Chương 6. Lối cụt hiện sinh

Chương 6. Lối cụt hiện sinh

Price:

Read more

Yoga: Alpha và Omega (Tập 4)
Chương 6. Lối cụt hiện sinh

Câu hỏi thứ nhất:
Patanjali nói, 'Không níu bám cuộc sống,' và điều này là dễ hiểu và tuân theo. Nhưng ông ấy cũng nói, 'Không thèm khát cuộc sống.' Chẳng phải chúng tôi đang tận hưởng trong hiện tại mọi cái mà tự nhiên phải cung cấp cho chúng tôi đó sao: thức ăn, tình yêu, dục v.v.? Và nếu điều này là như vậy, chẳng phải nó là thèm khát cuộc sống đó sao?
Patanjali nói rằng thèm khát cuộc sống là rào chắn, rào chắn cho việc tận hưởng cuộc sống, rào chắn cho việc thực sự sống động, bởi vì thèm khát bao giờ cũng là vì tương lai; nó chưa bao giờ vì hiện tại. Ông ấy không chống lại tận hưởng. Khi bạn ở trong khoảnh khắc tận hưởng cái gì đó, không có thèm khát trong nó. Thèm khát là khao khát về tương lai, và điều này phải được hiểu.
Những người không tận hưởng cuộc sống của họ trong hiện tại đều có thèm khát vì sống trong tương lai. Thèm khát vì sống bao giờ cũng ở trong tương lai. Nó là việc trì hoãn. Họ đang nói, 'Chúng tôi không thể tận hưởng được hôm nay cho nên chúng tôi sẽ tận hưởng ngày mai.' Họ đang nói, 'Ngay khoảnh khắc này chúng tôi không thể mở hội được, cho nên để có ngày mai đi để cho chúng tôi có thể mở hội.'
Tương lai nảy sinh từ khổ của bạn, không từ mở hội của bạn. Người mở hội thực sự không có tương lai; người đó sống khoảnh khắc này, người đó sống nó một cách toàn bộ. Từ việc sống toàn bộ đó nảy sinh khoảnh khắc tiếp, nhưng nó không từ thèm khát nào. Tất nhiên, khi bắt nguồn từ mở hội khoảnh khắc tiếp nảy sinh, nó có nhiều năng lực hơn để ban ân huệ cho bạn. Khi bắt nguồn từ mở hội tương lai nảy sinh, nó cứ trở nên ngày càng giầu có hơn. Một khoảnh khắc tới khi khoảnh khắc này là toàn bộ, toàn thể tới mức thời gian hoàn toàn biến mất.
Thời gian là nhu cầu của tâm trí khổ. Thời gian là sáng tạo của khổ. Nếu bạn hạnh phúc không có thời gian - thời gian biến mất.
Quan sát nó, từ chiều khác: bạn có quan sát rằng bất kì khi nào bạn trong khổ, thời gian chuyển rất chậm không? Ai đó sắp chết, ai đó bạn yêu, ai đó bạn muốn được sống, và bạn đang ngồi bên cạnh. Cả đêm bạn ngồi bên cạnh giường và đêm có vẻ dường như nó là vĩnh hằng. Dường như nó không chấm dứt chút nào; nó cứ tiếp diễn mãi và mãi và mãi. Đồng hồ trên tường dường như chuyển rất, rất chậm. Trong khổ, thời gian chuyển chậm chạp. Khi bạn hạnh phúc - bạn ở cùng người yêu, bạn của bạn, bạn đang ấp ủ khoảnh khắc này - thời gian đi nhanh. Cả đêm đã trôi qua và dường như là nó chỉ mới vài khoảnh khắc hay vài phút. Tại sao điều này xảy ra? - bởi vì đồng hồ trên tường không bận tâm về liệu bạn hạnh phúc hay bất hạnh; nó di chuyển theo cách riêng của nó. Nó không bao giờ đi chậm, không bao giờ đi nhanh cùng tâm trạng của bạn. Nó bao giờ cũng di chuyển theo cùng nhịp, nhưng diễn giải của bạn lại khác. Trong khổ thời gian trở thành lớn hơn, trong hạnh phúc thời gian trở thành nhỏ hơn. Khi ai đó ở trong tâm trạng phúc lạc thời gian đơn giản biến mất.
Ki tô giáo nói rằng khi bạn bị tống vào địa ngục, địa ngục sẽ là vĩnh hằng, không bao giờ chấm dứt. Bertrand Russell đã viết một cuốn sách, Tại sao tôi không là người Ki tô giáo - ông ấy cho nhiều lí do. Một trong chúng là thế này: ‘Bất kì tội nào tôi đã phạm phải, không thể nghĩ được rằng trừng phạt vĩnh hằng có thể là công bằng. Tôi có thể đã phạm phải nhiều tội lỗi. Ông tống tôi vào địa ngục trong năm mươi năm, một trăm năm, năm mươi kiếp, một trăm kiếp, một nghìn kiếp, nhưng trừng phạt vĩnh hằng không thể là công bằng.' Trừng phạt vĩnh hằng dường như đơn giản là bất công, và Ki tô giáo tin vào chỉ một kiếp sống. Làm sao một người có thể phạm phải nhiều tội thế trong một kiếp, một kiếp chỉ sáu mươi hay bẩy mươi năm, vậy mà người đó trở thành xứng đáng bị trừng phạt tới vĩnh hằng sao? Điều đó có vẻ đơn giản ngớ ngẩn! Russell nói, 'Bất kì tội lỗi nào tôi đã phạm phải và bất kì cái gì tôi đã từng nghĩ phạm phải nhưng còn chưa phạm; nếu tôi thú nhận mọi tội của tôi, đã phạm, chưa phạm, tưởng tượng, mơ, thế nữa phán xét nghiêm khắc nhất cũng không thể tống tôi vào ngục quá năm năm.'
Và ông ấy đúng, nhưng ông ấy bỏ lỡ vấn đề. Các nhà thượng đế học Ki tô giáo đã không có khả năng trả lời. Địa ngục là vĩnh hằng không phải bởi vì nó là vĩnh hằng, nhưng bởi vì nó là khổ lớn nhất - thời gian không chuyển động. Dường như nó là vĩnh hằng. Nếu trong phúc lạc thời gian biến mất, thế thì trong khổ sâu sắc nhất, chính là địa ngục, thời gian tiếp tục chậm chạp, cứ dường như không chuyển chút nào. Một khoảnh khắc của địa ngục là vĩnh hằng. Với bạn nó sẽ dường như như là không chấm dứt, không kết thúc.
Lí thuyết về địa ngục vĩnh hằng là hay, rất tâm lí. Nó đơn giản chỉ ra rằng thời gian tuỳ thuộc vào tâm trí; thời gian là hiện tượng hướng theo tâm trí. Bạn ở trong khổ, có thời gian; bạn hạnh phúc, không có thời gian. Thèm khát sống là thèm khát vì nhiều thời gian hơn. Nó chỉ ra rằng bất kì cái gì bạn đã thu được đều không đủ, bạn chưa được thoả mãn. ‘Cho tôi thêm thời gian để cho tôi có thể được thoả mãn đi. Cho tôi thêm cuộc sống, thêm tương lai, thêm không gian để di chuyển, bởi vì mọi ham muốn của tôi vẫn chưa được đáp ứng.' Đó là điều một người đang khao khát vì cuộc sống cứ cầu xin, 'Lạy trời, xin trời cho thêm thời gian, bởi vì mọi ham muốn của con vẫn còn đó. Không cái gì đã là việc hoàn thành, con vẫn không được mãn nguyện, con không được thoả mãn và thời gian trôi đi nhanh quá. Xin cho con thêm thời gian.' Đây là nghĩa của thèm khát sống: thèm khát vì nhiều thời gian hơn.
Bạn ngụ ý gì bởi sống? - sống nghĩa là nhiều thời gian hơn trong tương lai. Bạn ngụ ý gì bởi chết? - chết nghĩa là không tương lai. Nếu chết tới ngay bây giờ, tương lai chấm dứt, thời gian chấm dứt. Đó là lí do tại sao bạn sợ chết, bởi vì nó sẽ không cho bạn không gian và mọi ham muốn của bạn không được hoàn thành. Patanjali không chống lại sống. Thực ra, bởi vì ông ấy không chống lại sống, ông ấy chống lại thèm khát sống. Nếu bạn sống cuộc sống tới tính toàn bộ của nó, tận hưởng nó tới khả năng sâu nhất, cho phép nó xảy ra, thế thì sẽ không có thèm khát sống.
Nhạy cảm hơn, sống động, nhận biết, và thế thì bạn sẽ không khao khát vì nhiều thời gian hơn. Thực ra, với người được thoả mãn với sống, chết có vẻ như nghỉ ngơi, thảnh thơi lớn lao, không phải là chấm dứt sống. Người đó không sợ nó, người đó đón chào nó; cuộc sống phong phú đầy đủ được sống, thế rồi chết tới trong đêm, như ban đêm thôi. Cả ngày bạn làm việc, bây giờ bạn chuẩn bị giường và đi nghỉ.
Có những người sợ đêm. Tôi thường ở Calcutta với một người rất giầu, người sợ đêm như mọi người sợ chết. Ông ấy không thể ngủ được, và ông ấy không thể ngủ được bởi vì ông ấy đã nghỉ cả ngày. Thế thì làm sao ông ấy có thể mong đợi ngủ được? Ông ấy giầu, ông ấy có mọi thứ, cho nên ông ấy không làm gì cả. Chỉ người nghèo mới bước đi trên chân họ, chỉ người nghèo mới làm mọi thứ.
Ở đâu đó, Camus viết rằng một thời gian sẽ tới trong tương lai khi, thực sự, mọi người sẽ giầu tới mức họ thậm chí sẽ không yêu. Họ sẽ phái người hầu của họ đi làm điều đó. Thực ra người giầu không nên có yêu. Sao bận tâm về toàn thể nỗ lực này? - bạn có thể phái người hầu đi. Đó là điều người giầu đang làm: người hầu phải được phái đi sống cuộc sống, còn họ nghỉ ngơi.
Khi bạn nghỉ ngơi cả ngày, làm sao bạn có thể ngủ được trong đêm? Nhu cầu không được tạo ra. Người làm việc cả ngày, sống, và đến lúc tối người đó sẵn sàng rơi vào trong quên lãng, trong bóng tối. Cùng điều đó xảy ra nếu bạn đã sống cuộc sống thực, cuộc sống đích thực. Nếu bạn đã thực sự sống nó, chết là nghỉ ngơi. Tối tới, đêm buông xuống, và bạn sẵn sàng; bạn nằm ra và chờ đợi. Khi bạn sống đúng bạn không hỏi thêm cuộc sống bởi vì nhiều hơn đã có đó rồi, nhiều hơn bạn có thể hỏi xin đã có đó rồi, nhiều hơn bạn có thể tưởng tượng đã có được trao cho bạn rồi. Nếu bạn sống mọi khoảnh khắc tới sự mãnh liệt toàn bộ của nó, bạn bao giờ cũng sẵn sàng chết.
Nếu chết tới ngay bây giờ với tôi, tôi sẵn sàng, vì không cái gì là không đầy đủ. Tôi đã không trì hoãn bất kì cái gì. Tôi đã tắm mọi sáng và tận hưởng nó. Tôi đã không trì hoãn bất kì cái gì chút nào cho tương lai, cho nên nếu chết tới không có vấn đề gì. Chết có thể tới và đem tôi đi ngay bây giờ. Thậm chí sẽ không có một hơi chút ý tưởng về tương lai bởi vì không cái gì là không đầy đủ.
Còn bạn thì sao? - mọi thứ đều không đầy đủ. Ngay cả tắm sáng bạn cũng không thể tắm cho thoả thích vì bạn phải tới nghe tôi; bạn bỏ lỡ nó. Bạn đi theo tương lai và thế thì bạn cứ bỏ lỡ. Nếu việc bỏ lỡ này trở thành thói quen, và nó trở thành thói quen thật, thế thì bạn sẽ bỏ lỡ việc nói của tôi vì bạn là cùng người đã bỏ lỡ việc tắm sáng, người đã bỏ lỡ trà sáng, người bằng cách nào đó đã kết thúc nó nhưng vẫn còn không đầy đủ. Nó lảng vảng quanh đầu bạn. Mọi điều bạn đã bỏ lại không đầy đủ vẫn giống như ong bay vo ve quanh bạn. Bây giờ điều này trở thành thói quen. Bạn sẽ lắng nghe tôi nhưng bạn đang sẵn sàng đi tới văn phòng, hay đi ra cửa hàng, hay đi ra chợ; bạn đã đi rồi. Bạn chỉ ngồi đây về mặt vật lí thôi. Tâm trí bạn đã đi vào tương lai. Bạn sẽ không bao giờ ở bất kì đâu. Bất kì chỗ nào bạn ở, bạn đã đi tới chỗ nào đó khác rồi. Cuộc sống không đầy đủ này tạo ra thèm khát sống. Bạn phải hoàn thành nhiều thứ.
Làm sao bạn có thể đảm đương được việc chết ngay khoảnh khắc này? Tôi có thể đảm đương được, tôi có thể tận hưởng - mọi thứ là đầy đủ! Nhớ điều này, Patanjali, Phật, Jesus - không ai chống lại sống. Họ ủng hộ sống, tất cả đều ủng hộ sống, nhưng họ chống lại thèm khát sống bởi vì thèm khát sống là triệu chứng của người đã từng bỏ lỡ cuộc sống.
Câu hỏi thứ hai:
Nhiều nhà tư tưởng hiện sinh của phương Tây - Sartre, Camus v.v. - đã đi tới nhận ra thất vọng, vô vọng và vô nghĩa của cuộc sống, nhưng họ đã không biết tới cực lạc của một Patanjali. Tại sao? Cái gì thiếu? Patanjali chắc phải nói cái gì cho phương Tây tại điểm này chứ?
Vâng, đôi điều bị thiếu ở phương Tây mà không thiếu cho Phật ở Ấn Độ. Phật cũng thuyết giảng tới điểm mà là chỗ của Sartre: thất vọng mang tính tồn tại, phiền não, cảm thấy rằng mọi thứ là vô tích sự, rằng cuộc sống là vô nghĩa. Nhưng khi Phật đạt tới điểm này, rằng mọi thứ là vô nghĩa, đã có lối mở ở ẤnĐộ; nó không phải là chỗ cuối con đường. Thực ra, nó là chỗ cuối duy nhất của con đường này nhưng con đường khác được mở ra ngay lập tức; khép lại cánh cửa này nhưng mở ra cánh cửa khác.
Đó là khác biệt giữa văn hoá có tính tâm linh và văn hoá có tính vật chất. Người duy vật nói, 'Đây là tất cả; không có gì khác để sống.' Người duy vật nói rằng mọi điều bạn thấy, đó là tất cả những cái thực tại đang là. Nếu điều đó trở thành vô nghĩa, thế thì không cánh cửa nào mở ra. Người tâm linh nói, 'Đây không phải là tất cả, cái thấy được không phải là tất cả, cái động chạm tới được không phải là tất cả.' Khi cái này được kết thúc, đột nhiên cánh cửa mới mở ra và điều này là không kết thúc. Khi nó được kết thúc, nó chỉ là bắt đầu cho chiều hướng khác.
Đây là khác biệt duy nhất giữa quan niệm duy vật về cuộc sống và quan niệm tâm linh về cuộc sống - khác biệt về thế giới quan. Phật được sinh ra trong thế giới quan tâm linh. Ông ấy cũng nhận ra cái vô nghĩa của mọi điều chúng ta làm, bởi vì cái chết có đó và chết sẽ kết thúc mọi thứ, cho nên phỏng có ích gì mà làm hay không làm? Dù bạn làm hay không làm, chết tới và kết thúc mọi thứ. Dù bạn có yêu hay không, tuổi già tới và bạn trở thành tàn tích, bộ xương. Dù bạn sống cuộc sống nghèo hay cuộc sống giầu, cái chết tiêu huỷ cả hai; nó không bận tâm về bạn là ai. Bạn có thể là thánh nhân, bạn có thể là tội nhân - với cái chết điều đó chẳng khác biệt gì. Chết là tuyệt đối cộng sản; nó đối xử bình đẳng với mọi người. Thánh nhân và tội nhân cả hai rơi xuống bụi đất - cát bụi trở về với cát bụi. Phật đã đi tới nhận ra điều này, nhưng thế giới quan tâm linh có đó, hoàn cảnh là khác.
Tôi đã kể cho các bạn câu chuyện về Phật: Ông ấy thấy một người già; ông ấy nhận ra rằng tuổi thanh xuân chỉ là một pha trôi qua, một hiện tượng nhất thời; một con sóng trong đại dương dâng lên và hạ xuống, không cái gì thường hằng trong nó, không cái gì vĩnh hằng trong nó; chỉ giống như mơ, bong bóng thực sự nổ bất kì khoảnh khắc nào. Thế rồi ông ấy thấy một người chết được mang đi. Ở phương Tây câu chuyện này chắc đã dừng ở đây: người già, người chết. Nhưng trong câu chuyện Ấn Độ, sau người chết ông ấy thấy một sannyasin - đó là cánh cửa. Và thế rồi ông ấy hỏi người đánh xe, 'Người này là ai, và tại sao ông ấy mặc áo choàng vàng? Điều gì đã xảy ra cho ông ấy? Ông ấy là kiểu người gì?' Người đánh xe nói, 'Người này cũng đã nhận ra rằng sống dẫn tới chết và người đó đang tìm cuộc sống bất tử.'
Đây là hoàn cảnh: sống không kết thúc bằng chết. Câu chuyện của Phật chỉ ra rằng sau khi thấy cái chết, khi sống cảm thấy vô nghĩa, đột nhiên chiều hướng mới nảy sinh, một cách nhìn mới - tính chất sannyas: nỗ lực để xuyên thấu vào trong bí ẩn sâu hơn của cuộc sống, xuyên thấu sâu hơn vào trong cái thấy được để đạt tới cái không thấy được, để xuyên thấu vào vật chất sâu tới mức vật chất biến mất và bạn đi tới thực tại cơ sở, thực tại của năng lượng tâm linh, Brahma. Với Sartre, Camus, Heidegger, câu chuyện chấm dứt với người chết. Phần sannyasin bị thiếu, đó là móc nối bị thiếu.
Nếu bạn có thể hiểu tôi, đó là điều tôi đang làm: tạo ra nhiều sannyasins, phái họ tới toàn thế giới, để cho bất kì khi nào có một người đi tới hiểu biết, như Sartre, rằng sống là vô nghĩa, một sannyasin phải có đó để đi theo, để cho cách nhìn mới rằng sống không kết thúc với chết. Một pha kết thúc, nhưng bản thân sống không kết thúc.
Thực ra, sống chỉ bắt đầu khi chết đã tới bởi vì chết kết thúc chỉ thân thể bạn, không kết thúc bản thể bên trong nhất của bạn. Sống của thân thể chỉ là một phần, và là phần rất ngoại vi, phần bề mặt.
Ở phương Tây, chủ nghĩa duy vật đã trở thành thế giới quan. Ngay cả cái gọi là người tôn giáo ở phương Tây cũng toàn người duy vật. Họ có thể đi tới nhà thờ, họ có thể tin vào Ki tô giáo, nhưng niềm tin đó thậm chí không sâu hơn làn da. Nó là nghi thức xã hội. Người ta phải đi tới nhà thờ vào chủ nhật; đó là điều phải làm, điều đúng cần làm để duy trì 'người đúng' theo ý kiến của những người khác. Bạn là người đúng làm điều đúng - một nghi thức xã hội. Nhưng bên trong, mọi người đã trở thành người duy vật.
Thế giới quan duy vật nói rằng với cái chết mọi thứ đều chấm dứt. Nếu điều này đúng, thế thì không có khả năng nào của bất kì biến đổi nào. Và nếu mọi thứ chấm dứt với cái chết thế thì chẳng ích gì mà tiếp tục sống. Thế thì tự tử là câu trả lời đúng.
Điều đơn giản kì lạ là thấy Sartre cứ sống. Ông ấy đáng phải tự tử từ lâu trước đây bởi vì nếu ông ấy thực sự nhận ra rằng sống là vô nghĩa, thế thì phỏng có ích gì? Hoặc là ông ấy đã nhận ra điều đó hoặc là ông ấy vẫn còn hi vọng ngược lại nó và đã không nhận ra nó. Phỏng có ích gì mà mang toàn thể mọi sự lặp đi lặp lại mọi ngày, của việc dậy ra khỏi giường? Nếu bạn đã thực sự cảm thấy rằng sống là vô nghĩa, làm sao bạn có thể ra khỏi giường sáng hôm sau, để làm gì? Lặp lại cùng điều vô nghĩa cũ à? - vô nghĩa. Sao bạn cứ phải thở?
Đây là hiểu biết của tôi: nếu bạn đã thực sự nhận ra rằng sống là vô nghĩa, thở sẽ lập tức dừng lại. Phỏng có ích gì? Bạn sẽ mất quan tâm tới việc thở, bạn sẽ không làm nỗ lực nào. Nhưng Sartre cứ sống và sống và làm cả triệu thứ. Cái vô nghĩa đã không thực sự xuyên thấu rất sâu. Nó là triết lí; chưa là cuộc sống, chưa là điều thân thiết xảy ra bên trong, chỉ là triết lí. Bằng không, phương Đông là mở; sao Sartre không tới? Phương Đông nói, 'Vâng, sống là vô nghĩa, nhưng một cánh cửa lại mở ra.' Thế thì để ông ấy tới phương Đông và thử tìm cánh cửa đó.
Và đó không chỉ là điều ai đó đã nói điều đó; trong gần mười nghìn năm nhiều người đã đi tới nhận ra điểm này, và bạn không thể lừa bản thân bạn về nó được. Phật đã sống bốn mươi năm trong cực lạc mà không một khoảnh khắc khổ nào. Làm sao bạn có thể giả vờ được? Làm sao bạn có thể sống cuộc sống bốn mươi năm đóng kịch dường như bạn cực lạc được? Và phỏng có ích gì mà đóng kịch? Và không chỉ một phật - hàng nghìn chư phật được sinh ra ở phương Đông, và họ đã sống cuộc đời phúc lạc nhất không một gợn sóng khổ nào phát sinh.
Điều Patanjali đang nói không phải là triết lí, nó là sự kiện được nhận ra, nó là kinh nghiệm. Sartre không đủ dũng cảm, bằng không sẽ có hai phương án: hoặc tự tử, là đúng với triết lí của bạn, hoặc tìm kiếm cách đi tới cuộc sống, cuộc sống mới. Trong cả hai cách, bạn đều bỏ cái cũ. Đó là lí do tại sao tôi nhấn mạnh rằng bất kì khi nào một người đi tới điểm tự tử, chỉ thế thì cánh cửa mới mở ra. Ở đó có hai phương án: tự tử hay tự biến đổi.
Sartre không dũng cảm. Ông ấy nói về dũng cảm, chân thành, đích thực, nhưng không là điều nào trong những điều này. Nếu bạn đích thực, thế thì hoặc tự tử hoặc tìm kiếm cách ra khỏi khổ. Nếu khổ là chung cuộc và toàn bộ, thế thì tại sao bạn cứ sống? Thế thì cứ đúng theo triết lí của bạn đi. Dường như là thất vọng này, phiền não, vô nghĩa, cũng là lời nói, logic, nhưng không có tính tồn tại.
Cảm giác của tôi là chủ nghĩa hiện sinh của phương Tây không thực là hiện sinh; nó là triết lí. Có tính hiện sinh nghĩa là nó phải là cảm, không là nghĩ. Sartre có thể là nhà tư tưởng lớn - ông ấy là thế, nhưng ông ấy đã không cảm thấy điều này, ông ấy đã không sống nó. Nếu bạn sống thất vọng, bạn nhất định đi tới điểm nơi cái gì đó phải được làm, được làm một cách triệt để, được làm ngay lập tức. Biến đổi trở thành khẩn thiết, trở thành mối quan tâm duy nhất của bạn.
Bạn cũng đã hỏi cái gì bị thiếu. Thế giới quan, thế giới quan tâm linh bị thiếu ở phương Tây. Bằng không, nhiều chư phật có thể được sinh ra. Mùa vụ đã chín - thất vọng, vô nghĩa được cảm thấy; nó ở trong không trung. Xã hội đã đạt tới sung túc và đã thấy nó thiếu. Tiền có đó, quyền có đó, và con người cảm thấy sâu bên dưới bất lực toàn bộ. Tình huống là chín muồi, nhưng thế giới quan bị thiếu.
Đi sang phương Tây và cho thông điệp này đi. Lan toả từ này, thế giới quan tâm linh, để cho những người đã đi tới chỗ cuối của cuộc hành trình của họ trong cuộc sống này sẽ không cảm thấy rằng nó là chỗ kết thúc - một cánh cửa mới mở ra. Cuộc sống là vĩnh hằng. Nhiều lần bạn sẽ cảm thấy rằng mọi thứ đã kết thúc và đột nhiên cái gì đó lại bắt đầu. Thế giới quan tâm linh bị thiếu. Một khi thế giới quan đó có đó, nhiều người sẽ bắt đầu di chuyển vào trong nó.
Rắc rối là ở chỗ nhiều cái gọi là thầy giáo tôn giáo từ phương Đông đang di chuyển sang phương Tây, và họ còn duy vật hơn bạn. Họ có đó đơn giản vì tiền. Họ không thể cho bạn thế giới quan tâm linh được. Họ là người bán hàng. Họ đã tìm ra thị trường bởi vì mùa vụ đã chín.
Mọi người đang khao khát cái gì đó, không biết là cái gì. Mọi người được kết thúc với cái gọi là cuộc sống, bị thất vọng, sẵn sàng lấy cú nhảy vào cái gì đó không biết, chưa được sống. Thị trường là sẵn sàng cho mọi người vào khai thác, và có nhiều lái buôn từ phương Đông. Họ có thể có tên là Maharishis, điều đó không tạo ra khác biệt. Nhiều lái buôn, người bán hàng, đang di chuyển ở phương Tây. Họ chỉ ở đó vì tiền.
Với thầy thực, bạn phải tới thầy, bạn phải tìm thầy, bạn phải tìm ra thầy, bạn phải làm nỗ lực. Thầy thực không thể đi sang phương Tây được bởi vì chỉ bằng việc đi toàn thể vấn đề sẽ bị mất; phương Tây phải tới với thầy. Và sẽ dễ hơn cho người phương Tây tới phương Đông để học kỉ luật bên trong, việc thức tỉnh, và thế rồi đi về phương Tây và lan toả hoàn cảnh mới. Sẽ dễ dàng hơn cho người phương Tây tới học ở phương Đông, để ở đây trong bầu không khí của thầy tâm linh, và thế rồi mang thông điệp trở lại - bởi vì bạn sẽ không có tính duy vật nếu bạn đi và lan toả tin tức ở phương Tây. Bạn sẽ không có tính duy vật vì bạn đã thế đủ rồi, bạn được kết thúc với nó.
Khi người nghèo từ phương Đông sang phương Tây, tất nhiên họ bắt đầu tích luỹ tiền. Điều đó là đơn giản. Phương Đông nghèo và bây giờ phương Đông không khao khát về tâm linh, nó khao khát về nhiều tiền, nhiều vật dụng vật chất, nhiều kĩ nghệ và khoa học nguyên tử. Cho dù một Phật được sinh ra, không ai sẽ nói với ông ấy ở phương Đông, nhưng đồ chơi vệ tinh nhân tạo nhỏ được đưa ra bởi Ấn Độ và cả nước phát điên và sung sướng. Ngu xuẩn làm sao! Vụ nổ nguyên tử nhỏ, và Ấn Độ cảm thấy rất hạnh phúc và tự hào vì nó đã trở thành cường quốc nguyên tử thứ năm.
Phương Đông nghèo, và phương Đông bây giờ nghĩ dưới dạng vật chất. Tâm trí nghèo bao giờ cũng nghĩ về vật chất và mọi thứ vật chất có thể cho. Phương Đông không tìm kiếm tâm linh. Phương Tây giầu và bây giờ phương Tây sẵn sàng tìm kiếm.
Nhưng bất kì khi nào có thầy, người ta phải tìm tới thầy. Qua chính việc tìm kiếm nhiều điều xảy ra. Nếu tôi tới với bạn, bạn sẽ bỏ lỡ tôi. Nếu tôi tới và gõ cửa nhà bạn, bạn sẽ nghĩ tôi đã tới để tìm kiếm cái gì đó từ bạn; điều đó sẽ trở thành việc đóng trái tim bạn. Không, tôi sẽ không tới nhà bạn và gõ cửa đâu. Tôi sẽ đợi bạn tới và gõ cửa, và không chỉ gõ cửa, tôi cũng sẽ buộc bạn phải đợi - bởi vì đó là cách duy nhất để trái tim bạn có thể được mở ra.
Tôi không biết Patanjali sẽ nói gì với phương Tây. Làm sao tôi có thể biết được? Patanjali là Patanjali; tôi không phải là Patanjali. Nhưng đây là điều tôi muốn nói: phương Tây phải đi tới một điểm mà hoặc tự tử hoặc cách mạng tâm linh sẽ xảy ra. Đây là hai phương án duy nhất. Tôi không nói điều này duy nhất về những người cá nhân, từng cá nhân người. Điều này là vậy cho phương Tây như một toàn thể. Hoặc phương Tây sẽ tự tử qua chiến tranh nguyên tử mà vì điều đó nó đang chuẩn bị, hoặc sẽ có thức tỉnh tâm linh. Và không có nhiều thời gian còn lại. Trong vòng thế kỉ này, trong chỉ hai mươi nhăm năm nữa, phương Tây sẽ hoặc tự tử hoặc phương Tây sẽ biết thức tỉnh tâm linh vĩ đại nhất mà đã từng xảy ra trong lịch sử con người. Ngần ấy là đang lâm nguy.
Mọi người tới tôi và họ nói, 'Thầy cứ cho tính chất sannyas mà chẳng xem xét liệu người đó có xứng đáng hay không.' Tôi bảo họ rằng thời gian còn ngắn ngủi lắm, và tôi không bận tâm về điều đó. Nếu tôi cho tính chất sannyas cho năm mươi nghìn người và chỉ năm mươi người chứng tỏ là đúng, điều đó sẽ là đủ.
Phương Tây cần sannyasins. Câu chuyện này đã đi tới điểm mà người chết đang được mang đi. Bây giờ sannyasin phải xuất hiện ở phương Tây. Và sannyasin phải là người phương Tây, không phải người phương Đông, bởi vì sannyasin phương Đông sẽ trở thành nạn nhân, sớm hay muộn, của mọi điều bạn có thể cho người đó. Người đó sẽ bắt đầu bán; người đó sẽ trở thành người bán hàng bởi vì người đó tới từ phương Đông chết đói. Tiền là thượng đế của người đó.
Sannyasin phải là người phương Tây: người tới từ gốc rễ của phương Tây, người nhận ra cái vô nghĩa của cuộc sống, người nhận ra thất vọng của toàn thể nỗ lực hướng tới chủ nghĩa duy vật, người nhận ra cái vô tích sự của mọi chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa cộng sản, và mọi triết lí duy vật. Thất vọng này là ở trong máu của người phương Tây, trong chính xương.
Đó là lí do tại sao toàn thể mối quan tâm của tôi là làm cho thật nhiều phương Tây thành sannyasins và phái họ quay về nhà. Nhiều Sartres đang chờ đợi ở đó. Họ đã thấy cái chết. Họ đang chờ đợi để thấy áo choàng vàng, và với áo choàng vàng, cực lạc tuôn chảy.
Câu hỏi thứ ba:
Vị Phật sống với nhạy cảm cao nhất và do vậy ông ấy tận hưởng mọi nhu cầu thân thể của ông ấy. Dục chẳng phải là một nhu cầu thân thể sao? Thế thì sao nó biến mất trong vị Phật?
Nhiều điều sẽ phải được hiểu. Thứ nhất: dục không phải là nhu cầu bình thường, như thức ăn. Nó là bình thường rất phụ thêm. Nếu thức ăn không được trao cho bạn, bạn sẽ chết, nhưng không có dục bạn có thể sống được. Nếu nước không được cho bạn, thân thể sẽ chết, nhưng không có dục bạn có thể sống. Nếu không khí không được cho bạn, bạn sẽ chết trong vài giây, nhưng không có dục bạn có thể sống cả đời bạn.
Đây là khác biệt đầu tiên, và tại sao nó vậy? Bởi vì dục về căn bản không phải là nhu cầu của cá nhân, nó là nhu cầu của giống nòi. Giống nòi sẽ chết nếu dục không được phép, nhưng bạn sẽ không chết. Người sẽ chết; đấy không phải là cá nhân, nhưng là tập thể. Dục là nhu cầu giống nòi, không phải nhu cầu cá nhân. Nếu mọi người đều trở thành brahmachari, người vô dục, thế thì nhân loại sẽ biến mất, nhưng bạn sẽ sống. Bạn sẽ sống trong bẩy mươi năm hay thậm chí hơn, bởi vì bạn sẽ tiết kiệm nhiều năng lượng. Người sẽ sống bẩy mươi năm có thể có khả năng sống tới cả trăm năm không dục, bởi vì năng lượng của người đó sẽ được bảo toàn. Nhưng không có dục giống nòi sẽ chết.
Đây là khác biệt đầu tiên: thức ăn được cần cho bạn, dục được cần cho người khác. Dục được cần cho các thế hệ tương lai tới. Bạn đã tới cho nên không có vấn đề gì. Bố mẹ bạn cần dục cho bạn tới. Nếu họ mà vẫn còn vô dục, bạn chắc đã không ở đây, nhưng họ đã sống, điều đó chắc đã không là vấn đề cho họ. Họ chắc đã sống thậm chí còn tốt hơn vì bạn đã tạo ra nhiều rắc rối cho họ.
Đó là lí do tại sao tự nhiên đã cho bạn thôi miên sâu thế về dục, bằng không nhân loại sẽ biến mất. Tự nhiên đã làm cho bạn hoàn toàn bị ám ảnh bởi dục - nó ép buộc bạn. Bạn cố thoát khỏi cái bẫy, và bạn cảm thấy bị mắc bẫy - bất kì cái gì bạn làm, bất kì chỗ nào bạn đi, dục đi theo bạn. Tự nhiên không thể đảm đương được điều đó. Bằng không, dục trong bản thân nó là hành động xấu tới mức nếu bạn mà được phép tự do, thế thì tôi nghĩ chẳng ai sẽ chọn nó. Nó là bị ép buộc.
Bạn đã bao giờ nghĩ về bản thân bạn giao cấu không? - nó có vẻ xấu làm sao! Đó là điều mọi người che giấu bản thân họ khi họ giao cấu; họ muốn riêng tư để cho không ai nhìn vào họ. Nhưng nghĩ mà xem, tưởng tượng bản thân bạn giao cấu. Toàn thể sự việc dường như ngớ ngẩn, ngu xuẩn. Bạn đang làm gì? Nếu không có ám ảnh bên trong bạn để làm nó, không ai sẽ làm nó. Nhưng tự nhiên không thể đảm đương được việc để bạn không làm nó, cho nên tự nhiên đã cho bạn thôi miên bên trong sâu sắc về nó. Nó là hoá chất, nó là hoocmon. Trong mạch máu các hoocmon đặc biệt chảy, điều ép buộc bạn.
Bây giờ các nhà sinh học nói rằng nếu những hoocmon này có thể được lấy ra khỏi bạn, dục sẽ biến mất. Có thể tiêm vào bạn những hoocmon đó và dục trở thành rất mạnh. Ngay cả trong tuổi già bẩy mươi hay tám mươi, thân thể không còn khả năng đi vào dục, hoocmon có thể được tiêm vào và người đó sẽ bắt đầu cư xử như thanh niên ngu xuẩn. Người đó sẽ bắt đầu săn đuổi đàn bà. Người đó thậm chí có thể ngồi trong xe lăn nhưng người đó sẽ săn đuổi đàn bà. Không phải là người đó săn đuổi, đó là hệ thống hoá chất hoocmon trong thân thể.
Đứa trẻ được sinh ra, hoocmon còn chưa trưởng thành, chúng sẽ cần thời gian để chín muồi. Nó sẽ có khả năng của thôi thúc dục vào tuổi mười bốn. Mãi cho tới lúc đó không có vấn đề gì. Hoocmon dục chín muồi, các tuyến trở nên sẵn sàng. Đột nhiên, vào tuổi mười bốn, chúng bùng nổ và đứa trẻ phát cuồng. Nó không thể hiểu cái gì đang xảy ra.
Độ tuổi giữa mười bốn và mười tám là độ tuổi khó khăn nhất. Đứa trẻ không thể hiểu được: ‘Cái gì đang xảy ra?' Cái gì đó đã chiếm quyền sở hữu nó. Đó là sở hữu! Tự nhiên đã chiếm quyền sở hữu - bây giờ bạn sẵn sàng, bây giờ thân thể sẵn sàng, bây giờ tự nhiên buộc bạn sinh sản. Tưởng tượng nảy sinh, mơ mộng; bạn không thể thoát được. Bất kì chỗ nào bạn nhìn, nếu bạn là đàn ông bạn chỉ có thể thấy đàn bà, nếu bạn là đàn bà, chỉ thấy đàn ông. Nó là một loại điên. Tất nhiên, tự nhiên phải tạo ra nó, bằng không sẽ không có sinh sản.
Cuộc sống cá nhân của bạn không lâm nguy nếu bạn trở nên vô dục. Không, không cái gì lâm nguy. Ngược lại, bạn sẽ sống sâu sắc hơn, dễ dàng hơn bởi vì năng lượng sẽ được bảo tồn.
Đó là lí do tại sao ở phương Đông mọi người đã khám phá ra điều này: họ đã khám phá ra rằng dục đem tới chết sớm hơn. Cho nên những người muốn sống lâu hơn, vì lí do riêng của họ, họ bỏ dục hoàn toàn. Chẳng hạn, nhà Hatha yogis muốn sống lâu hơn bởi vì họ có phương pháp chuyển động rất chậm, phương pháp xe bò kéo - họ cần thời gian rất dài để kết thúc nó, họ cần cuộc sống dài để kết thúc yoga của họ, để đi tới chứng ngộ chung cuộc - họ bỏ dục hoàn toàn. Và làm sao họ bỏ được nó? Họ đã tạo ra những tư thế đặc biệt làm thay đổi luồng hoocmon trong thân thể. Họ tạo ra những bài tập thân thể nào đó trong đó tinh dịch được hấp thu lại trong máu. Họ đã làm những điều cực kì lớn với thân thể; ngay cả tinh dịch được tiết ra cũng có thể được hấp thu lại trong thân thể.
Họ đã tạo ra nhiều phương pháp để hấp thu năng lượng dục bởi vì năng lượng dục là sinh lực; đứa trẻ được sinh ra từ nó. Nếu bạn có thể hấp thu năng lượng này trở lại trong hệ thống riêng của bạn, bạn sẽ rất, rất mạnh. Bạn có thể sống lâu hơn. Thực ra, tuổi già có thể đơn giản bị bỏ đi. Bạn có thể trẻ tới chính lúc cuối.
Có khác biệt. Thức ăn là nhu cầu cá nhân. Nếu bạn dừng nó bạn sẽ chết. Dục không phải là nhu cầu cá nhân, nó là vật sở hữu. Nếu bạn có thể dừng lại, bạn sẽ thu được nhiều từ nó. Nhưng việc dừng lại có thể có ba kiểu: bạn có thể kìm nén ham muốn; điều đó sẽ không ích gì - năng lượng dục của bạn sẽ bị hư hỏng. Đó là lí do tại sao tôi nói là tự nhiên là tốt hơn bị hư hỏng. Sư Jaina, sư Phật giáo, sư Ki tô giáo, Cơ đốc giáo, tất cả những người đã sống chỉ trong xã hội nam tính, nhóm nam - trong một trăm sư, chín mươi phần trăm hoặc là thủ dâm hoặc là đồng dục. Điều đó phải như vậy thôi, bởi vì năng lượng này sẽ đi đâu? Và họ đã từng bị kìm nén, họ đã không biến đổi hệ thống hoocmon, hoá chất của thân thể. Họ không biết phải làm gì cho nên họ đơn giản đè nén. Đè nén trở thành hư hỏng. Tôi chống lại các phương pháp thuộc kiểu thứ nhất. Là tự nhiên là tốt hơn bị hư hỏng, bởi vì hư hỏng là rơi xuống dưới tự nhiên, nó sẽ không đi ra ngoài.
Thế rồi có kiểu thứ hai người đã cố thay đổi hệ thống hoocmon của thân thể: các nhà Hatha yogis, các động tác yoga. Và có nhiều cách để thay đổi hoá chất của thân thể. Phương pháp thứ hai là tốt hơn phương pháp thứ nhất, nhưng dầu vậy tôi vẫn không thiên về chúng. Tại sao? Vì nếu bạn thay đổi thân thể, bạn không thay đổi. Người bất lực là vô dục, nhưng điều đó là vô dụng. Qua các phương pháp Hatha Yoga bạn sẽ trở thành bất lực; hoocmon sẽ không có đó để vận hành, hay các tuyến sẽ bị hỏng và chúng không thể vận hành, nhưng đây không phải là trưởng thành tâm linh. Bạn đã phá huỷ bộ máy, bạn đã không đi ra ngoài nó.
Và điều này nữa có thể dẫn tới kiểu vấn đề khác trong cuộc sống. Bạn sẽ trở nên sợ nhiều thứ. Bạn sẽ sợ đàn bà vì khoảnh khắc cô ấy lại gần, hoá chất bị thay đổi của bạn sẽ lại lấy hình mẫu cũ, luồng chảy cũ. Đàn bà có năng lượng nào đó: năng lượng nữ tính, điều là từ lực và làm thay đổi năng lượng thân thể bạn. Cho nên nhà Hatha yogis trở nên sợ đàn bà. Họ trốn lên Himalayas và hang động. Sợ không phải là điều tốt, và nếu bạn sợ, bạn ở trong nó. Cứ dường như đàn ông trở nên mù tới mức anh ta không thể nhìn được đàn bà, nhưng điều đó chẳng giúp gì mấy.
Kiểu phương pháp thứ ba là trở nên nhận biết hơn. Đừng thay đổi thân thể - cứ như nó vậy, nó là tốt. Để nó vẫn còn tự nhiên đi; bạn trở nên nhận biết hơn. Bất kì cái gì xảy ra trong tâm trí và trong thân thể, trở nên nhận biết. Trên các tầng thô và tinh đều trở nên ngày một ý thức hơn. Chỉ bằng việc có ý thức, bằng việc là nhân chứng, bạn vươn lên cao hơn và cao hơn và cao hơn - và một khoảnh khắc tới khi chỉ vì chiều cao của bạn, chỉ bởi vì ý thức trên đỉnh của bạn, thung lũng vẫn còn đó nhưng bạn không còn là một phần của thung lũng; bạn đã siêu việt lên trên nó. Thân thể vẫn còn tính dục, nhưng bạn không ở đó để hợp tác với nó. Thân thể vẫn còn tuyệt đối tự nhiên, nhưng bạn đã đi ra ngoài nó. Nó không thể vận hành nếu không có hợp tác của bạn. Điều này xảy ra trong vị Phật.
Từ 'phật' nghĩa là người đã thức tỉnh. Nó không thuộc vào một mình Phật Gautam. ‘Phật' không phải là tên cá thể người, nó là phẩm chất của hiện hữu. Christ là một Phật, Krishna là một Phật, và hàng nghìn chư phật đã tồn tại. Đó là phẩm chất của hiện hữu - và phẩm chất đó là gì? - nhận biết. Ngọn lửa của nhận biết cứ ngày càng lên cao hơn và một khoảnh khắc tới khi thân thể có đó, vận hành đầy đủ và tự nhiên, nhạy cảm, sống động, nhưng hợp tác của bạn không có đó. Bạn bây giờ là nhân chứng, không là người làm - dục biến mất.
Thức ăn sẽ không biến mất; ngay cả vị Phật cũng sẽ cần thức ăn bởi vì đó là nhu cầu cá thể, không phải là nhu cầu xã hội, nhu cầu giống nòi. Ngủ sẽ không biến mất, nó là nhu cầu cá thể. Mọi thứ có tính cá thể sẽ có đó, mọi thứ có tính giống nòi sẽ biến mất - và việc biến mất này có cái đẹp của riêng nó.
Nếu bạn nhìn vào nhà Hatha yogi bạn sẽ thấy sinh linh què quặt. Bạn không thể thấy bất kì duyên dáng nào tới từ mặt người đó. Người đó đã phá huỷ hoá chất của mình, người đó không đẹp. Nếu bạn nhìn một sư kìm nén, ông ta thậm chí còn xấu hơn vì từ mắt và mặt ông ta bạn sẽ thấy mọi loại thèm khát rơi xuống khắp xung quanh. Ông ta sẽ có bầu không khí dục quanh ông ta - xấu và bẩn. Người tự nhiên là tốt hơn; ít nhất người đó là tự nhiên. Nhưng người hư hỏng là ốm yếu và người đó mang ốm bệnh quanh mình.
Tôi thiên về kiểu thứ ba, nhưng trong khi đó bạn vẫn còn tự nhiên. Không cần đè nén, không cần thử bất kì phương pháp nào để làm què quặt thân thể - không cần. Cứ tự nhiên và tiếp tục làm việc cho phật tính của bạn. Cứ tự nhiên và trở nên ngày càng tỉnh táo và nhận biết. Một khoảnh khắc sẽ tới khi dục đơn giản biến mất. Khi nó biến mất theo cách riêng của nó, nó để lại đằng sau nó ánh sáng rực rỡ thế, duyên dáng thế, đẹp thế. Đừng buộc nó biến mất, bằng không nó sẽ để đằng sau nhiều vết thương và bạn bao giờ cũng còn với những vết thương đó. Để tự nó đi. Đơn giản là người quan sát và không trong vội vàng. Tự nhiên là tốt, tự nhiên là đẹp; bạn là tự nhiên. Chừng nào bạn chưa trở thành siêu nhiên, đừng tranh đấu với tự nhiên. Để cái cao hơn đi vào.
Và đây là thái độ của tôi về mọi thứ: đừng tranh đấu với cái thấp hơn, đừng cầu xin cái cao hơn. Làm việc vì cái cao hơn và để cho cái thấp hơn được bỏ lại không bị đụng tới. Nếu bạn bắt đầu tranh đấu với cái thấp hơn bạn sẽ phải vẫn còn đó với cái thấp hơn; bạn không thể di chuyển khỏi đó. Là tự nhiên để cho tự nhiên không quấy rối bạn và bạn được bỏ lại một mình để vươn lên cao hơn. Cầu nguyện về cái cao hơn, thiền về cái cao hơn, cố gắng về cái cao hơn và để tự nhiên như nó vậy. Chẳng mấy chốc siêu nhiên sẽ nảy sinh. Từ tự nhiên siêu nhiên tới, và thế thì có duyên dáng, thế thì có cái đẹp, thế thì có phúc lớn vô song.
Từ chiều hướng khác sẽ là tốt cho bạn biết: dục thuộc về thân thể, yêu thuộc về thân thể tinh tế, lời nguyện thuộc về trung tâm, tới chính nền tảng của bản thể bạn. Dục thuộc vào ngoại vi, lời nguyện thuộc về trung tâm, và giữa trung tâm và ngoại vi là yêu. Phật là từ bi mang tính cầu nguyện; ông ấy đã đạt tới trung tâm. Trước khi bạn đạt tới trung tâm, chỉ đi ở giữa từ ngoại vi tới trung tâm, bạn sẽ đáng yêu, rất, rất đáng yêu sâu sắc. Ở ngoại vi bạn sẽ có tính thèm khát, bạn sẽ có tính dục. Và đó là cùng năng lượng. Trên ngoại vi dục được cần tới, giữa ngoại vi và trung tâm, yêu được cần tới. Năng lượng là như nhau nhưng bạn đã thay đổi, cho nên nhu cầu thay đổi. Tại trung tâm, lời nguyện, từ bi được cần tới - năng lượng là như nhau. Cho nên Phật không bị đói dục; cùng năng lượng đó đã trở thành từ bi. Con người của yêu không bị đói về dục, cùng năng lượng đó đã trở thành yêu. Cho nên câu hỏi về nhu cầu phải được hiểu.
Nhu cầu tồn tại trong thân thể, nhưng nếu bạn di chuyển từ thân thể, đi sâu hơn, nhu cầu thay đổi. Nhu cầu đi theo bạn. Nếu bạn được rót đầy quá nhiều với tưởng tượng dục, hình dung, điều đó chỉ ra bạn tồn tại ở ngoại vi. Di chuyển từ đó đi. Bạn tiếp tục làm việc ở ngoại vi. Trong hàng triệu kiếp bạn đã từng làm việc ở đó và nhu cầu này đã không được hoàn thành. Nó không thể được hoàn thành. Không nhu cầu nào có thể được hoàn thành - nhớ điều này. Bạn ăn; sau tám giờ, sáu giờ, bạn lại đói. Không nhu cầu nào có thể được hoàn thành. Nó là việc hoàn thành tạm thời. Bạn có dục - sau vào giờ bạn lại sẵn sàng. Nhu cầu không thể được hoàn thành bởi vì chúng di chuyển trong vòng tròn.
Đi lên cao hơn nhu cầu của bạn đi. Tôi không nói tranh đấu với nhu cầu; cho phép chúng, tận hưởng chúng trong khi bạn có đó. Sao tranh đấu? - tận hưởng đi. Đừng tạo ra mặc cảm bởi vì bạn càng tạo ra mặc cảm, càng đè nén, sẽ càng khó cho bạn di chuyển từ đó. Tận hưởng nó trong khi bạn có đó. Nếu bạn yêu, bạn có dục, tận hưởng nó đi. Đừng cảm thấy mặc cảm, và đừng cảm thấy là tội nhân. Cứ phạm tội cho hết cỡ vào! Nếu bạn phạm tội thế thì ít nhất hãy hiệu quả.
Tôi nhớ tới Luther. Pecca Fortiler, một đệ tử, đã hỏi Luther, 'Phải làm gì? Tôi không thể dừng phạm tội được.' Luther nói, 'Phạm tội mạnh hơn vào.' Tuyệt đối đúng. Tôi chưa bao giờ cảm thấy đồng cảm nhiều mấy với các nghĩ của Luther, nhưng về điều này tôi tuyệt đối cùng với ông ấy: mạnh hơn đi, phạm tội mạnh hơn đi. Nếu bạn không thể dừng được thế thì sao bận tâm? Phạm tội mạnh hơn bởi vì tại cực đoan biến đổi là có thể. Người hờ hững không bao giờ được biến đổi.
Đừng bao giờ hờ hững. Đó là ngu xuẩn duy nhất bạn có thể cứ liên tục phạm phải. Bởi vì khi bạn đang sôi lên một trăm phần trăm, chỉ thế thì việc bay hơi mới xảy ra. Hờ hững, bạn có thể vẫn còn hờ hững trong nhiều, nhiều kiếp và không cái gì sẽ xảy ra. Di chuyển tới cực đoan đi. Nếu bạn đang trong dục, di chuyển vào trong nó một cách toàn bộ. Đừng tạo ra bất kì xung đột nào, đừng giữ lại bất kì cái gì. Và trong khi đó cứ làm việc. Để dục có đó theo cách riêng của nó. Bạn cứ làm việc vì nhận biết. Thiền ngày càng nhiều hơn và dần dần bạn sẽ thấy rằng cùng năng lượng đang thay đổi, biến đổi.
Khi bạn thay đổi, năng lượng thay đổi vì năng lượng thuộc vào bạn. Khi quan điểm của bạn thay đổi, năng lượng phải đổi mức của nó. Khi bình diện của bản thể bạn thay đổi, thế thì năng lượng phải theo bạn. Nó là năng lượng của bạn.
Khi bạn đi tới trung tâm, dần dần, bạn sẽ đột nhiên nhận ra rằng dục đang biến mất và yêu đang thu được sức mạnh. Bạn đang trở nên ngày một đáng yêu hơn. Bây giờ yêu không phải là thèm khát. Yêu không giống như lửa, nó là ánh sáng rất mát dịu. Dục là dữ dội, nó là lửa. Nó giống như mặt trời nóng. Yêu giống như trăng dịu mát; nó cho bạn ánh sáng, nhưng rất mát dịu, bình thản. Im lặng tràn ngập yêu. Thế thì, dần dần, dục sẽ trở nên ngày một xa xôi hơn, xa xôi hơn, xa xôi hơn, và cùng năng lượng đó sẽ chuyển vào yêu. Bạn sẽ không cảm thấy bị đói. Thay vì thế, ngược lại, bạn sẽ cảm thấy được hoàn thành nhiều hơn, bởi vì yêu hoàn thành nhiều hơn. Nó là dạng cao hơn của dục, và mọi lúc bạn đi lên cao hơn, bạn cảm thấy được hoàn thành nhiều hơn bởi vì các dạng cao hơn là năng lượng tinh tế hơn. Chúng không thô, chúng tinh hơn. Chúng hoàn thành, chúng cho bạn nhiều hơn. Thế rồi cứ vươn lên trong nhận biết. Một ngày tới khi đột nhiên bạn được bắt rễ trong trung tâm, được định tâm. Bây giờ yêu cũng lấy chiều hướng mới; nó trở thành từ bi.
Khác biệt là gì? Trong dục bạn quan tâm tới bản thân bạn, không quan tâm tới người khác chút nào. Bạn đơn giản dùng người khác. Đó là lí do tại sao các bạn dục liên tục tranh đấu, vì cảm giác bên trong có đó, 'Người khác đang dùng mình.' Các bạn dục không thể đi tới điểm hài hoà. Họ sẽ phải tranh đấu lặp đi lặp lại, bởi vì đàn bà nghĩ đàn ông dùng cô ấy - và cô ấy đúng! Không cái gì sai trong đó. Và đàn ông nghĩ đàn bà dùng anh ta. Và bất kì khi nào ai đó dùng bạn như phương tiện, bạn cảm thấy bị tổn thương; dường như giống bị khai thác. Người đàn ông quan tâm tới dục riêng của anh ta, người đàn bà quan tâm tới dục riêng của cô ta - cả hai không đi tới người kia. Chuyển động không có đó. Họ là hai người vị kỉ, tự định tâm, khai thác lẫn nhau. Nếu họ phải nói về yêu và hát và có tính thơ ca, đó chỉ là cám dỗ, thuyết phục, dụ dỗ - nhưng họ hành động không quan tâm tới người kia. Một khi đàn ông đã dùng đàn bà, anh ta quay lưng và đi vào giấc ngủ, được kết thúc - một thứ được dùng và được vứt đi.
Ở Mĩ họ đã làm ra đàn bà chất dẻo và đàn ông chất dẻo. Chúng làm việc tốt hoàn hảo. Đàn bà chất dẻo, nếu bạn chơi với vú cô ấy, vú trở nên cứng, chúng trở nên ấm. Bạn có thể làm tình với đàn bà chất dẻo và nó cũng đáp ứng như bất kì đàn bà nào; thậm chí còn hơn bởi vì không có tranh đấu, không xung đột. Được kết thúc, bạn có thể vứt người đàn bà và đi ngủ. Đó là mọi điều mọi người vẫn làm. Dù người đàn bà bằng chất dẻo hay người thực cũng chẳng tạo ra khác biệt gì. Và người đàn bà cũng dùng người đàn ông.
Bất kì khi nào bạn dùng người khác như phương tiện điều đó là vô đạo đức. Người khác là mục đích lên bản thân người đó, nhưng người khác trở thành mục đích trong bản thân người đó chỉ trong giai đoạn thứ hai của bản thể bạn, khi bạn yêu. Thế thì bạn yêu vì người khác. Thế thì bạn không dùng. Thế thì người khác là quan trọng, có ý nghĩa. Người khác là mục đích trong bản thân người đó. Bạn biết ơn. Không khai thác nào là có thể trong yêu; bạn giúp người khác. Nó không phải là chuyện mặc cả. Bạn tận hưởng việc giúp đỡ, bạn tận hưởng việc chia sẻ và bạn biết ơn rằng người khác cho bạn cơ hội để chia sẻ.
Yêu là tinh tế. Cõi giới thô hơn của dục bị bỏ lại. Người khác đã trở thành mục đích nhưng dầu vậy vẫn có nhu cầu, nhu cầu tinh tế. Bởi vì khi bạn yêu một người, việc mong đợi tinh tế bị giấu kín ở đâu đó rằng người kia phải yêu bạn, cho dù là qua vô ý thức. Nó đi theo như cái bóng rằng người kia phải yêu bạn. Vẫn có nhu cầu được yêu - tốt hơn dục nhưng dầu vậy vẫn là mong đợi. Và mong đợi đó sẽ là nốt chói tai trong yêu. Nó chưa hoàn hảo.
Từ bi là phẩm chất cao nhất của yêu, thuần khiết nhất. Bây giờ mong đợi không có đó. Người khác không phải là phương tiện, người khác là mục đích. Và bây giờ bạn không mong đợi điều gì, bạn đơn giản cho bất kì cái gì bạn có thể cho. Mong đợi đã hoàn toàn mất đi. Vị Phật là người cho toàn bộ. Ông ấy cứ cho, ông ấy tận hưởng việc cho. Nó đơn giản là việc chia sẻ. Bây giờ nó đã trở thành từ bi - cùng năng lượng đó và cùng nhu cầu trên bình diện khác của bản thể. Đó là lí do tại sao dục biến mất trong vị Phật, bởi vì nó tái xuất hiện như từ bi.
Câu hỏi thứ tư:
Thầy đã nói về cuộc sống của Jung và Freud, và tôi đã nghe nói rằng Janov đã chưa thử phương pháp riêng của ông ấy, và ông ấy dường như là người rất, rất tham vọng. Thầy có thể bình luận về phương pháp của ông ấy và liệu ông ấy có chữa lành được cho bản thân ông ấy chút nào không?
Đó là vấn đề ở phương Tây với mọi nhà tư tưởng - họ đã không thử phương pháp riêng của họ. Thực ra, họ đã vớ được những phương pháp đó không phải như một phần của việc tìm kiếm tâm linh của họ. Họ đã vớ được các phương pháp đó khi làm việc với bệnh nhân của họ.
Freud vớ được phân tâm, và tôi nói 'vớ được' vì điều đó là tình cờ. Nó chỉ là dò dẫm trong bóng tối. Ông ấy đã làm việc trên các bệnh nhân - ông ấy là bác sĩ, cố gắng giúp đỡ. Dần dần ông ấy trở nên nhận biết rằng nhiều bệnh không phải là bệnh thể chất, cho nên bạn cứ chữa cho họ về thể chất và chẳng cái gì xảy ra. Thế là ông ấy trở nên quan tâm tới thôi miên vì cái gì đó có thể được làm qua thôi miên. Qua thôi miên ông ấy bắt đầu làm việc. Trong nhiều năm ông ấy đã là nhà thôi miên làm việc với thầy của ông ấy và giúp cho mọi người. Thế rồi, dần dần, ông ấy trở nên nhận biết rằng thực ra thôi miên không giúp ích. Không có nhu cầu thôi miên một người và làm cho người đó vô ý thức. Ngay cả một người, đầy ý thức, cũng bắt đầu kể lại bất kì điều gì tới với tâm trí người đó, bất kì điều gì nổi lên từ vô thức tới tâm trí ý thức, nếu người đó cứ nói ra điều đó, việc đó sẽ cho làm nhẹ bớt. Ông ấy bắt đầu thử điều đó. Đó là cách phân tâm được sinh ra: liên kết tự do của các ý nghĩ. Ông ấy chưa bao giờ thử bất kì cái gì lên bản thân ông ấy. Ông ấy vẫn còn là con người cũ, ông ấy đã không đạt tới trưởng thành nào.
Cùng điều đó đã xảy ra với những người khác, và cũng với Janov. Ông ấy đã từng làm việc với các bệnh nhân và ông ấy vớ được sự kiện là nếu bệnh nhân có thể sống quay ngược lại tới chính chấn thương của việc sinh, khi đứa trẻ được sinh ra và nó la hét lần đầu tiên - đó là la hét nguyên thuỷ - nếu một người có thể đi ngược tới chính điểm mà người đó ra khỏi bụng mẹ và lấy hơi thở đầu tiên của mình, thế thì nhiều điều đơn giản được giải quyết, nhiều vấn đề biến mất. Chỉ bằng việc sống lại chúng, chúng biến mất. Ông ấy đã không thử nó lên bản thân ông ấy. Ông ấy không phải là người được chữa lành.
Freud rất tham vọng. Ông ấy nghĩ bản thân ông ấy là nhà tiên tri khai trương ra một phong trào thế giới lớn. Và ông ấy ghen tị, như những người lãnh đạo chính trị bao giờ cũng ghen tị, âm mưu, do thám đệ tử và hội riêng của ông ấy, liên tục sợ rằng ai đó sẽ phá huỷ phong trào của ông ấy, chiếm quyền sở hữu phong trào, trở thành người lãnh đạo; bao giờ cũng sợ.
Và điều đó cũng hệt với Jung. Nếu bạn nhìn vào mắt Jung... Lấy một tấm hình của Jung, nó đáng nghiên cứu. Ẩn đằng sau cặp kính của ông ấy là đôi mắt rất tinh ranh; chính khuôn mặt là có tính bản ngã. Janov là rất tham vọng và những cuốn sách mới của ông ấy chỉ ra tham vọng của ông ấy một cách rõ ràng. Ông ấy đã tình cờ vớ được một phương pháp nhỏ, không phải là hệ thống, chỉ là mảnh mẩu, nhưng bây giờ ông ấy nghĩ ông ấy đã khám phá ra toàn thể chân lí. Bây giờ ông ấy nghĩ Trị liệu nguyên thuỷ là mọi điều được cần, rằng điều này sẽ đưa mọi người tới niết bàn tối thượng. Đây là ngu xuẩn. Đây là tham vọng.
Điều thứ hai cần nhớ về tất cả các nhà tư tưởng phương Tây, người đã trở nên có ảnh hưởng ở đó là ở chỗ họ đã từng làm việc với người ốm, bệnh nhân. Họ đã không bắt gặp người mạnh khoẻ, cho nên bất kì cái gì là phát kiến của họ, phát kiến của họ đều dựa trên bệnh hoạn. Người mạnh khoẻ tuyệt đối khác với người bệnh hoạn. Freud chưa bao giờ bắt gặp một người mạnh khoẻ. Không có vấn đề về điều đó vì người mạnh khoẻ không bao giờ tới người điều trị hay bác sĩ. Sao người đó phải đi? Trừ phi bạn bị ốm tinh thần, sao bạn phải đi tới thầy thuốc tâm thần? Không có nhu cầu. Bạn đi chỉ vì bạn ốm, cho nên chỉ nhân loại ốm mới đi tới những người này: Freud, Jung, Adler, Janov. Trên những người ốm này họ đặt cơ sở cho triết lí của họ.
Điều này nhất định là không cân bằng, và không chỉ không cân bằng, mà theo một cách nào đó còn rất nguy hiểm vì những loại người ốm của nhân loại không phải là đại diện thực. Họ bị ốm. Cũng dường như bạn đi tới biết chỉ người mù bởi vì bạn là bác sĩ mắt, cho nên chỉ người mù mới tới bạn và thế rồi bạn nghĩ về con người là mù. Những người ốm về tinh thần tới bạn, thế rồi bạn nghĩ con người là ốm tinh thần. Điều đó là sai bởi chừng nào người lành mạnh còn chưa tồn tại, ốm bệnh là có thể không?
Mọi tâm lí học phương Tây đều dựa trên bệnh hoạn, và tâm lí học thực được cần tới mà dựa trên người lành mạnh. Tâm lí học hoàn hảo phải được dựa trên những người như phật, không chỉ là người lành mạnh.
Cho nên có ba loại tâm lí học. Một, bệnh hoạn: mọi tâm lí học phương Tây đều bệnh hoạn. Chỉ rất gần đây một số xu hướng chỉnh thể luận nghĩ về người mạnh khoẻ đang thu được sức mạnh, nhưng họ chỉ mới ở chỗ bắt đầu. Ngay cả bước đầu tiên vẫn còn chưa được lấy. Có các tâm lí học của kiểu thứ hai mà nghĩ về người lành mạnh, điều được dựa trên tâm trí lành mạnh - đó là tâm lí học phương Đông. Phật giáo có tâm lí học rất, rất xuyên thấu; Patanjali có tâm lí học riêng của ông ấy. Chúng được dựa trên người lành mạnh: giúp cho người lành mạnh trở nên lành mạnh hơn, giúp cho người lành mạnh đạt tới lành mạnh lớn lao hơn. Tâm lí học bệnh hoạn giúp mọi người trở nên mạnh khoẻ.
Thế rồi có kiểu thứ ba. Điều Gurdjieff thường gọi là tâm lí học tối thượng, vẫn chưa được phát triển. Kiểu đó phải tuỳ thuộc vào phật. Nó còn chưa được phát triển, bởi vì đi đâu để nghiên cứu về vị Phật, và làm sao nghiên cứu vị Phật? Và chỉ một Phật sẽ không có tác dụng, bạn sẽ phải nghiên cứu chư phật. Chỉ thế thì bạn mới có thể đi tới kết luận. Nhưng một ngày nào đó tâm lí học đó sẽ xảy ra, nó là điều phải có. Nó phải có đó bởi vì chỉ điều đó mới có thể cho bạn cảm nhận toàn bộ trong tâm thức con người.
Freud, Jung, Janov, tất cả họ vẫn còn ốm yếu. Họ chưa bao giờ làm việc về điều đó trên bản thân họ. Loạng choạng trong bóng tối, dò dẫm trong bóng tối, họ đi tới một số mảnh mẩu và thế rồi họ nghĩ rằng những mảnh mẩu đó là hệ thống đầy đủ. Bất kì khi nào mảnh mẩu được tuyên bố là hệ thống đầy đủ nó trở thành dối trá. Mảnh mẩu là mảnh mẩu thôi.
Tâm lí học phương Đông dành cho người lành mạnh, để giúp bạn trở nên toàn thể hơn. Và nỗ lực của tôi sẽ là làm ra một tâm lí học của thuộc kiểu thứ ba, tâm lí học của chư phật, bởi vì điều đó sẽ cho bạn xuyên thấu hoàn hảo vào trong cái toàn thể của tâm thức con người.
Tâm lí học dựa trên bệnh hoạn là tốt; chúng giúp người ốm. Nhưng điều đó không bao giờ có thể là mục đích. Nó là tốt, nhưng chỉ trở thành mạnh khoẻ, bình thường, thì chả là gì mấy. Chỉ là bình thường thì không là gì mấy bởi vì mọi người khác cũng là bình thường. Ốm yếu là xấu bởi vì bạn khổ, nhưng là bình thường thì cũng không tốt gì mấy bởi vì người bình thường đang chịu khổ theo cả triệu cách. Thực ra, là bình thường chỉ ngụ ý điều chỉnh theo xã hội. Bản thân xã hội có thể bất thường, toàn thể xã hội có thể tự nó ốm yếu. Điều chỉnh theo nó chỉ có nghĩa là bạn bất thường một cách bình thường, có vậy thôi. Điều đó chẳng là việc thu được gì mấy. Bạn phải đi ra ngoài tính bình thường của xã hội. Bạn phải đi ra ngoài tính điên khùng của xã hội. Chỉ thế thì lần đầu tiên bạn mới trở thành lành mạnh.
Tâm lí học phương Đông: Yoga, Thiền, Sufi giáo, tất cả đều giúp cho người lành mạnh trở nên lành mạnh hơn và thánh thiện. Kiểu tâm lí thứ ba được cần tới, được cần khẩn thiết, bởi vì không có nó bạn không có mục đích, cảm nhận về chính chỗ cuối. Điều đó phải được làm ra. Gurdjieff đã cố gắng hết sức nhưng đã không thể thành công. Bầu khí hậu đã chưa chín. Tôi đang cố gắng hướng tới điều đó lần nữa. Khó thành công trong nó, nhưng khả năng có đó và người ta cứ phải cố thôi. Nếu cho dù một hơi chút ánh sáng thêm được chiếu lên cái hoàn hảo, cái cuối cùng, tâm lí học tối thượng của con người, ngay cả điều đó cũng là tốt, rất có ích.

0 Đánh giá

Ads Belove Post