Chương 13. Nơi dương tính và âm tính gặp gỡ

Chương 13. Nơi dương tính và âm tính gặp gỡ

Price:

Read more

Osho - Bí mật của những bí mật (Tập 2)
Chương 13. Nơi dương tính và âm tính gặp gỡ
Ngày 8 tháng 9 năm 1978, buổi sáng tại thính đường Phật

Đạo, cái không phân chia, Đại Nhất, cho sinh ra hai nguyên lí thực tại đối lập, tối và sáng, âm và dương. Từ âm tới nguyên lí nữ tính cảm nhận; từ dương tới nguyên lí nam tính sáng tạo; từ âm tới ming, cuộc sống; từ dương, có hsing hay tính người.
Từng cá nhân đều chứa một đơn tử trung tâm, mà vào khoảnh khắc của thụ thai, phân chia thành cuộc sống và tính người, ming và hsing.
Trong sự tồn tại thân thể con người của cá nhân, chúng được biểu thị bởi hai cực khác, phần cái và phần đực. Tất cả mọi thứ trong cuộc sống của cá nhân đều có hai cực này trong xung đột, mỗi cực cố nắm quyền làm chủ.
Nếu sinh lực chảy xuống, tức là, không có ngăn trở hay cản trở chảy vào thế giới bên ngoài, phần cái chiến thắng phần đực; không Hoa Vàng nào được phát triển. Nếu sinh lực được dẫn qua quá trình 'chảy lui’, tức là, được bảo tồn, và được làm 'dâng lên' thay vì cho phép tiêu tán, phần đực đã chiến thắng. Người giữ con đường bảo tồn tất cả qua cuộc sống có thể đạt tới giai đoạn của Hoa Vàng, mà rồi giải phóng bản ngã khỏi xung đột của các cái đối lập. Và nó lại trở thành một phần của Đạo, cái không phân chia, Đại Nhất.
Ao xưa
Ếch nhảy
Tiếng nước
Đây là một trong những bài cú nổi tiếng nhất của Matsuo Basho. Nó có hương vị đặc biệt mà chỉ người thức tỉnh mới nhận biết tới. Cái hay của nó không chỉ ở thẩm mĩ mà ở tính tồn tại. Hương thơm của nó là hương của phật tính.
Đạo đơn giản nghĩa là cái đang đó, không tính ngữ, không tính từ. Đạo nghĩa là: chỉ vậy.
Ao xưa
Ếch nhảy
Tiếng nước
Bài cú không phải là thơ thường. Thơ thường là của tưởng tượng. Thơ thường là sáng tạo của tâm trí. Bài cú đơn giản phản xạ cái đang đó. Tâm thức trở thành tấm gương và phản xạ cái đang đương đầu với nó. Tấm gương vẫn còn không bị động tới bởi cái nó phản xạ.
Một người xấu đi qua trước một tấm gương - gương không trở thành xấu, gương vẫn còn trong tính y nguyên của nó. Một người đẹp đi qua, gương không trở nên đẹp. Và khi không có ai để phản xạ, gương vẫn như vậy. Phản xạ, không phản xạ, phản xạ tốt, phản xạ xấu, gương vẫn còn trinh nguyên. Tâm thức của người đã thức tỉnh cũng vậy.
Basho là đệ tử của Thiền sư, Buko. Thời gian mà bài cú hay đáng kinh ngạc này được sinh ra, ông ấy sống trong một chiếc lều nhỏ bên cạnh một ao xưa. Một hôm, sau cơn mưa ngắn, Thầy Buko tới thăm Basho và hỏi, “Hiểu của ông thế nào trong những ngày này?”
Nhớ lấy, Thầy đã không hỏi, “Tri thức của ông thế nào?” Thầy đã hỏi, “Hiểu của ông thế nào?”
Hiểu là khác toàn bộ với tri thức. Tri thức là được vay mượn, hiểu là của riêng người ta. Tri thức tới từ bên ngoài, hiểu trào lên từ bên trong. Tri thức là xấu, vì nó là gián tiếp. Và tri thức không bao giờ có thể trở thành một phần của bản thể bạn. Nó sẽ vẫn còn xa lạ, nó sẽ vẫn còn ngoại lai, nó không thể bắt rễ trong bạn được. Hiểu trưởng thành từ bạn, nó là việc nở hoa riêng của bạn. Nó là của bạn đích thực, do đó nó có cái đẹp, và nó giải thoát.
Chân lí không bao giờ có thể được vay mượn từ bất kì ai, và chân lí vay mượn không còn là chân lí. Chân lí vay mượn đã là dối trá. Khoảnh khắc chân lí được nói ra, nó trở thành dối trá. Chân lí phải được kinh nghiệm, không được nghe, không được đọc. Chân lí không chỉ là một phần của việc tích luỹ của bạn, một phần của kí ức của bạn. Chân lí phải có tính tồn tại: từng lỗ chân lông của con người bạn phải cảm thấy nó. Vâng, nó phải được cảm thấy: từng hơi thở nên tràn đầy nó. Nó phải rung động trong bạn, nó phải luân chuyển trong bạn như máu của bạn. Khi chân lí được hiểu, bạn trở thành nó.
Do đó Thầy Buko đã hỏi đệ tử của mình, “Basho, hiểu của ông là thế nào trong những ngày này?” Và đừng quên hai từ hay, ‘những ngày này’.
Chân lí bao giờ cũng phát triển. Chân lí là chuyển động. Nó không tĩnh, nó động. Nó là điệu vũ. Nó giống như cây đang lớn lên và sông đang chảy và sao đang dời. Chân lí không bao giờ đứng bất kì điểm nào, hiện tượng tĩnh tại. Nó không phải là ngưng trệ; nó là động hoàn toàn, nó là chuyển động. Để sống động nó phải chuyển động.
Chỉ chết mới là tĩnh tại, chỉ chết mới tù đọng. Do đó những người là chết có thể có vẻ sống trên bề mặt, nhưng nếu chân lí của họ không còn tăng trưởng thì họ chết - linh hồn của họ không còn tăng trưởng nữa. Chân lí không phải là ý tưởng mà là chính hiện hữu của bạn, chính linh hồn của bạn.
Do đó thầy đã hỏi, “Hiểu của ông là thế nào trong những ngày này?” Ông ấy không hỏi về quá khứ. Tri thức bao giờ cũng là về quá khứ, tưởng tượng bao giờ cũng là về tương lai. Ông ấy đang hỏi về hiện tại, ông ấy đang hỏi về cái tức khắc.
Basho đáp ứng,
Mưa đã tạnh
Rêu xanh ẩm.
Mới vài khoảnh khắc trước trời đã mưa: mưa đã tạnh, rêu xanh còn ẩm. Nó là tốt, nhưng không rất tốt. Nó đã là quá khứ. Nó không còn là tức khắc. Nó đã là kí ức, nó không còn là việc kinh nghiệm. Buko không bằng lòng - câu trả lời là tốt nhưng không tuyệt. Và Thầy không bao giờ bằng lòng chừng nào câu trả lời chưa là tuyệt đối, chừng nào câu trả lời còn chưa thực sự là như nó phải vậy - và chắc chắn không bằng lòng với tiềm năng của một người như Basho.
Bây giờ chẳng ai biết về Buko, Thầy của ông ấy. Ông ấy chỉ được biết tới bởi vì Basho. Đệ tử có tiềm năng vô hạn, Thầy không thể bằng lòng dễ dàng thế. Nhớ điều đó đi! - bạn càng có tiềm năng, bạn sẽ càng được đặt vào các nhiệm vụ khó khăn hơn. Thầy sẽ nghiêm khắc hơn với bạn. Thầy sẽ rất cứng rắn với bạn.
Câu trả lời này là tốt nếu như nó đã tới từ ai đó có tiềm năng ít hơn Basho - Thầy có thể đã gật đầu trong ưng thuận - nhưng không như vậy với Basho. Ngay cả một khe hở vài phút cũng đủ là khe hở. Mưa không còn đó, mây đã tản đi, trời đã nắng, mặt trời đang chiếu sáng khắp xung quanh, trên ao xưa, trên lều...
Thầy nói, “Nói cái gì đó thêm nữa đi!”
Và khi Thầy nói, “Nói cái gì đó thêm nữa đi,” thầy không ngụ ý nói thêm chút ít về nó, thầy không ngụ ý 'nữa' theo nghĩa số lượng. Thầy ngụ ý: nói cái gì đó sâu hơn, nói cái gì đó mạnh mẽ hơn, nói cái gì đó có tính tồn tại nhiều hơn, nói cái gì đó nhiều hơn - về tính chất!
Và khoảnh khắc đó Basho nghe tiếng động của con ếch nhảy vào ao. Ông ấy nói,
Ếch nhảy
Tiếng nước
Bây giờ, đây là Đạo: tức khắc, cái đang vậy, sống động, đập rộn ràng, chính khoảnh khắc này. Đạo không biết tới quá khứ, không biết tới tương lai. Đạo chỉ biết một loại thời gian, đó là hiện tại. Đạo chỉ biết ở đây bây giờ. Để tâm trí bạn biến mất và thế thì không có quá khứ và không có tương lai. Quá khứ và tương lai là sáng tạo của tâm trí. Trong thực tại, chỉ có hiện tại. Và khi không có quá khứ, không tương lai, làm sao bạn thậm chí có thể gọi nó là hiện tại? - bởi vì hiện tại có nghĩa chỉ trong tham chiếu tới quá khứ và tương lai. Hiện tại bị kẹp giữa quá khứ và tương lai. Nếu bạn đã lấy đi quá khứ và tương lai, hiện tại cũng biến mất.
Đó là khoảnh khắc của Đạo: khi thời gian biến mất, khi người ta ở trong tính tức khắc hoàn toàn, khi người ta hoàn toàn ở đây bây giờ, không vẩn vơ trong những bóng ma của quá khứ không trong những hình ảnh chưa sinh của tương lai. Đây là khoảnh khắc của chứng ngộ: khi thời gian không có, và khi bạn hoàn toàn ở đây và không ở chỗ nào khác. Và khi không có thời gian, không có tâm trí. Tâm trí và thời gian là đồng nghĩa. Bạn càng có nhiều tâm trí, bạn càng ý thức nhiều về thời gian. Đó là lí do tại sao ở thế giới phương Tây ý thức thời gian lớn đã nảy sinh: nó là vì việc trau dồi của tâm trí.
Đi tới những người nguyên thuỷ sống ở vùng núi non hay trong rừng rậm mà xem, đi tới các bộ lạc và không có ý thức thời gian mà xem, bởi vì tâm trí còn chưa được trau dồi. Và điều đó lại xảy ra - khi qua hiểu biết người ta bỏ mọi hoài niệm về quá khứ và mọi hư tưởng về tương lai, thời gian lại biến mất. Và với việc biến mất của thời gian, đột nhiên tâm trí không còn được tìm thấy. Và khi không có tâm trí, có im lặng. Trong im lặng đó cõi bên kia xuyên thấu vào đất, trong im lặng đó cái không biết giáng xuống trong bạn. Trong im lặng đó, có gặp gỡ với Thượng đế, trong im lặng đó, có phúc lành, ân huệ. Trong im lặng đó là Vương quốc của Thượng đế.
Basho nói,
Ếch nhảy
Tiếng nước
Đây là phát biểu của Đạo. Đây là Đạo - đơn giản, thuần khiết, trần trụi.
Với đáp ứng này Thầy vui mừng khôn xiết. Thầy bao giờ cũng vui mừng bất kì khi nào đệ tử về nhà. Vui mừng của Thầy không biết tới giới hạn nào, dường như thấy trở nên chứng ngộ lần nữa! Nhiều hoàn hảo được thêm vào cho bản thể đã hoàn hảo của thầy. Thầy không cần cái gì được thêm vào cho mình, nhưng mỗi lần một đệ tử bừng sáng trong nhận biết, trở nên bắt lửa, Thầy cảm thấy dường như thầy đã lại trở nên chứng ngộ.
Thầy vui mừng khôn xiết, và chính vui mừng của Thầy trở thành cơ hội của chứng ngộ của Basho. Thấy khuôn mặt vui mừng của Thầy, thấy hào quang của niềm vui của thầy, cái gật đầu ưng thuận của thầy - hay có thể thầy chẳng nói gì - im lặng của thầy mưa rào lên đệ tử như ân huệ, Basho đã trở nên chứng ngộ! Trở nên chứng ngộ là khoảnh khắc vĩ đại làm sao! Hàng nghìn người đã trở nên chứng ngộ trong quá khứ, nhưng cách Basho trở nên chứng ngộ đơn giản là duy nhất. Bởi vì Thầy đã vui mừng, chính vui mừng của Thầy xuyên thấu vào tim ông ấy như chiếc kiếm. Hoa mưa rào lên ông ấy, bởi vì Thầy phải đã mỉm cười... Âm nhạc không nghe thấy đã được nghe bởi vì Thầy phải đã nhìn vào ông ấy với niềm vui, với phúc lành.
Tôi không biết, nhưng Buko phải đã nhảy múa hay làm cái gì đó điên rồ kiểu như thế. Chứng ngộ của đệ tử không phải là vấn đề nhỏ.
Về sau, Basho tiếp tục trau chuốt bài cú này như kim cương. Trong cả đời mình ông ấy tiếp tục trau chuốt nó - bởi vì đây là hiện tượng hiếm hoi, bài cú nhỏ này:
Ao xưa
Ếch nhảy
Tiếng nước
Chính bởi vì điều này mà quá trình chứng ngộ riêng của ông ấy được lẩy cò. Ông ấy tiếp tục trau chuốt nó như kim cương. Ông ấy tiếp tục cắt tỉa nó và cho nó ngày cành nhiều chiều sâu hơn.
Ông ấy đã thêm: Ao xưa. Phát biểu đầu tiên chỉ là:
Ếch nhảy
Tiếng nước
Về sau ông ấy đã thêm vào: Ao xưa. Cảm giác của tôi là ở chỗ ao xưa phải đã khăng khăng để được đưa vào. Và ao xưa có mọi quyền để được đưa vào - không có ao xưa sẽ không có ếch, không có nhảy vào, không có tiếng nước - Basho bị nợ nhiều với ao xưa Ông ấy đã đưa nó vào.
Bây giờ bài cú trở thành:
Ao xưa
Ếch nhảy
Tiếng nước
Và rồi về sau nữa, ông ấy đã bỏ từ ‘nước’.
Bây giờ bài cú đã không hoàn hảo như trước, nhưng đầy đủ hơn trước. Bây giờ nó là:
Ao xưa
Ếch nhảy
Tiếng động
Nó không hoàn hảo thế như trước, nhưng nó đầy đủ hơn. Tôi ngụ ý gì khi tôi nói nó là đầy đủ hơn?
Bây giờ nó là hiện tượng tăng trưởng, nó không đặt dấu chấm hết. Trước đây đã có dấu chấm hết, nó đã là sản phẩm được hoàn thành; bạn không thể thêm được cái gì vào cho nó. Nó đã không để lại cái gì cho bạn thiền cả. Nhưng chỉ “tiếng động,” và nó mở ra cánh cửa. Không còn chấm hết thêm nữa. Nó trở thành cuộc truy tìm. Cho nên bây giờ nó đầy đủ hơn nhưng ít hoàn hảo hơn. Bây giờ nó là đầy đủ hoàn toàn, đầy đủ theo nghĩa nó đang tăng trưởng. Bây giờ nó là cây đang mọc, không thể dự đoán được. Bây giờ từng người phải thiền về nó. Và điều này trở thành một trong những việc thiền lớn lao cho người tìm kiếm, người định đi theo Basho. Bây giờ nó có cái đẹp hơn trước đây.
Bao giờ cũng nhớ, bất kì cái gì đầy đủ, bất kì cái gì tuyệt đối đầy đủ, đều mất cái gì đó từ nó - nó trở thành chết. Mọi hoạ sĩ lớn đều biết điều này. Và những bức hoạ vĩ đại nhất là những bức đã bỏ lại chút ít không đầy đủ, nét phẩy cuối cùng đã không được vẽ. Và bài thơ vĩ đại nhất là bài thơ đã bị bỏ lại không đầy đủ - để cho cánh cửa vẫn còn mở cho bạn đi vào, để cho bản thể của bạn có thể có giao cảm với thơ ca không đầy đủ, để cho bản thể bạn có thể làm đầy đủ nó, để cho nó có thể được làm đầy đủ trong sự tồn tại của bạn.
Bây giờ nó là,
Ao xưa
Ếch nhảy
Tiếng động
Rồi nữa về sau, ông ấy đã bỏ đi vài thứ nữa. Bây giờ nó trở thành,
Ao xưa
Ếch nhảy
Tõm
Bây giờ điều này lên tới cao trào: chỉ ‘Tõm!’ Điều này thực hơn - thực hơn với ếch, thực hơn với ao, thực hơn với thực tại. Thực tại biết mỗi 'tõm!' và nó đơn giản bỏ bạn ở đó - để mà tự hỏi, để truy tìm, để thiền.
Ai đó hỏi Basho, “Sao thầy đã bỏ từ ‘nước’ và chung cuộc bỏ cả từ ‘tiếng động’?”
Basho nói, “Ta muốn ông nghe nó là loại âm thanh gì. Ta không muốn nói, ta muốn ông nghe nó là loại âm thanh gì.”
Ao xưa
Ếch nhảy
Tõm!
Bạn bị bỏ lại trong một loại không gian thiền mới. Đột nhiên ao xưa trở thành một thực tại rất cận kề. Bạn có thể cảm thấy nó, nó ở đây. Và ếch nhảy vào: nó không phải là con ếch của quá khứ. Và “Tõm!” - bạn có thể nghe được nó lần nữa, nó trở thành thực tại. Đây là nghệ thuật lớn, rằng điều nghệ sĩ đã sống qua, ông ấy có thể tạo lại trong ai đó, người có tính cảm nhận, người sẵn có, người sẵn sàng đi trên cuộc hành trình thám hiểm.
Đây là con đường của mọi chư phật. Phát biểu của họ không là gì ngoài các điểm lẩy cò cho một quá trình nào đó trong bạn được gọi là thiền. Đây là cách thức của Đạo: đem bạn tới cái đang hiện hữu. Đây là cách thức của tôi nữa: để giúp bạn rơi hoàn toàn vào trong khoảnh khắc này. Khoảnh khắc này! Đây là nó!
Đạo không phải là học thuyết. Nó là con đường đặc biệt của việc trở nên nhận biết. Nó là con đường của thức tỉnh, con đường của chứng ngộ, con đường của quay về nhà. Đạo đơn giản nghĩa là ‘Con đường’. Và nhớ lấy, nó không có nghĩa đó theo nghĩa bình thường của từ này. Bất kì khi nào bạn nghe thấy từ "con đường" bạn bắt đầu nghĩ tới mục đích ở đâu đó xa xôi, về chỗ con đường dẫn bạn tới. Không. Đạo nghĩa là ‘Con đường’, nhưng không trong tham chiếu tới mục đích. Thế thì nó ngụ ý gì? Nó ngụ ý ‘cách thức mọi thứ đang vậy’. Nó đơn giản ngụ ý cách thức mọi sự là vậy, đã vậy, chỉ như thế: không cái gì phải được đạt tới, mọi thứ đều đang mưa rào lên bạn. Chỉ ở đây bây giờ và mở hội.
Định nghĩa của tôi về tôn giáo là mở hội.
Nhưng có những người không thích hiện tượng đơn giản như vậy, như Đạo: bản ngã của họ không cảm thấy bị thách thức đủ, họ bao giờ cũng quan tâm tới cách thức gian nan. Họ bao giờ cũng quan tâm tới những khó khăn. Nếu không có khó khăn, họ sẽ tạo ra chúng. Họ không thể làm được mọi thứ theo cách đơn giản. Họ gần như không có khả năng là đơn giản, và là đơn giản là cách duy nhất để hiện hữu trong Thượng đế. Thượng đế là tính đơn giản, hồn nhiên.
Thượng đế là đơn giản như bụi hồng và tiếng hót của con chim cúc cu từ rặng xoài. Thượng đế là đơn giản như lá rụng khỏi cây. Thượng đế là đơn giản như làn gió thoảng qua rặng thông cổ.
Nhưng có những người không thích Thượng đế đơn giản như vậy. Đây là những người tạo ra thượng đế học, đây là những người tạo ra suy đoán trừu tượng, khó khăn, người làm cho toàn thể mọi thứ thành khó tới mức nó trở thành gần như là không thể nào hiểu nổi. Và Thượng đế là rất đơn giản.
Ao xưa
Ếch nhảy
Tõm!
Vâng, Thượng đế giống điều đó...
Điều đó phải được ghi nhớ lặp đi lặp lại bởi bạn, bởi vì bản ngã của bạn sẽ giở thủ đoạn lên bạn. Đó là cách mọi người cứ bỏ lỡ cách thức đơn giản của Đạo. Ki tô giáo có nhiều người theo, Phật giáo có nhóm người theo lớn, Hồi giáo có nhóm người theo lớn, nhưng Đạo vẫn không phải là một giáo hội - chưa bao giờ là một giáo hội, chưa bao giờ trở thành một tổ chức. Các cá nhân đã tồn tại, các cá nhân đã theo nó, các cá nhân đã đạt tới qua nó, nhưng nó chưa bao giờ trở thành con đường của quần chúng. Tại sao? - bởi vì nó sẵn có chỉ cho những người sẵn sàng vứt bỏ các con đường của bản ngã, người sẵn sàng là đơn giản, hồn nhiên, như trẻ con.
Có một số người bao giờ cũng tìm phía khó khăn của vấn đề. Với họ giải pháp dễ dàng chưa bao giờ xuất hiện. Họ bao giờ cũng phải nghĩ về điều phức tạp nhất.
Tôi nhớ một thanh niên mới xin vào một trong những câu lạc bộ kén chọn người nhất ở Newport. Anh thanh niên khá kín đáo, có vẻ không ây ấn tượng gì mấy đã được cho biết rằng anh ta phải chơi một ván golf với các quan chức của câu lạc bộ như điều kiện tiên quyết cho việc chấp nhận anh ta.
Vào buổi chiều đã hẹn anh ta gặp họ trên điểm phát bóng thứ nhất được trang bị bằng gậy đánh bóng, một cái vồ bóng và gậy chơi bi a. Các quan chức xem xét anh ta một cách hoài nghi nhưng dẫu sao đi chăng nữa vẫn bắt đầu đánh bóng. Họ mất tinh thần khi anh thanh niên bình thản kéo đi 275 thước với chiếc gậy đánh bóng, duyên dáng uốn quanh cú đánh thứ hai tới bãi cỏ xanh bằng cái vồ và bóng lọt vào lỗ gôn hai mươi bộ bằng gậy chơi bi a.
Sau khi đánh bại hoàn toàn các quan chức bị thất bại, người xin vào lại mệt với họ tại quán rượu của câu lạc bộ. Ở đó anh ta gọi rượu Scotch và soda, và khi nó được đưa tới, đích thân anh ta trộn lẫn đồ uống bằng việc lắc lư cốc rượu đưa qua vai vào chỗ nước soda đang đợi đằng sau anh ta trên quầy rượu. Việc biểu diễn thêm này của sự phối hợp thể chất không thể tin được của anh thanh niên là quá nhiều với các quan chức câu lạc bộ.
“Anh thực là kì diệu!” họ kêu lên. “Cái gì là câu chuyện đằng sau tài năng dị thường của anh vậy?”
“Cả đời tôi,” người này giải thích, “hoạt động vật lí đủ mọi loại đã là trò chơi trẻ con với tôi. Để vượt qua cái chán mà đã nảy sinh từ việc làm chủ đơn điệu của tôi với mọi thứ, tôi thử làm gần như mọi thứ theo cách khó nhất có thể được. Do đó tôi chơi tennis bằng vợt bóng bàn, chơi bóng bàn bằng vợt tennis, vân vân.”
“Đợi một phút,” một quan chức câu lạc bộ ngắt lời. “Nếu điều đó là đúng, như anh nói, rằng anh làm mọi thứ vật lí theo cách thức khó nhất có thể được, tôi có một câu hỏi...”
“Tôi biết,” anh thanh niên nói, vừa mỉm cười. “Mọi người đều hỏi tôi cùng một điều, và tôi không bận tâm khi nói cho ông - khi đứng lên, trong cái võng.”
Đây là cách thức của bản ngã.
Đạo là đơn giản, hoàn toàn đơn giản. Bạn không phải đứng trên võng. Điều nền tảng nhất về Đạo là ở chỗ nó là trò chơi của trẻ con. Nhưng là đứa trẻ dường như là không thể được với mọi người. Ai muốn là đứa trẻ? Jesus nói, “Chừng nào ông chưa giống như trẻ nhỏ, ông sẽ không vào trong Vương quốc Thượng đế của ta.” Nhưng dường như không ai muốn là đứa trẻ; đó là chỗ khổ của chúng ta nằm ở đó.
Mọi ngày này chúng ta đều đi ngày càng sâu hơn vào trong thế giới của Đạo. Hôm nay là câu kinh cuối cùng, lưu ý kết luận của Thầy Lữ Tử. Chúng là đơn giản. Bạn chỉ phải đơn giản để hiểu chúng. Không có mấy tri thức trong chúng, nhưng chắc chắn nhiều sáng suốt. Chúng sẽ không làm cho bạn thành thông thái. Thực ra, chúng sẽ lấy đi mọi tri thức, chúng sẽ làm cho bạn thành kẻ dốt nát! Nhưng nếu một người có thể là kẻ dốt nát, có thể đủ dũng cảm để vứt đi mọi tri thức của mình và có thể sống trong trạng thái của không biết, thế thì không có rào chắn nào giữa người đó và Thượng đế, không rào chắn nào giữa người đó và sự tồn tại. Tri thức tạo ra rào chắn.
Adam đã bị đuổi ra khỏi vườn Eden bởi vì anh ta đã ăn quả của Cây Tri thức. Quả đó phải bị nôn ra. Một khi tri thức được nôn ra, bạn là sạch sẽ. Và trong tính sạch sẽ đó, mọi thứ đều sẵn có. Mọi thứ đã sẵn có rồi - chỉ bởi vì bạn không sạch và bị tọng vào bằng tri thức, bạn không thể thấy được nó.
Lời kinh:
Đạo, cái không phân chia, Đại Nhất, cho sinh ra hai nguyên lí thực tại đối lập, tối và sáng, âm và dương. Từ âm tới nguyên lí nữ tính cảm nhận; từ dương tới nguyên lí nam tính sáng tạo; từ âm tới ming, cuộc sống; từ dương, có hsing hay tính người.
Đây là phần kết luận của Bí mật của Hoa Vàng. Đây là tóm tắt của toàn thể bản luận này, để cho bạn có thể nhớ được.
Đạo, cái không phân chia, Đại Nhất, cho sinh ra hai nguyên lí thực tại đối lập…
Đầu tiên, Đạo là gì? - cái không có tên, không định tính được, đơn giản là cái đang hiện hữu. Nó chứa tất cả. Nó chứa cây và sao, nó chứa bạn và tôi và con vật và chim chóc. Nó chứa tất cả mọi thứ đang hiện hữu. Và cái đang hiện hữu đó, chứa mọi cái đã từng có, và cái đang hiện hữu đó, chứa mọi cái sẽ hiện hữu.
Đạo không thể được nói chỉ bởi vì nó chứa tất cả - và không lời nào có thể chứa được tất cả. Chính chủ định của lời là để biểu thị. Chính chủ định của lời là để phân loại. Cái bàn là cái bàn và không phải là cái ghế, và cái ghế là cái ghế mà không phải là con chó, và con chó là con chó mà không phải là con người. Lời có nghĩa chỉ bởi vì nó có biên giới xác định quanh nó: nó loại trừ mọi thứ khác bên ngoài nó, nó bao gồm chỉ cái gì đó nhỏ bé và loại trừ toàn thể sự tồn tại.
Đạo bao gồm tất cả, không loại trừ cái gì. Đó là lí do tại sao Đạo không thể được nói ra. Nó có thể được chỉ ra nhưng không thể được nói ra. Con người của Đạo có thể cho bạn hương vị của Đạo nếu bạn sẵn sàng đi vào trong người đó và để người đó tới trong bạn. Con người của Đạo có thể cho bạn thoáng nhìn, thoáng nhìn chớp loé về tính toàn bộ của sự tồn tại... nhưng bạn có thể trở nên kinh hoàng. Đó là điều đã xảy ra trong bài ca vĩ đại, Bhagavad-Gita.
Đệ tử Arjuna đã hỏi Krishna, Thầy của anh ta, bạn của anh ta, người hướng dẫn của anh ta, “Thầy nói những điều lớn lao. Thầy biện minh hay. Bằng chứng của thầy là rất thuyết phục, vậy mà hoài nghi vẫn còn dai dẳng sâu bên dưới trong tôi. Hoài nghi này là vì tôi đã không kinh nghiệm được điều thầy nói cho tôi. Tại sao thầy không cho tôi chút ít kinh nghiệm về nó? - chỉ chút ít vị trên đầu lưỡi sẽ có tác dụng. Không cần cứ biện luận về nó lâu thế, không cần tạo ra nhiều chứng minh về nó đến thế. Chỉ chút ít nếm trải và tôi sẽ được thuyết phục và hoài nghi của tôi sẽ biến mất.”
Krishna nói, “Được.”
Và thế rồi điều đó xảy ra, một trong những câu chuyện hay nhất đã từng xảy ra giữa Thầy và đệ tử: Krishna trở thành khổng lồ và Krishna trở thành vô hạn và thế giới bắt đầu quay bên trong ông ấy, và Arjuna khiếp đảm: hàng triệu cánh tay của Krishna và tất cả các vì sao và tất cả các hành tinh đều ở bên trong ông ấy, và sống và chết ở bên trong ông ấy, mọi cực gặp gỡ và hội nhập trong ông ấy - nó là mớ hỗn độn. Arjuna nghĩ anh ta phải sắp phát điên. Anh ta nhắm mắt lại trong sợ hãi, và anh ta la hét kêu lên, “Trở lại đi! Trở lại với dạnh bình thường của thầy với hai tay thôi. Lại là người bạn cũ của tôi đi. Thế này thì quá nhiều!”
Krishna trở lại và ông ấy nói, “Ta biết điều đó. Anh còn chưa sẵn sàng nếm vị của tính toàn bộ.”
Tính toàn bộ sẽ làm bạn kinh hoàng. Tính bao la cực kì của nó là tới mức, nó sẽ làm kinh hoàng bạn từ trí thông minh của bạn. Nó là vực thẳm, và bạn sẽ bắt đầu biến mất vào trong nó như bong bóng xà phòng. Nó bao la tới mức bạn sẽ mất mọi định hướng về bạn là ai.
Đó là điều đã xảy ra cho Arjuna. Và anh ta nói, “Vâng, tôi đã cảm thấy dường như tôi sắp chết, hay dường như tôi sắp điên, hay dường như tôi đã điên rồi. Cám ơn thầy đã quay lại dạng nguyên thuỷ của thầy.”
Và Krishna nói, “Đây không phải là dạng nguyên thuỷ của ta. Cái kia mới là dạng nguyên thuỷ của ta.”
Đạo là vô hạn. Đạo là tính toàn bộ. Đạo là tất cả mọi cái đang đó, do đó nó không thể được nói. Nhưng trong chỗ thân thiết sâu sắc của Thầy và đệ tử, cái gì đó về nó bắt đầu rung động. Có những khoảnh khắc khi bạn trở thành sẵn có cho cái toàn thể, khi bạn không vận hành như một thực thể tách rời, khi bạn làm mất đi ý tưởng về tách rời trong vài khoảnh khắc, khi bạn là một và được thống nhất. Khi giọt sương biến mất vào trong đại dương - cho dù một khoảnh khắc thôi - thế thì bạn biết Đạo là gì.
Cho nên Đạo không thể được nói những có thể được chỉ ra. Đó là điều tôi đã làm ở đây.
Đây không phải là trường phái triết học. Tôi không dạy bạn triết học chút nào. Đây là trường học về tính tồn tại. Tôi dạy bạn về sự tồn tại như nó vậy. Và sự tồn tại đã có đây rồi; bạn chỉ phải trở nên dũng cảm thêm chút ít để mở ra, để cho phép nó vào. Nó đang gõ cửa nhà bạn đấy!
Jesus nói, “Gõ cửa và cửa sẽ mở ra cho ông. Hỏi và nó sẽ được trao. Tìm và ông sẽ thấy.”
Tôi muốn nói chính điều đối lập lại cho bạn: Thượng đế đang gõ lên cửa nhà bạn, đã từng gõ hàng nghìn năm rồi, nghe đi! - Ngài đang gõ lên cửa đấy... mở cửa nhà bạn ra. Lắng nghe đi! - Ngài đang mời bạn ra khỏi nhà tù tự áp đặt của bạn. Ngài đang tìm bạn đấy - để cho ngài tìm bạn, giúp ngài tìm bạn! Ngài đang kiếm bạn - và bạn đang trốn chạy, và bạn đã từng trốn chạy trong nhiều kiếp rồi. Và bạn khổ, dầu vậy bạn vẫn cứ trốn chạy. Và bất kì khi nào tay Ngài chìa lại gần bạn, bạn trở nên kinh hoàng. Và tôi hiểu. Nỗi sợ này là tự nhiên. Nỗi sợ là gì? Nỗi sợ là: nếu Thượng đế hiện hữu, thế thì bạn không thể hiện hữu.
Friedrich Nietzsche đã nói, “Nếu Thượng đế hiện hữu, thế thì làm sao tôi có thể hiện hữu được? Thế thì làm sao tôi có thể có được...? Cho nên, tôi quyết định rằng không có Thượng đế; chỉ thế tôi mới có thể có.”
Và đó là cách hàng triệu người đã quyết định: họ đã phủ nhận Thượng đế để hiện hữu. Nếu không có Thượng đế, bản ngã là có thể. Nếu có Thượng đế làm sao bản ngã có thể được hỗ trợ? Bằng cái gì? Thế thì bạn không còn đó nữa, đó là nỗi sợ. Thượng đế là cái chết của bản ngã.
Đạo có thể được nếm trải, Đạo có thể được kinh nghiệm, nhưng một điều kiện phải được hoàn thành: bạn phải là đơn giản tới mức bạn không có bản ngã nào, bạn phải im lặng tới mức không có ý tưởng nào về ‘tôi’.
Đạo, cái không phân chia, Đại Nhất, cho sinh ra hai nguyên lí thực tại đối lập...
Đây là điều rất nền tảng của cách tiếp cận của Đạo nhân: rằng cái một trở thành hai - bởi vì chỉ thế thì trò chơi mới là có thể. Cái một phải trở thành hai, và cái hai phải là đối lập lẫn nhau - thế thì trò chơi bắt đầu.
Kinh sách Hindu cổ đại nói Thượng đế đã một mình và đã cảm thấy thực sự rất, rất đơn độc. Ngài quyết định tạo ra người khác. Đó là lí do tại sao người Hindu nói sự tồn tại là leela, trò chơi: Thượng đế tạo ra người khác chỉ để có vui đùa chút ít.
Đạo là một, nhưng khoảng khắc nó trở nên được biểu lộ nó phải trở thành hai. Biểu lộ phải là hai mặt, nó không thể là một được. Nó phải là hai, nó phải chẻ ra thành hai. Nó phải trở thành vật chất và tâm thức, nó phải trở thành đàn ông và đàn bà, nó phải trở thành ngày và đêm, nó phải trở thành sống và chết. Bạn sẽ thấy nguyên lí hai này ở mọi nơi. Toàn thể cuộc sống bao gồm các nguyên lí hai này, và đằng sau các nguyên lí hai này được ẩn kín cái Một. Nếu bạn tiếp tục vẫn còn được tham gia vào giữa hai nhị nguyên này và các đối lập cực, bạn sẽ vẫn còn trong thế giới. Nếu bạn thông minh, nếu bạn có chút tỉnh táo hơn, và nếu bạn bắt đầu nhìn sâu hơn, vào trong chiều sâu của mọi sự, bạn sẽ ngạc nhiên - nhưng cái đối lập này không thực sự đối lập mà là các phần bù và đằng sau cả hai là một năng lượng: cái đó là Đạo.
Đạo… cho sinh ra hai nguyên lí thực tại đối lập, tối và sáng, âm và dương. Từ âm tới nguyên lí nữ tính cảm nhận; từ dương tới nguyên lí nam tính sáng tạo; từ âm tới ming, cuộc sống; từ dương, có hsing hay tính người.
Về căn bản, các cực có thể được đặt tên là đàn ông /đàn bà: nam tính, nữ tính. Và nó gần hơn với thực tại con người chúng ta để hiểu nó theo cách đó. Chúng ta có thể gọi nó là phủ định và khẳng định, nhưng điều đó sẽ xa xôi chút ít. Gọi nó là âm và dương, Shiva và Shakti, đàn ông và đàn bà, đem nó lại rất gần với trái tim chúng ta - chúng ta biết nhị nguyên này.
Đàn ông bị hút tới đàn bà, đàn bà bị hút tới đàn ông, và vậy mà khi họ ở cùng nhau họ thường xuyên đánh nhau. Họ không thể sống tách rời và họ không thể sống cùng nhau. Hút là vô cùng, đẩy cũng thế. Khi bạn ở cùng người đàn bà của bạn hay cùng người đàn ông của bạn, bạn bắt đầu nghĩ tới cách được một mình, bạn bắt đầu nghĩ về tự do, về một mình, và cái đẹp và cái im lặng và tất cả những điều đó. Khi bạn một mình bạn đơn giản bắt đầu cảm thấy đơn độc và bạn bắt đầu khao khát về người người, và bạn bắt đầu nghĩ về những không giang đáng yêu đó, sự nồng hậu và mọi điều đó. Khi một mình bạn muốn cùng nhau, khi cùng nhau bạn muốn một mình. Quan sát điều đó đi, nó có thông điệp lớn cho bạn.
Nó đơn giản nói rằng: bạn là một nửa và người đàn bà là một nửa, cùng nhau bạn trở thành một. Nhưng thế rồi vấn đề nảy sinh. Trong khoảnh khắc đó của tính một bạn cực lạc, bạn hân hoan, nhưng thế rồi vấn đề nảy sinh: tính một này, nó là đàn ông hay đàn bà? Cái nào là nhân tố chi phối? Đó là xung đột. Đàn ông và đàn bà đều muốn là một, nhưng đàn ông muốn vẫn còn là nhân tố chi phối trong tính một đó, đàn bà phải nghe theo, qui phục. Và cùng điều đó là ham muốn từ phía người đàn bà, rằng người đàn ông phải nghe theo và qui phục. Cả hai đều muốn là một, nhưng tính một đó phải là 'của tôi'. Nếu tôi là đàn ông thế thì tính một đó phải là của đàn ông; đàn bà phải biến mất vào trong đàn ông. Nếu tôi là đàn bà thế thì nó phải là của đàn bà; đàn ông phải biến mất trong đàn bà. Do đó mới có xung đột - hút và đẩy - và toàn thể vở hài kịch và thảm kịch của cuộc sống.
Nguyên lí nữ tính là cảm nhận và nguyên lí nam tính là sáng tạo, và cả hai chỉ có thể đi cùng nhau. Tách rời, cả hai đều khổ. Thế thì đàn bà chẳng có gì để nhận và cảm thấy trống rỗng. Và nếu không có ai để nhận, tính sáng tạo của đàn ông bị mất bởi vì không có ai để ca ngợi, hứng khởi. Đàn bà cảm nhận, gây hứng khởi và giúp cho đàn ông tuôn chảy trong tính sáng tạo của anh ta. Tính sáng tạo của đàn ông giúp cho đàn bà tuôn chảy trong tính cảm nhận của cô ấy. Tính cảm nhận này của đàn bà không phải chỉ là sinh học, nó là tâm linh nữa. Đằng sau mọi nhà thơ lớn bạn sẽ thấy niềm hứng khởi của đàn bà. Đàn bà bản thân họ không có các nhà thơ lớn - họ không cần là nhà thơ lớn - nhưng không thơ ca vĩ đại nào đã bao giờ được sinh ra mà không có đàn bà. Cô ấy vận hành như ngọn đèn hải đăng. Đàn ông đã từng là những nhà thơ lớn, nhưng không có đàn bà thơ ca đơn giản chết đi và khô héo.
Tính cảm nhận và tính sáng tạo là hai cánh của một con chim. Chuyến bay này hướng tới cái không biết có thể được hoàn thành chỉ bằng cả hai cánh. Với một cánh chim không đi được đâu cả. Và nhớ, tính sáng tạo không có giá trị nhiều hơn tính cảm nhận - chúng là bình đẳng, chúng là hoàn toàn bình đẳng. Không cánh nào, dù bên phải hay trái, là lớn hơn cánh kia, không thể thế được. Chúng là bình đẳng. Chúng không tương tự nhưng chúng bình đẳng.
Bây giờ có ham muốn lớn trong trái tim đàn bà để có tính sáng tạo - với một lí do nào đó: bởi vì tính sáng tạo được ca ngợi. Giải thưởng Nobel được trao chỉ cho người sáng tạo, không trao cho người biểu lộ tính cảm nhận vô cùng. Bây giờ đây là tình huống xấu điều tạo ra ham muốn ám ảnh để có tính sáng tạo, bởi vì người cảm nhận không được ca ngợi chút nào, không được coi là có giá trị chút nào, không được nói tới chút nào. Cho nên trên khắp thế giới đàn bà muốn có tính sáng tạo, nhưng khoảnh khắc cô ấy muốn có tính sáng tạo cô ấy bắt đầu đánh mất nữ tính của cô ấy, duyên dáng của cô ấy. Cô ấy bắt đầu trở thành ngày một nam tính hơn, bởi vì tính sáng tạo là nguyên lí nam tính. Cô ấy bắt đầu trở nên ngày càng cứng rắn hơn. Cô ấy mất sự mềm mại và tròn trĩnh, bắt đầu phát triển góc cạnh, bắt đầu tranh đấu. Bạn có thể thấy việc hò hét của Phong trào Giải phóng phụ nữ - tiếng hét của họ là xấu. Và tôi biết việc tranh đấu của họ là đúng, nhưng tranh đầu không phải là cách thức của đàn bà! - chính việc tranh đấu sẽ phá huỷ tính đàn bà. Nó phải được làm theo cách khác nào đó. Thực ra, đàn ông phải tranh đấu vì bình đẳng cho đàn bà.
Những người có thể hiểu, những người có thể nghĩ, những người thông minh, nên tạo ra phong trào của đàn ông vì giải phóng phụ nữ. Họ nên tranh đấu! Đó là cảnh nô lệ bị áp đặt của họ lên đàn bà - họ phải cảm thấy phạm tội, họ phải hoàn tác lại bất kì cái gì họ đã làm. Nhưng nếu đàn bàn bắt đầu tranh đấu - và thế thì một cách tự nhiên cô ấy bắt đầu nghĩ về phải có tính sáng tạo, vẽ, múa, hát, điêu khắc, soạn nhạc - một cách rất vô ý thức cô ấy đang bắt chước đàn ông. Và nhớ lấy, đàn bà bắt chước đàn ông bao giờ cũng là đàn ông hạng hai. Điều đó là xấu và chính nỗ lực này để bình đẳng bị mất đi. Đàn bà chỉ có thể là đàn bà hạng nhất. Nếu cô ấy muốn là đàn ông, cô ấy sẽ chỉ là đàn ông hạng hai. Theo chính cùng cách này, nếu đàn ông muốn có tính cảm nhận: anh ta không thể có tính cảm nhận tự nhiên của đàn bà được. Anh ta sẽ trở thành đàn bà hạng hai. Để là hạng nhất bạn phải đi theo bản tính của bạn.
Đừng bao giờ bắt chước. Đi theo bản tính cố hữu của bạn đi, đi theo bản tính có sẵn riêng của bạn đi, bởi vì chỉ từ việc hoàn thành bản tính đó mà người ta mới đạt tới trạng thái phúc lạc, hoàn thành, mãn nguyện.
Đàn bà tạo ra cuộc sống: cuộc sống nói chung, cuộc sống như hiện tượng vũ trụ. Đàn ông, hay yếu tố nam, tạo ra bản tính con người. Đàn ông có tính đặc thù, đàn bạn có tính phổ quát. Đàn ông đi vào chi tiết mọi thứ. Đàn ông trở thành chuyên viên. Đó là lí do tại sao các lĩnh vực đàn ông chi phối tất cả đều trở thành chuyên môn sớm hay muộn. Đó là điều đang xảy ra trong khoa học: mọi thứ dần dần, dần dần trở thành chuyên môn hoá, và một nhánh mới nảy sinh, nhánh nảy ra từ nhánh. Và bây giờ toàn thể vấn đề dường như là tình huống rất ngớ ngẩn.
Đàn ông đã tạo ra nhiều tri thức và đã đi vào trong chi tiết, nhưng bây giờ không có ai làm ra cái toàn thể từ tri thức đó. Không ai biết cách tạo ra sự tổng hợp. Sự tổng hợp đó là có thể chỉ thông qua đàn bà, không thông qua đàn ông, bởi vì đàn bà là nguyên lí phổ quá hoá.
Đàn ông khảo sát tỉ mỉ, đàn bà thống nhất lại. Đó là lí do tại sao đàn bà cảm thấy gần tôn giáo hơn đàn ông, và bao giờ cũng cảm thấy gần tôn giáo hơn đàn ông. Bạn có thể đã không quan sát sự kiện này. Sự kiện nền tảng là: tôn giáo đó nghĩ dưới dạng của một, tính toàn thể, tính toàn bộ. Đó là điều Đạo là gì, hay Thượng đế, hay bất kì cái gì bạn gọi. Khoa học khảo sát tỉ mỉ và cứ chẻ nhỏ mãi và đã đạt tới điện tử, tới hạt nhỏ nhất. Đây là các cách thức đối lập cực. Tôn giáo cứ kết liên các thứ lại cùng nhau, cùng nhau, cùng nhau, và đi tới Đạo tối thượng, cái chứa đựng tất cả - nó là sự thống nhất tối thượng, và khoa học cứ chẻ ra và chẻ ra, chuyên môn hoá và chuyên môn hoá nữa. Họ nói chuyên môn hoá để biết nhiều hơn về cái ngày càng ít hơn.
Tôi đã nghe...
Đó là thế kỉ thứ hai mươi mốt, và một người đi tới bác sĩ. Ông ta có vấn đề với mắt; ông ta bắt đầu già. Và bác sĩ hỏi, “Ông có chuyện với mắt nào?”
Và ông ta nói, “Mắt phải.”
Bác sĩ nói, “Rất tiếc, ông sẽ phải đi gặp ai đó khác, vì tôi chỉ chuyên khoa cho mắt trái.”
Điều đó sẽ xảy ra. Nó đã xảy ra rồi.
Con người không còn là một khối thống nhất; có nhiều chuyên khoa thế. Không ai nghĩ về con người như một toàn thể, như tính toàn bộ. Đó là một trong những vấn đề lớn nhất mà y học đang đối diện và phải đối diện và tìm ra giải pháp - bởi vì bệnh nhân không được coi như một khối thống nhất. Nếu đầu người đó có vấn đề, thế thì đầu người đó phải được coi như một phần tách rời và chỉ cho thuốc nào đó - aspirin hay cái gì đó. Không ai bận tâm về toàn thể hệ thống - vì aspirin đầu tiên sẽ đi vào dạ dầy chứ, nó không thể đi thẳng lên đầu được. Cái gì sẽ xảy ra cho dạ dầy? - cái đó không là mối quan tâm của ai cả.
Con người là một khối thống nhất. Bạn không thể đối xử với con người như cái máy được. Nếu cái gì đó sai với xe ô tô của bạn, bạn đi tới ga ra, ông ta thay đổi bộ phận, bởi vì máy không có linh hồn - nó chỉ là tổng của các bộ phận của nó. Và linh hồn là gì? Linh hồn nghĩa là cái gì đó nhiều hơn có đó, hơn cả tổng của các bộ phận của nó: có sự thống nhất đằng sau. Y học hiện đại đang đối diện với điều đó vô cùng, và lí do là vì tất cả các khoa học này đã từng được phát triển bởi đàn ông. Tác động của đàn bà bị bỏ sót, vì đàn bà bao giờ cũng phổ quát hoá. Cô ấy nghĩ dưới dạng thống nhất, cô ấy không bao giờ nghĩ dưới dạng bộ phận.
Đàn bà chưa bao giờ có tính toán học, cô ấy không thể thế được. Toàn thể cách tiếp cận của cô ấy là nguyên khối. Đó là nghĩa của phát biểu này đã được nêu ra từ hai mươi nhăm thế kỉ trước. Nó vẫn còn đương đại.
Đạo, cái không phân chia, Đại Nhất, cho sinh ra hai nguyên lí thực tại đối lập, tối và sáng, âm và dương. Từ âm tới nguyên lí nữ tính cảm nhận; từ dương tới nguyên lí nam tính sáng tạo; từ âm tới ming, cuộc sống; từ dương, có hsing hay tính người.
Từng cá nhân đều chứa một đơn tử trung tâm, mà vào khoảnh khắc của thụ thai, phân chia thành cuộc sống và tính người, ming và hsing.
Từng cá nhân tới như một đơn vị riêng, nguyên khối, và thế rồi bị chia chẻ ra. Nó cũng giống như tia sáng đi qua lăng kính bị chia thành bẩy mầu. Quan niệm vận hành như lăng kính: một tia sáng chia thành bẩy mầu. Cái một Đạo chia ra thành hai cực đối lập: đàn ông và đàn bà. Nhớ rằng không đàn ông nào là đàn ông một mình - đàn bà có đằng sau, ẩn trong anh ta - và nó cũng vậy với đàn bà. Cả hai đều là lưỡng dục.
Nếu tâm trí có ý thức là đàn ông, thế thì vô thức là đàn bà. Nếu tâm trí có ý thức là đàn bà, thế thì vô thức là đàn ông. Nó phải là như vậy. Và ham muốn để gặp gỡ với người đàn bà hay với người đàn ông ở bên ngoài sẽ không đáp ứng được cho bạn - chừng nào bạn còn chưa biết cách đáp ứng cho người đàn ông bên trong và người đàn bà bên trong. Người đàn bà bên ngoài có thể cho bạn chỉ vài thoáng nhìn về cuộc gặp gỡ - những khoảnh khắc đẹp, nhưng với cái giá lớn lao. Và mọi người yêu đều biết rằng có, có vài khoảnh khắc cực lạc, nhưng người ta phải trả giá lớn cho chúng: người ta phải làm mất tự do của mình, người ta phải làm mất bản thể riêng của mình, và người ta phải trở nên phụ thuộc và người ta phải thoả hiệp theo cả nghìn lẻ một cách, điều gây tổn thương và vết thương. Cuộc gặp gỡ với người đàn bà bên ngoài hay người đàn ông bên ngoài sẽ chỉ là tạm thời.
Nhưng có cuộc gặp gỡ khác, và đó là một trong những thông điệp bí mật của Đạo: rằng bạn có thể tìm thấy người đàn bà bên trong của bạn - nơi ý thức và vô thức của bạn gặp gỡ, nơi ánh sáng và bóng tối của bạn gặp gỡ, nơi đất và trời của bạn gặp gỡ, nơi tích cực và tiêu cực của bạn gặp gỡ. Và một khi cuộc gặp gỡ đó đã xảy ra bên trong bạn, bạn là toàn thể. Đây là điều được gọi là con người của Đạo. Con người của Đạo không là đàn ông không là đàn bà. Người đó đã quay lại với tính một của mình. Người đó là một mình alone: all one tất cả một.
Bạn không thể gọi Lão Tử là đàn ông hay đàn bà, hay Phật là đàn ông hay đàn bà, hay Jesus là đàn ông hay đàn bà. Về mặt sinh học họ là vậy, về mặt tâm linh họ không vậy. Về mặt tâm linh họ đã đi ra ngoài. Phật không có vô thức trong ông ấy, không có phân chia. Ông ấy là không bị phân chia. Và khi bạn không bị phân chia, mọi xung đột bên trong bạn dừng lại. Bằng không bạn ở trong cuộc nội chiến thường xuyên: bạn không chỉ tranh đấu với người đàn bà bên ngoài, bạn tranh đấu liên tục với người đàn bà bên trong nữa. Và bạn biết những khoảnh khắc đó.
Một khoảnh khắc tới khi bạn muốn khóc, người đàn bà bên trong sẵn sàng chảy nước mắt, nhưng người đàn ông của bạn dừng nó lại. Người đàn ông của bạn nói, “Mình làm gì thế này, đàn ông cơ mà? Mình có điên không? Mọi người sẽ nghĩ rằng mình rất nữ tính. Chấm dứt nước mắt! Điều này không đúng cho người đàn ông như mình. Nó là được cho đàn bà, cứ để họ khóc và kêu, nhưng mình phải giữ thể diện chứ - phải cứng rắn, mạnh mẽ, không ẻo lả. Kìm nước mắt lại!” Và cuộc chiến đã bắt đầu.
Và cùng điều đó xảy ra cho đàn bà. Bạn muốn trèo cây, và điều đó hay thế, và cành cao nhất của cây đang đùa giỡn với mây. Ai mà không thích trèo? Nhưng người đàn bà bên trong của bạn nói, “Đợi đã! Điều này là được phép chỉ cho đàn ông, không cho mình. Mình là đàn bà. Mình phải nghĩ về cái gì là đúng cho đàn bà và cái gì là không đúng. Mình phải theo tập quán, phép xã giao.” Và bạn kìm nén nó.
Điều này diễn ra liên tục: đàn ông kìm nén đàn bà của mình, đàn bà kìm nén đàn ông của mình, và phần bị kìm nén bắt đầu báo thù theo cách tinh vi. Nó bắt đầu tới từ cửa sau, nó bắt đầu đầu độc bạn. Cho nên có những khoảnh khắc mà người đàn bà trở nên rất cứng rắn, độc ác, chì chiết, tranh đấu, xấu xí: đó là người đàn ông đang báo thù. Trèo lên cây đáng phải là hay, nhưng điều đó bạn đã phủ nhận. Bây giờ người đàn ông tới qua cửa sau và bạn bắt đầu kêu la chồng của bạn hay con của bạn, và bạn bắt đầu ném các thứ. Bây giờ điều này là xấu, đây là bệnh hoạn. Khóc là tốt. Nước mắt là hay bởi vì chúng là một phần của cuộc sống. Khóc là tốt, không cần che giấu những giọt nước mắt đó. Nếu bạn che giấu nước mắt của bạn, bạn sẽ không có khả năng cười nữa. Bạn bao giờ cũng sẽ sợ sệt - nếu bạn cười quá nhiều, bạn có thể cảm thấy thảnh thơi với tiếng cười tới mức nước mắt bị kìm nén có thể bắt đầu kéo tới.
Nietzsche đã nói, “Tôi cười chỉ để giữ cho nước mắt tôi được giấu kín, bởi vì tôi sợ nếu tôi không cười tôi có thể bắt đầu khóc.”
Bây giờ đây là một khía cạnh. Người ta có thể liên tục mỉm cười, đây không phải là tiếng cười thực. Người ta có thể liên tục mỉm cười - đây là ngoại giao - để cho không ai có thể thấy nước mắt trào ra từ mắt bạn. Mọi người trở nên bị thu hút vào nụ cười của bạn và không nhìn vào mắt bạn. Đây là một cách. Cách khác là giữ bộ mặt rất cứng rắn - thậm chí không cười, thậm chí không mỉm cười. Để mọi người biết rằng bạn là con người thép. Đó là nghĩa của từ ‘stalin’: con người thép. Người ta nói rằng Stalin không bao giờ quen cười. Làm sao ông ta có thể cười được? - một người thép. Người thép không thể cười được.
Nhưng điều này là xấu, điều này đang trở thành máy móc. Đây là mất tính người. Hoặc người ta trở thành giả, rởm, hoặc người ta trở thành rất cứng rắn, phải phát triển vỏ cứng để giữ bản thân người ta trong việc kiểm soát thường xuyên.
Đạo nói không cần phủ nhận cực đối lập của bản thể bạn. Chấp nhận nó đi, nó là bạn đấy! Cả hai tia sáng này đều là bạn cả. Để cho chúng gặp gỡ và hội nhập! Để cho chúng nhảy múa cùng nhau! Để cho chúng trở thành một sâu sắc tới mức lần nữa bạn lại có thể có cái nhìn về một - Đạo, Đại Nhất, không phân chia.
Trong sự tồn tại thân thể con người của cá nhân, chúng được biểu thị bởi hai cực khác, phần cái và phần đực. Tất cả mọi thứ trong cuộc sống của cá nhân đều có hai cực này trong xung đột, mỗi cực cố nắm quyền làm chủ.
Vứt bỏ tranh đấu để làm chủ đi! Đó là chính trị bên trong của bạn. Cả hai là tương đương và không ai đã bao giờ có thể là chủ. Cả hai đều được cần và được cần ngang nhau. Chấp nhận cả hai đi - mặc dầu điều đó rất khó, về logic là rất khó chấp nhận cả hai, bởi vì chúng là đối lập đối xứng. Nhưng logic bản thân nó không đúng cho cuộc sống. Đúng hơn cho cuộc sống là ở điều được biết tới là biện chứng.
Logic không đúng cho cuộc sống. Logic là tuyến tính. Nó không chứa cái đối lập. Đạo nói đối lập bao giờ cũng có đó, chạy song song với nó. Quá trình này không logic mà biện chứng. Chính đề bị đối lập bởi phản đề: đàn ông bị đối lập bởi đàn bà, và từ đối lập này, từ xung đột này, từ thách thức này, năng lượng được thoát ra. Và năng lượng đó có thể hoặc bị tiêu tán - nếu bạn ngu xuẩn, hay có thể được tích luỹ - nếu bạn khôn ngoan. Nếu bị tiêu tán bạn sẽ vẫn còn trong xung đột thường xuyên, cuộc nội chiến. Cuộc sống của bạn sẽ trở thành phân liệt. Hay, nếu bạn khôn ngoan, thông minh, và bạn biết cách bao gồm các đối lập vào cùng nhau trong việc ôm ấp thân thiết sâu sắc, thế thì chính đề được đối lập bởi phản đề sẽ tạo ra một hiện tượng mới trong bản thể bạn: sự tổng hợp. Trên bình diện cao hơn bạn sẽ vươn lên, theo cách sâu sắc hơn bạn sẽ được thống nhất. Và thế thì lần nữa việc tổng hợp vận hành như chính đề, tạo ra phản đề của nó, và lần nữa, trên bình diện cao hơn, lại tổng hợp. Nó cứ diễn ra mãi mãi, sóng tiếp sóng, ngày càng cao hơn. Có những bình diện tiếp bình diện, và người ta có thể liên tục đạt tới. Bình diện tối thượng là sự tổng hợp toàn bộ của cuộc sống của bạn: mọi xung đột biến mất - nó không bị bỏ đi, nhưng biến mất theo cách riêng của nó.
Đây là Đạo, Đạo, cái không phân chia, Đại Nhất.
Nếu sinh lực chảy xuống, tức là, không có ngăn trở hay cản trở chảy vào thế giới bên ngoài, phần cái chiến thắng phần đực; không Hoa Vàng nào được phát triển.
Nếu năng lượng chảy xuống và ra ngoài, năng lượng của bạn trở thành sinh sản, sinh sản theo dục. Một hiện tượng lớn lao! Đó là cách bạn được sinh ra, đó là cách mọi người được sinh ra - một Phật, một Jesus, một Krishna. Nếu năng lượng chảy xuống, nó tạo ra người mới, hình dạng mới cho Thượng đế hiện thân. Nhưng Hoa Vàng không nở. Bạn sinh sản ra ai đó khác - đứa trẻ, đứa trẻ đẹp: cuộc sống tiếp tục, cuộc sống liên tục chuyển động, vẫn còn tuôn chảy, nhưng Hoa Vàng không thể nở được theo cách này.
Hoa Vàng nở ra thế nào?
Nếu sinh lực được dẫn qua quá trình 'chảy lui’, tức là, được bảo tồn, và được làm 'dâng lên' thay vì cho phép tiêu tán, phần đực đã chiến thắng.
Đây là hai khả năng: năng lượng chảy xuống trở thành tính dục, năng lượng chảy lên trở thành tâm linh. Năng lượng chảy xuống là khả năng sinh sản, năng lượng chảy lên là khả năng sáng tạo. Năng lượng chảy xuống tạo ra cuộc sống mới, năng lượng chảy lên cho bạn việc sinh thành mới. Đó là điều Jesus ngụ ý khi ông ấy nói, “Chừng nào ông chưa được sinh ra lần nữa” - không từ bố và mẹ, nhưng bởi chuyển động đi lên riêng của bạn - chừng nào bạn chưa trở thành một dwija, người được sinh ra hai lần “ông sẽ không vào trong Vương quốc Thượng đế của ta.”
Hoa Vàng đang chờ đợi ở đỉnh cao nhất của bản thể bạn. Trong bản đồ yoga nó được gọi là sahasrar, hoa sen một nghìn cánh. Nó là luân xa thứ bẩy - trong đầu bạn. Luân xa thấp nhất là luân dục, muladhar, và luân xa cao nhất là luân xa thứ bẩy, sahasrar. Từ luân xa thấp nhất, năng lượng chuyển xuống, tạo ra cuộc sống mới. Nếu năng lượng được bảo toàn, được giúp di chuyển lên trên, một ngày nào đó nó đạt tới sahasrar - và Hoa Vàng nở ra. Tất nhiên, nó cần năng lượng. Nó có đó chỉ như một tiềm năng, như một khả năng. Chừng nào năng lượng chưa trở thành sẵn có cho nó, nó sẽ không trở thành thực tại.
Điều đó giống như khi bạn không tưới nước cho cây: cây chờ đợi, nước không tới. Nhựa xanh không chảy lên, làm sao nó nở thành hoa nghìn lẻ một cánh được? - không thể được. Nó sẽ vẫn còn buồn, nó sẽ gần như vẫn còn chết. Đó sẽ là tự tử chậm. Dần dần lá cũng sẽ héo đi, dần dần cành sẽ chết, và chung cuộc, rễ chết. Nó cần luồng năng lượng đi lên thường xuyên.
Cũng như nhựa xanh di chuyển trong cây, người cũng là cây. Và đây không phải là biểu tượng mới mà tôi đang dùng đâu - về người như cây - nó là một trong những biểu tượng cổ đại nhất. Nó đã được dùng trong các trường phái huyền môn Do Thái: nó được gọi là Cây Cuộc sống. Cũng như Phật giáo đã đạt tới cao trào của nó trong Thiền, và Hồi giáo trong Sufi giáo, Do Thái giáo đã đạt tới đỉnh tối thượng của nó trong Kabbala. Kabbala nói rằng người là cây, và nó cần năng lượng lớn để hoa bừng nở ra.
Nhưng nhớ lấy, bảo tồn năng lượng không có nghĩa là kìm nén năng lượng. Đó là chỗ nhiều người trở nên bị lầm lạc. Bảo tồn năng lượng không có nghĩa là kìm nén. Các quá trình này là tuyệt đối khác nhau.
Kìm nén nghĩa là bạn liên tục kìm lại ở trung tâm thấp nhất và nếu nó trở thành quá nhiều ở trung tâm thấp nhât nó sẽ tạo ra tính dục hư hỏng. Nếu bạn không cho phép nó có buông bỏ tự nhiên và năng lượng tích luỹ ở trung tâm thấp nhất quá nhiều, nó sẽ tìm cách nào đó này khác. Nó có thể trở nên hư hỏng, nó sẽ trở nên suy đồi! Nó sẽ tạo ra bệnh hoạn. Hỏi các nhà tâm thần, các nhà tâm lí, các nhà phân tâm mà xem - họ nói: “Trong một trăm phần trăm, chín mươi nhăm phần trăm các trường hợp tâm lí đều là vì dục tính. Đâu đó này khác, dục có tham gia vào.” Đây là con số quá lớn, chín mươi nhăm phần trăm. Và những người chưa bao giờ đi tới các nhà tâm thần và nhà phân tâm không ở vị thế tốt hơn - mọi người đều bị kìm nén.
Kìm nén không phải là biến đổi. Để điều đó được hiểu một lần cho tất cả: kìm nén không bao giờ có thể trở thành biến đổi. Thế thì biến đổi là gì? Bảo tồn năng lượng là gì? Bảo tồn năng lượng là quá trình có tính thiền. Nó không có tính đạo đức.
Tôi sẽ gợi ý một phương pháp nhỏ cho bạn mà sẽ giúp đỡ nhiều lắm. Nó đã từng được các Đạo sĩ dùng trong nhiều thế kỉ. Nó được truyền từ các Thầy cho đệ tử, đó là lí do tại sao nó đã không được viết trong cuốn sách này. Nhưng bây giờ thời gian đã tới mà nó nên được cho, bởi vì bây giờ hàng triệu người đang làm việc trên việc tìm kiếm tâm linh của họ qua nhiều sách vở. Các Thầy không sẵn có như thế nữa.
Đây là phương pháp đơn giản để biến đổi năng lượng của bạn và đưa nó đi lên. Và bao giờ cũng nhớ, các phương pháp của Đạo sĩ là rất đơn giản, cho nên đừng nghĩ, “Làm sao một điều đơn giản thế lại có tầm quan trọng lớn thế?” Thực hành nó đi, thực nghiệm với nó đi và bạn sẽ biết.
Quá trình này là:
Ít nhất hai lần một ngày - thời gian tốt nhất là sáng sớm, ngay trước khi bạn ra khỏi giường. Khoảnh khắc bạn cảm thấy bạn tỉnh táo, thức dậy, làm nó trong hai mươi phút. Làm nó là việc đầu tiên trong buổi sáng! - đừng ra khỏi giường. Làm nó ở đó, ngay chỗ đó, ngay lập tức! - bởi vì khi bạn mới ra khỏi giấc ngủ bạn rất rất tinh tế, cảm nhận. Khi bạn mới ra khỏi giấc ngủ, bạn rất tươi tắn, và tác động sẽ đi rất sâu. Khi bạn mới ra khỏi giấc ngủ bạn còn ít trong tâm trí hơn bao giờ. Do đó các khe hở nào đó có đó mà qua đó phương pháp này sẽ thấm vào cốt lõi bên trong nhất của bạn. Và sáng sớm, khi bạn đang thức dậy, và khi toàn thể trái đất đang thức dậy, có con sóng lớn của năng lượng thức tỉnh khắp trên thế giới. Dùng con sóng đó đi, đừng bỏ lỡ cơ hội đó.
Mọi tôn giáo cổ đại thường quen cầu nguyện vào buổi sáng khi mặt trời mọc, bởi vì việc mọc của mặt trời là việc vươn dậy của mọi năng lượng trong sự tồn tại. Trong khoảnh khắc đó bạn có thể đơn giản cưỡi lên sóng năng lượng; điều đó sẽ dễ dàng hơn. Đến tối sẽ khó khăn, năng lượng sẽ tụt xuống. Thế thì bạn sẽ tranh đấu lại với dòng chảy, buổi sáng bạn sẽ đi cùng với dòng chảy.
Cho nên thời gian tốt nhất là vào sáng sớm, ngay lập tức, ngay khi bạn còn nửa ngủ, nửa thức. Và quá trình này đơn giản thế. Nó không cần tư thế nào, không yogasana, không việc tắm nào được cần, chẳng cái gì cả.
Bạn đơn giản nằm ra, như bạn đang nằm trên giường, trên lưng. Giữ cho mắt nhắm.
Khi bạn thở vào, chỉ quán tưởng ánh sáng lớn đi từ đầu bạn vào thân bạn, dường như mặt trời đã mọc chỉ ngay gần đầu bạn - ánh sáng vàng đổ vào trong đầu bạn. Bạn chỉ là hổng hoác và ánh sáng vàng đổ vào đầu bạn, và đi vào, đi vào, vào sâu, vào sâu, và đi ra qua ngón chân bạn. Khi bạn thở vào, làm điều đó cùng với quán tưởng này.
Và khi bạn thở ra, quán tưởng điều khác: bóng tối đi vào qua ngón chân, dòng sông tối lớn đi vào qua ngón chân bạn, đi lên, và đi ra qua đầu bạn. Làm chậm, thở sâu để cho bạn có thể quán tưởng được. Làm rất chậm. Và chỉ ra khỏi giấc ngủ bạn có thể có hơi thở rất sâu và chậm bởi vì thân thể được nghỉ ngơi, thảnh thơi.
Để tôi nhắc lại: thở vào, để ánh sáng vàng đi vào trong bạn qua đầu, bởi vì đó là chỗ Hoa Vàng đang đợi. Ánh sáng vàng đó sẽ giúp đỡ. Nó sẽ lau sạch toàn thân bạn và sẽ làm cho thân thể đầy tính sáng tạo. Đây là năng lượng nam.
Thế rồi khi bạn thở ra, để bóng tối, tối nhất mà bạn có thể quan niệm, như đêm tối, như dòng sông, đi vào bạn từ ngón chân đi ngược lên - đây là năng lượng nữ tính: nó sẽ làm giảm đau cho, nó sẽ làm cho bạn cảm nhận, nó sẽ làm bình thản bạn, nó sẽ cho bạn nghỉ ngơi - và để nó đi ra khỏi đầu bạn. Thế rồi thở ra lần nữa, và ánh sáng vàng đi vào.
Làm nó trong hai mươi phút, sáng sớm.
Và thế rồi thời gian tốt nhất lần thứ hai là khi bạn sắp đi ngủ, trong đêm.
Nằm ra trên giường, thảnh thơi trong vài phút. Khi bạn bắt đầu cảm thấy rằng bây giờ bạn lang thang giữa ngủ và thức, ở chỗ giữa đó, bắt đầu quá trình này lần nữa, và tiếp tục trong hai mươi phút. Nếu bạn rơi vào giấc ngủ vẫn đang làm nó, điều đó là tốt nhất, bởi vì tác động sẽ vẫn còn trong tiềm thức và sẽ liên tục làm việc.
Và sau một thời kì ba tháng bạn sẽ ngạc nhiên: năng lượng mà đã thường xuyên tụ tập ở muladhar, ở trung tâm thấp nhất, trung tâm dục, không còn tụ tập ở đó nữa. Nó đang đi lên.
Mới hôm nọ ai đó đã hỏi một câu hỏi. Người đó nói rằng người đó đã thấy những người đàn bà đẹp nhất quanh đây và rằng người đó chưa bao giờ thấy ở đâu khác, nhưng họ không gợi tình.
Tại sao nó lại như vậy? Nó là vậy, quan sát của người đó là đúng. Nếu bạn thiền sâu bạn sẽ trở nên không gợi tình. Bạn sẽ có loại cái đẹp khác, nhưng nó sẽ không gợi tình. Nó sẽ bắt đầu có hương vị của tâm linh. Nó sẽ bắt đầu có sự tinh tế của duyên dáng, không thô thiển của tính dục.
Dục là thô vì nó là bậc thang thấp nhất của chiếc thang của bạn. Khi năng lượng đi lên, một loại cái đẹp và duyên dáng khác toàn bộ nảy sinh trong bạn, chính là điều thiêng liêng. Bạn trở nên ngày càng ít thân thể hơn và ngày càng nhiều tâm linh hơn. Nếu bạn làm phương pháp đơn giản này trong ba tháng, bạn sẽ ngạc nhiên: không có nhu cầu kìm nén, biến đổi đã bắt đầu xảy ra.
Người giữ con đường bảo tồn tất cả qua cuộc sống có thể đạt tới giai đoạn của Hoa Vàng…
Và nếu bạn có thể cứ làm điều này cả đời bạn, một ngày nào đó nó sẽ xảy ra.
Thầy Lữ Tử nói “cả đời ông” để cho bạn vẫn còn kiên nhẫn. Nó có thể xảy ra bất kì ngày nào, nó có thể xảy ra hôm nay, hay ngày mai, hay ngày kia. Điều đó tuỳ vào sự mạnh mẽ thế nào, sự chân thành thế nào bạn đem vào cho nó, với niềm khao khát nào, với tính toàn bộ nào bạn đi vào trong nó. Và cái ngày Hoa Vàng nở ra trong bạn là ngày của phật tính. Bạn đã đạt tới kho báu lớn nhất có đó.
Người giữ con đường bảo tồn tất cả qua cuộc sống có thể đạt tới giai đoạn của Hoa Vàng, mà rồi giải phóng bản ngã khỏi xung đột của các cái đối lập. và nó lại trở thành một phần của Đạo, cái không phân chia, Đại Nhất.
Từ Đạo tới Đạo, từ Một tới Một - như Plotinus nói, “Chuyến bay của một mình tới một mình.”

Ads Belove Post