Read more
Thiền - Chim
đơn độc, chim cu cu của rừng
Bài nói về Thiền
Chương 15. Nhà mà không ai
sống
Osho kính yêu,
Khi giảng sư Lương Toại lần đầu tiên tới gặp
Ma Cốc, Ma Cốc cầm cuốc và bắt đầu rẫy cỏ dại. Lương Toại đi tới chỗ ông ấy
đang rẫy cỏ, nhưng Ma Cốc cố tình không để ý tới ông ấy và trở về phương trượng
đóng cửa lại.
Ngày hôm sau cùng điều đó xảy ra, nhưng lần
này Lương Toại gõ cửa.
Ma Cốc hỏi, "Ai đó?"
Và Ma Cốc gọi Lương Toại, như thế ba lần gọi,
và Lương Toại ba lần trả lời. Xong Ma Cốc mắng: "Thầy chùa gì mà độn căn
như thế!" Lương Toại tỉnh ngộ ngay dưới câu mắng ấy. Bấy giờ thì Lương Toại
đã hiểu Thiền bèn thưa rằng: "Hòa Thượng không lừa Lương Toại, nếu không đến
lễ bái Hòa Thượng thì Lương Toại cơ hồ đã bị mười hai bộ kinh luận lừa suốt đời
rồi."
Ma Cốc mở cửa và xác nhận chứng ngộ của
Lương Toại.
Về sau này, Lương Toại trở về chỗ học, rời
bỏ việc học, và nói với những Tăng đồng môn, những người đã dùng thì giờ để học
cho thành thạo triết học Phật giáo rằng:
"Tất cả những gì mấy ông biết, tôi biết;
nhưng cái mà tôi biết, thì không có ai trong mấy ông biết cả."
Một hôm Thạch Đầu đang lên núi cùng đệ tử,
Thiện Đạo, và, khi thấy các cành cây cản đường, bảo đệ tử chặt chúng đi.
"Đệ tử không mang dao," Thiện Đạo
nói.
Thạch Đầu rút con dao của mình và đưa cho
Thiện Đạo đằng lưỡi. Thiện Đạo nói, "Xin thầy đưa đầu kia."
"Chú lấy đầu kia để làm gì?" Thạch
Đầu hỏi. Nhân đó Thiện Đạo tỉnh ngộ chân lí của Thiền.
Long Nha được một sư hỏi, "Cái gì là
cái cổ nhân chung cuộc thu được, để cho mọi công việc của họ đều xong?"
Long Nha trả lời, "Nó giống như kẻ trộm
phá vào nhà không người."
Maneesha, trước khi tôi đi vào
trong thế giới của Thiền, cái gì đó cần phải được nói về ông Shankaracharya ở
Puri.
Tuyên bố của ông ấy rằng những
tiện dân là người của Thượng đế làm ra một điều tuyệt đối cần thiết là người của
Thượng đế phải được phép vào mọi đền mà đã tuyên bố là đền của Thượng đế.
Thứ hai, bằng việc tuyên bố những
tiện dân là người của Thượng đế, bản thân ông ấy đã trở thành tiện dân. Ông ấy
cũng là một phần của người của Thượng đế. Ông ấy đã làm cho toàn thể xã hội
Hindu thành người harijan. Hoặc tất cả sẽ được phép vào các đền hoặc không ai
được phép vào các đền.
Người harijans đáng thương đang
bị các chính khách sử dụng vì mục đích riêng của họ. Nhưng may mắn Swami
Agnivesh, người đã cố gắng dẫn đoàn tuần hành vào ngôi đền Nath Dwara, đã không
thể tập hợp được nhiều hơn một trăm năm mươi người. Và khi họ tới gần Nath
Dwara hơn tất cả họ đã biến mất! Ngay cả con trai của Bác sĩ Ambedkar, người đã
là người lãnh đạo lớn của người harijans, đã không xuất hiện trong đoàn tuần
hành. Ông ấy đã hứa tới. Đây là một thất bại lớn của Agnivesh, và nếu ông ấy có
bất kì thông minh nào ông ấy sẽ thấy rằng điều đó ngụ ý rằng người harijans sợ
thế... hàng nghìn năm ước định không thể bị loại bỏ bởi các chính khách.
Cách duy nhất cho người
harijans là đòi hỏi cuộc bỏ phiếu tách rời. Khác hơn điều đó, không có giải
pháp. Và người harijan không phải cố vào trong bất kì ngôi đền Hindu nào. Họ có
thể có những ngôi đền nhỏ riêng của họ, cho dù trong các lều tre nhỏ. Nhưng đi
tới chỗ nào đó mà bạn không được đón chào là sỉ nhục; có giới hạn cho mọi thứ.
Nhưng dường như là với hàng nghìn năm kết án, ngay cả những người harijans đã
nhập tâm rằng họ là tiện dân, rằng bằng việc chạm vào họ, bất kì người nào sẽ
trở thành bẩn.
Loại ước định này không thể bị
các chính khách phá vỡ. Người harijans cần sáng suốt tâm lí; đầu tiên họ phải
được tự do khỏi việc là tiện dân. Chỉ bằng việc đi vào đền họ sẽ không được tự
do theo bất kì cách nào khỏi tính tiện dân của họ. Đầu tiên họ phải thu được
chân giá trị của họ, sự kính trọng của họ. Họ phải từ chối đi vào bất kì đền
nào, vì đây là loại đền gì, mà từ chối mọi người? Đền nên mở cho mọi người. Thượng
đế không phải là độc quyền của bất kì người nào.
Một mặt, Agnivesh đã không thể
tập hợp được người, nhưng ngôi đền Nath Dwara đã tập hợp được năm nghìn người để
tranh đấu nếu Agnivesh mà tới được đền. May mắn là ông ta đã không thể tới được;
bằng không những người harijans đó chắc đã bị tàn sát. Điều đó đã được làm ở nước
này trong nhiều thế kỉ: người harijans đã bị thiêu sống, làng của họ đã bị đốt
cháy hoàn toàn. Không ai được phép thoát, và đàn bà của họ đã bị cưỡng hiếp. Họ
đã trở nên quen với loại làm nhục này.
Cho nên vấn đề không phải là về
chính khách, vấn đề là những người thông minh nâng người harijans lên chân giá
trị của họ và nhắc nhở họ rằng, "Các bạn là con người và các bạn không cần
cầu xin điều đó từ bất kì người nào. Chính quyền cơ bản của bạn là các cá nhân.
Và chính một quyền hoàn hảo là phủ nhận toán người Hindu hoàn toàn, vì nó đã đè
nén các bạn trong mười nghìn năm và nó sẵn sàng, thậm chí cả ngày nay, làm cùng
điều đó."
Điều tốt là người harijans đã
không đi theo Agnivesh, người chỉ là một chính khách tí hon. Ông ta không quan
tâm tới người harijans; bằng không ông ta chắc đã thấy rằng toàn thể vấn đề là
lau sạch cái vô ý thức của người harijans. Điều đó không thể được làm bằng việc
đi vào đền. Điều đó cần phong trào thiền lớn lao để cho người harijans có thể
ném ra mọi ước định đã từng bị áp đặt lên họ. Chỉ qua thiền họ mới có thể thu
được chân giá trị của họ, tính người của họ. Theo cách này nó đang sỉ nhục thế...
Bây giờ Agnivesh chịu trách nhiệm,
vì cả nước sẽ cười: "Trông điều đã xảy ra đi - người harijans trốn khỏi
đám tuần hành, họ không bao giờ tới Nath Dwara." Agnivesh chịu trách nhiệm
cho tình huống xấu xa này. Lại tâm trí đẳng cấp Hindu đã thắng lợi. Nó sẽ vẫn
còn thắng lợi, chừng nào bản thân người harijans chưa phủ nhận các ngôi đền
Hindu, phủ nhận nghi lễ Hindu, và yêu cầu cuộc bầu cử tách rời cho bản thân họ,
nói họ sẽ không bầu cho người Hindus. Thế, và chỉ thế, mới có khả năng cho sự
nô lệ này - có lẽ là sự nô lệ lâu nhất trên thế giới - chấm dứt.
Ngôi đền này là mở cho mọi người.
Người harijans nên tới đây để thiền và hiểu toàn thể quá trình tại sao họ đã chấp
nhận sự suy thoái này.
Và ngay cả nói rằng bạn muốn đi
vào đền là chấp nhận rằng những đền đó là chỗ linh thiêng. Những chỗ linh
thiêng đó đã từng là nguyên nhân của mọi áp bức, đè nén, đau khổ, thiêu người sống.
Những đền đó không còn là linh thiêng nữa. Và bất kì người nào muốn người
harijans đi vào, họ phải làm rõ ràng cho anh ta: "Đừng chơi trò chính trị.
Chúng tôi không thuộc về nhóm người Hindu và chúng tôi không cần thuộc về bất
kì nhóm nào khác. Chúng tôi sẽ tồn tại như người harijans, người của Thượng đế.
Chúng tôi sẽ làm ra thượng đế riêng của chúng tôi, như các ông đã làm ra thượng
đế riêng của các ông; chúng tôi sẽ làm lời cầu nguyện riêng của chúng tôi, như
các ông đã làm lời cầu nguyện riêng của các ông. Chúng tôi sẽ không chấp nhận
kinh sách của các ông hay tín ngưỡng của các ông. Chúng tôi sẽ bắt đầu một tình
huynh đệ mới." Duy nhất cuộc cách mạng này, cách mạng thiền mới có thể làm
họ tự do trong giải phóng.
Nhưng tâm trí con người là thứ
rất phức tạp. Tôi đã từng ủng hộ việc giải phóng phụ nữ, và thư kí của tôi
Hasya đã ở châu Âu, gặp gỡ các nhóm khác nhau. Cô ấy đã đi gặp các nhóm giải
phóng phụ nữ nữa, nhưng vì một cuốn sách được viết bởi một đàn ông, họ sẽ không
chấp nhận nó. Cùng sự ngu xuẩn - tôi ủng hộ việc giải phóng họ, nhưng vì tôi là
đàn ông, họ sẽ không chấp nhận sách của tôi hay ý tưởng của tôi về cách đàn bà
có thể đạt tới giải phóng. Và bản thân họ đang làm những điều ngu xuẩn nhân
danh giải phóng. Giải phóng của họ là gì? Chỉ là hút thuốc như đàn ông, ăn mặc
như đàn ông, dùng các từ thô tục như đàn ông. Họ sẽ sớm yêu cầu đi tiểu như đàn
ông. Đây là giải phóng của họ!
Đó là cùng vấn đề với mọi loại cảnh nô lệ: bản thân người nô lệ không có khả năng có được tự do khỏi ước định của người đó. Bằng không, nó có thể xảy ra trong một khoảnh khắc. Ở đây thậm chí không ai hỏi bạn là ai, chúng tôi đơn giản cho bạn cơ hội để bỏ các ước định của bạn. Dù các ước định đó là bất kì cái gì, dù bất kì ai đã áp đặt chúng, người Hindus hay người Mô ha mét giáo hay người Do Thái hay người Ki tô giáo, không thành vấn đề. Vấn đề là bỏ chúng và chỉ là bản thân bạn, sạch sẽ, dường như bạn mới được sinh ra.
Đây là cuộc cách mạng duy nhất mà có thể làm cho mọi loại nô lệ biến mất khỏi thế giới. Và chúng ta cần một thế giới của tự do, của mọi loại tự do - nói, đi lại, chân giá trị. Toàn thể quá khứ là tối tăm tới mức đây là lúc ngắt quãng bản thân chúng ta với quá khứ một cách tuyệt đối và tạo ra tương lai mới.
Và đặc biệt trong những khoảnh khắc này, trong phần cuối cùng của thế kỉ hai mươi này, điều đó đang trở nên ngày càng sắp xảy ra: hoặc bạn tạo ra con người mới và nhân loại mới hoặc bạn sẽ phá huỷ hành tinh đẹp này. Hoặc là cuộc cách mạng vô cùng, ném đi mọi quá khứ bị tải nặng lên chúng ta, hoặc chúng ta sẽ bị chết bởi trọng lượng này. Và không chỉ chúng ta sẽ bị chết - cây cối, chim muông, con vật, hoa, mọi thứ sẽ biến mất. Con chim cu cu này sẽ không hót. Sẽ không có việc tụ hội im lặng như thế này.
Trong quá khứ đó đã chỉ là vấn đề ý thức hệ, triết lí. Bây giờ nó là vấn đề rất thực tế, thực chứng, sự kiện: Bạn có muốn sống còn không? Thế thì bỏ mọi sự nô lệ và mọi loại mê tín vô ý thức, mọi kém cỏi. Chỉ để từng con người là bản thân người đó, được chấp nhận, được kính trọng.
Nếu sự tồn tại kính trọng bạn, những brahmin này là ai mà kết án bạn? Nếu sự tồn tại chấp nhận bạn, thế thì bạn có thể có cảm giác trách nhiệm vô cùng: bạn được cần bởi sự tồn tại, và điều này là đủ để cảm thấy được đáp ứng và được mãn nguyện.
Nhưng việc đáp ứng này chỉ tới qua việc làm sâu sắc của thiền.
Tôi quan tâm tới Zen chỉ vì Zen là thiền thuần khiết. Chính từ ‘Zen' ngụ ý thiền. Nó chẳng có cái gì khác, nó không yêu cầu nghi lễ. Như bạn vậy, yêu cầu duy nhất là đi vào trong và khám phá cái ta vĩnh hằng của bạn.
Cái ta vĩnh hằng đó không là người brahmin không là người harijan; cái ta vĩnh hằng đó không là đàn ông không là đàn bà. Cái ta vĩnh hằng đó là phúc lạc, an bình đi qua hiểu biết.
Cái ta vĩnh hằng đó là cực lạc thuần khiết. Bạn có thể hát và bạn có thể múa và việc hát của bạn, việc múa của bạn, nếu chúng tới từ cốt lõi bên trong nhất của bạn, trở thành lời cầu nguyện duy nhất của bạn. Chúng là lời cầu nguyện đích thực duy nhất; mọi lời cầu nguyện khác được con người soạn ra, và lời cầu nguyện do con người soạn ra là không có giá trị.
Lời cầu nguyện nảy sinh bên trong bạn, như ngọn lửa... và đó là điều xảy ra trong thiền sâu. Đột nhiên bạn bắt đầu trải nghiệm hơi ấm mới và ngọn lửa mới, niềm vui mới mà bạn chưa bao giờ trải nghiệm trước đây. Nó đã từng ngủ, nó đã từng bị kìm nén liên tục, trong hàng triệu năm. Nó đã đi sâu tới mức bạn sẽ phải đi tới chiều sâu đó để tìm ra nó.
Đó là lí do tại sao tôi liên tục nhấn mạnh: đi tiếp đi, mỗi lúc một sâu hơn, và liên tục vứt đi rác rưởi mà quá khứ đã bỏ lại trong bạn.
Những giai thoại nhỏ này tất cả đều có liên quan tới thiền theo những cách khác nhau.
Khi giảng sư Lương Toại lần đầu tiên tới gặp Ma Cốc, Ma Cốc cầm cuốc và bắt đầu rẫy cỏ dại.
Thiền là hiện tượng có tính biểu tượng và thơ ca thế, từng cử chỉ đều có ý nghĩa triết lí mênh mông. Bây giờ, bạn chắc đã bỏ lỡ, như Lương Toại đã bỏ lỡ. Thậm chí không một lời nào được diễn đạt ở cả hai phía.
Ma Cốc cầm cuốc và bắt đầu rẫy cỏ dại. Lương Toại đi tới chỗ ông ấy đang rẫy cỏ, nhưng Ma Cốc cố tình không để ý tới ông ấy và trở về phương trượng đóng cửa lại.
Điều đó có vẻ ngớ ngẩn trên bề mặt. Nhưng điều ông ấy đang nói là, "Chẳng ích gì mà tới ta chừng nào ông chưa nhổ mọi cỏ dại khỏi bản thân ông. Chừng nào ông chưa tới với mảnh đất sạch, ta không thể gieo mầm được." Ông ấy đã không nói ra một lời, mặc dầu ông ấy đã làm điều đó tuyệt đối rõ ràng.
Ngày hôm sau cùng điều đó xảy ra, nhưng lần này Lương Toại gõ cửa.
Ngày đầu Lương Toại đã không thể hình dung ra được cái gì đang xảy ra, tại sao ông ấy bị đối xử theo cách này. Thậm chí không được chú ý tới, thậm chí không một lời chào... nhưng ông ấy phải đã cân nhắc, suy ngẫm về sự kiện rằng phải có cái gì đó, lí do nào đó tại sao một thầy lớn phải cư xử với người tìm kiếm mới theo cách này. "Chắc chắn mình phải sai. Thầy không thể sai được..." Và ông ấy phải đã thấy, trong khoảnh khắc im lặng của mình, ra vấn đề rằng chừng nào ông ấy còn chưa loại ra mọi cỏ dại, chẳng có ích gì mà tới thầy.
Ngày hôm sau ông ấy lại tới: cùng điều đó xảy ra, nhưng lần này Lương Toại gõ cửa. Bây giờ ông ấy đã có tự tin nào đó. Ông ấy đã hiểu thông điệp: thầy đã không bác bỏ ông ấy nhưng khơi gợi ông ấy - "Chừng nào ông chưa gõ cửa, cửa sẽ không tự mở."
Ngày hôm sau cùng điều đó xảy ra, nhưng lần này Lương Toại gõ cửa.
Ma Cốc hỏi, "Ai đó?"
Chỉ từ Ai đó... Và Ma Cốc gọi Lương Toại, như thế ba lần gọi, và Lương Toại ba lần trả lời. Xong Ma Cốc mắng: "Thầy chùa gì mà độn căn như thế!" Lương Toại tỉnh ngộ ngay dưới câu mắng ấy. Bấy giờ thì Lương Toại đã hiểu Thiền bèn thưa rằng: "Hòa Thượng không lừa Lương Toại.”
Đừng hỏi tôi là ai. Câu hỏi này làm cho tôi đơn giản thành kẻ ngu. Thầy biết tôi là ai, vì chúng ta không khác nhau. Lần này tôi đã tới mà không có cỏ dại và lần này tôi đã thu lấy dũng cảm để gõ cửa.
"Nếu không đến lễ bái Hòa Thượng thì Lương Toại cơ hồ đã bị mười hai bộ kinh luận lừa suốt đời rồi."
Kinh sách Phật giáo được chia thành mười hai bộ kinh. Nó là trong số thư đàn lớn nhất, không tôn giáo nào khác có thể cạnh tranh được với nó. Ông ấy đã nói với Ma Cốc, "Nếu không đến lễ bái Hòa Thượng thì Lương Toại cơ hồ đã bị mười hai bộ kinh luận lừa suốt đời rồi, Lương Toại chắc đã liên tục đọc và đọc và đọc. Nhưng với mỗi một hành động thầy đã đem Lương Toại tới trạng thái của vô trí."
Ma Cốc mở cửa và xác nhận chứng ngộ của Lương Toại.
Khoảnh khắc ông ấy nói, "Lương Toại được kết thúc với suy nghĩ, triết lí, với tâm trí..."
Điều đó là đủ nếu người ta hiểu rằng tâm trí không phải là con đường, nhưng an bình và im lặng của vô trí mới là con đường. Đột nhiên ông ấy bắt lửa với cuộc sống mới và vĩnh hằng.
Về sau này, Lương Toại trở về chỗ học, rời bỏ việc học, và nói với những Tăng đồng môn, những người đã dùng thì giờ để học cho thành thạo triết học Phật giáo rằng:
"Tất cả những gì mấy ông biết, tôi biết; nhưng cái mà tôi biết, thì không có ai trong mấy ông biết cả."
Với những anh chàng học giả, người cứ suy ngẫm trên kinh sách, trước khi bỏ họ ông ấy đã đưa ra phát biểu, "Tất cả những gì mấy ông biết - kinh sách - tôi biết. Nhưng cái mà tôi biết - bản thân tôi biết - thì không có ai trong mấy ông biết cả."
Không có cách nào biết bản thân người ta qua lời, hệ thống niềm tin, kinh sách. Chỉ có một cách, và đó là đi thẳng vào trong cái ta riêng của bạn sâu nhất có thể được, dẹp đi mọi cỏ dại, không bị ngăn cản bởi bất kì ý nghĩ nào, và đột nhiên bạn đi tới cội nguồn cuộc sống của bạn. Nó là lửa và nó là lửa vĩnh hằng. Một khi bạn đã trải nghiệm nó, nó bao giờ cũng còn với bạn. Nó sẽ rạng ngời trong sự hiện diện của bạn; ngay cả người khác sẽ cảm thấy việc rạng ngời đó. Những người có chút sự cảm nhận, những người không hoàn toàn mù, thậm chí sẽ thấy thay đổi này, việc tái sinh này, cuộc cách mạng mà bạn đã trải qua.
Một hôm Thạch Đầu đang lên núi cùng đệ tử, Thiện Đạo, và, khi thấy các cành cây cản đường, bảo đệ tử chặt chúng đi.
"Đệ tử không mang dao," Thiện Đạo nói.
Thạch Đầu rút con dao của mình và đưa cho Thiện Đạo đằng lưỡi. Thiện Đạo nói, "Xin thầy đưa đầu kia."
Một cách tự nhiên, khi bạn đưa dao cho ai đó, bạn cầm phần lưỡi trong tay bạn. Bạn không đưa phần lưỡi, vì điều đó có thể làm đứt tay người kia. Nhưng đây là điều Thạch Đầu đã làm: đưa đầu lưỡi ra, ông ấy chìa con dao ra.
Đệ tử này nói, "Xin thầy đưa đầu kia." Một sự cố nhỏ, nhưng đôi khi những sự cố nhỏ làm lẩy cò những thay đổi lớn phi thường.
"Chú lấy đầu kia để làm gì?"
Đầu kia không thể chặt được cây dại, bạn cần lưỡi dao sắc để chặt cây dại. Nghe thấy điều này, Thiện Đạo tỉnh ngộ chân lí của Thiền.
Tất cả chúng ta đều bắt đầu với đầu sai. Những người muốn biết về bản thân họ lại đi hỏi người khác. Những người muốn biết về bản thân họ lại đi đọc kinh sách. Bạn đang bắt đầu từ đầu sai.
Nếu bạn muốn đạt tới bản thân bạn, cứ đi vào bản thân bạn như chiếc dao sắc, cắt đi mọi rác rưởi, đạt tới chính tâm thức mà không thể bị cắt.
Và không có nhu cầu phải lo nghĩ. Tâm thức không thể bị cắt chặt, không thể bị thiêu cháy. Không có cách nào phá huỷ nó. Nó không có hình tướng, nó không bao giờ chết. Nó chỉ liên tục chuyển từ hình tướng này sang hình tướng khác, tới các đỉnh ngày càng cao hơn. Đỉnh cao nhất chúng ta đã đạt tới mãi tới giờ là bản tính phật.
Nếu bạn đi sâu vào bên trong bản thân bạn, bạn sẽ thấy vị phật. Không thành vấn đề liệu bạn là người Hindu hay người Mô ha mét giáo hay người Ki tô giáo, người harijan, đàn ông hay đàn bà; vị phật là chính bản tính của bạn. Vấn đề chỉ là đi đủ sâu.
Long Nha được một sư hỏi, "Cái gì là cái cổ nhân chung cuộc thu được, để cho mọi lao động của họ đều xong?"
Long Nha trả lời, "Nó giống như kẻ trộm phá vào nhà không người."
Một phát biểu rất hay... Long Nha là thầy, và sư đệ tử đang hỏi ông ấy: Cái gì là cái mà Phật Gautam hay các thầy cổ đại đã có được qua mọi lao động, kỉ luật, phương pháp của họ? Nó là cái gì? Câu trả lời này cực kì hay. Nó chỉ có thể tới từ người biết. Long Nha nói,
"Nó giống như kẻ trộm phá vào nhà không người."
Kẻ trộm làm nỗ lực lớn - phá tường, sợ ai đó có thể nghe thấy tiếng động và người đó có thể bị bắt quả tang. Nhưng khi người đó đi vào trong nhà, người đó thấy chẳng có ai.
Mọi thiền của bạn đều là nỗ lực của kẻ trộm. Khi bạn thành công, bạn sẽ thấy không gian không người, thuần khiết bên trong. Trong trắng của nó, thuần khiết của nó, là sức mạnh của nó.
Về chứng ngộ của mình, Bunan đã viết:
Trăng vẫn là cùng trăng cũ,
hoa, đích xác như chúng đã vậy,
vậy mà tôi đã trở thành tính vật của mọi vật tôi thấy!
Trăng vẫn là cùng trăng cũ - không cái gì đã thay đổi trong trăng. Hoa, đích xác như chúng đã vậy - chúng vẫn như vậy.
vậy mà tôi đã trở thành tính vật của mọi vật tôi thấy!
Khi con người của chứng ngộ nhìn vào hoa hồng không có phân chia giữa người biết và cái được biết; người đó trở thành chính tâm của hoa hồng. Khi người đó nhìn vào mặt trời mọc người đó trở thành mặt trời mọc, khi người đó nhìn vào mây trắng, người đó trở thành mây trắng. Điều đó không phải bởi nỗ lực nào. Người đó chỉ trở thành chiếc gương, sạch tới mức mọi thứ tới trước nó đều được phản xạ trong nó. Người đó trở thành nó.
Và bị đồng nhất với mọi thứ bao quanh bạn là kinh nghiệm lớn lao nhất mà con người đã từng bắt gặp. Thế thì con chim cu cu hót không là cái gì đó bên ngoài bạn, nó cho cảm giác dường như tiếng hót đang nảy sinh bên trong bạn. Hoa đang nở bên trong bạn. Ý tưởng về bản thân bạn đã trở thành rộng tới mức nó bao phủ toàn thể sự tồn tại.
Trăng vẫn vậy, nhưng nó không còn ở bên ngoài. Hoa vẫn vậy, nhưng chúng nở bên trong. Đó đích xác là nghĩa của từ ‘biến đổi': bạn trở thành chính mọi thứ bạn thấy.
Và một nhà thơ khác, đặc biệt cho chuỗi bài Thiền kết thúc hôm nay:
Chim cu cu:
riêng mình tiếng của nó được cảm thấy,
không để lại cái gì đằng sau.
Khi mọi ngày trong thiền bạn ném đi mọi rác rưởi của bạn, cái còn lại đằng sau là im lặng thuần khiết.
Một bài thơ của Tokugako:
Mặt nguyên bản là thực tại của thực tại:
Giơ tay ra tới con chim đang tung cánh.
Mũi đứng, mắt ngang - rồi sao?
Điều gì xảy ra nếu tâm trí ông trống rỗng?
Cứ giữ con chim trong tay bạn và không nghĩ về nó... hay hoa trong tay bạn, và không nghĩ về nó. Chỉ nhìn nó. Không ý nghĩ nào di chuyển giữa bạn và hoa, cái gì xảy ra? Đột nhiên bạn là hoa. Và nếu bạn cảm thấy là một với hoa, bạn đã cảm thấy là một với sự tồn tại.
Con người của chứng ngộ, cảm thấy là một với sự tồn tại, không cần đạo đức, không cần luân lí, không cần giáo huấn về cái gì là đúng và cái gì là sai. Người đó là trong hoà điệu với sự tồn tại tới mức mọi thứ xảy ra qua người đó nhất định chỉ là đúng. Không có khả năng về bất kì cái gì đi sai.
Thiền là nghệ thuật mang bạn tới gần hơn với nhịp tim đập của sự tồn tại. Bạn càng đi sâu hơn vào bên trong bạn... bạn sẽ thấy chính nhịp tim đập của sự tồn tại. Thế thì không có đạo đức nào dành bạn; mọi điều bạn làm đều đẹp. Thế thì bạn yêu không có điều kiện, không đòi hỏi, không sở hữu. Thế thì bạn cho từ niềm vui, không từ bắt buộc; thế thì bạn chia sẻ bởi vì bạn có đầy tràn tới mức nếu bạn không chia sẻ, gánh nặng của niềm vui sẽ là quá nhiều. Bạn trở thành đám mây mưa phải mưa xuống đâu đó, vì mưa đang trở nên mỗi lúc một nặng hạt hơn.
Nếu chư phật đã nói, nó không là gì khác hơn mây mưa đang trút xuống một cách tự phát. Thế thì từng cử chỉ đều tự động đúng; thế thì từng lời bắt nguồn từ bản thể sâu nhất của bạn, đem tới điệu vũ nào đó và niềm vui nào đó và hương thơm nào đó cùng nó.
Maneesha đã hỏi:
Osho kính yêu,
Chúng tôi có thể học được gì từ chim cu cu mà sẽ mang chúng tôi tới gần thầy hơn?
Maneesha, không có gì để được học từ chim cu cu. Chỉ lắng nghe...
Và khi bạn lắng nghe chim cu cu, âm thanh biến mất, tiếng hót biến mất. Ngay cả tiếng vọng của nó, xa xăm, biến mất. Chỉ không gian im lặng được bỏ lại sau. Thế thì bạn đã tới gần tôi hơn, vì tôi không có đó. Tôi là ngôi nhà nơi không người nào sống. Nếu bạn cũng trở thành không người nào, bạn sẽ biết hương vị của bản thể tôi, vì hương vị này là như nhau, dù nó là bản thể bạn hay bản thể tôi.
Phật Gautam tương truyền đã nói rằng hương vị của nước biển là như nhau dù ở đông hay tây, ở nam hay ở bắc.
Bất kì khi nào bạn đi tới trống rỗng hoàn toàn, bạn đã đi tới gần không chỉ với tôi, bạn đã đi tới gần mọi chư phật của quá khứ và mọi chư phật của tương lai, vì nó là cùng thực tại đang đập rộn ràng trong tất cả chúng ta.
Trước khi chúng ta đi vào trong thiền, chỉ cắt đi chút ít cỏ dại. Và tiếng cười cũng giống như chiếc kiếm rất sắc - nó cắt đi.
Paddy và Sean loạng choạng ra khỏi quán rượu muộn trong đêm, say khướt. Họ nhắm đi về nhà thì Paddy dừng lại, trỏ vào chiếc đèn phố và nói, "Sean, nhìn trăng tròn đẹp chưa!"
"Đừng có là đồ ngốc, Paddy," Sean nói. "Đó là mặt trời!" Họ cãi nhau qua lại một chốc, nhưng không thể đi tới bất kì kết luận rõ ràng nào, cho nên họ quyết định lấy ý kiến bên thứ ba. Người tiếp ngẫu nhiên tới là Kowalski, cũng rất say.
"Xin lỗi ngài," Paddy nói, vừa trỏ vào đèn phố. "Nhưng cảm phiền ông nói cho chúng tôi liệu đó là mặt trăng hay mặt trời?"
"Chết tiệt làm sao tôi biết được?" Kowalski đáp. "Tôi có sống quanh đây đâu!"
Lúc đó là ba giờ sáng và Paddy và Seamus đang say khướt cò bợ, cố tìm đường về nhà. Nhưng phố tối và cây đứng thành hàng hoàn toàn. Họ hết đụng vào cây nọ tới cây kia, loạng choạng, cố đưa chai whiskey của mình ra trước ra sau.
Dường như không thể nào bước nổi khi họ va vào cây này, đụng vào nhau, và va vào cây kia.
Điều này diễn ra trong hai mươi phút thì Paddy, kiệt sức hoàn toàn và thâm tím mình mẩy, dừng lại và quay sang Seamus. "Tớ nghĩ có thể chúng ta nên thôi uống nhiều thế," Paddy rên rỉ, "và đợi cho đám diễu hành chết tiệt này kết thúc!"
Bây giờ, Nivedano, cho tiếng trống thứ nhất và mọi người đi vào điên khùng tuyệt đối. Nói mọi thứ bạn chưa bao giờ nói, dùng bất kì ngôn ngữ nào mà bạn không biết - ngay cả âm thanh cũng được, nhưng đánh vào mọi người khác quanh bạn.
Nivedano ...
(Tiếng trống)
(Nói lắp bắp)
(Tiếng trống)
Im lặng. Nhắm mắt lại, không chuyển động... chỉ đi sâu hơn vào trong bản thân bạn.
Ngày càng sâu hơn.
Khoảnh khắc này bạn là phật.
Nếu bạn có thể nhớ điều đó hai mươi bốn giờ, bạn sẽ thấy cái đẹp vô cùng của cuộc sống.
Phúc lạc lớn đã từng được biết tới chỉ bởi rất ít người, nhưng đó là quyền của mọi người.
Nếu bạn bỏ lỡ, chỉ bạn sẽ chịu trách nhiệm.
Để làm cho nó đi sâu hơn...
Nivedano ...
(Tiếng trống)
Thảnh thơi... buông bỏ, gần như chết.
Thân thể liên tục thở, bạn đi vào trong.
Đây là ngôi nhà không người, nơi hoa hồng mọc.
Không gian này làm cho bạn thành một với sự tồn tại.
Nhịp tim đập của bạn trở nên hoà điệu với nhịp tim đập của vũ trụ.
Khác hơn điều này, không có tôn giáo.
Nivedano ...
(Tiếng trống)
Quay lại như vị phật, với cùng im lặng và cùng cái đẹp, cùng duyên dáng.
Ngồi xuống, chỉ nghỉ ngơi một chút...
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội năm nghìn chư phật cùng nhau chứ?
Vâng!
Kết thúc quyển ‘Thiền - Chim đơn độc, chim cu cu của rừng’ – Quay về Mục lục
0 Đánh giá