của Phật giáo
có mặt khắp nơi theo như cách mà nền khoa học đương đại mô tả về thực tại.
Duyên Khởi và Tính Bất Khả Phân của Hiện Tượng
1. Trung Đạo
Ý niệm về duyên khởi là cái nhìn trung tâm của Phật giáo về
bản chất của thực tại. Nó chỉ rõ rằng “không có gì hiện hữu một cách tự thân,
hoặc do bởi chính nó.” Một vật thể chỉ có thể được xác định do bởi những vật thể
khác và chỉ hiện hữu trong mối liên hệ cùng nhau. Nói một cách khác, cái này
sanh bởi vì cái kia sanh. Duyên khởi là tất yếu trong sự xuất hiện của hiện tượng
giới. Kinh nghiệm sống hàng ngày khiến chúng ta cho rằng mọi sự vật đều sở hữu
một cái gì đó có thực, độc lập khách quan có vẻ như là chúng hiện hữu bởi chính
nó với những bản sắc tự thân. Thế nhưng Phật giáo quan niệm rằng cách nhìn thế
giới hiện tượng như vậy chẳng qua chỉ là do tâm tạo. Họ gọi sự nhận thức về một
hiện tượng riêng biệt do những nhân và duyên biệt lập tạo nên là ‘tục đế’ hay
‘huyễn ảo’. Thay vào đó, Phật giáo đưa ra ý niệm về luật nhân quả hổ tương: một
sự kiện chỉ có thể xảy ra bởi vì nó nương tựa vào những yếu tố khác. Bởi vì tất
cả mọi sự vật đều là một bộ phận của cái toàn thể, thế nên không cái gì có thể
xảy ra một cách riêng rẻ. Bất cứ một sự vật nào trên thế giới này chỉ có thể xuất
hiện bởi vì nó được nối kết, duyên sanh và thế rồi trùng trùng duyên khởi, cùng
có mặt, cùng vận hành trong một dòng chuyển biến không ngưng nghỉ. Một thực thể
hiện hữu một cách độc lập với tất cả những cái khác như là một thực thể bất biến,
độc lập đã không thể tác động lên bất cứ cái gì hay ngay cả chính nó.
Phật giáo như thế đã nhìn thế giới này như là một dòng chảy
mênh mông bao gồm những sự kiện được nối kết lại và cùng dự phần tác động lên
nhau. Trong khi đó, cách thế mà chúng ta nhận thức về dòng chảy này cô đọng lại
trong một vài khía cạnh của cái vũ trụ bất khả phân từ đó tạo ra một ảo tưởng rằng
đã có những thực thể độc lập hoàn toàn tách biệt nhau và tách rời khỏi chúng
ta. Những hiện tượng giới như thế chỉ là những sự kiện đơn giản chỉ xảy ra
trong một vài tình huống nào đó. Khi đưa ra quan điểm này không có nghĩa là Phật
giáo bài bác tục đế -những gì mà người bình thường nhận thức được hay nhà khoa
học khám phá ra bằng những thiết bị của họ-, hoặc không thừa nhận luật nhân quả,
hay là những định luật vật lý và toán học. Nó chỉ nói lên một điều đơn giản rằng,
nếu chúng ta đào đủ sâu, sẽ thấy có sự khác biệt giữa cách mà chúng ta nhìn thế
giới hiện tượng và cái chúng thực sự là.
Cái khía cạnh vi tế nhất của duyên khởi liên quan đến mối
liên hệ giữa ‘danh’ và ‘danh tướng’ của một sự vật. Danh tướng của một vật thể
bao gồm vị trí, chiều kích, hình dáng, màu sắc hay bất cứ những đặc tính nào có
thể trông thấy được. Tập hợp lại cùng nhau, chúng tạo nên cái ‘danh’ của vật thể,
tức là một sản phẩm tâm tạo gán cho một thực tại cá biệt của một vật thể nào
đó. Trong đời sống hàng ngày, khi chúng ta trông thấy một vật thể, chúng ta
không hề bị ấn tượng bởi sự hiện hữu của nó mà là cái giả danh của vật thể đó.
Bởi vì chúng ta cảm nghiệm nó, Phật giáo không hề cho rằng nó không hiện hữu.
Tuy nhiên họ cũng không bảo rằng nó có một thực tại tự thân. Phật giáo đưa ra
quan điểm rằng vật thể hiện hữu (như thế tránh được chủ nghĩa hư vô đoạn kiến
mà Tây phương thường nhầm lẫn gán cho Phật giáo), tuy nhiên hiện hữu này là thuần
túy duyên khởi. Đây là cái mà Đức Phật gọi là Trung Đạo. Một hiện tượng giới
không có một hiện hữu độc lập thế nhưng cũng không hoàn toàn phi hữu, có thể hoạt
động và hành xử chức năng đúng theo luật
nhân quả.
2. Tính phi-cục-bộ của thế giới lượng tử
Một ý niệm gây ấn tượng tương tự như duyên khởi của Phật
giáo đó là khái niệm về tính ‘bất khả phân’ hay ‘phi-cục-bộ’ trong Cơ học lượng
tử được khám phá qua một cuộc thí nghiệm tưởng tượng nổi tiếng do Einstein,
Podolsky và Rosen (EPR) đưa ra vào năm 1935 trong một nỗ lực muốn chứng tỏ rằng
xác suất lý giải về cơ học lượng tử là sai lầm và học thuyết này như vậy là
chưa hoàn chỉnh. Thí nghiệm này có thể được mô tả lại một cách giản dị như sau:
Tưởng tượng ra một hạt phân hủy một cách tự phát thành ra 2 photon A và B. Luật
đối xứng nêu rõ rằng chúng sẽ di chuyển ngược chiều nhau. Nếu A đi về hướng
Tây, chúng ta sẽ khám phá ra B đi về hướng Đông. Tất cả có vẻ như bình thường,
tuyệt hảo. Thế nhưng đó là ta đang quên đi tính chất kỳ lạ của thế giới lượng tử.
Cũng giống như Janus, ánh sáng mang hai mặt khác nhau. Nó có thể là sóng hay hạt.
Trước khi bị khám phá bởi máy dò, lý thuyết lượng tử cho ta biết rằng A xuất hiện
dưới dạng sóng. Luồng sóng này không được cục bộ hóa, đã không có một xác suất
chothấy rằng A có thể được tìm thấy ở bất cứ hướng nào. Chỉ khi bị bắt gặp, A mới
‘biết’ là nó đang di chuyển về hướng Tây. Thế nhưng, nếu như A đã không ‘biết’
được trước khi bị khám phá là mình đi về hướng nào thì làm sao B có thể ‘đoán’
được A đang làm gì để có thể điều chỉnh cách ứng xử cho phù hợp để được bắt gặp
vào cùng một thời điểm ở hướng đối diện của A? Đây là điều khó có thể xảy ra trừ
phi A thông báo cho B một cách đồng bộ về phương hướng mà nó đang đi. Điều này
hàm ý rằng có một tín hiệu ánh sáng được phóng ra ở một tốc độ vô hạn, và như vậy
hoàn toàn trái ngược với luật tương đối tổng quát. Bởi vì không hề có chuyện
‘Thượng Đế phóng ra những tín hiệu cảm ứng từ xa’ cũng như không thể có ‘hành động
qủy ma nào ở gần’, Einstein kết luận rằng cơ học lượng tử đã không cung cấp một
sự mô tả hoàn chỉnh về thực tại, rằng A
phải ‘biết’ hướng nào mình sẽ đi đến và ‘báo’ cho B biết trước khi tách rời
nhau. Ông nghĩ rằng mỗi hạt đều có chứa ‘những ẩn số’ mà cơ học lượng tử đã
không nắm được điều này, thế nên nó không hoàn chỉnh.
Trong gần 30 năm, thí nghiệm EPR vẫn được xem như là một thí
nghiệm tưởng tượng bởi vì những nhà vật lý đã không biết phải làm thế nào để thực
hiện nó. Mãi cho đến năm 1964 thì nhà vật lý học John Bell mới tìm ra một
phương cách để đưa cái ý tưởng chính yếu của EPR từ nghiên cứu trừu tượng thành
một dự trình có thể kiểm chứng được trong phòng thí nghiệm. Ông đưa ra một định
lý toán học, bây giờ được gọi là ‘Bất đẳng thức Bell’, có thể kiểm chứng được bằng
thí nghiệm nếu như những hạt thực sự đã có chứa những ẩn số. Vào đầu thập niên
80, nền khoa học kỹ thuật cuối cùng đã chín mùi đủ để cho nhà vật lý Alain
Aspect và những người trong nhóm của ông tại Paris có thể thực hiện một loạt những
thí nghiệm trên một cặp photon ‘tương tác’ nhau -tức là những photon có những
tác động qua lại với nhau-. Họ khám phá rằng Bất đẳng thức Bell luôn luôn bị vi phạm. Điều này chứng
minh rằng đã không có những ẩn số và như vậy có nghĩa là Cơ học lượng tử đã
đúng và Einstein sai lầm. Trong những thí nghiệm của Aspect, photons A và B được
giữ cách xa nhau 12m, và người ta thấy B luôn luôn ‘biết’ ngay lập tức những gì
A đang làm và có những phản ứng tương xứng. Những nhà vật lý cũng đảm bảo rằng
không có một tín hiệu ánh sáng nào có thể được trao đổi giữa A và B, bởi vì những
đồng hồ nguyên tử được gắn vào những máy dò nhằm khám phá A và B, cho phép họ
đo lường được thời điểm đến của từng photon một cách cực kỳ chính xác. Sự cách
biệt giữa hai thời điểm đến của hai
photons chưa đến 10 phần tỷ giây –trong thực tế là zero, bởi vì những đồng
hồ nguyên tử hiện nay chỉ mới cho phép ta đo đến mức 10^-10 giây. Bây giờ,
trong khoảng 10^-10 giây đó, ta biết được rằng ánh sáng chỉ mới di chuyển được
3cm, ngắn hơn là khoảng cách 12m giữa A và B. Hơn thế nữa, người ta vẫn có cùng
kết quả nếu như khoảng cách giữa hai photon ‘tương tác’ này được gia tăng.
Trong một thí nghiệm gần đây nhất do nhà vật lý Nicolas và những đồng sự của
ông thực hiện tại Geneva vào năm 1998, hai photons được giữ cách xa nhau 10km,
thế nhưng những ứng xử của chúng vẫn tương quan tuyệt hảo. Đây sẽ chỉ là một điều
nghịch lý khi nào, như Einstein suy nghĩ, chúng ta cho rằng thực tại đã được cắt
ra và cục bộ hóa trong mỗi photon. Vấn nạn này sẽ không còn nữa khi chúng ta
nhìn nhận rằng A và B, một khi đã tương tác cùng nhau, trở thành một bộ phận của
một thực tại bất khả phân, không cần biết đến chúng cách xa nhau bao nhiêu,
ngay cả mỗi hạt ở mỗi đầu vũ trụ. A không cần phải gởi tín hiệu đến cho B bởi
vì chúng cùng chia xẻ chung một thực tại. Ngành Cơ học lượng tử như thế đã loại
trừ mọi ý tưởng về cục bộ và mang đến cho ta một cái nhìn tổng thể về không
gian. Với hai cái photons tương tác này, ý niệm về ‘nơi này’ và ‘chỗ kia’ trở
thành vô nghĩa bởi vì ‘nơi này’ cũng chính là ‘chỗ kia’. Đó là những gì mà nhà
vật lý gọi là ‘tính bất-khả-phân’ hay ‘phi-cục-bộ’ của không gian. Điều này
cũng tương tự với ý niệm duyên sanh, duyên khởi của thế giới hiện tượng trong
Phật giáo.
3. Thí nghiệm đồng hồ quả lắc của Foucault và tính duyên
khởi của thế giới vĩ mô
Một thí nghiệm vật lý hấp dẫn và nổi tiếng khác cho thấy
tính duyên khởi của hiện tượng không phải chỉ giới hạn trong thế giới của các hạt
nhưng lan rộng ra đến cả toàn thể vũ trụ. Đây là thí nghiệm về quả lắc được thực
hiện bởi nhà vật lý Léon Foucault vào năm 1851 tại điện Panthéon, Paris nhằm giải
thích về việc Trái Đất quay. Tất cả chúng ta hầu như ai cũng đều biết đến đặc
tính của quả lắc. Với thời gian trôi, phương hướng của quả lắc cũng thay đổi
theo. Nếu ta bắt đầu cho nó lắc theo hướng bắc-nam, chỉ vài giờ sau nó sẽ lắc
theo hướng đông-tây. Nếu cái đồng hồ quả lắc này được đặt ở Bắc hay Nam cực, nó
sẽ quay đủ một vòng 24 tiếng đồng hồ (tại Paris, do ảnh hưởng của vĩ độ, cái đồng
hồ quả lắc của Foucault chỉ thực hiện được một phần của vòng quay trong ngày).
Foucault nhận thức rằng, trong thực tế, cái quả lắc đã lắc cùng một hướng, chỉ
có Trái Đất là đang quay.
Tuy nhiên vẫn còn một vấn đề nan giải mà mãi cho đến nay người
ta vẫn chưa hiểu được rõ ràng. Cái quả lắc của đồng hồ được thiết trí cố định trong
một không gian, nhưng mà cố định tương ứng đối với cái gì? Chúng ta biết rằng
cái đồng hồ quả lắc được gắn vào trong một tòa nhà và toà nhà này thì dính vào
Trái Đất. Trái Đất mang chúng ta di chuyển với vận tốc 30km/giây một vòng chung
quanh Mặt Trời và Mặt Trời thì cũng đang quay trong không gian với một vận tốc
230km/giây trên quỹ đạo chung quanh trung tâm của giải Ngân Hà, mà chính nó
cũng đang chuyển động hướng đến giải thiên hà Andromeda với vận tốc khoảng chừng
90km/giây. Nhóm Địa Phương (Local Group) của những thiên hà, trong đó những quần
tụ hùng vĩ nhất như là Galaxy và Andromeda, cũng đang di chuyển với vận tốc
600km/giây dưới sức hút trọng lực của nhóm Virgo và siêu nhóm Hydra-Centaurus.
Thế nhưng nhóm sau này lại cũng đang quay hướng về Great Attractor, một quần tụ
tương đương với hàng chục ngàn giải thiên hà. Như vậy cái quả lắc đồng hồ của
Foucaults đã được điều khiển bởi cái nào trong những cơ cấu này? Để tìm hiểu
xem thiên thể nào đã điều khiển cái quả lắc của đồng hồ Foucault, việc giản dị
là chúng ta đặt con lắc hướng về phía thiên thể đó. Nếu như thiên thể đó đang
di động trong bầu trời, mà vẫn luôn luôn nằm ở trong hướng chỉ của con lắc, ta
có thể kế luận rằng thiên thể đó là tác nhân chính trong sự vận hành của con lắc.
Bây giờ chúng ta hãy để con lắc hướng về phía Mặt Trời. Sau một tháng, ngôi
tinh cầu này đã chệch ra khỏi hướng của quả lắc 15 độ. Bây giờ chúng ta quay quả
lắc về hướng ngôi sao gần nhất, Proxima Centauri, cách xa khảng 4 năm ánh sáng.
Ngôi sao này lưu lại trong hướng chỉ của quả lắc lâu hơn, nhưng chỉ được vài
năm, kết quả cũng giạt đi. Giải thiên hà Andremoda, cách chúng ta 2.3 triệu năm
ánh sáng, cũng đi giạt ra khỏi hướng nhưng chậm hơn. Thời gian duy trì trong hướng
chỉ của con lắc lâu hơn và độ chệch cũng trở nên nhỏ hơn nếu khoảng cách đến
thiên thể càng lớn hơn. Và rồi chỉ có những thiên hà có khoảng cách lớn nhất, tọa
lạc tận cùng bờ mép của vũ trụ mà chúng ta có thể biết được, cách xa ta đến
hàng tỉ năm ánh sáng là không hề đi ra khỏi hướng chỉ của con lắc.
Kết luận mà chúng ta rút ra được từ thí nghiệm này rất mực đặc
biệt: Hoạt động của con lắc đồng hồ Foucault không hề dựa vào thái dương hệ này
mà là vào những giải thiên hà xa nhất, hay nói một cách đúng đắn hơn, vào toàn
thể vũ trụ, điều này cho thấy rằng hầu như tất cả vật chất biểu kiến được tìm
thấy trong những giải thiên hà xa xôi nhất mà không phải là những tinh tú gần
ta. Như thế cái gì xảy ra ở đây, trên Trái Đất này, đều được quyết định bởi cả
toàn thể vũ trụ bao la. Cái gì xuất hiện trên ngôi hành tinh nhỏ bé này đều
nương tựa vào toàn thể cấu trúc của vũ trụ.
Tại sao cái quả lắc đồng hồ lại ứng xử như vậy? Quả tình
chúng ta không biết. Nhà vật lý Ernst Mach nghĩ rằng điều đó có thể được giải
thích là do bởi một loại vật chất có mặt ở khắp nơi và tạo ra ảnh hưởng. Theo
ông, một khối lượng của vật thể -tức là lực quán tính của nó, hay là sức đề
kháng đối với chuyển động- đến từ ảnh hưởng của toàn vũ trụ thông qua một sự
tương tác bí mật, khác biệt với trọng lực, mà ông không thể mô tả chính xác. Từ
đó, cũng không có ai đi sâu thêm vào lãnh vực này. Giống như thí nghiệm EPR buộc
chúng ta chấp nhận rằng những tương tác hiện hữu trong thế giới vi mô vốn khác
biệt với những gì được mô tả bởi khoa vật lý mà ta biết, cái đồng hồ quả lắc
Foucault cũng hành xử tương tự như thế đối với thế giới vĩ mô. Những tương tác
như thế không hề đặt cơ sở trên một lực hay một sự trao đổi năng lượng, và
chúng nối kết với toàn thể vũ trụ. Một lần nữa, chúng ta lại đi đến một kết luận
rất gần gũi với ý niệm về duyên khởi của Phật giáo: mỗi bộ phận đều chứa đựng
cái toàn thể, và mỗi bộ phận đều nương tựa vào tất cả các bộ phận khác.
4. Tánh Không hay là sự vắng mặt của một thực tại tự thân
Ý niệm về duyên khởi dẫn ta đi thẳng đến một cái ý niệm quan
trọng thứ ba của Phật giáo (hai cái kia là vô thường và duyên khởi): đó là
‘Tánh Không’ hay ‘trống rỗng’. Một khi tất cả đều là duyên khởi, không có gì có
thể tự xác định và hiện hữu tự thân. Ý tưởng về những phẩm tính có thể hiện hữu
do và bởi chính mình cần phải được buông bỏ. Khi Phật giáo cho rằng tánh không
là bản tánh rốt ráo của vạn pháp, điều đó có nghĩa là mọi sự vật mà chúng ta
trông thấy chung quanh mình, tức là cái thế giới hiện tượng này, không hề có một
hiện hữu độc lập hay thường hằng. ‘Tánh không’ ở đây không nên hiểu là ‘trống
không’, ‘hư không’ hay ‘vắng mặt của thế giới hiện tượng’ như các nhà chú giải
Tây phương trước đây quan niệm, nhưng là một vắng mặt của hiện hữu tự thân. Phật
giáo không hề tán thành bất cứ hình thái nào của chủ nghĩa hư vô. Tánh không chẳng
hề mang ý nghĩa là không hiện hữu. Nếu bạn đã không thể bàn về thực hữu thì bạn
cũng không thể nói về phi hữu. Thế nên theo Phật giáo, tìm hiểu về bản chất phi
thực của vạn pháp là một bộ phận thiết yếu trên hành trình tâm linh. Tánh không
như vậy không phải chỉ là bản tánh chân thật của thế giới hiện tượng, mà còn ẩn
chứa tiềm năng cho phép sự biểu hiện của cái thế giới thiên hình vạn trạng đó.
Thánh giả Long Thọ của Phật giáo trong thế kỷ thứ hai đã nói: “Khi đã là không
thì không có gì là không có” hay như một câu kinh nổi tiếng trong Bát Nhã Tâm
Kinh: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Nếu thực tại là thường hằng bất
biến thì tất cả phẩm tánh của chúng cũng thế, chẳng có gì thay đổi. Như vậy, thế
giới hiện tượng đã không thể hiện bày. Tuy nhiên do bởi vạn pháp không hề có một
thực tại tự thân, chúng có thể hiện bày ra muôn vẻ.
Về vấn đề vắng mặt của một thực tại tự thân, khoa vật lý lượng
tử một lần nữa cũng đã có những phát biểu tương tự khá đậm nét. Theo Bohr và
Heisenberg, những nhân vật nhiệt thành ủng hộ của cái gọi là “Chú giải
Copenhagen” về cơ học lượng tử, thì bây giờ chúng ta không còn có thể xem
nguyên tử (atoms) và điện tử (electrons) như là những thực thể với những phẩm
tánh xác định cụ thể, chẳng hạn như tốc độ, vị trí, vạch ra đồng đều trên những
qũy đạo xác định rõ. Ngược lại chúng ta phải xem chúng như là bộ phận của một
thế giới được cấu thành bởi những tiềm lực chứ không phải là những vật thể hay
sự kiện. Ánh sáng và vật chất có thể được xem là không có thực tại tự thân bởi
vì chúng mang tính chất lưỡng tánh: có thể xuất hiện dưới dạng sóng hay hạt tùy
theo thiết bị đo lường. Cái hiện tượng chúng ta gọi là “photon” sẽ là một luồng
sóng khi chúng ta tắt hết máy đo và không quan sát nó. Nhưng ngay lập tức khi
ta cho thiết bị hoạt động làm công việc đo lường, nó lại xuất hiện như là một hạt.
Những mặt của hạt và sóng không thể cách ly được. Ngược lại, chúng bổ túc lẫn
nhau. Đó là điều mà Bohr gọi là “nguyên lý bổ túc”. Như thế, ngay trong bản
tánh thực sự của ánh sáng và vật chất cũng đã tùy thuộc vào những mối liên hệ
duyên khởi. Nó không còn là một tự thân mà thay đổi tùy theo sự tương tác giữa
người quan sát và vật thể được quan sát. Như thế nói đến thực tại tự thân của một
hạt, hay là cái thực tại mà nó sở hữu
khi không được quan sát là điều hoàn toàn vô nghĩa bởi vì chúng ta không hề nắm
bắt được nó. Và như vậy, theo Bohr, cái ý niệm về “nguyên tử” chẳng qua chỉ là
một hình ảnh tiện dụng giúp cho những nhà vật lý tổng hợp những quan sát khác
nhau về thế giới hạt, thành một phối hợp chặt chẽ, luận lý có hệ thống. Ông nhấn
mạnh đến tính bất khả vượt ra khỏi những kết quả của những thí nghiệm và đo lường:
“Trong khi mô tả về thế giới tự nhiên, mục đích của chúng ta không phải là để
khám phá ra bản chất thực của hiện tượng, mà chỉ nhằm theo dõi mối liên hệ giữa
rất nhiều khía cạnh của cuộc thí nghiệm, được chừng nào hay chừng nấy.”
Schrodinger cũng đã từng cảnh báo chúng ta chống lại một cái nhìn thuần tuý vật
chất về nguyên tử và những yếu tố cấu thành của chúng: “Tốt nhất là không nên
nhìn về hạt như là một thực thể bất biến, mà ngược lại như là một sự kiện tức
thời. Thỉnh thoảng những sự kiện tức thời này được nối kết lại cùng nhau và tạo
ra cái ảo tưởng về những thực thể bất biến.” Ngành cơ học lượng tử như thế đã
duyệt xét lại một cách cơ bản cái ý niệm của chúng ta về một vật thể, khi cho
nó phụ thuộc vào sự đo lường, hay nói cách khác, vào một sự kiện. Cũng giống
như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là
hiện hữu.
Đi Tìm Một Đấng Tối Cao
1. Sự hòa điệu của vũ trụ
Ngành vũ trụ học đương đại đã khám phá rằng những điều kiện
cho phép đời sống và tri giác xuất hiện trong vũ trụ này có vẻ như được mả hoá
trong các phẩm tính của mỗi nguyên tử, tinh tú và thiên hà trong vũ trụ, cũng
như có mặt trong tất cả những định luật vật lý chi phối, vận hành chúng. Vũ trụ
được xuất hiện trong một hoà điệu lý tưởng như được tạo ra để dành cho một con
người quan sát thông minh có khả năng thưởng thức cái cấu trúc và sự hòa điệu
này. Cái ý tưởng vừa nêu chính là cơ sở của “nhân bản thuyết” vốn phát xuất từ
danh từ “anthropos” có nghĩa là “con người” của Hy Lạp. Về thuyết lý này, có
hai nhận xét cần được đặt ra. Thứ nhất, cái định nghĩa mà chúng tôi vừa trình
bày chỉ liên hệ đến cái mặt “mạnh” của nhân bản thuyết. Đồng thời cũng còn có một
mặt “yếu” cho là không giả định trước bất cứ ý hướng nào trong việc tạo thành
thiên nhiên. Nó có vẽ như rất gần với phép lặp thừa (**) -những phẩm tánh của
vũ trụ phải được tương xứng với sự có mặt của con người- và đây là điều mà tôi cũng
sẽ không bàn thảo đến. Thứ hai, cụm từ “nhân bản thuyết” là không thích đáng bởi
vì nó hàm ý rằng nhân loại là mục đích mà vũ trụ được tạo ra. Trong thực tế, những
lập luận về nhân bản thuyết có thể được áp dụng cho bất kỳ các loài có tri giác
nào ở trong vũ trụ.
Đâu là cơ sở khoa học của nhân bản thuyết? Cách thế mà vũ trụ
của chúng ta được tạo ra dựa vào hai loại dữ kiện: 1) những điều kiện sơ khởi,
cụ thể như tổng số khối lượng và năng lượng mà chúng có, độ trương nở ban đầu,
v.v… và 2) khoảng 15 hằng số vật lý: hằng số trọng lực, hằng số Plank, tốc độ
ánh sáng, khối lượng của các hạt cơ bản không phân tách được, v.v… Chúng ta có
thể đo được trị số của những hằng số này một cách cực kỳ chính xác, tuy nhiên
chúng ta không có bất cứ lý thuyết nào để tiên đoán chúng. Bằng cách cấu trúc
“những mô hình vũ trụ” với những điều kiện sơ khởi và những hằng số vật lý, những
nhà vật lý không gian đã khám phá ra một điều rằng tất cả những yếu tố này phải
được phối trí trong một trật tự cực kỳ hoà điệu: chỉ cần một sai biệt cực nhỏ
trong những hằng số vật lý và những điều kiện sơ khởi này thì chúng ta hẵn đã
không có mặt ở đây để nói về chúng. Cụ thể như, chúng ta hãy xem cái tỷ trọng
ban đầu của vật chất trong vũ trụ. Vật chất có một lực kéo phản ứng lại với lực
trương giản của vũ trụ gây ra bởi vụ nổ Big Bang và làm tiết giảm độ trương nở
của vũ trụ. Nếu cái tỷ trọng ban đầu này quá cao, vũ trụ sẽ sụp đổ sau một thời
gian tương đối ngắn ngủi -một triệu năm, một thế kỷ, hoặc một năm không chừng,
tùy theo độ chính xác của tỷ trọng. Với một sinh mệnh ngắn ngủi như thế rất khó
cho những tinh tú có thể hoàn tất được sự biến đổi hạt nhân để có thể sản xuất
ra những nguyên tố nặng, cụ thể như các-bon vốn cần thiết cho đời sống. Ngược lại,
nếu tỷ trọng ban đầu của vật chất quá thấp, sẽ không có đủ trọng lực để những
vì sao có thể hình thành. Và không có những vì sao, tức là không có những
nguyên tố nặng, và không thể có đời sống! Như vậy, tất cả mọi vật đều được duy
trì ở trong một trạng thái quân bình hoàn hảo. Tỷ trọng ban đầu của vũ trụ phải
được cố định ở một con số thật chính xác là 10^-60. Sự chính xác tuyệt vời này
có thể được đem so sánh với một tay bắn cung thiện nghệ nhắm trúng mục tiêu
1centimet vuông (1cm2) được đặt cách xa
14 tỷ năm ánh sáng, ngay tận đầu bờ vũ trụ mà khả năng ta có thể quan sát được!
Mức chính xác của sự hòa điệu biến đổi tùy theo hằng số đặc biệt hay điều kiện
ban đầu, thế nhưng trong mỗi trường hợp, chỉ một thay đổi nhỏ cũng đủ làm cho
vũ trụ khô cằn, trống vắng sự sống và ý thức.
2. Có một nguyên lý nào chi phối cấu trúc vũ trụ?
Chúng ta suy nghĩ như thế nào trước một sự hòa điệu tuyệt vời
như thế? Với tôi, hình như chúng ta có hai cách thế chọn lựa khác nhau: Có thể
xem sự hoà điệu này là hệ quả của một tình cờ may mắn hoặc là một tất yếu (nói
theo nhan đề một cuốn sách của nhà sinh vật học Pháp, Jacques Monod, “Ngẫu
Nhiên và Tất Yếu,” Alfred A. Knoff, New York, 1971). Nếu xem đây chỉ là một ngẫu
nhiên, thì chúng ta phải mặc nhận một số lượng vô hạn những vũ trụ khác bên cạnh
vũ trụ của chúng ta cấu thành cái được gọi là ‘đa vũ trụ’. Mỗi một vũ trụ này sẽ
bao gồm một phối hợp của riêng mình với những hằng số vật lý và điều kiện sơ khởi.
Tuy nhiên chỉ riêng vũ trụ của chúng ta là được khai sanh ra bởi một tổng hợp
hoàn chỉnh để có thể tạo nên sự sống. Tất cả đều là những kẻ thua cuộc, chỉ có
chúng ta là người thắng cuộc, giống như bạn chơi xổ số vô số lần, kết cuộc có
ngày bạn cũng sẽ trúng số. Ngược lại, nếu chúng ta bác bỏ giả thiết cho rằng có
một cái đa vũ trụ như thế và mặc nhiên công nhận rằng chỉ có một vũ trụ đơn lẽ,
cái mà chúng ta đang sống, thế thì chúng ta phải mặc nhận sự hiện hữu của một
nguyên lý về sáng tạo đã điều chỉnh sự tiến triển của vũ trụ một cách tốt đẹp.
Làm thế nào để chọn lựa giữa hai khả năng này? Khoa học
không giúp ích được gì cho chúng ta ở đây bởi vì nó cho phép cả hai tình huống
đều có thể xảy ra. Nếu xem đây là một tình cờ, có rất nhiều cách được đưa ra để
giải thích về sự sáng tạo một đa vũ trụ. Cụ thể như, nghiên cứu chung quanh xác
suất miêu tả về thế giới lượng tử, nhà vật lý học Hugh Everett đã đề xuất rằng
vũ trụ tách ra thành vô số những cái giống hệt nhau tùy theo những khả năng và
chọn lựa được thực hiện. Một vài vũ trụ chỉ khác nhau bởi vị trí của một
electron trong một nguyên tử, những cái khác có thể khác biệt căn bản hơn. Những
định luật vật lý và hằng số cũng như những điều kiện sơ khởi của chúng có thể
không giống nhau. Một giả thuyết khác cho là trong một chu kỳ tuần hoàn của vũ
trụ, đã có một loạt những vụ nổ Big Bang và Big Crunch. Bất cứ lúc nào vũ trụ
được tái sanh từ đống tro tàn của mình để bắt đầu lại trong một vụ nổ Big Bang
mới, nó lại được khởi đầu với một tổng hợp mới của những hằng số vật lý và điều
kiện sơ khởi. Cũng còn một giả thiết khác nói về sự sáng tạo vũ trụ, đó là lý
thuyết do nhà vật lý Andrei Linde và một số người khác đề ra, cho rằng mỗi một
trong vô số lượng những đám bọt lượng tử sơ khai trôi nổi bập bềnh trong không
gian đã cấu thành vũ trụ. Như thế thì vũ trụ của chúng ta chỉ là một cái bong
bóng nhỏ trong một cái siêu vũ trụ được tạo nên bởi vô số những cái bong bóng
khác. Ngoại trừ cái của chúng ta, không có cái nào trong số những vũ trụ đó
nuôi dưỡng được sự sống bởi vì những hằng số vật lý và những định luật của
chúng đã không thích hợp.
3. Không hề có một Đấng Sáng Tạo trong Phật Giáo
Như vậy, thái độ của Phật giáo liên quan đến sự hòa điệu phi
thường này như thế nào? Phật giáo có chấp nhận ý niệm có một Đấng Sáng Tạo toàn
tri hay là một nguyên lý sáng tạo có khả năng điều chỉnh sự tiến triển của vũ
trụ một cách tuyệt vời? Hay Phật giáo cho rằng sự hòa điệu chính xác và tuyệt vời
của vũ trụ chẳng qua chỉ là một tình cờ may mắn? Vấn đề có hay không một Đấng
Sáng Tạo là một điểm then chốt trong việc phân biệt giữa Phật giáo với các truyền
thống tín ngưỡng lớn trên thế giới. Đối với Phật giáo, ý niệm về một “nguyên
nhân đầu tiên” không hề được đặt ra để lý giải do bởi ý niệm về tánh không và
duyên khởi đã được bàn đến trước đây. Phật giáo xem vấn đề “sáng tạo” là không
liên quan bởi vì theo họ, thế giới hiện tượng thực sự không được sinh ra, trong
cái ý nghĩa là chúng trải qua tình trạng từ phi hữu trở thành hiện hữu. Chúng
có mặt trong một cách thế được gọi là “tục đế” và không hề là một thực tại chân
thực. Tục đế hay thực tại quy ước có mặt do sự cảm nghiệm của ta về một thế giới
mà chúng ta cho rằng trong đó mọi sự vật hiện hữu một cách khách quan. Phật
giáo quan niệm rằng những nhận thức như thế là sai lầm bởi vì thế giới hiện tượng,
nhìn một cách rốt ráo không phải là những thực tại khách quan, có nghĩa là
chúng không hề là những hiện hữu tự thân. Đây được gọi là “chân đế”. Trong những
ý nghĩa này, vấn đề sáng tạo trở thành một vấn nạn giả. Cái vấn nạn về một “nguồn
gốc nguyên thủy” chỉ bắt nguồn từ sự xác tín vào thực tại tuyệt đối của thế giới
hiện tượng. Cái ý tưởng về sáng tạo chỉ cần thiết khi chúng ta tin là có một thế
giới khách quan. Nó tan biến đi khi chúng ta nhận thức rằng thế giới hiện tượng,
cho dù là chúng ta có thể thấy chúng rõ ràng, không hề có một hiện hữu độc lập,
“khách quan”. Và một khi sự sáng tạo không còn là một vấn đề, ý niệm về Đấng
Sáng Tạo cũng không còn là một yêu cầu được đặt ra.
Tuy nhiên, quan điểm của Phật giáo không hề loại bỏ cái khả
năng về một sự hiện bày của thế giới hiện tượng. Một điều hiển nhiên, cái thế
giới mà chúng ta nhìn thấy chung quanh mình không phải là phi hữu, tuy nhiên Phật
giáo cho rằng nếu chúng ta khảo xét cách thế mà chúng hiện hữu, chúng ta sẽ nhận
ra ngay là chúng không thể được xem như bao gồm một loạt những thực thể độc lập,
có hiện hữu tự thân riêng biệt. Nhà triết học lớn của Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ
thứ hai, Thánh giả Long Thọ, đã nói: “Bản tánh của vạn pháp là duyên khởi; tự
nó, vạn pháp không hề có tự tánh”. Như thế sự tiến triển của chúng không phải
do tình cờ may mắn mà cũng không phải bởi một sự can dự thiêng liêng nào. Thay
vào đó chúng bị chi phối bởi luật nhân quả trong một mối liên hệ duyên khởi và
nhân quả hổ tương bao trùm lên tất cả. Bởi vì vạn pháp không hề có thực tại độc
lập, chúng không thể nào ‘bắt đầu’ và ‘kết thúc’ một cách thực sự như là những
thực thể tách biệt.Và như thế, ý niệm về một sự khởi đầu và kết thúc của vũ trụ
thuộc về tục đế chứ không phải chân đế.
Như vậy, quan điểm này phù hợp với nền khoa học vũ trụ đương
đại như thế nào? Chúng ta thấy duy chỉ có loại vũ trụ không có khởi điểm và tận
cùng là loại vũ trụ tuần hoàn với một loạt những vụ nổ vô tận của Big Bang và
Big Crunch ở trong quá khứ và tương lai. Thế nhưng cái trạng huống mà trong đó
vũ trụ của chúng ta tự sụp đổ vào một ngày nào đó bởi một Big Crunch có vẻ như
không phù hợp với những quan sát đương đại khi cho rằng mật độ khối lượng của
những quang chất (0.5% trong tổng số khối lượng và năng lượng tích chứa trong
vũ trụ), vật chất tối (29.5%) và năng lượng tối (70%) cọng lại với nhau chỉ là cái
tỷ trọng tới hạn. Điều này có nghĩa rằng cái hình học của vũ trụ là một hình học
phẳng, tức là nó sẽ trương giản đến bất tận và độ gia tốc trương giản này sẽ
không đi đến số không sau một khoảng thời gian vô tận ở tương lai. Như thế, với
mức độ kiến thức hiện nay có vẻ như chưa chấp nhận được ý niệm về một loại vũ
trụ tuần hoàn.
4. Những Suối Nguồn của Ý Thức Cộng Hữu Với Thế Giới Vật
Chất
Bây giờ trở lại vấn đề nhân bản thuyết. Theo như Phật giáo
quan niệm, sự hoà điệu tuyệt vời của vũ trụ đủ để cho ý thức xuất hiện không hề
là công trình của một Đấng Tối Cao nào cả, bởi vì nhân vật này không hề hiện hữu.
Đây cũng không phải là sản phẩm của một tình cờ may mắn mà những người ủng hộ lý thuyết về một đa vũ trụ
đề xuất: chúng ta có mặt và sống ở đây, trong vũ trụ này, chỉ là một ngẫu nhiên
đầy may mắn do sự phối hợp chính xác của những hằng số và điều kiện vật lý. Phật
giáo cho rằng cái vũ trụ vật chất này và ý thức đã luôn cộng hữu với nhau từ vô
thủy. Để cộng hữu, cái thế giới hiện tượng này phải phù hợp một cách hổ tương,
và do đó tạo ra sự hòa điệu kỳ diệu. Cái sau sinh khởi bởi vì vật chất và ý thức
không thể loại trừ nhau, và bởi vì chúng có mối liên hệ duyên khởi. Quan điểm
này phù hợp như thế nào với khoa sinh học thần kinh đương đại? Khoa sinh vật học
quả là vẫn đang còn trên một lộ trình dài lâu mới có khả năng lý giải được nguồn
gốc của ý thức Tuy nhiên, đại đa số những nhà sinh vật học quan niệm rằng không
cần thiết giả định rằng những suối nguồn của ý thức cộng hữu với vật chất, bởi
vì theo họ, cái sau có thể xuất hiện từ
cái trước, rằng tâm thức có thể sinh khởi từ vật chất. Tâm thức phát sinh một
khi mà hệ thống của những tế bào não bộ trong các sinh vật đạt đến ngưỡng cửa của
một phức hợp. Trên quan điểm này, ý thức đã xuất hiện, cũng giống như sự sống,
từ sự phức hợp của những nguyên tử vô sinh.
Đến đây một câu hỏi được đặt ra: Một khi Phật giáo cho rằng
ý thức được phân lìa và vượt qua tình trạng vật lý, phải chăng Phật giáo cũng
rơi vào chủ nghĩa nhị nguyên tâm-thân phân lìa của Descartes, qua đó cho rằng
có hai loại thực tại, một của tâm (hay tư tưởng) và một của thế giới vật chất?
Câu trả lời là không. Quan điểm của Phật giáo hoàn toàn khác biệt từ căn bản với
chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes. Chỉ có một sự khác biệt trên mặt tục đế giữa
vật chất và ý thức, bởi vì ở điểm tận cùng, cả hai đều không có một hiện hữu tự
thân. Bởi vì Phật giáo bác khước cái thực tại rốt ráo của thế giới hiện tượng,
nó đồng thời cũng bác khước luôn cái ý tưởng cho rằng ý thức là độc lập và hiện
hữu tự thân.
Khoa Học và Tâm Linh: Hai Cửa Sổ Mở Vào Thực Tại
Vừa rồi chúng tôi đã cố gắng chứng tỏ rằng đã có những điểm
đồng quy nổi bật giữa quan điểm về thực tại của Phật giáo và nền khoa học đương
đại. Ý niệm về “vô thường”, một ý niệm then chốt trong Phật giáo, tương ứng với
ý niệm về tiến hoá trong khoa học về vũ trụ, địa chất và sinh vật. Không có gì ở
trong thể tĩnh, tất cả đều thay đổi, chuyển động và tiến triển, từ một hạt
nguyên tử cực nhỏ cho đến một cấu trúc lớn lao nhất trong vũ trụ. Vũ trụ tự nó
cũng đã có một lịch sử. Thuyết tiến hoá của Darwin kết hợp với sự chọn lọc tự
nhiên chi phối những đổi thay liên tục trong thế giới sinh vật. Ý niệm về
“duyên khởi”, cũng là trọng tâm của giáo lý Phật giáo, cộng hưởng với tính toàn
thể, bất khả phân của không gian được hàm chứa trong thí nghiệm EPR về các cấp
độ nguyên tử và hạ nguyên tử, cùng với thí nghiệm quả lắc Foucault về các tầng
vũ trụ. Ý niệm về “tánh không” của Phật giáo, với sự vắng mặt về sự hiện hữu của
một thế giới hiện tượng thường hằng và độc lập, tương đương với tính chất lưỡng
tánh của ánh sáng và vật chất trong thế giới lượng tử của khoa học. Bởi vì một
photon sẽ là sóng khi ta không quan sát chúng và là hạt khi ta đo lường, thế
nên ta có thể nói là nó không có một hiện hữu độc lập, tự thân, sự xuất hiện của
nó hoàn toàn tùy thuộc vào người quan sát.
Chúng tôi cũng đã nêu rõ rằng Phật giáo phản bác cái ý niệm
về một sự khởi đầu của vũ trụ cũng như về một vị Thượng Đế hay là một nguyên lý
sáng tạo có khả năng hòa điệu những phẩm tánh của mình, từ đó tạo điều kiện cho
ý thức xuất hiện. Phật giáo cho rằng ý thức cộng hữu với vật chất nhưng không hề
bắt nguồn từ vật chất. Bởi vì cả hai đều tương tác và duyên khởi nên không cần
thiết phải điều chỉnh thế giới vật chất để phục vụ cho ý thức trong một thể hoà
điệu.
Những điểm đồng quy nói trên không có gì là đáng ngạc nhiên
bởi vì cả khoa học lẫn Phật giáo đều đã sử dụng những tiêu chuẩn nghiêm nhặt và
chân xác để vươn đến chân lý. Bởi vì mục tiêu của cả hai là mô tả thực tại, họ
phải gặp nhau ở những mẩu số chung mà không hề loại trừ nhau. Trong khoa học,
những phương pháp cơ bản để khám phá sự thật là thí nghiệm và lý thuyết hóa dựa
vào phân tích; trong Phật giáo, quán tưởng là phương pháp chính. Cả hai đều là
những cánh cửa sổ cho phép ta hé nhìn vào thực tại. Cả hai đều vững vàng trong
những phạm trù chuyên biệt của mình và bổ túc lẫn nhau. Khoa học khám phá dùm
ta những kiến thức “qui ước”. Mục tiêu của nó là hiểu rõ thế giới hiện tượng.
Những áp dụng kỹ thuật của nó có thể gây nên những hệ quả xấu hay tốt đối với đời
sống thể chất của con người. Thế nhưng quán tưởng, khi giúp ta nhìn rõ bản tánh
chân thật của thực tại, có mục đích cải thiện nội giới để ta có thể hành động
nhằm cải thiện đời sống của tất cả mọi người. Những nhà khoa học còn sử dụng đến
những thiết bị tối tân hơn để khám phá thiên nhiên. Trái lại trong hình thức tiếp
cận bằng quán tưởng, thiết bị duy nhất là tâm. Hành giả quán sát những tư tưởng
của mình được đan kết lại cùng nhau như thế
nào và dính mắc vào y ra sao. Y khảo sát cái cơ chế vận hành của hạnh
phúc và đau khổ để từ đó cố gắng khám phá ra những tiến trình tâm linh nhằm
nâng cao sự an bình nội tâm, làm cho cõi lòng mình rộng mở hơn đối với tha nhân
để giúp họ cùng phát triển, cũng như từ đó thấy rõ được những tiến trình gây ra những hệ quả độc hại
để loại bỏ chúng. Khoa học cung cấp cho ta những dữ kiện, nhưng không mang lại
sự tiến bộ tâm linh và chuyển hoá. Trái lại sự tiếp cận tâm linh hay quán tưởng
chắc chắn phải đưa ta đến một sự chuyển hoá bản thân sâu sắc trong cách thế
mà chúng ta nhận thức về thế giới để dẫn
đến hành động. Hành giả Phật giáo một khi nhận thức rằng vật thể không hề có hiện
hữu tự thân sẽ giảm thiểu sự dính mắc vào chúng, từ đó giảm bớt khổ đau. Nhà
khoa học, với cùng một nhận thức như thế, sẽ xoa tay hài lòng, xem đó như là một
tiến bộ tri thức hầu sử dụng vào những công trình nghiên cứu khác, sự khám phá
này không hề làm thay đổi thị kiến cơ bản của y đối với thế giới và cách thức
mà y hướng dẫn đời sống của mình.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận
Giới thiệu tác giả
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận là một trong những chuyên gia
hàng đầu thế giới trong lĩnh vực vật lý thiên văn. Hiện tại, ông đang làm giáo
sư thiên văn tại Đại học Virginia, Hoa Kỳ. Điều khiến nhà khoa học nổi tiếng thế
giới người Mỹ gốc Việt này trở nên đặc biệt và nằm trong số ít ỏinhững nhà khoa
học tài ba nhất thế giới đó là, ông không chỉ là một nhà khoa học uyên bác mà
còn là một nhà văn, nhà thơ, một triết gia, một Phật tử và một nhà hoạt động
cho môi trường và hòa bình. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng cao quý cả trong
khoa học lẫn trong lĩnh vực văn hoá và xã hội. Khoa học đối với ông không chỉ
dành riêng cho những nhà khoa học thông thái, mà ông luôn nhắm tới công chúng
bình dị. Ông đã viết nhiều tác phẩm khoa học được đông đảo công chúng thế giới
đón nhận. Trong đó, một số tác phẩm đã được dịch sang tiếng việt như: Giai điệu
bí ẩn, Cái vô hạn trong lòng bàn tay, Hỗn độn và hài hoà.