Read more
Osho - Bí mật của
những bí mật (Tập 1)
Chương 7. Vặn chìa khoá
Ngày 17 tháng 8
năm 1978, buổi sáng tại thính đường Phật
Osho ơi,
Thầy Lữ tử nói:
Khi ánh sáng được chuyển trong vòng tròn, mọi
năng lượng của trời và đất, của sáng và tối, được kết tinh. Khi người ta bắt đầu
áp dụng pháp này, cứ dường như là ở giữa hiện hữu, có vô hiện hữu. Khi trong tiến
trình thời gian công việc được hoàn thành, và bên ngoài thân thể có một thân thể,
dường như là ở giữa vô hiện hữu, có hiện hữu. Chỉ sau khi công việc được tập
trung quãng một trăm ngày ánh sáng sẽ là đích thực, chỉ thế nó mới trở thành
tinh hoả. Sau một trăm ngày tự nó phát triển giữa ánh sáng một điểm cực quang
thực. Thế rồi đột nhiên phát triển ra mầm ngọc. Dường như là đàn ông và đàn bà
ôm nhau và việc thụ thai xảy ra. Vậy thì người ta phải hoàn toàn tĩnh lặng và
chờ đợi. Giữa biến đổi nguyên thuỷ, việc toả ra ánh sáng là điều tất định.
Trong thế giới vật lí là mặt trời; trong con người, là mắt. Năng lượng hướng ra
ngoài - chảy xuống. Do đó Con đường của Hoa Vàng tuỳ thuộc toàn bộ vào pháp chảy
ngược.
Luân quang không chỉ là quán tưởng.
Bằng hội vào ý, người ta có thể thăng; bằng
hội vào muốn, người ta ngã. Khi học trò ít ý và nhiều muốn, anh ta đi con đường
của chìm ngập. Chỉ qua trầm tư và yên tĩnh mà trực giác đúng nảy sinh: với điều
đó pháp chảy ngược được cần tới.
Một thầy lớn được hỏi phật là
gì? “Tâm trí là phật,” ông ấy trả lời. Sau nhiều năm ông ấy lại được hỏi cùng
câu hỏi đó lần nữa bởi cùng đệ tử này, ông ấy nói, “Không phật, không trí.”
“Thế sao trước đây thầy nói,
‘Tâm trí là phật’?”
“Để làm em bé thôi khóc! Một
khi em bé thôi khóc, ta nói, ‘Không trí, không phật’!”
Triết học chỉ là trò chơi - trò
chơi để làm em bé thôi khóc - và thượng đế học cũng vậy. Tôn giáo thực sự bao gồm
kinh nghiệm, thực nghiệm; nó chẳng liên quan gì tới suy đoán. Trong bản tính bản
chất của nó, nó là khoa học về cái bên trong; nó có tính khoa học như bất kì
khoa học nào khác. Khác biệt giữa tôn giáo và khoa học không phải là ở phương
pháp luận của chúng mà chỉ ở đối thể của chúng.
Khoa học nhìn vào thế giới đối
thể nơi năng lượng của chúng ta tuôn chảy, nơi ánh sáng của chúng ta tuôn chảy.
Tôn giáo tìm vào tính chủ thể nơi ánh sáng của chúng ta không chảy ra mà có thể
được đổi chiều tuôn chảy. Do đó khoa học là dễ hơn tôn giáo. Đừng bao giờ dù chỉ
một khoảnh khắc nghĩ rằng tôn giáo là đơn giản hơn khoa học. Nó là khoa học cao
hơn, làm sao nó có thể là đơn giản hơn khoa học được? Nó là khoa học cao siêu.
Đầu tiên ánh sáng phải chảy vào
trong, thế thì nó rơi vào trong bản thể của bạn, thế thì bản thể của bạn được lộ
ra và bạn có thể đi vào trong bản thể của bạn. Và đi vào trong bản thể riêng của
người ta là đi vào trong vương quốc của Thượng đế. Ở đó, bạn không có và Thượng
đế có: bạn tồn tại chỉ trong cái bóng. Khi ánh sáng chảy ra ngoài bạn tồn tại
chỉ trong cái bóng. Bạn tồn tại bởi vì bạn vẫn còn vô nhận biết về cái ta thực
của bạn. Cái ta thực của bạn là cái ta tối thượng. Cái ta thực của bạn là cái
'Ta' với chữ T hoa. Nó không liên quan gì tới bạn, nó là cái ta của tất cả.
Nhưng với điều đó, biến đổi lớn phải xảy ra.
Tự nhiên đã chuẩn bị cho việc
chảy ra ngoài. Chức năng của tự nhiên được kết thúc. Với con người, tự nhiên đã
đạt tới cực đỉnh của nó; bây giờ không cái gì khác sẽ xảy ra một cách tự nhiên
trừ phi con người làm quyết định đi xa hơn tự nhiên. Tự nhiên đã mang bạn tới
điểm từ đó bạn có khả năng đứng theo cách riêng của bạn. Con người không còn là
đứa trẻ, con người đã trở thành người lớn. Bây giờ tự nhiên sẽ không còn là bố
mẹ bạn; không có nhu cầu.
Tiến hoá tự nhiên đã dừng lại ở
con người. Đây là sự kiện. Ngay cả các nhà khoa học cũng ngày càng trở nên nhận
biết hơn về nó: rằng trong hàng nghìn năm chẳng cái gì đã xảy ra cho con người,
con người vẫn còn như cũ - dường như công việc của tự nhiên được thực hiện rồi.
Bây giờ con người phải nắm lấy tiến trình tăng trưởng thêm nữa vào trong tay
riêng của mình. Đó là điều tôn giáo là gì.
Tôn giáo nghĩa là con người bắt
đầu đứng trên đôi chân của mình, trở nên có trách nhiệm cho hiện hữu riêng của
mình, bắt đầu nhìn và tìm và truy hỏi vào cái gì đang là hoàn cảnh - tôi là ai?
Và điều này không nên chỉ là tò mò.
Triết học bắt nguồn từ tò mò.
Tôn giáo là việc tìm kiếm rất chân thành, đích thực; nó là truy hỏi. Và có khác
biệt lớn giữa tò mò và truy hỏi. Tò mò có tính trẻ con, chỉ là hơi ngứa ngáy
trong đầu; bạn muốn gãi và thế rồi bạn cảm thấy được thoả mãn. Triết học là việc
gãi đó; tôn giáo là vấn đề sống-và-chết. Trong triết học bạn chưa bao giờ trở
nên được tham gia, bạn vẫn còn tách rời. Bạn chơi với đồ chơi, nhưng nó không
phải là vấn đề sống và chết. Bạn tích luỹ tri thức, nhưng bạn chưa bao giờ thực
hành nó.
Tôi đã nghe...
Ngày xưa có một sĩ phu Nho giáo
lỗi lạc. Ông ấy là một quân tử gần tám mươi tuổi và tương truyền không ai sánh
được về học vấn và hiểu biết.
Thế rồi tin đồn nảy sinh rằng ở
nơi xa xăm một học thuyết đã xuất hiện mà thậm chí còn sâu sắc hơn tri thức của
ông ấy. Lão quân tử thấy điều này không thể dung thứ được và quyết định rằng vấn
đề phải được giải quyết theo cách này hay cách khác.
Mặc cho tuổi tác ông ta lên đường
đi cuộc hành trình dài. Sau nhiều tháng gian nan trên đường, ông ta tới đích, tự
giới thiệu bản thân mình và nói mục đích của chuyến viếng thăm của mình.
Chủ nhà của ông ta, là một thầy
của một tông phái Thiền mới, đơn giản trích dẫn, “Để tránh làm điều xấu, làm
nhiều điều tốt nhất có thể, đây là giáo huấn của mọi chư phật.”
Nghe thấy điều này, lão quân tử
Nho giáo nổi giận, “Ta đã tới đây mặc cho nguy hiểm và gian truân của cuộc hành
trình dài và nhọc nhằn và mặc cho tuổi cao, và ông chỉ trích dẫn chút ít lời lặp
lại mà cả đứa trẻ ba tuổi cũng còn thuộc lòng! Ông giễu ta sao?”
Nhưng Thiền sư đáp, “Dạ không
dám giễu đâu ạ, đại nhân. Xin minh xét rằng mặc dầu đúng là mọi đứa trẻ ba tuổi
đều biết lời này, vậy mà ngay cả ông lão tám mươi vẫn không sống được theo nó đấy
ạ!”
Tôn giáo không phải là vấn đề
biết mà là sống theo nó. Tôn giáo là cuộc sống, và chừng nào bạn chưa sống nó,
bạn sẽ không biết gì về nó là gì. Và để sống tôn giáo người ta phải vứt bỏ mọi
việc triết lí và người ta phải bắt đầu thực nghiệm. Người ta phải trở thành
phòng thí nghiệm. Phòng thí nghiệm của nhà khoa học là ở bên ngoài; phòng thí
nghiệm của người tôn giáo là bản thể riêng của người đó - thân thể riêng của
người đó, linh hồn riêng của người đó, tâm trí riêng của người đó. Nhà khoa học
phải tập trung vào đối thể mà người đó đang thực nghiệm: công trình của người
đó phải được thực hiện với mắt mở. Công trình của tôn giáo phải được thực hiện với
mắt nhắm: người đó phải tập trung vào bản thân mình.
Và độ phức tạp là lớn bởi vì
trong thế giới của tôn giáo người thực nghiệm và cái được thực hiện là một - do
đó mới có sự phức tạp, do đó mới có tính kì lạ, do đó mới có việc không hiểu thấu,
do đó mới có tính phi logic. Người biết và cái được biết là một trong thế giới
của tôn giáo. Trong thế giới của khoa học người biết là tách rời, cái được biết
là tách rời - mọi thứ là rõ ràng, được phân ranh giới. Nhưng trong tôn giáo mọi
thứ hội nhập, tan chảy vào mọi thứ khác - ngay cả người biết cũng không thể vẫn
còn tách rời được! Tôn giáo không cho bạn tri thức tách rời khỏi người biết. Nó
cho bạn kinh nghiệm, không tách rời khỏi người biết, nhưng như điều rất bản chất
về người biết.
Là người tìm kiếm tôn giáo người
ta phải vứt bỏ mọi việc triết lí, người ta phải vứt bỏ mọi tri thức tiên thiên,
bởi vì mọi tri thức tiên thiên đều là cản trở. Nó dừng việc truy hỏi của bạn,
việc truy hỏi trở thành không chân thực - từ chính lúc ban đầu nó trở nên bị đầu
độc. Làm sao bạn có thể truy tìm nếu bạn đã kết luận rồi? Là một người Ki tô
giáo và có tính tôn giáo là không thể được, hay là một người Hindu và có tính
tôn giáo là không thể được. Làm sao bạn có thể có tính tôn giáo được nếu bạn là
người Hindu? Là người Hindu nghĩa là bạn đã kết luận, bạn đã quyết định chân lí
là gì. Bây giờ phỏng có ích gì mà truy hỏi? Bạn định truy hỏi vào cái gì? Mọi
điều bạn sẽ làm là tìm sự hỗ trợ, luận cứ cho điều bạn đã kết luận. Và kết luận
của bạn có thể sai - không ai biết - bởi vì kết luận của bạn không phải là của
bạn, nó đã được xã hội trao cho bạn.
Xã hội rất quan tâm tới việc
cho bạn các kết luận. Xã hội không quan tâm tới việc cho bạn tâm thức để cho bạn
có thể kết luận theo cách riêng của bạn. Trước khi bạn trở nên có ý thức, trước
khi bất kì việc truy hỏi nào bắt đầu, xã hội tọng vào bạn đủ mọi loại kết luận
- để dừng việc truy hỏi - bởi vì người truy hỏi là nguy hiểm cho xã hội. Người
không truy hỏi là thuận tiện, người không truy hỏi là vâng lời. Người đó đơn giản
nhận mệnh lệnh, chỉ đạo, và tuân theo chúng. Người đó là người tuân thủ, người
đó theo tập quán. Một khi bạn đã tọng vào tâm trí ai đó chút ít niềm tin, bạn
đã cho người đó dùng ma tuý; niềm tin là ma tuý. Người đó bắt đầu tin, người đó
liên tục tin... dần dần, dần dần người đó bắt đầu nghĩ rằng niềm tin của người
đó là kinh nghiệm của người đó.
Niềm tin là hệ thống thôi miên.
Bạn cứ gợi ý cho đứa trẻ, “Con là người Hindu, con là người Hindu,” bạn đưa nó
tới đền chùa, bạn dẫn nó qua nghi lễ tôn giáo, cái gọi là tôn giáo, các buổi lễ,
và dần dần nó trở nên được ước định với ý tưởng rằng nó là người Hindu, và mọi
thứ có tính Hindu đều đúng và mọi thứ không phải Hindu đều sai.
Và cùng điều này được thực hiện
trong mọi loại xã hội - bạn đã làm cho đứa trẻ dùng ma tuý, chính cội nguồn tâm
thức của nó đã bị đầu độc. Và nếu bạn tin vào cái gì đó, cái đó bắt đầu có vẻ
như là đúng. Nếu bạn bắt đầu tin vào cái gì đó, bạn sẽ thấy mọi loại hỗ trợ cho
nó, mọi loại luận cứ để giúp nó - bản ngã của bạn trở nên bị dính líu. Vấn đề
không chỉ là vấn đề chân lí, sâu bên dưới nó là vấn đề về, “Ai đúng, tôi hay
anh? Làm sao tôi có thể sai được - tôi phải đúng chứ.” Cho nên bạn chọn mọi thứ
hỗ trợ cho bạn. Và cuộc sống là phức tạp thế, bạn có thể tìm được mọi loại sự vật
trong cuộc sống - bất kì cái gì bạn chọn, bất kì cái gì bạn quyết định. Nếu bạn
là người bi quan, bạn sẽ thấy đủ mọi loại luận cứ trong cuộc sống hỗ trợ cho bi
quan. Nếu bạn là người lạc quan, có đủ mọi loại luận cứ sẵn có cho bạn.
Cuộc sống là nhị nguyên, cuộc sống
là ngược đời, cuộc sống là đa chiều. Do đó mới có nhiều loại triết học thế, các
thứ ‘chủ nghĩa’, thượng đế học tồn tại trên thế giới. Và mọi thượng đế học đều
sống mà bị giới hạn bởi kết luận riêng của nó và cảm thấy hoàn toàn đúng.
Chính là chỉ trong thời đại này
mà những người tin đang gặp chút khó khăn - và đây là phúc lành lớn lao - bởi
vì họ đã trở nên nhận biết về những người tin khác nữa. Bây giờ người Hindu
không tự mãn thế, người đó không thể vậy được; người đó biết rằng có người Ki
tô giáo. Và người Ki tô giáo không thể cứ tin rằng người đó có bản quyền duy nhất
về chân lí, vì người đó biết rằng có người Mô ha mét giáo và có Đạo nhân và có
Phật tử, và ai mà biết được?
Thời đại này là rất lẫn lộn -
nó chưa bao giờ như vậy trước đây. Nhưng nhớ lấy, lẫn lộn này là phúc lành lớn;
cái gì đó đang trên đường, cái gì đó cực kì quan trọng sắp xảy ra. Hỗn độn này
trong tâm trí là bắt đầu của bình minh mới. Trong tương lai mọi người sẽ không
là người Mô ha mét giáo và người Hindus và Phật tử. Mọi người sẽ là người truy
hỏi. Niềm tin đang biến mất và bóng tối của niềm tin đang biến mất. Không ai
trong tương lai sẽ sẽ tin. Mọi người sẽ truy hỏi, và khi họ tìm ra, họ sẽ tin cậy.
Niềm tin là được vay mượn, chân lí là kinh nghiệm riêng của người ta.
Điều tôi đang dạy bạn ở đây là
loại tôn giáo đó mà sẽ xảy ra ngày càng nhiều trong tương lai. Tôi đang mang
tương lai tới cho bạn trong hiện tại: tôi làm cho bạn thành người truy hỏi thuần
khiết không có hệ thống niềm tin nào, sẵn sàng đi vào trong thực nghiệm nhưng
không có kết luận nào, để mở với bất kì cái gì mà chân lí có thể là, sẵn sàng
chấp nhận nó - nhưng chỉ sẵn sàng chấp nhận chân lí.
Người tin tưởng là người bị
đóng: các cửa sổ và cửa ra vào của người đó bị đóng, người đó sống trong một loại
nhà tù. Người đó phải sống trong một loại nhà tù; nếu người đó mở cửa sổ và cửa
ra vào và mặt trời vào và gió vào và mưa vào, có thể là niềm tin của người đó bị
quấy rối. Nếu chân lí đi vào từ mọi phía, người đó sẽ không thể bảo vệ được niềm
tin của mình. Người đó phải trốn tránh chân lí, người đó phải sống trong thế giới
đóng, không cửa sổ, để cho không cái gì có thể quấy nhiễu người đó, để cho người
đó có thể cứ tin, không bị quấy rối. Điều này là tốt cho xã hội, nhưng rất nguy
hại cho sự lành mạnh của cá nhân.
Xã hội đã từng cho bạn đồ chơi
để chơi - như bạn cho con bạn đồ chơi để cho khi chúng bị cuốn hút vào việc
chơi chúng không quấy bạn. Bố mẹ thấy thoải mái, bố có thể đọc báo, mẹ có thể
làm việc trong bếp - con mê mải với đồ chơi.
Ở Ấn Độ, trong các làng, điều
này đã từng là thực hành thông thường: đàn bà nghèo phải đi làm việc trên cánh
đồng phải đem con nhỏ đi cùng họ. Nếu con đủ lớn chúng có thể chơi theo cách của
chúng, nhưng nếu chúng rất nhỏ và chúng không thể chơi được theo cách riêng của
chúng, chúng là việc gây sao lãng thường xuyên cho người mẹ. Chúng sẽ khóc,
chúng đói hay chúng đái ướt chỗ đó hay chúng bị lạnh, và người mẹ phải tới và
chăm sóc chúng liên tục, và điều này làm sao lãng công việc và ông chủ sẽ không
cho phép điều đó. Cho nên điều đã là thực hành thông thường là cho đứa con ít
thuốc phiện. Thế thì đứa con ngủ say trong giấc ngủ phúc lạc mà thuốc phiện đã
cho nó, mơ những giấc mơ đẹp, và người mẹ có thể vẫn còn không bị sao lãng khỏi
công việc của cô ấy. Điều này là tốt cho công việc, điều này là tốt cho người mẹ,
điều này là tốt cho địa chủ, nhưng điều này là rất mạo hiểm và nguy hiểm cho sự
mạnh khoẻ của đứa trẻ - cho cả tương lai của nó nữa vì đây là chất độc. Nhưng
đây là điều đã từng xảy ra.
Xã hội cho bạn niềm tin để cho
bạn không cần thực nghiệm, để cho bạn không cần bị sao lãng vào việc truy hỏi,
bởi vì việc truy hỏi sẽ lấy nhiều năng lượng của bạn tới mức bạn sẽ không có khả
năng là thư kí tốt hay trưởng ga tốt hay người thu thuế tốt hay cảnh sát tốt. Bạn
sẽ bị làm sao lãng bởi việc truy hỏi của bạn; bạn sẽ trở nên ngày một quan tâm
hơn tới cái bên trong và mối quan tâm của bạn với cái bên ngoài sẽ bắt đầu biến
mất.
Xã hội muốn bạn sống cuộc sống
hướng ngoại, xã hội muốn bạn hiệu quả trong thế giới, nhiều năng suất hơn trong
thế giới - dù việc sản xuất là tốt hay xấu thì cũng không phải là vấn đề. Nếu bạn
làm việc trong cơ xưởng nơi bom được làm ra bạn phải hiệu quả và năng suất. Nếu
bạn làm việc trong quân đội bạn phải hiệu quả và bao giờ cũng tuân lệnh. Bất kì
chỗ nào bạn ở, dù công việc là tốt hay xấu không phải là vấn đề: bất kì cái gì
xã hội đã quyết định bạn phải tuân theo, bạn phải đứng vào hàng.
Nếu bạn trở thành người tìm hỏi,
thế thì có nguy hiểm: bạn sẽ trở nên ngày một nhiều là người hướng nội, ưu tiên
của bạn sẽ thay đổi, giá trị của bạn sẽ khác. Bạn có thể không quan tâm mấy về
tiền, bạn có thể không quan tâm mấy về quyền, bạn có thể không còn tham vọng, bạn
có thể không có tính sở hữu nữa, mối quan tâm của bạn về tài sản có thể biến mất.
Bạn sẽ bắt đầu tìm giầu có bên trong, vương quốc bên trong của Thượng đế. Nhưng
thế thì bạn sẽ trở nên ngày càng ít hiệu quả cho xã hội, và xã hội không thể chịu
được điều đó - mặc dầu nó sẽ là một thế giới tốt hơn, nơi nhiều người hơn được
hướng nội và làm việc riêng của họ thay vì bị kéo và đẩy bởi người khác để làm
những thứ riêng của họ. Nó sẽ là thế giới tốt hơn nơi mọi người có nhiều tính
thiền hơn. Thế thì các chính khách sẽ không có khả năng tạo ra nhiều điều tổn hại
mà họ đã từng tạo ra trong quá khứ. Chiến tranh sẽ biến mất một cách tự động nếu
mọi người hướng nội nhiều hơn. Thế thì ai sẽ lo tới đánh nhau và ai sẽ lo việc
giết và sát hại?
Và bạo hành được tô vẽ theo
cách để cho nó có vẻ như là đẹp. Sát hại nhân danh 'quốc gia', sát hại nhân
danh Hồi giáo, sát hại nhân danh Ki tô giáo - và thế thì sát hại trở thành đẹp.
Sát hại là sát hại; dù bạn sát hại vì Ki tô giáo hay Nhà thờ hay đất nước hay
quốc gia cũng chẳng thành vấn đề. Đây chỉ là cái cớ cho sát hại, cái cớ cho
tính huỷ diệt, cái cớ cho điên khùng.
Sau cứ mười năm một cuộc chiến
tranh thế giới lớn lại bùng ra trên thế giới, bởi vì trong từng thời kì mười
năm mọi người tích tụ lại nhiều mủ trong con người họ tới mức nó phải được đổ
ra. Họ tích tụ nhiều chất độc trong con người họ tới mức họ không thể chứa được
nó thêm nữa - điên khùng, điên toàn cầu, bùng phát.
Nếu mọi người hướng nội nhiều
hơn, chiến tranh sẽ biến mất, chính trị sẽ biến mất. Nếu mọi người hướng nội
nhiều hơn, tất nhiên họ sẽ không hiệu quả thế, nhưng không có nhu cầu - họ sẽ hạnh
phúc hơn. Họ có thể không bận bịu liên tục thế, bận bịu điên cuồng trong mọi thứ,
nhưng họ sẽ hạnh phúc hơn, vui vẻ hơn, mở hội nhiều hơn. Họ sẽ tạo ra đủ điều
được cần, họ sẽ không quan tâm tới cái không cần thiết.
Nhưng chúng ta đã trở nên quá bận
tâm với cái không cần thiết, điều không được cần tới chút nào - chúng ta có thể
đảm đương không cần nó. Nhưng vậy mà chúng ta không thể làm được, bởi vì huấn
luyện của chúng ta đã làm cho nó theo cách chúng ta phải cứ xô đẩy và chạy.
Chúng ta không biết cách nào khác để hiện hữu.
Xã hội làm cho bạn nhiễm ma tuý
niềm tin và giết chết việc truy tìm của bạn từ chính lúc ban đầu. Tôn giáo nghĩa
là làm sống lại việc truy tìm của bạn, tôn giáo nghĩa là đưa bạn trở lại cội
nguồn nguyên thuỷ của bạn.
Và nhớ lấy, nó không phải là tò
mò; nó là việc tìm kiếm rất chân thành. Sống mà không biết tới bản thân người
ta là gần như đồng nghĩa với việc chết. Làm sao người ta có thể thực sự sống mà
không biết người ta là ai? Cuộc sống có nghĩa gì nếu bạn không biết tới bản
thân bạn? Bạn sẽ làm gì với bản thân bạn nếu bạn không biết bạn là ai? Làm sao
bạn sẽ quyết định cái gì sẽ là định mệnh của bạn? Vâng, sẽ có nhiều ồn ào,
nhưng sẽ không có âm nhạc. Sẽ có nhiều tính toán, nhưng sẽ không có lễ hội. Và
sẽ có nhiều chạy vạy và xô đẩy đây đó nhưng chẳng tới đâu. Giữa sống và chết bạn
sẽ sống một loại căng thẳng thường xuyên nhưng bạn sẽ không biết tới cái đẹp,
phúc lành của cuộc sống và sự tồn tại, bởi vì bạn thậm chí không biết tới cái đẹp
và phúc lành của bản thể bên trong của bạn - cái là thứ gần nhất để biết, thứ đầu
tiên để biết.
Bước đầu tiên hướng tới cuộc sống
là bước của tự biết. Nó không thể chỉ là tò mò. Có nhiều người truy tìm từ tò
mò, nhưng tò mò không bao giờ có thể là biến đổi cuộc sống; lần nữa nó chỉ là
cái ngứa có thể được thoả mãn rất dễ dàng.
Ngày xưa có một người chủ trọ
người mà, nói cũng kì lạ, không thể nào kiếm được đủ sống. Không cái gì mà ông
ta thử có tác dụng nào. Ông ta cố đặt nhà mình theo cách quản lí mới toàn bộ,
nhưng cả điều đó nữa cũng chẳng mùi mẽ gì. Thế là trong chán nản ông ta đến tư
vấn một người đàn bà trí huệ.
“Cực kì đơn giản,” bà ấy nói,
khi bỏ tiền phí vào túi. “Ông phải đổi tên nhà trọ đi.”
“Nhưng nó đã là ‘Sư tử Vàng’
hàng thế kỉ rồi,” ông ta đáp.
“Ông phải đổi cái tên đi,” bà ấy
nói. “Ông phải gọi nó là ‘Tám Chuông’ và ông phải có một hàng bẩy chuông làm dấu
hiệu.”
“Bẩy à?” ông ta nói. “Nhưng điều
đó là ngớ ngẩn! Nó sẽ có tác dụng gì?”
“Về nhà mà xem,” người đàn bà
trí huệ nói.
Thế là ông ta về nhà và làm như
bà ấy bảo ông ta. Và trên con đường thẳng tắp mọi khách lữ hành đi qua đều dừng
lại để đếm chuông và thế rồi vội vàng vào trong nhà trọ để chỉ ra sai lầm, từng
người rõ ràng đều tự tin mình là người duy nhất đã để ý tới điều đó và mọi người
đều ước ao tự nhớ lại rắc rối của họ.
Và ông chủ trọ trở nên béo ra
và làm ra cơ đồ của mình.
Đây là cách mọi người vậy. Cái
tên của nhà trọ này là ‘Tám Chuông’ và biểu tượng chỉ có bẩy chuông - đủ để làm
cho mọi người tò mò, đủ để giữ họ bận tâm. Nhưng loại tò mò này sẽ không đưa bạn
tới đâu cả.
Mọi người hỏi về Thượng đế, mọi
người hỏi về chân lí, nhưng bạn có thể thấy từ mắt họ, bằng cách họ đã hỏi, rằng
họ không ngụ ý việc. Cũng như mọi người nói về thời tiết, mọi người nói về Thượng
đế nữa - nó là đối thoại lịch sự. Không ai dường như được tham gia, không ai dường
như ở trong việc tìm kiếm đam mê. Và chừng nào việc tìm kiếm của bạn còn chưa
có đam mê lớn lao, cam kết vô cùng, tham gia hoàn toàn, bạn sẽ không có khả
năng biết được bí mật của hiện hữu của bạn, bởi vì nhiều công việc sẽ phải được
làm. Người tò mò không thể làm được chừng nấy công việc. Tò mò là không đủ để
đem bạn đi xa; năng lượng của nó rất nhỏ, rất tí hon. Chỉ đam mê chân thành để
biết mới có thể đem bạn đi qua mọi rắc rối sẽ được cần. Nó là nhiệm vụ gian nan
lên dốc.
Cho nên điều đầu tiên cần hiểu
Bí mật của Hoa Vàng là: không có tính triết lí, không bị xã hội gây nghiện ma
tuý, không tin và không không tin. Nhớ lấy, bất kì khi nào tôi nói, “Không
tin,” tôi không nói rằng bạn phải không tin - không tin là loại tin khác, loại
phủ định. Khi tôi nói, “Không tin,” tôi đang nói cả tin và không tin đều phải bị
bỏ. Bạn phải đơn giản cởi mở, không kết luận gì. Bạn phải đơn giản nhận biết về
dốt nát của bạn, không có tri thức che giấu dốt nát của bạn. Bạn phải hồn
nhiên, dốt nát một cách hồn nhiên. Bạn phải nói, “Tôi không biết.”
Mọi cách tiếp cận đúng đều bắt
đầu với điều này: “Tôi không biết.” Nếu bạn đã 'biết' bất kì cái gì đó mà lại
không biết, nếu bạn thông thái, thế thì chính việc tin đó sẽ cản trở, chính việc
tin đó sẽ tạo ra kinh nghiệm mà không đúng. Và khi bạn bị say ma tuý bởi một niềm
tin - và niềm tin giống như LSD hay cần sa hay thuốc phiện - khi bạn bị say ma
tuý bởi niềm tin, nó tạo ra thế giới được phóng chiếu riêng của nó, nó cho bạn
trò chơi tự do tưởng tượng của bạn. Và khi tưởng tượng của bạn bắt đầu chơi
quanh bạn, bạn không còn là một phần của thực tại - bạn đã tạo ra một thế giới
riêng tư tách biệt - bạn là kẻ ngốc.
Đó là nghĩa của từ ‘idiot-ngốc’:
người sống trong thế giới riêng tư, người có thực tại riêng của mình, người đã
hoàn toàn bị ngắt khỏi cái thực, người có tưởng tượng đã trở thành thực với người
đó tới mức thực tại đã đơn giản biến mất khỏi cách nhìn của người đó. Và đó là
điều xảy ra khi bạn dùng LSD hay thuốc phiện hay các loại ma tuý khác: nó tạo
ra thế giới hư tưởng nhỏ trong bạn, rất mầu sắc - ít nhất nó có vẻ mầu sắc khi
bạn bị mất hút trong ma tuý - và khi bạn đang trong ma tuý, mọi điều bạn kinh
nghiệm dường như là thực tối thượng.
Mọi ngày ai đó này khác lại tới
tôi và người đó nói, “Chính là qua ma tuý mà tôi trở nên nhận biết thế giới đẹp
làm sao.” Điều bạn trở nên nhận biết đó chỉ là thế giới mơ của bạn; ma tuý đơn
giản đem bạn xa khỏi khả năng phê phán của bạn. Ma tuý chỉ ru ngủ lí trí của bạn
và thế thì thế giới mơ của bạn mở ra mọi cánh cửa của nó và chảy theo nhiều hướng.
Và khi không còn khả năng mấu chốt để vận hành, khi không có lí do vận hành và
tưởng tượng có quyền năng tuyệt đối và chơi đùa đầy đủ, nó cho cảm giác dường
như đó là chân lí tối thượng - nó không phải vậy. Nó chẳng liên quan gì tới
chân lí.
Chân lí là sẵn có chỉ cho những
người hoàn toàn không bị đánh ma tuý - không chỉ về mặt hoá chất, mà về mặt tôn
giáo nữa. Những người đã hoàn toàn không bị ma tuý chi phối, chỉ họ mới có năng
lực biết tới chân lí.
Tôi đã nghe...
Dưới ảnh hưởng của ô xít ni tơ,
nhà tâm lí học vĩ đại, William James, đi tới 'chân lí' tối thượng. Ông ấy là một
trong những nhà thực nghiệm đầu tiên - và trong những ngày đó đã không có người
dùng ma tuý xung quanh.
Dưới ảnh hưởng của ô xít ni tơ,
ông ấy cảm thấy rằng ông ấy đã vớ được chân lí tối thượng. Ông ấy là là tâm lí
học lớn, và là triết gia lớn nữa, nhưng ông ấy đã làm một điều mà rất ít người
làm: ông ấy lập tức viết điều đó vào trong cuốn sổ của mình. Ông ấy vẫn có nhiều
cảm giác đó để biết rằng cái gì đó có giá trị mênh mông đã nảy sinh trong tâm
thức của ông ấy và nó phải được viết ra ngay lập tức. Ai biết? - một khi ông ấy
ra khỏi kinh nghiệm ma tuý rồi ông ấy có thể quên mất nó. Cho nên ông ấy đã viết
nó ra và ông ấy chờ đợi khoảnh khắc mà ma tuý và tác động của nó biến mất để
cho ông ấy có thể đọc được chân lí tối thượng nào mà ông ấy đã bắt gặp. Ông ấy
tưởng rằng ông ấy đã trở thành vị phật hay một Christ, đã thấy Thượng đế hay thấy
cái gì đó mà những nhà tiên tri của Upanishads đã thấy, hay Lão Tử, hay
Zarathustra, hay Mohammed - nhưng cái gì đó có tầm quan trọng đó.
Nhưng ông ấy rất phân vân và ngạc
nhiên khi ông ấy quay lại với giác quan và nhìn vào cuốn sổ của mình. Điều ông ấy
đã biết là thế này:
“Hogamous, Higamous,
Đàn ông là đa thê.
Higamous, Hogamous,
Đàn bà là đơn phu.”
Đây là chân lí tối thượng mà ông
ấy đã vớ được.
Bất kì cái gì ngớ ngẩn cũng có
thể có vẻ như điều tối thượng khi bạn không trong ý thức của bạn, khi lí trí
không vận hành, khi khả năng phê phán đã hoàn toàn đi vào giấc ngủ - bất kì điều
ngu xuẩn nào. Nhưng trong khoảnh khắc đó nó không phải là ngu xuẩn, trong khoảnh
khắc đó nó có vẻ giống chân lí tối thượng.
Aldous Huxley nói rằng khi lần
đầu tiên ông ấy dùng LSD, ông ấy ngồi trong một căn phòng rất bình thường và ở
ngay trước ông ấy là một chiếc ghế rất bình thường. Một khi LSD bắt đầu làm việc
trong hệ thống của ông ấy, trong hệ thống hoá chất của ông ấy, chiếc ghế bắt đầu
trông đẹp tới mức ông ấy không thể tin được vào mắt mình: ông ấy chưa bao giờ
thấy cái gì đẹp thế trong đời. Nó chói sáng, ánh sáng chảy ra từ chiếc ghế theo
mọi hướng - đa mầu sắc, phiêu diêu. Chiếc ghế vẫn là cùng chiếc ghế ấy thôi -
chỉ tưởng tượng của bạn đang tạo ra toàn thể trò chơi, chính chất LSD đó đã đưa
bạn tới điên. Nó đã lấy đi mọi khả năng của việc có tính phê phán.
Đó là lí do tại sao tôi nói niềm
tin là chống lại hoài nghi, nhưng chân lí không chống lại hoài nghi. Tin cậy
trưởng thành qua hoài nghi, niềm tin trưởng thành qua kìm nén hoài nghi. Đó là
lí do tại sao niềm tin là một loại ma tuý. Điều đó đích xác là điều ma tuý làm:
nó kìm nén khả năng hoài nghi của bạn, điều duy nhất giữ cho bạn tỉnh táo -
không trở thành kẻ ngốc, không rơi vào nạn nhân của tưởng tượng riêng của bạn.
Và đó là điều tôn giáo đã từng làm suốt nhiều thời đại. Họ nói, “Đừng hoài
nghi. Hoài nghi, và con sẽ rơi vào địa ngục. Tin đi! Nếu hoài nghi tới, kìm nén
nó, ném nó đi. Cứ tiếp tục tin. Và việc tin,” họ nói, “là việc thấy. Nếu con
tin, con sẽ thấy.”
Chân lí là hiện tượng khác toàn
bộ. Nó tới từ tâm thức không bị say ma tuý, tâm thức mở - không tin mà cũng
không không tin, không có kết luận gắn vào nó - chỉ tự do, hồn nhiên.
Hoài nghi vẫn còn hữu dụng. Chừng
nào bạn chưa tới chân lí, hoài nghĩ vẫn còn giúp đỡ. Hoài nghi là người bạn của
tin cậy. Chính quá trình hoài nghi giúp cho bạn không trở thành nạn nhân của tưởng
tượng của bạn; bằng không, tưởng tượng đã từng chơi trò tàn phá.
Chẳng hạn, nếu bạn được sinh ra
là người Hindu và bạn đã từng đọc về kundalini, thế thì tưởng tượng của bạn có
thể tạo ra toàn thể kinh nghiệm này: bất kì ngày nào, chạy xuống theo xương sống,
con rắn sẽ bắt đầu duỗi ra, và với âm thanh im lặng lớn nó sẽ xô tới luân xa thứ
bẩy. Và kinh nghiệm này sẽ có vẻ thực tới mức bạn không thể hoài nghi được nó,
nếu bạn đã từng tin vào nó. Nhưng Jesus chưa bao giờ bắt gặp kundalini,
Mohammed chưa bao giờ biết cái gì về nó... ngay cả Phật, người đã được sinh ra
là một người Hindu. Nhưng bởi vì ông ấy là con người truy tìm chân thành và đã
bỏ mọi loại niềm tin, ông ấy không bao giờ bắt gặp kundalini. Mahavira chưa bao
giờ biết gì về nó, Zarathustra đã không nói về nó. Vậy cái gì đã xảy ra? Họ có
bỏ lỡ không? Nó là niềm tin thôi: nếu bạn tin vào luân xa thứ bẩy, bẩy luân xa
kia sẽ trở thành sự kiện trong đời bạn. Nếu bạn tin vào bất kì cái gì bạn sẽ bắt
đầu thấy nó.
Gopi Krishna, người đã trở
thành người đề xướng về năng lượng kundalini trong thời hiện đại, nói ông ấy đã
làm việc trong mười ba năm, ngồi và chờ đợi kundalini dâng lên. Mười ba năm là
thời gian dài. Nếu trong mười ba năm bạn có thể tin vào kundalini và bạn có thể
chờ đợi và bạn có thể liên tục nhìn sâu vào trong xương sống, việc đó không là
phép màu nếu nó xảy ra.
Thế rồi một ngày nào đó nó xảy
ra: con rắn duỗi bản thân nó ra, xô lên với năng lượng lớn, xuyên thấu vào não
với âm thanh, âm thanh ào ào của thác đổ - và từ đó Gopi Krishna nghĩ rằng
thiên tài của ông ấy đã được xả ra. Ông ấy nghĩ rằng nếu kundalini của bạn dâng
lên bạn sẽ trở thành thiên tài. Nhưng tôi không thấy thiên tài của ông ấy đã
cho được cái gì. Vâng, ông ấy viết thơ ngu xuẩn, rất tầm thường, hạng bét. Nếu
đó là thiên tài thế thì sẽ là tốt nếu mọi người giữ cho kundalini của họ sâu ở
dưới, bị kìm nén. Nếu mọi người trở thành nhà thơ hạng bét, điều đó sẽ không là
tình huống tốt. Loại thiên tài nào được thoát ra?
Không có cách nào, đây chỉ là
tưởng tượng. Và nếu bạn tin vào điều nào đó, bạn sẽ bắt đầu thấy nó - đó là
nguy hiểm. Đừng bắt đầu với niềm tin. Đó là cách nhìn của Đạo: truy hỏi, thực
nghiệm và chờ đợi kết luận tới theo cách riêng của nó.
Lời kinh.
Thầy Lữ tử nói:
Khi ánh sáng được chuyển trong
vòng tròn, mọi năng lượng của trời và đất, của sáng và tối, được kết tinh.
Tâm thức bạn đang chảy ra ngoài
- đây là sự kiện, không có gì để tin trong nó cả: khi bạn nhìn vào một đối thể
tâm thức bạn chảy tới đối thể đó.
Chẳng hạn, bạn đang nhìn tôi:
thế thì bạn quên mất bản thân bạn, bạn trở nên được hội tụ vào tôi; thế thì
năng lượng của bạn chảy tới tôi, thế thì mắt bạn được bắn tên tới tôi - đây là
hướng ngoại. Bạn thấy đoá hoa và bạn được say mê, và bạn trở nên được hội tụ
vào đoá hoa; bạn trở nên quên lãng bản thân bạn, bạn chỉ chăm chú vào cái đẹp của
đoá hoa. Điều này chúng ta biết - mọi khoảnh khắc nó đều đang xảy ra. Một người
đàn bà đẹp đi qua và đột nhiên năng lượng của bạn bắt đầu đi theo cô ấy.
Chúng ta biết luồng ánh sáng hướng
ra ngoài này - đây chỉ là một nửa của câu chuyện - nhưng mỗi lúc ánh sáng chảy
ra, bạn rơi vào trong nền tảng, bạn trở nên quên lãng về bản thân bạn. Ánh sáng
này phải chảy ngược lại để cho bạn là cả chủ thể và đối thể cùng lúc, đồng thời,
để cho bạn thấy bản thân bạn. Thế thì việc biết cái ta được thoát ra. Bình thường,
chúng ta sống chỉ theo cách một nửa này - nửa sống, nửa chết, đó là tình huống
- và dần dần, dần dần, ánh sáng cứ chảy ra ngoài và không bao giờ quay lại. Bạn
trở thành ngày một trống rỗng bên trong, hổng hoác. Bạn trở thành lỗ đen.
Đây đích xác là điều xảy ra
trên qui mô lớn hơn trong vũ trụ. Bây giờ các nhà vật lí đã khám phá ra lỗ đen.
Đạo sĩ đã khám phá ra lỗ đen từ lâu trước đây, nhưng họ không quan tâm về lỗ
đen có trong không gian xa xăm, họ quan tâm tới lỗ đen bên trong bạn. Lỗ đen là
trạng thái khi mọi năng lượng của bạn được chi dùng, bị cạn kiệt và bạn trở
thành trống rỗng, và bạn đã quên hoàn toàn cách nuôi dưỡng nguồn năng lượng
này. Các nhà khoa học nói rằng sớm hay muộn mặt trời này sẽ trở thành lỗ đen,
vì năng lượng liên tục bị xả ra mà chẳng cái gì trở lại nó. Nó là nguồn năng lượng
mênh mông. Trong hàng triệu năm nó đã đem ánh sáng tới cho hệ mặt trời. Trong
hàng triệu năm cây lớn, hoa nở, người sống, con vật di chuyển, chim bay, bởi vì
năng lượng của mặt trời. Nhưng mặt trời đang trở nên bị làm kiệt quệ. Dần dần,
dần dần, một ngày nào đó, nó sẽ co sập; sẽ không còn năng lượng nào còn lại. Đột
nhiên mọi ánh sáng sẽ biến mất, tia sáng cuối cùng sẽ biến mất khỏi nó. Thế thì
nó sẽ là lỗ đen.
Và đó là cách nhiều người sống
trong đời họ: họ trở thành lỗ đen - bởi vì việc hướng ngoại thường xuyên này. Bạn
nhìn cái này, bạn nhìn cái nọ, bạn liên tục nhìn mà không bao giờ quay năng lượng
vào người nhìn. Ban ngày bạn nhìn thế giới, ban đêm bạn nhìn giấc mơ, nhưng bạn
liên tục vẫn còn thường xuyên bị gắn vào các đối thể. Đây là phát tán năng lượng.
Đến lúc một người ba mươi tuổi người đó gần như được kết thúc; thế thì người đó
là lỗ đen.
Mọi người chết quãng ba mươi; mặc
dầu họ được chôn quãng gần bẩy mươi - đó là chuyện khác - nhưng họ chết quãng
ba mươi. Và tôi thấy một chút chân lí trong ý tưởng của người hippie rằng không
tin vào người trên ba mươi tuổi. Có chút ít chân lí trong điều đó, bởi vì rất
hiếm khi một người ngoài ba mươi mà sống động. Mọi người trở thành lỗ đen - kiệt
quệ, hoàn toàn bị vét cạn. Họ cứ kéo lê bằng cách nào đó, họ sống mà không sống,
dường như chỉ cái đà của quá khứ giúp cho họ vẫn còn sống.
Chuyện xảy ra: nếu bạn thích đi
xe đạp, bạn phải đạp xe. Nhưng thỉnh thoảng bạn có thể dừng đạp và do đà được tạo
ra bởi việc đạp quá khứ mà xe vẫn chạy một lúc không có việc đạp. Và nếu đó là
quãng đường dốc, nó có thể đi xa. Và sau ba mươi hay ba mươi nhăm đó sẽ là đường
dốc xuống. Ba mươi nhăm là đỉnh; nếu bẩy mươi là tuổi trung bình của chết, thế
thì ba mươi nhăm là đỉnh. Sau ba mươi nhăm bạn đang trên đường xuống dốc: bạn
có thể tiếp tục lăn xuống mà không có năng lượng nào.
Kinh nghiệm của Đạo nhân là ở
chỗ năng lượng này mà bạn dùng trong việc hướng ngoại có thể được làm kết tinh
lại ngày một nhiều thay vì bị làm kiệt quệ đi. Nếu bạn học được khoa học bí mật
của việc quay nó ngược lại, điều đó là có thể. Đó là toàn thể khoa học của mọi
phương pháp tập trung.
Cứ đứng trước gương một ngày
nào đó, thử một thực nghiệm nhỏ. Bạn đang nhìn vào gương, mặt riêng của bạn ở
trong gương, mắt riêng của bạn ở trong gương - đây là hướng ngoại. Bạn đang
nhìn vào trong mặt được soi gương - mặt riêng của bạn, tất nhiên, nhưng nó là đối
thể bên ngoài bạn. Thế rồi, trong một khoảnh khắc, đảo ngược toàn thể quá trình
này. Bắt đầu cảm thấy rằng bạn đang bị nhìn bởi sự phản xạ trong gương - không
phải là bạn đang nhìn và hình phản xạ mà hình phản xạ đang nhìn vào bạn - và bạn
sẽ trong không gian rất kì lạ. Cứ thử điều đó trong vài phút và bạn sẽ rất sống
động, và cái gì đó có sức mạnh mênh mông sẽ bắt đầu đi vào bạn. Bạn thậm chí có
thể kinh hoàng vì bạn chưa bao giờ biết điều đó, bạn chưa bao giờ nhìn vòng
tròn năng lượng đầy đủ.
Và điều này dường như vậy với
tôi, mặc dầu nó không được nhắc tới trong kinh sách Đạo, nhưng điều này với tôi
dường như là thực nghiệm đơn giản nhất mà bất kì ai cũng có thể làm được, và rất
dễ dàng. Cứ đứng trước gương trong buồng tắm nhà bạn, đầu tiên nhìn vào trong
hình phản xạ: bạn đang nhìn và hình phản xạ là đối thể. Thế rồi đổi toàn thể
tình huống, đảo ngược lại quá trình. Bắt đầu cảm thấy rằng bạn là hình phản xạ
và hình phản xạ đang nhìn vào bạn, và ngay lập tức bạn sẽ thấy thay đổi xảy ra
- năng lượng lớn đi tới bạn. Lúc ban đầu, nó có thể gây kinh hoàng vì bạn chưa
bao giờ làm điều đó và bạn chưa hề biết nó. Nó sẽ có vẻ kì dị, bạn có thể cảm
thấy bị rung chuyển, run rẩy có thể nảy sinh trong bạn, hay bạn có thể cảm thấy
mất phương hướng, vì toàn thể hướng của bạn mãi cho tới giờ đã từng là hướng
ngoại. Hướng nội phải được học dần dần, dần dần. Nhưng vòng tròn là đầy đủ. Và
nếu bạn làm nó trong vài ngày bạn sẽ ngạc nhiên: bạn cảm thấy sống động nhiều
làm sao trong cả ngày - chỉ vài phút đứng trước gương và để năng lượng quay lại
bạn, cho nên vòng tròn là đầy đủ. Và bất kì khi nào vòng tròn là đầy đủ sẽ có
im lặng lớn. Vòng tròn không đầy đủ tạo ra tình trạng không nghỉ, khi vòng tròn
là đầy đủ nó tạo ra việc nghỉ ngơi, nó làm cho bạn được định tâm, và được định
tâm là thành mạnh mẽ. Sức mạnh là của bạn. Và đây chỉ là một thực nghiệm; thế
thì bạn có thể thử nó theo nhiều cách.
Nhìn hoa hồng, đầu tiên nhìn
vào hoa hồng trong vài khoảnh khắc, vài phút, và thế rồi bắt đầu đảo ngược quá
trình: hoa hồng đang nhìn bạn. Và bạn sẽ ngạc nhiên hoa hồng này có thể cho bạn
năng lượng nhiều làm sao. Và cùng điều đó có thể được làm với cây và với sao và
với mọi người. Và cách tốt nhất là làm nó với người đàn bà hay người đàn ông bạn
yêu. Chỉ nhìn vào mắt nhau. Đầu tiên bắt đầu nhìn vào người kia và thế rồi bắt
đầu cảm thấy người kia quay năng lượng vào bạn; món quà quay lại. Bạn sẽ cảm thấy
được làm đầy lại, bạn sẽ cảm thấy được trút vào, được tắm, được tắm nắng trong
một loại năng lượng mới. Bạn sẽ đi ra khỏi nó được làm khoẻ khoắn lại, được
sinh động.
Thầy Lữ Tử nói:
Khi ánh sáng được chuyển trong
vòng tròn…
Đây là điều chúng được ngụ ý bởi
việc ánh sáng trong vòng tròn. Ánh sáng của bạn di chuyển trong một cung: nó
đơn giản đi ra và không bao giờ quay lại. Bạn trở thành lỗ đen sớm hay muộn. Nếu
vòng tròn là đầy đủ bạn sẽ trở thành lỗ trắng. Bây giờ, sau lỗ đen, vật lí đang
khám phá ra lỗ trắng nữa. Lỗ trắng là rất dồi dào năng lượng, chính cái đối lập
của lỗ đen.
Khi ánh sáng được chuyển trong
vòng tròn, mọi năng lượng của trời và đất...
Trời và đất nghĩa là bên trong
và bên ngoài, trên và dưới, Thượng đế và thế giới, cái vô hình và cái hữu hình,
cái không biết được và cái biết được. Trời đại diện cho Thượng đế và đất đại diện
cho thế giới được biểu lộ. Chúng trở thành một khi vòng tròn là đầy đủ. Thế thì
bạn không chỉ là cát bụi trở về với cát bụi; cái gì đó của trời đã xuyên thấu
vào bạn. Thế thì bạn không còn chỉ là đất, không chỉ là con người - bạn đã trở
thành điều thiêng liêng.
Nhớ gốc của từ ‘human-con người’:
nó bắt nguồn từ ‘humus’. Humus nghĩa là đất. Con người được làm ra từ đất, đó
là lí do tại sao con người được gọi là human. Con người là cát bụi, do đó con
người được gọi là human. Khi cát bụi bắt đầu trở thành chói sáng với điều
thiêng liêng, thế thì bạn biết sự huy hoàng của cuộc sống. Và điều đó là có thể
nếu năng lượng quay lại. Và nó có thể được mang lại, từ mọi nơi; không có vấn đề
trong nó, bạn chỉ phải thực hành bí mật này. Và một khi bạn đã có được mẹo về
nó, bạn sẽ thấy nó, ở mọi nơi.
Nhìn vào cây xanh bạn cũng có
thể sống động thế - dường như toàn thể nhựa cây đã chảy tới bạn, toàn thể nhựa
cây đã đi vào trong bản thể của bạn. Nhìn lên trăng và bạn sẽ ngạc nhiên: không
cần phải bị say với bất kì rượu cồn nào hay bất kì ma tuý nào, với trăng bạn có
thể trở thành người say. Trăng có thể đem lại nhiều năng lượng thế nếu bạn biết
cách đem nó trở lại.
Ở Ấn Độ, trong Rig Veda cổ đại,
có nói tới soma. Các nhà khoa học nghĩ rằng soma là cái gì đó như LSD. Các nhà
khoa học nghĩ nó phải là một loại nấm đã biến mất khỏi Himalayas bởi vì thay đổi
khí hậu hay cái gì đó. Hay có thể nó đã không biến mất, có thể mọi người chỉ
quên mất về nó. Nó có thể vẫn mọc đâu đó trong các thung lũng sâu của Himalayas
và chúng ta đã đơn giản quên mất nó là gì. Có thể những người thấy cổ đại chủ ý
giúp đỡ nhân loại để quên nó đi; nó có thể đã chứng tỏ là quá nguy hiểm.
Aldous Huxley nói rằng soma là
ma tuý tối thượng, và trong tương lai khi chúng ta sẽ khám phá ra LSD tối thượng,
chúng ta sẽ gọi nó là soma. Nhưng bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng trong tiếng Phạn
soma là cái tên khác cho mặt trăng. Do đó, thứ hai trong tiếng Hindi được gọi
là somwar, ngày của trăng. Soma là cái tên khác cho trăng; nó không phải là nấm,
nó không phải là loại LSD nào đó, nó không phải là ma tuý. Nó là khoa học bí mật
của việc đi vào giao cảm với trăng. Và cũng hệt như đại dương bị ảnh hưởng bởi
trăng, nếu bạn có thể thu lại được năng lượng từ trăng, bạn sẽ ngạc nhiên: nhựa
sống lớn, nước cam lồ lớn, trút lên bạn - bạn có thể bị say mà không say bởi bất
kì ma tuý nào.
Trăng có thể ảnh hưởng vào bạn
tới chính cốt lõi bản thể của bạn, và nó sẽ làm cho bạn bình thản và bình tĩnh
bởi vì trăng là năng lượng nữ tính. Cũng như khi bạn ôm choàng người đàn bà bạn
yêu và đột nhiên bạn cảm thấy bình thản và yên tĩnh lớn nảy sinh trong bạn,
đích xác cùng điều đó xảy ra trên qui mô lớn hơn khi năng lượng trở lại bạn từ
trăng.
Mặt trăng là nguyên lí nữ tính,
cũng như mặt trời là nguyên lí nam tính. Mặt trăng là âm, mặt trời là dương.
Trăng có thể là mẹ bạn. Không cần đi tìm ở thung lũng Himalaya về nấm nào đó; nấm
đó bao giờ cũng có trên trời - nó là mặt trăng. Bạn phải học bí mật về cách lấy
năng lượng trở lại từ mặt trăng. Đã từng có các phương pháp bí mật để lấy năng
lượng từ mặt trăng và từ mặt trời nữa.
Tôn thờ mặt trời được sinh ra từ
kĩ thuật nào đó; những ngôi đền lớn về mặt trời nảy sinh. Đền mặt trời ở
Konarak chỉ là một cách diễn đạt lòng biết ơn với mặt trời. Nó không chỉ là tôn
thờ, nó là khoa học - cách lấy năng lượng dương vào trong bạn. Điều đặt biệt tốt
cho đàn bà là lấy năng lượng mặt trời vào trong họ để cho cái dương đang ngủ, ẩn
kín của họ trở nên kích hoạt và điều tốt cho đàn ông là lấy năng lượng mặt
trăng để cho nguyên lí nữ tính đang ngủ của họ trở thành sống động, di chuyển lần
nữa. Điều tốt cho đàn bà là thành người tôn thờ mặt trời và điều tốt cho đàn
ông là trở thành người tôn thờ mặt trăng. Nhưng việc tôn thờ không phải chỉ là
nghi lễ, nó phải là phương pháp này.
Khi ánh sáng được chuyển trong
vòng tròn, mọi năng lượng của trời và đất, của sáng và tối, được kết tinh.
Sáng và tối biểu tượng hoá cho
đàn ông/đàn bà, nhẹ/nặng, gia trì/hấp dẫn, sống/chết, chuyển động/nghỉ ngơi. Tất
cả những điều này đều được biểu diễn bởi sáng và tối.
Nói tóm lại, nếu năng lượng có
thể chuyển vòng tròn, dần dần, dần dần bạn sẽ không biết bạn là ai - là đàn ông
hay đàn bà. Hướng ngoại là nguyên lí dương, hướng nội là nguyên lí âm. Đàn ông
tự nhiên có tính hướng ngoại, đàn bà tự nhiên có tính hướng nội. Ngay cả khi
làm tình, đàn ông để mắt mở - anh ta muốn nhìn, anh ta là người nhìn lỗ khoá;
do đó mới có khả năng về sách báo khiêu dâm. Không đàn bà nào quan tâm tới sách
khiêu dâm; không đàn bà nào thấy có vấn đề gì trong nó. Ngay cả khi làm tình với
người yêu của cô ấy, cô ấy nhắm mắt. Cô ấy là người hướng nội, năng lượng của
cô ấy chuyển vào trong.
Nhưng năng lượng phải trở thành
vòng tròn, bằng không người ta vẫn còn là đàn ông, người ta vẫn còn là đàn bà,
và cả hai đều một nửa - hai nửa của cùng một toàn thể - do đó mới có hấp dẫn và
nhu cầu với người kia.
Ngày bạn có khả năng chuyển
năng lượng của bạn trong vòng tròn bạn sẽ không cần người đàn bà khác, bạn sẽ
không cần người đàn ông khác, bởi vì người đàn ông riêng của bạn, người đàn bà
riêng của bạn sẽ gặp gỡ và hội nhập vào trong nhau. Bạn sẽ là toàn thể, và là
toàn thể chính là thiêng liêng.
Đây là Đạo và đây là Mật tông nữa:
là cái toàn thể là linh thiêng.
Khi ánh sáng được chuyển trong
vòng tròn, mọi năng lượng của trời và đất, của sáng và tối, được kết tinh.
Đây là điều Carl Gustav Jung gọi
là ‘cá nhân hoá’, kết tinh hoá. Đây là điều George Gurdjieff thường gọi là ‘việc
sinh của cái ta’ hay ‘linh hồn’.
Bình thường bạn chỉ là những mảnh
mẩu, bình thường bạn là đám đông, bạn có nhiều cái ta. Bạn không có một cái
'tôi', bạn có nhiều cái 'tôi', những cái 'tôi' nhỏ, và tất cả đều vật lộn và cạnh
tranh với nhau để chi phối. Đây là khổ của con người: rằng người đó là nhiều.
Làm sao bạn có thể thoải mái nếu bạn là nhiều? Phần này nói, “Làm cái này,” phần
khác nói, “Không,” và phần thứ ba nói, “Làm cái gì đó khác đi.”
Bất kì cái nào bạn theo, bạn sẽ
hối hận, bởi vì phần khác không sẵn lòng đi sẽ tạo ra rắc rối. Chúng sẽ cứ
khăng khăng rằng bạn đang trên đường sai, rằng phương án khác chắc đã tốt hơn
nhiều: “Nếu mình mà theo điều này, bây giờ mình chắc đã tới rồi. Và trông đấy,
mình đã không theo điều đó.” Nhưng nếu bạn mà nghe phần đó, thế thì phần khác
chắc đã lại báo thù.
Con người chưa bao giờ hài lòng
- không thể hài lòng được - bởi vì con người là nhiều. Nếu bạn trở thành một,
mãn nguyện theo sau theo cách riêng của nó. Nếu bạn là nhiều, không bằng lòng
là tự nhiên. Nếu bạn là nhiều, bạn sống trong xung đột thường xuyên. Nếu bạn là
một, xung đột biến mất; bạn đã về nhà. Đây là điều Đạo nhân gọi là kết tinh
hoá, và phương pháp để đạt tới nó là làm cho ánh sáng chuyển trong vòng tròn để
cho âm và dương của bạn không còn tách biệt.
Ánh sánh phải chuyển đích xác
như việc thở của bạn chuyển: vào và ra, ra và vào, bạn thở ra bạn hít vào. Nghĩ
về một người chỉ thở ra mà xem: người đó sẽ không có khả năng sống, thân thể
người đó sẽ chết. Hay nghĩ về người chỉ hít vào: người đó cũng sẽ chết. Và đó
đích xác là điều đã xảy ra cho linh hồn bạn: linh hồn bạn chết, bởi vì hoặc bạn
thở ánh sáng ra hoặc bạn hít ánh sáng vào. Bạn đã không học việc thở ra và và
hít vào đó phải trở thành vòng tròn, một quá trình. Thở ra sâu và hít vào sâu.
Cũng như thở cần cho cuộc sống
của thân thể, tâm thức cần cho linh hồn. Cho nên tâm thức không nên bị bỏ lại
như một nửa, vòng tròn nên được làm đầy đủ. Đàn bà phải học cách là đàn ông nữa,
và đàn ông phải học cách là đàn bà nữa. Và khi đàn ông và đàn bà đã đi tới cân
bằng như nhau, khi họ hoàn toàn được cân bằng, đó là việc kết tinh hoá, cá nhân
hoá - linh hồn được sinh ra.
Khi người ta bắt đầu áp dụng
pháp này….
Và, vâng, nó là pháp thuật, bởi
vì tác động của nó thực sự là không thể tin được.
Khi người ta bắt đầu áp dụng
pháp này, cứ dường như là ở giữa hiện hữu, có vô hiện hữu.
Đây là điều tôi đã ngụ ý bởi 'lỗ
đen'.
Khi người ta bắt đầu áp dụng
pháp này, cứ dường như là ở giữa hiện hữu, có vô hiện hữu.
Dường như bạn được bao quanh bởi
hiện hữu, nhưng bạn là hòn đảo của vô hiện hữu, của cái không - một lỗ đen. Cây
sống động, sao sống động, chim sống động, trái đất sống động, mặt trời và mặt
trăng sống động, mọi thứ đều sống động, còn bạn... chỉ là một lỗ đen chết.
Trong đại dương bao la này của hiện hữu bạn là vô hiện hữu. Đây là tình huống
khi bạn bắt đầu.
Khi trong tiến trình thời gian
công việc được hoàn thành, và bên ngoài thân thể có một thân thể, dường như là ở
giữa vô hiện hữu, có hiện hữu.
Thế thì mọi thứ thay đổi; thế
thì bạn trở thành sự hiện hữu, lỗ trắng. Bạn trở thành được tích hợp, được kết
tinh tới mức so với bạn, mọi mặt trời và mặt trăng và cây và chim và con vật đều
có vẻ như không hiện hữu.
Cứ nghĩ về vị phật mà xem: ông ấy
là sự hiện hữu - toàn thể sự tồn tại cảm thấy nhạt nhoà đi khi được so với ông ấy.
Ông ấy có cuộc sống - cuộc sống vĩnh hằng, cuộc sống dư thừa. Toàn thể sự tồn tại
nghèo, ông ấy giầu. Ông ấy là hoàng đế, toàn thể sự tồn tại là có tính ăn xin.
Khi trong tiến trình thời gian
công việc được hoàn thành, và bên ngoài thân thể có một thân thể...
Khi vòng tròn này của ánh sáng
trở nên được ổn định trong bạn, được kết tinh trong bạn, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy
thể khác bên trong thân thể. Thân thể này được làm từ bụi, thể kia được làm từ
Thượng đế, từ tính thiêng liêng. Thân thể này có hình dạng, thể kia không có
hình dạng. Thân thể này là thô, thể kia là tinh. Thân thể này sẽ phải chết, thể
kia không biết tới cái chết. Thân thể này là một phần của thời gian, thân thể
kia là một phần của vĩnh hằng.
Khi thể thứ hai được sinh ra -
và nó có thể được sinh ra chỉ khi bạn đã học cách hít vào và thở ra ánh sáng...
Cũng như khi bạn hít vào và thở ra hơi thở, khi bạn đã học được cách hít vào và
thở ra ánh sáng - thể thứ hai, thể ánh sáng... Đây là thân thể của bóng tối,
đây là thân thể mà là một phần của đất, một phần của lực hấp dẫn. Nó nặng, nó bị
kéo xuống dưới. Thể kia được kéo lên trên, nó là một phần của gia trì, nó là
ánh sáng - chiếu sáng cả hai chiều của thế gian: nó chói sáng và nó vô trọng lượng
- bạn có thể thăng.
Đó là điều Thiền nhân gọi là
"thăng không cánh'. Thế thì toàn thể bầu trời và tính vô hạn của nó là sẵn
có cho bạn.
… dường như là ở giữa vô hiện hữu,
có hiện hữu. Chỉ sau khi công việc được tập trung quãng một trăm ngày ánh sáng
sẽ là đích thực,
Lúc ban đầu ánh sáng sẽ gần giống
như là tưởng tượng - lúc ban đầu nó phải là tưởng tượng. Chỉ sau một thời gian,
một trăm ngày,
… công việc được tập trung
quãng một trăm ngày...
Điều đó tuỳ thuộc và công việc
của bạn được tập trung thế nào; một trăm ngày không phải là thời gian cố định.
Nếu công việc của bạn được tập trung toàn bộ, thế thì một trăm ngày; bằng không
nó sẽ mất hàng trăm năm hay hàng trăm kiếp - người ta chả biết được. Điều đó là
tuỳ vào sự mãnh liệt. Nếu con người bạn được tham gia toàn bộ vào trong nó, được
cam kết với nó, bạn được dồn hết vào nó, bạn sẵn sàng mạo hiểm tất cả cho nó,
thế thì trong một trăm ngày ánh sáng sẽ trở thành đích thực. Lúc ban đầu nó sẽ
là tưởng tượng.
Tưởng tượng không sai; tưởng tượng
chỉ sai khi nó đem bạn đi ngược với thực tại, khi nó trở thành rào chắn. Tưởng
tượng là không sai khi nó hợp tác với thực tại. Thế thì nó là phúc lành lớn.
Lúc ban đầu bạn sẽ cảm thấy nó như tưởng tượng - hệt như nhìn vào gương, bạn sẽ
cảm thấy, “Đây toàn là ảnh cả, cái phản xạ đang nhìn vào mình.” Nó là tưởng tượng
lúc ban đầu, nhưng chẳng mấy chốc bạn sẽ nhận ra rằng nó không phải là tưởng tượng
- bạn chỉ vặn chìa khoá trong ổ của thực tại - nó bắt đầu xảy ra.
Lúc ban đầu, nếu bạn chạm vào
cây bằng tình yêu lớn lao, bạn biết cây không thể đáp lại được - và nếu bạn cảm
thấy đáp ứng nào đó từ cây, bạn sẽ nghĩ đó là tưởng tượng. Nó không phải vậy -
cây có đáp ứng - nhưng sẽ phải mất chút thời gian với bạn để nhận ra chân lí của
điều đó. Khi bạn yêu, cây đáp ứng bằng yêu - yêu bao giờ cũng đáp ứng bằng yêu.
Và nếu yêu không được đáp ứng bằng yêu, thế thì biết rõ tình yêu của bạn không
phải là yêu, có vậy thôi; thế thì cái gì đó khác đang che mặt nạ giả làm tình
yêu.
…chỉ thế nó mới trở thành tinh
hoả.
Sau nỗ lực được tập trung trong
một trăm ngày nó sẽ trở thành tinh hoả.
Sau một trăm ngày tự nó phát
triển giữa ánh sáng một điểm cực quang thực.
Đầu tiên nó là ánh sáng khuếch
tán, bạn chỉ cảm thấy nó rất nhẹ ở đó; lúc nó có đó và lúc nó không có đó, nó rất
mờ nhat và rất mong manh. Nhưng dần dần, dần dần nó trở thành rất được định
tâm, nó trở thành cực quang.
Thế rồi đột nhiên phát triển ra
mầm ngọc.
Thế thì, ngay chính trung tâm của
cực quanh, có mầm ngọc.
Dường như là đàn ông và đàn bà
ôm nhau và việc thụ thai xảy ra.
Và nó đích xác là vậy: người
đàn ông bên trong và người đàn bà bên trong đã ôm choàng nhau. Đó là một loại
giao hợp bên trong. Nó là Mật tông thực: phần nữ tính của bạn và phần nam tính
của bạn làm tình với nhau, và được nối với nhau, và thế rồi không có nhu cầu
cho chúng tách rời.
Với người đàn bà bên ngoài bạn
sẽ phải tách rời, bằng không nó sẽ trở nên rất xấu. Với người đàn bà bên ngoài
bạn sẽ phải tách rời, bằng không nó sẽ trở thành việc đẩy ra. Với người đàn ông
bên ngoài bạn sẽ phải tách rời - nó chỉ có thể là tạm thời, chỉ cho một khoảnh khắc
bạn có thể có thoáng nhìn về sự thống nhất - nhưng với người đàn ông bên trong
không có nhu cầu tách rời.
Vị phật sống trong trang thái cực
thích thường xuyên: người đàn bà bên trong và người đàn ông bên trong liên tục
làm tình. Bạn phải đã thấy shivalinga trong các đền Hindu; đó là biểu tượng.
Ngay dưới linga đó là yoni, phần nữ tính; nó là biểu tượng của người đàn ông và
đàn bà bên trong gặp gỡ. Nó không chỉ là biểu tượng dương vật như những người
theo Freud sẽ diễn giải nó. Nó là biểu tượng. Nó biểu tượng hoá cho tính cực
bên trong.
Và một khi gặp gỡ này đã xảy
ra, bạn được sinh ra một lần nữa. Khi Jesus nói với Nicodemus, “Chừng nào ông
chưa được sinh ra lần nữa...” đây là điều ông ấy ngụ ý. Tôi không biết điều người
Ki tô giáo nói và tôi không quan tâm nữa, nhưng đây là điều ông ấy ngụ ý. “Chừng
nào ông chưa được sinh ra lần nữa...” Đây là việc sinh ông ấy ngụ ý. Và đây là
điều người Hindu gọi là dwija, sinh hai lần: bạn đã cho bản thân mình việc sinh
ra. Nếu người đàn ông bên ngoài gặp gỡ với người đàn bà bên ngoài bạn tạo ra đứa
con, bạn sinh sản. Nếu người đàn ông bên trong gặp gỡ với người đàn bà bên
trong bạn lại tạo ra đứa trẻ, nhưng bạn là bố mẹ và bạn là đứa con. Cuộc sống mới
bắt đầu trong bạn - cuộc sống của vị phật, cuộc sống của chứng ngộ, cuộc sống của
bất tử.
Vậy thì người ta phải hoàn toàn
tĩnh lặng và chờ đợi.
Khi việc thụ thai này đã được cảm
thấy ở bên trong, khi bạn cảm thấy rằng người đàn ông bên trong đã xuyên thấu
vào người đàn bà bên trong và người đàn bà mang thai, thế thì không cái gì còn
lại ngoài việc chờ đợi - cũng như người đàn bà chờ đợi trong chín tháng. Với niềm
vui lớn, với lời cầu nguyện lớn, với hi vọng lớn, cô ấy chờ đợi. Không cái gì
khác phải được làm, không cần làm gì cả - phần làm được chấm dứt.
Phần nam là hành động. Làm luân
quang là phần nam. Một khi việc thụ thai này đã xảy ra và người đàn bà bên
trong mang thai, thế thì phần nam không cần làm việc, nó phải nghỉ ngơi. Bây giờ
mọi sự sẽ trưởng thành theo cách riêng của chúng.
Thiền là phần thứ nhất. Bây giờ
chỉ lời cầu nguyện còn lại. Do đó tôi nói với bạn rằng không có thiền bạn sẽ
không bao giờ biết lời cầu nguyện là gì. Lời cầu nguyện là dạng cao nhất của
thiền. Lời cầu nguyện như hương thơm, thiền như đoá hoa. Người ta phải đi qua
thiền.
Mọi người hỏi tôi tại sao, nếu
con đường của họ là con đường của lời cầu nguyện, họ lại được giả định làm nhiều
thiền thế ở đây trong đạo tràng của tôi. Lời cầu nguyện sẽ tới; bạn phải lát đường
cho nó tới. Bạn phải đi qua mọi loại thiền - đây là các quá trình lau sạch. Đây
là phần nam của bạn phải được thoả mãn, và thế thì phần nữ sẽ chiếm quyền sở hữu.
Bạn sẽ mang thai! Và mang thai là có tính cầu nguyện, bởi vì thế thì không cái
gì còn lại để được làm. Nỗ lực được kết thúc và bây giờ bạn là vô nỗ lực. Đây
là điều các Đạo nhân gọi là ‘vô hành động qua hành động’.
Bạn đã từng làm nhiều thực nghiệm
về việc quang trong vòng tròn, bạn đã thành công - sau nỗ lực tập trung lâu dài
cái gì đó đã kết tinh lại trong bạn, người đàn ông và người đàn bà không còn
tách rời, họ đã trở thành một, đứa con có đó - bây giờ ngoại trừ chờ đợi, không
cái gì được cần. Chờ đợi với hi vọng, chờ đợi với tin cậy. Và đây là điều lời cầu
nguyện là gì.
Giữa biến đổi nguyên thuỷ, việc
toả ra ánh sáng là điều tất định.
Và cái gì sẽ làm cho bạn tỉnh
táo rằng việc mang thai đã xảy ra? Bạn sẽ bắt đầu thấy việc toả sáng bên trong.
Bất kì khi nào bạn nhắm mắt bạn sẽ không thấy tối mà toả sáng. Và không chỉ bạn
sẽ thấy nó; những người yêu bạn, họ sẽ bắt đầu thấy hào quang quanh bạn.
Giữa biến đổi nguyên thuỷ, việc
toả ra ánh sáng là điều tất định.
Làm sao bạn biết rằng người đàn
bà bên trong mang thai? Bạn đã không thấy hào quang nào đó quanh người đàn bà
mang thai sao? Bạn đã không thấy ánh sáng nào đó tới từ mắt cô ấy, mặt cô ấy,
chính con người cô ấy sao? Nó đích xác là cùng điều đó, nhưng trên bình diện
cao hơn nhiều: khi bạn mang thai với Thượng đế bên trong bạn, bạn sẽ thấy việc
toả sáng. Bất kì khi nào bạn nhắm mắt, bạn sẽ thấy toàn ánh sáng bên trong -
ánh sáng không nguồn, tới từ không đâu cả, ánh sáng rất dịu mát, ánh trăng,
nhưng làm thích thú vô cùng, thần diệu - và những người khác yêu bạn và ở rất gần
bạn cũng bắt đầu cảm thấy nó.
Đó là lí do tại sao chúng ta vẽ
ra hào quang quanh bức tranh các thánh nhân: nó không sẵn có cho mọi người. Nếu
bạn đã thấy Christ bạn chắc đã không thấy hào quang của ông ấy... nhưng các đệ
tử của ông ấy thấy nó. Chắc chắn những người đóng đinh ông ấy không thấy hào
quang đó. Họ không thể thấy được; họ mù, họ bị đóng. Hào quang được thấy quanh
Phật... bởi các đệ tử.
Những bí mật này là sẵn có chỉ
cho những người yêu. Chúng là những bí mật thân thiết tới mức chúng không sẵn
có cho tất cả mọi người, với bất kì Tom, Dick và Harry nào. Chúng chỉ sẵn có
cho những người thân thiết, những người tới gần, gần, ngày càng gần hơn, và những
người cởi mở, mong manh.
Giữa biến đổi nguyên thuỷ, việc
toả ra ánh sáng là điều tất định. Trong thế giới vật lí là mặt trời; trong con
người, là mắt.
Và khi việc toả sáng bên trong
bắt đầu phát triển trong bạn, mắt trở nên bắt lửa, chúng có vẻ say. Có điệu vũ
trong mắt - một ánh sáng tinh tế, một phẩm chất khác toàn bộ tới với mắt. Bây
giờ mắt không chỉ nhìn mọi thứ, mà chúng chia sẻ nữa. Đạo không thể bị phân
chia nhưng nó có thể được chia sẻ, và chia sẻ Đạo là qua mắt.
Khi tôi khai tâm cho bạn vào
tính chất sannyas, tôi yêu cầu bạn nhìn vào tôi. Tôi muốn nhìn vào mắt bạn, tôi
muốn mắt tôi chìm sâu vào trong mắt bạn, có tiếp xúc ở đó, bởi vì đằng sau hai
mắt bạn là ẩn chứa con mắt thứ ba. Nếu con mắt thứ ba được tiếp xúc - và nếu bạn
cởi mở nó xảy ra trong tích tắc - thời gian không được cần tới. Nếu con mắt thứ
ba được tiếp xúc, tôi biết một đệ tử đã tới. Nếu nó không được tiếp xúc, thế
thì tôi chỉ hi vọng rằng bạn sẽ trở thành đệ tử một ngày nào đó. Trong hi vọng
đó tôi cho bạn tính chất sannyas. Nhưng đó là hi vọng; nó có thể được hoàn
thành, nó có thể không được hoàn thành - điều đó sẽ tuỳ thuộc vào cả nghìn lẻ một
thứ. Nhưng khi tôi thấy một đệ tử, khi con mắt thứ ba lập tức bắt đầu đáp ứng với
tôi, thế thì bạn đã đi tới chỗ bạn đã từng tìm và kiếm rồi. Bây giờ sẽ không có
nhu cầu đi bất kì đâu, bây giờ bạn sẽ không cần bất kì thầy nào, bất kì giáo huấn
nào - bạn đã về nhà.
Năng lượng hướng ra ngoài - chảy
xuống.
Bình thường, năng lượng tới từ
mắt chảy ra ngoài. ‘Ra ngoài’ và ‘chảy xuống’ là đồng nghĩa.
Do đó Con đường của Hoa Vàng tuỳ
thuộc toàn bộ vào pháp chảy ngược.
Bình thường năng lượng đi ra và
đi xuống. Bạn phải mang nó đi ngược lại, đi vào trong - và ‘vào trong’ là đồng
nghĩa với 'đi lên'. Một khi nó bắt đầu quay lại bạn và bạn trở thành vòng tròn
năng lượng, bạn sẽ ngạc nhiên - một chiều mới đã mở ra: bạn bắt đầu đi lên, cuộc
sống của bạn không còn theo chiều ngang. Nó đã lấy con đường mới - chiều đứng.
Thượng đế tồn tại trên đường
chiều đứng. Bạn sẽ không bắt gặp ngài trong thế giới - không phải là ngài không
có trong thế giới, nhưng chừng nào bạn chưa đi theo chiều đứng, bạn sẽ không bắt
gặp ngài. Cũng như người mù không thể thấy được ánh sáng, người theo chiều
ngang không thể thấy được Thượng đế.
Nhiều người tới tôi và nói, “Nếu
thầy chỉ cho chúng tôi Thượng đế, chúng tôi sẽ tin.” Nhưng làm sao tôi có thể
chỉ cho bạn Thượng đế được? Làm sao tôi có thể chỉ cho người mù ánh sáng chừng
nào người đó còn chưa được chuẩn bị để trải qua điều trị để cho mắt người đó mở
ra? Tôi sẽ phải chuyển bạn từ cách sống theo chiều ngang vào trong cách sống
theo chiều đứng. Đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì: cách hiện hữu theo
chiều đứng. Và một khi ánh sáng này bắt đầu chuyển lên, hoa vàng mở ra.
Đây là các biểu tượng; không có
hoa bên trong bạn đâu. ‘Hoa’ đơn giản biểu thị cho việc nở hoa, ‘vàng’ đơn giản
biểu thị cho tính sáng của nó, việc toả sáng của nó.
Luân quang không chỉ là quán tưởng.
Nhớ lấy: luân quang không chỉ
là quán tưởng. Lúc ban đầu nó có thể dường như vậy - bạn sẽ phải kiên nhẫn - chẳng
mấy chốc nó trở thành sự kiện. Nó là sự kiện, nó là sự kiện từ chính lúc ban đầu,
nhưng chỉ bởi vì bạn chưa bao giờ trong tiếp xúc với nó, lúc ban đầu nó có vẻ
như quán tưởng.
Bằng hội vào ý, người ta có thể
thăng; bằng hội vào muốn, người ta ngã.
Muốn là cái tên của Đạo đặt cho
việc di chuyển đi xuống, ra ngoài, và 'ý' là biểu tượng về Đạo cho năng lượng
đi vào trong. Cho nên đừng hiểu lầm. Với 'ý', Đạo nhân không ngụ ý cái gọi là ý
nghĩ của bạn đâu; với ‘ý’ họ ngụ ý năng lượng ý nghĩ đã được làm thuần khiết khỏi
ham muốn. Nếu nó được làm thuần khiết khỏi ham muốn và mọi ham muốn đã biến mất,
thế thì không có nhu cầu đi ra, bởi vì bạn đi ra chỉ bởi vì bạn ham muốn cái gì
đó. Bạn ham muốn nhà, bạn ham muốn tiền, bạn ham muốn quyền, bạn ham muốn người
đàn ông, người đàn bà, thế này thế nọ - thế thì bạn đi ra ngoài. Nếu không có
ham muốn, ý nghĩ không cần đi ra; nó bắt đầu quay vào trong - việc quay một
trăm tám mươi độ xảy ra.
Ý nghĩ vô ham muốn là chuyển
vào trong, ý nghĩ ham muốn là chuyển ra ngoài. Do đó mới có nhấn mạnh của mọi
chư phật vào vô ham muốn.
Khi học trò ít ý và nhiều muốn,
anh ta đi con đường của chìm ngập.
Khi một đệ tử ít chăm nom tới ý
nghĩ của mình và quá chăm nom tới ham muốn của mình, anh ta bị nhận chìm trong
thế giới.
Chỉ qua trầm tư và yên tĩnh mà
trực giác đúng nảy sinh: với điều đó pháp chảy ngược được cần tới.
Ý phải được làm thuần khiết khỏi
mọi muốn. Một khi ý được làm thuần khiết khỏi muốn nó là vô ý nghĩ. Tâm trí
không có ham muốn là vô trí. Đó là điều Patanjali gọi là samadhi, Thiền nhân gọi
nó là satori - tỏ ngộ, Đạo nhân gọi là kết tinh hoá: cân bằng của bên ngoài và bên
trong. Và không năng lượng nào bị mất; nó đi vào trong thế giới và quay lại như
chim bay trên trời trong buổi sáng, và đến tối quay về tổ.
Để năng lượng của bạn quay lại
tổ lặp đi lặp lại. Đừng để nó đi mãi không quay lại với bạn. Và bạn sẽ trở
thành kho chứa, và bạn sẽ trở thành cực kì mạnh mẽ bên trong. Chỉ trong sức mạnh
đó mà trực giác mới bắt đầu vận hành. Trong sức mạnh đó tinh hoả được sinh ra.
Trong sức mạnh đó cực quang đúng nảy sinh. Trong sức mạnh đó đột nhiên phát triển
ra mầm ngọc.
Dường như là đàn ông và đàn bà
ôm nhau và việc thụ thai xảy ra. Vậy thì người ta phải hoàn toàn tĩnh lặng và
chờ đợi.
Thiền là hoàn thành và cầu nguyện
bắt đầu.
Đem thiền tới cầu nguyện là
toàn thể công việc của Đạo.
Đủ cho hôm nay.