Read more
Osho kính yêu,
Bài nói cho hội chúng (phần bốn)
Nếu ông là con người, con người thiền thực,
khi ông nghe ta nói, "Những người tinh thông cổ xuất hiện ở đâu trên thế
gian?" ông phải đã nhổ ngay vào mặt ta. Nếu ông không hành động theo cách
này, nhưng chấp nhận mọi thứ ngay khi ông nghe ai đó nêu chúng ra, ông đã rơi
vào trong loại phụ.
Lần nữa, ông đã không thấy thầy lời nói của
thầy La Sơn sao? "Cổng huyền bí không có học thuyết, không thiết lập
nguyên lí tổng quát. Nếu ông muốn tìm nó, nhìn trước âm thanh." Tất cả các
ông là đệ tử của Phật, tâm trí thực không bị cố định, và trí huệ thực không bị
giới hạn. Cho dù ta để hai môi này liên tục nói - từ giờ tới tận cùng của thời
gian - không nghỉ, ông vẫn không thể phụ thuộc vào sức mạnh của người khác: Đây
là vấn đề trong đó từng và mọi người là đầy đủ theo quyền riêng của mình. Nó
không thể được tăng lên cũng không bị giảm đi dù chút ít nhỏ nhất.
Tổ nói: Giữ nó và ông mất nó, và nhất định
đi vào con đường sai.
Bỏ nó và một cách tự nhiên bản chất của nó
không có việc đi hay ở.
Chỉ có đức tín trong chân lí này của một
tâm trí: nó không thể được hiểu thấu, nó không thể bị bác bỏ. Thế thì ông sẽ phải
từ bỏ thân thể ông và mạng sống của ông ngay đó. Nếu ông không thể từ bỏ chúng,
đó là vì sự do dự riêng của ông - vào ngày cuối cùng của đời ông, đừng trách
ta.
Thời tiết là nóng và ông đang đứng một thời
gian dài.
Đại Huệ hét lên và đi xuống khỏi chỗ ngồi.
Điều đáng buồn là đã đi tới chỗ
cuối của lời kinh của Đại Huệ. Nó đã là cuộc hành hương giầu có vô cùng, đi từng
bước khi Đại Huệ đang trưởng thành, khi ông ấy đang biến đổi, khi ông ấy bắt đầu
thay đổi từ người trí thức thành nhà huyền bí.
Thật lớn lao khi quan sát biến
đổi từ trí tuệ thành trực giác, từ tâm trí sang thiền, từ người bình thường
thành người bất tử... việc bùng nổ đã xảy ra cho ông ấy. Chúng ta cũng đã chia
sẻ chút ít ánh sáng, chỉ bằng việc là tỉnh táo và nhận biết.
Đây là lời kinh cuối cùng. Chúng
có tính kết luận; chúng kết thúc toàn thể kinh nghiệm của ông ấy, do đó chúng
có tiềm năng lớn.
Nếu ông là người...
Và với người ông ấy ngụ ý chỉ
con người của thiền. Người không phải là con người của thiền chỉ là người danh
nghĩa; không có mấy khác biệt giữa người đó và các con vật khác. Con vật bạo
hành - con người cũng vậy; con vật cạnh tranh - con người cũng vậy; con vật
ghen tị - con người cũng vậy. Con vật cũng có khả năng suy nghĩ - mặc dầu không
mấy, nhưng dầu vậy không có khác biệt về chất nào.
Điều duy nhất tạo ra khác biệt
là thiền, vì không con vật nào đã biểu lộ năng lực có tính thiền. Ngay cả trong
nhân loại bao la, chỉ rất hiếm khi con người đi tới chiều cao của thiền. Do đó
Đại Huệ là hoàn toàn đúng khi ông ấy nói, Nếu ông là con người, con người thiền
thực...
'Ch'an' là tiếng Trung Quốc cho
thiền. Ông ấy đang nói rằng bạn trở thành con người một cách đích thực chỉ
thông qua biến đổi có tính thiền, và ông ấy đang nói điều đó bây giờ theo thẩm
quyền riêng của ông ấy. Ông ấy đã là con người của trí tuệ; ông ấy đã bắt đầu
cuộc hành trình của mình như một nhà tư tưởng. Ông ấy kết thúc cuộc hành trình
của mình như việc im lặng vô ý nghĩ. Ông ấy chắc chắn có thẩm quyền để định
nghĩa con người: bản thân ông ấy đã trải qua thử lửa, ông ấy đã chứng minh bản
thân ông ấy là con người.
Con người, theo tất cả những
người biết, có năng lực đi ra ngoài tâm trí, năng lực trở thành vô trí, năng lực
chỉ hiện hữu mà không có một ý nghĩ nào khuấy động bên trong bạn. Một khi bạn
đã biết tới cái bao la này, cái im lặng này, bạn sẽ không hỏi bất kì câu hỏi
nào về sự tồn tại. Không phải là bạn biết mọi câu trả lời - bạn thậm chí không
biết tới một câu trả lời - nhưng mọi câu hỏi đã biến mất, do đó nhu cầu về bất
kì câu trả lời nào cũng đã biến mất.
Trong trạng thái này của việc
không có câu hỏi, không câu trả lời, chỉ tâm thức thuần khiết, gương phản chiếu
hư không... chỉ là bản thân bạn, không đi bất kì đâu, vẫn còn ở đây bây giờ...
bạn đạt tới phúc lạc tối thượng mà mọi người đã từng tìm kiếm nhiều thế kỉ, từ kiếp
nọ sang kiếp kia, nhưng liên tục bỏ lỡ vì việc tìm của con người là theo hướng
sai: con người bao giờ cũng nhìn ra ngoài, và kho báu ở bên trong.
Con người đang tìm kiếm trong đền
chùa và trong giáo đường và trong nhà thờ, và người mà con người đang tìm kiếm ở
mọi nơi thì lại ở ngay bên trong con người. Nếu con người có thể dừng mọi việc
tìm kiếm, mọi việc ham muốn, mọi việc đi xa - chỉ trong một khoảnh khắc - cách
mạng xảy ra. Đột nhiên con người không còn là kẻ ăn xin, không còn khao khát,
ham muốn, hi vọng, chờ đợi. Đột nhiên con người đã trở thành người chủ.
Có một câu chuyện cổ... Một nhà
vua đã trở nên rất già, và ông ấy chỉ có một con trai. Ông ấy hỏi ý kiến một hiền
nhân lớn, người ông ấy bao giờ cũng hỏi lời khuyên, và người bao giờ cũng sáng
suốt hiếm hoi vào bất kì vấn đề gì mà ông ấy đem tới. Ông ấy nói với hiền nhân,
"Ta già rồi. Ta chỉ có một con trai, và nó sẽ kế tục ta. Một vương quốc
bao la ta để lại trong tay nó, không biết liệu nó có khả năng không... ông có gợi
ý cách nào đó ta có thể trở nên chắc chắn được không?"
Người trí huệ này, hiền nhân
già này, gợi ý cái gì đó rất kì kạ, và điều đó được làm theo. Hoàng tử được
phái đi trên chiếc xe ngựa ra ngoài vương quốc. Quần áo anh ta bị lấy đi và anh
ta được bảo rằng anh ta đã bị trục xuất khỏi vương quốc, và quần áo của kẻ ăn
xin cùng bình bát ăn xin được trao cho anh ta. Anh ta không thể tin được vào điều
đó. Anh ta nói, "Tôi đã phạm phải tội gì?"
Người đánh xe nói, "Tôi
không biết gì cả. Tôi đơn giản tuân theo mệnh lệnh của bố ông. Ông không được
phép vào vương quốc, bằng không ông sẽ bị cho vào tù. Cho nên đơn giản trốn xa
đi." Và chiếc xe quay về cung điện.
Anh thanh niên bàng hoàng. Đây
là hành vi nực cười; bố anh ta đã mất trí rồi sao? Anh ta đã hi vọng trở thành
vua và anh ta đã trở thành kẻ ăn xin. Nhưng bạn có thể làm được gì? Anh ta sớm
cảm thấy đói, khát và mặc dầu rất xấu hổ, anh ta phải đi ăn xin. Anh ta bắt đầu
xin ăn trên phố như bất kì kẻ ăn xin bình thường nào.
Nhiều năm trôi qua; anh ta đã
hoàn toàn quên mất rằng anh ta đã từng là hoàng tử, anh ta đã lắng đọng. Con
người có năng lực mênh mông để thích nghi với bất kì hoàn cảnh nào, và khi mọi
thứ là tuyệt đối không thể thoát được bạn không thể làm được bất kì cái gì
khác. Một buổi trưa nào đó, trong ánh mặt trời nóng bức, anh ta đang đứng trước
một khách sạn hỏi mọi người, "Tôi đã đói hai ngày rồi, cho tôi cái gì đó
đi." Vài đồng xu đã được thả vào bình bát của anh ta... và thế rồi đột
nhiên anh ta nghe thấy tiếng ồn ào của chiếc xe ngựa vàng. Trong một giây, ngay
lập tức, anh ta nhớ ra chiếc xe của riêng mình. Kì lạ... nó có vẻ đích xác giống
chiếc đó.
Chiếc xe dừng lại và cùng người
đánh xe đó - mặc dầu ông ta đã trở nên rất già - xuống xe, chạm chân hoàng tử,
đưa lại cho anh ta áo choàng và vương miện, và nói, "Bỏ nó đi! Vứt mọi thứ
quần áo của kẻ ăn xin đi. Trước hết vào khách sạn tốt; tắm rửa, lau sạch bản
thân ngài, mặc quần áo đẹp. Bố ngài sắp chết và ông ấy đã nhớ tới ngài; ông ấy
muốn ngài về ngay lập tức, vì ông ấy muốn trao cho ngài vương quốc và chìa khoá
kho báu của ông ấy bằng chính tay ông ấy."
Những người mà anh ta đã đi ăn
xin tụ tập lại xung quanh. Họ không thể tin được vào mắt họ, không phải bởi vì
quần áo, vương miện, xe vàng, mà bởi vì mặt của thanh niên này lập tức thay đổi.
Mắt anh ta có vẻ khác, lòng tự hào của anh ta đã quay lại; giờ anh ta đang đứng
đó với nhân phẩm lớn và sự vĩ đại. Kẻ ăn xin đã biến mất trong một phần giây.
Ngay khoảnh khắc trước anh ta
đã là người khác toàn bộ; chỉ một khoảnh khắc sau sự gián đoạn đã xảy ra. Đột
ngột, bất thần... ngay cả anh ta cũng không thể tin được vào điều đó, vì anh ta
có thể thấy thay đổi ngay cả trong tâm thức anh ta. Cách anh ta bước đi, cách
anh ta ngồi trong xe, mọi thứ đã thay đổi; cách anh ta nhìn mọi người - nó
không chỉ là bằng cùng con mắt cũ. Chỉ việc nhớ lại, không cái gì khác đã xảy
ra; chỉ việc thức tỉnh của sự kiện rằng anh ta là hoàng tử và sẽ là người kế tục
vương quốc lớn, chỉ các lời... nhưng mọi thứ đã thay đổi.
Cùng loại phép màu đó xảy ra
qua thiền: bạn đột nhiên nhận ra rằng một vương quốc lớn thuộc vào bạn, vương
quốc của toàn thể sự tồn tại; rằng bạn không là kẻ ăn xin, người có tham vọng về
những điều tầm thường, người ham muốn cái này và cái nọ, người hi vọng có nhiều
quyền hơn, nhiều danh hơn. Mọi triệu chứng của việc là kẻ ăn xin... khi người
ta đi vào trong thiền, mọi triệu chứng này biến mất. Người ta đột nhiên thấy
người ta có vương quốc, nhà của người ta; người ta không thiếu cái gì, người ta
là toàn thể, đầy đủ, được hoàn thành.
Chính vì lí do này mà Đại Huệ
nói, Nếu ông là người, người thiền thực, khi ông nghe ta nói, "Những người
tinh thông cổ xuất hiện ở đâu trên thế gian?" ông phải đã nhổ ngay vào mặt
ta.
Đây là cách thức đặc biệt của
Thiền; chúng là không thể hiểu được bên ngoài thế giới của Thiền. Bây giờ Đại
Huệ là thầy và ông ấy đang nói, "Khi ta nói điều vô nghĩa, nếu ông là người
thực ông sẽ phải nhổ thẳng vào mặt ta. Ông có thể đã dừng ta lại."
Chuyện xảy ra rằng một giám mục
ở Nhật Bản rất muốn gặp một Thiền sư, Lâm Tế. Ông ta đã nghe nói nhiều về ông ấy,
và ông ta chắc chắn rằng nếu ông ta tới, ông ta mang theo Kinh Thánh và đọc vài
đoạn hay về Jesus, đặc biệt Bài giảng trên núi, ông ta chắc chắn ông ta có thể
cải đạo cho Lâm Tế thành người Ki tô giáo. Và cải đạo cho Lâm Tế có nghĩa là cải
đạo hàng nghìn người đi theo ông ấy; ngay cả hoàng đế Nhật Bản cũng là môt đệ tử
của ông ấy. Đi vào trong núi và làm cuộc hành trình mệt mỏi là xứng đáng với điều
đó.
Giám mục tới Lâm Tế và nói rằng
ông ta muốn đọc vài câu từ thầy của ông ta, rằng ông ta hi vọng rằng Lâm Tế sẽ
nghe chúng, và rằng ông ta cũng muốn biết Lâm Tế nghĩ gì về chúng. Và ông ta bắt
đầu đọc những phát biểu hay của Jesus. Khi ông ta đã đọc hai hay ba phát biểu,
trước khi ông ta có thể đi xa hơn, Lâm Tế nói, "Dừng tất cả điều vô nghĩa
này lại! Bất kì người nào đã nói những lời này sẽ trở thành phật trong kiếp
tương lai nào đó, nhưng ngay bây giờ nó toàn là rác rưởi. Cứ bỏ nó đi."
Giám mục không thể nào tin được
vào điều đó; điều đó không phải là lịch sự. Lâm Tế có thể bất đồng, ông ấy ít
nhất có thể lịch sự chứ. Nhưng mọi người không hiểu rằng Thiền không tin vào việc
là lịch sự, nó tin vào là đích thực. Tuân theo phép xã giao của xã hội là không
quan trọng; với Lâm Tế điều quan trọng là phát biểu đích xác điều ông ấy cảm và
điều ông ấy thấy.
Lâm Tế nói, "Những phát biểu
này ngay bây giờ là vô nghĩa. Nhưng bất kì ai đã nói chúng - ta không biết người
đó và ta không muốn biết người đó - sẽ trở thành phật trong kiếp tương lai. Người
đó đang trên đường đúng, nhưng người đó phải du hành nhiều." Trong Thiền mọi
người đều hiểu rằng không có vấn đề về lịch sự, không có vấn đề về xã giao. Những
cái đó toàn là một phần của xã hội bình thường.
Cho nên khi Đại Huệ nói,
"Nếu ông thực sự là người của thiền... Đã có nhiều khoảnh khắc ta đã nói
điều vô nghĩa, khi ta chỉ là người trí thức nhưng nói cứ dường như ta biết, và
ta không biết cái gì. Ông vẫn còn im lặng và ông nghe ta dường như phật đang
nói cho ông. Nếu ông mà biết chút ít về thiền, ông chắc đã nhổ vào mặt
ta."
Nếu ông không hành động theo
cách này, nhưng chấp nhận mọi thứ ngay khi ông nghe ai đó nêu chúng ra, ông đã
rơi vào trong loại phụ.
Tôi đã giải thích cho bạn nghĩa
của từ 'phụ'. Nó có ý nghĩa lớn trong thuật ngữ của Thiền. Cái phụ có nghĩa là
cái được vay mượn - bạn đã rơi từ nguyên gốc xuống cái vay mượn. Nếu bạn là người
của thiền và bạn đang nghe một người có học và bạn không dừng người đó lại, bạn
đã rơi vào loại phụ. Bạn đã đánh mất cái chạm với cội nguồn nguyên thuỷ của việc
biết. Nhưng hành vi kì lạ này, mặc dầu đích thực và chân thành, đã không đi ra
ngoài biên giới của Thiền.
Tôi đã yêu Thiền, đặc biệt vì
nó không bận tâm tới bất kì cái gì ngoại trừ cái thực, ngoại trừ cái được kinh
nghiệm. Nó thậm chí không cho phép bất kì người nào rót cái vô nghĩa vào tâm
trí bạn. Rất khó cho người không biết gì về thiền để nói chuyện với Thiền sư. Họ
sống trong hai thế giới khác nhau; trao đổi dường như là không thể được.
Bạn liên tục cư xử theo cách bạn
được xã hội mong đợi phải hành xử, còn Thiền sư hành xử theo cách tâm thức ông ấy
đáp ứng cho khoảnh khắc đó. Ông ấy không có luật đạo đức để theo, không có kỉ
luật nào bên ngoài tâm thức riêng của ông ấy. Một cách tự nhiên ông ấy là kì lạ
và hoang dã, nhưng đó là cái đẹp của ông ấy. Nó là cùng cái đẹp như bạn thấy
trong con vật hoang dã - hồn nhiên của chúng, tính đích thực của chúng.
Lễ phép của con người không là
gì ngoài cái tên khác cho tinh ranh: bạn liên tục lắng nghe mọi người, mỉm cười,
và bên trong bạn đang nói, "Khi nào thằng ngốc này sẽ dừng lại?"
Một người thường tới nhà tôi;
ông ấy là bạn của ông nội tôi. Tôi đã xem họ nói chuyện, và ông ấy thực sự là mối
phiền hà, đem tới mọi loại chuyện tầm phào, phí thời gian, và ông tôi sẽ liên tục
nói, "Tốt, rất tốt."
Một hôm tôi nói, "Có giới
hạn cho mọi thứ. Câu chuyện này cứ diễn ra mọi ngày và nó thậm chí không phải
là cái gì khác ngoài việc ông ấy đem tới chuyện tầm phào và chẳng câu chuyện gì
mới. Cháu đã nghe những điều này nhiều lần rồi, và dầu vậy ông cứ nghe
mãi!"
Ông tôi nói, "Cháu nghĩ
ông nghe ông ấy chắc? Ông làm việc suy nghĩ của riêng ông; chỉ ở giữa ông mới
cho ông ta khuyến khích để tiếp tục. Ông lão đáng thương này cần ai đó lắng
nghe."
Tôi đã nhớ điều đó đặc biệt vì
mọi người đều cần ai đó lắng nghe họ - không thành vấn đề người đó phải nói gì.
Bertrand Russell trong một trong những ý sáng suốt lớn của ông ấy nói,
"Trong tương lai, tôi có thể thấy khả năng là có thể có hàng triệu nhà trị
liệu tâm lí trên thế giới. Đó sẽ là nghề lớn nhất."
Nó đang trở nên lớn hơn mọi
ngày. Lí do duy nhất cho việc tăng trưởng của nó không phải là ở chỗ nó giúp mọi
người trở nên mạnh khoẻ; lí do duy nhất là ở chỗ nó cho phép bạn nói mọi thứ vô
nghĩa và một người có học, có giáo dục tốt lắng nghe bạn. Tất nhiên bạn phải trả
tiền cho người đó....
Tôi đã nghe nói về một nhà phân
tâm lớn, người đã bị một tỉ phú hành hạ. Ông ta đã nói những thứ rác rưởi thế
và vô nghĩa thế... nhưng ông ta trả tiền, cho nên không có vấn đề dừng ông ta lại.
Ông ta đang trả phí lớn nhất bạn có thể muốn, và ông ta sẽ nói liên tục hết giờ
nọ tới giờ kia. Đó là kinh doanh tốt nhưng nó rất mệt mỏi và rất chán.
Một hôm nhà phân tâm nói với
ông ta, "Vì tôi phải cho ông hai hay ba giờ, tôi không thể chăm nom các bệnh
nhân khác của tôi được. Cho nên tôi đã tìm ra một chiến lược nhỏ: tôi sẽ để máy
ghi âm của tôi, và ông cứ nói; mọi thứ sẽ được ghi âm, và trong im lặng buổi
đêm tôi có thể nghe nó. Điều đó sẽ giá trị hơn vì tâm trí tôi sẽ hoàn toàn tự
do khỏi công việc kinh doanh và văn phòng và các bệnh nhân khác, cho nên tôi có
thể chú ý sâu hơn."
Nhà tỉ phú nói, "Đó là ý
hay."
Hôm sau ông ấy tới, trèo lên
tràng kỉ và trong vòng hai phút ông ấy đi ra. Nhà phân tâm nhìn từ ghế của mình
và hỏi, "Có chuyện gì vậy? Ông đi đâu thế?"
Nhà tỉ phú nói, "Tôi đã
nói vào máy ghi âm của tôi; bây giờ máy ghi âm của tôi đang nói với máy ghi âm
của ông. Tôi nghĩ, 'Sao mình phải phí thời gian của mình? Tôi cũng có nhiều thứ
khác phải chăm nom. Kinh doanh của tôi lớn hơn kinh doanh của ông nhiều - và muộn
trong đêm, trong im lặng, tôi cũng có thể nói tự do hơn. Đó là thu xếp tốt."
Bertrand Russell nói rằng sẽ có
nhiều, nhiều người tham gia vào trong phân tâm chỉ bởi lẽ đơn giản rằng mọi người
sẽ bị nặng gánh thế với các ý nghĩ của họ và không ai sẽ có thời gian để nghe họ;
họ sẽ cần người nghe chuyên nghiệp. Đó là điều nhà phân tâm là gì - người nghe
chuyên nghiệp. Ông ấy không làm gì cả... nhưng ngay cả việc nghe cũng giúp đỡ;
người ta trở nên được nhẹ gánh.
Ông tôi nói, "Không thành
vấn đề ông ấy nói gì, hay ai nghe - ông đang nghĩ các ý nghĩ của ông... Ông lão
đáng thương đó không thể tìm được người nào nghe."
Ông tôi chết, nhưng người kia
liên tục đến. Bố tôi rất lúng túng: "Đây là phiền hà; giờ ai sẽ nghe ông ấy?"
Tôi nói, "Tất nhiên là bố
rồi vì con sẽ không nghe. Trong khi bố còn sống, sẽ có vẻ không đúng là con phải
nghe ông ấy. Trước hết bố chết đã, và thế thì nếu ông ấy vẫn còn sống, con sẽ
nghe - nhưng ngay bây giờ đấy là trách nhiệm của bố."
Ông ấy nói, "Con lạ thật.
Con không có cái gì phải làm; sao con không thể chỉ ngồi và nghe ông ấy?"
Tôi nói, "Ngay bây giờ đấy
là nghĩa vụ của bố chứ. Bố của bố đã chết, không phải bố của con. Bố nhận toàn
thể thừa kế, và người này là một phần của thừa kế."
Một hôm bố tôi rất bận và người
này gõ cửa. Bố tôi bảo tôi, "Bằng cách nào đó bảo ông ấy là bố không có
nhà."
Tôi đi ra và tôi bảo người này,
"Bố ở trong nhà đấy, rất bận, và bố đã bảo cháu nói với ông là bố không có
nhà. Cho nên xin ông quyết định cho bản thân ông. Điều tốt là ông nên đi."
Ông ấy nói, "Cái gì! Bố ở
trong nhà mà bố nói bố không có nhà sao?"
Tôi nói, "Điều đó đích xác
là sự thực" - và bố tôi nghe thấy.
Thế là người đó nói, "Thế
thì ông sẽ vào."
Tôi nói, "Điều đó tuỳ
ông."
Bố tôi rất giận tôi. Khi người
này đi rồi, sau khi hành hạ bố tôi hai hay ba giờ, ông ấy trả thù tôi.
Tôi nói, "Bố báo thù con
khi thực ra bố giận ông ấy. Chính bố của bố đã cho bố đồ thừa kế; con không là
ai cả trong toàn thể việc này."
Ông ấy nói, "Nhưng tại sao
con nói rằng bố ở nhà? Bố đã bảo con rằng bố ra ngoài."
Tôi nói, "Con đã kể cho
ông ấy toàn thể sự việc, tại sao con phải nói dối? Bố bao giờ cũng nhấn mạnh
khi bố hỏi con những thứ như 'Con đã ở đâu?' - bố nói, 'Đừng nói dối.' Bây giờ
bố nhớ nhé, đừng bao giờ nói với con, 'Đừng nói dối.' Thỉnh thoảng người ta cần
nói dối... bố hiểu không?"
Ông ấy nói, "Đây là điều
khác."
Tôi nói, "Nó là cùng điều.
Bố đã liên tục dạy con phải là thực, và con sẽ vẫn còn là thực dù bất kì hậu quả
gì, trừ phi bố bảo con rằng con được phép nói dối và bố sẽ không nhấn mạnh lại
về sự thực..."
Ông ấy nói, "Để bố nghĩ về
điều đó, vì điều đó là quyết định rất khó khăn để cho phép con nói dối. Tốt hơn
cả là nghe người đó. Không cần nói dối; con phải nói sự thực. Con đã làm
đúng."
Nhưng tôi nói, "Bố phải bắt
đầu làm cùng điều đó như ông con đã làm. Ông không bao giờ mệt mỏi; thực ra đến
tối ông thường đợi ông ấy. Nhiều lần ông hay hỏi con, 'Ông ấy vẫn chưa đến nhỉ?'
Chỉ để biết bí mật."
Bố tôi nói, "Bí mật của
ông mình là gì? - vì bố không bao giờ lại gần họ. Bố thậm chí không bao giờ muốn
làm quen với người này."
Tôi nói, "Bí mật của ông rất
đơn giản: ông không bao giờ nghe cả; ông chỉ cho phép ông ấy nói. Điều đó sẽ mất
chút thời gian, nhưng nó là kỉ luật tốt."
Trong xã hội bạn liên tục dung
thứ mọi người nói dối. Bạn biết họ đang nói dối, nhưng bạn sẽ không nói vào mặt
họ, "Anh nói dối." Bạn sẽ giả vờ rằng bạn đồng ý. Xã hội yêu cầu bạn
phải đạo đức giả, và đó là khó khăn.
Khi bạn tới tiếp xúc với Thiền,
đạo đức giả là không được phép chút nào. Nó là dòng chảy nhỏ duy nhất của những
người không đạo đức giả trên thế giới. Bằng không, bạn có thể nghĩ về một thầy
bảo đệ tử, "Nếu ông nghĩ ta đang nói điều vô nghĩa ông phải nhổ vào mặt
ta" được không? Thầy đã từng đánh đệ tử; điều đó có thể được hiểu. Nhưng
trong Thiền chuyện xảy ra là đệ tử đã đánh thầy.
Có một tu viện có hai chái, và
thầy có con mèo đẹp. Mọi sư - có một nghìn sư: năm trăm người ở chái này, năm
trăm người ở chái kia, và ngay chính giữa là lều của thầy. Con mèo thường lang
thang ở chái này, chái kia, và nó đẹp và đáng yêu tới mức ở từng chái mọi sư đều
cố giữ con mèo lâu nhất có thể được. Đôi khi có cãi cọ, đánh nhau, vì chái bên
trái muốn con mèo và chái bên phải không cho phép họ.
Thầy trở nên phát mệt. Một hôm
thầy gọi mọi sư ra và nói, "Phải quyết định đi; con mèo này đã trở thành
việc gây rối. Nói cái gì đó, làm cái gì đó chỉ ra việc thiền của các ông - bất
kì ai, từ bất kì chái nào. Nếu các ông không thể... Nếu ai đó có thể hành động
theo cách chỉ ra rằng anh ta có sáng suốt thiền, con mèo sẽ được trao cho người
đó, cho chái đó. Nếu không ai có thể nói bất kì cái gì, điều đó để lại cho ta
chỉ một khả năng: ta sẽ chặt con mèo ra làm đôi, và đưa cho mỗi chái một nửa
con mèo."
Các sư choáng. Họ cố gắng,
nhưng không ai có thể tìm ra cách để biểu lộ thiền của họ - làm gì đây? nói gì
đây? - và bạn không thể lừa được thầy, điều đó là tuyệt đối chắc chắn.
Vì không ai bước ra, thầy phải
chặt con mèo ra làm đôi. Thầy đưa các mẩu mèo chết đó cho cả hai chái. Các sư
khóc, nhưng chẳng ích gì: thầy đã cho họ cơ hội, nhưng họ đã không thể biểu lộ
được thiền của họ.
Vừa lúc đó Lâm Tế, một sư đã đi
làm việc nào đó trong thành phố, quay về và nghe toàn thể câu chuyện. Ông ấy
không thể hiểu được rằng một nghìn sư có đó, "và các ông không thể ngăn được
lão già đó khỏi giết con mèo sao?" Ông ấy vào và tát thầy.
Thầy nói, "Muộn quá rồi.
Giá mà ông đã ở đây từ trước, con mèo chắc đã được cứu."
Điều này có thể xảy ra chỉ
trong bầu không khí của Thiền. Đệ tử đánh thầy và thầy chấp nhận với lòng biết
ơn và nói với việc ca ngợi, "Ông đã ở đâu? Giá mà ông đã ở đây, con mèo
đáng thương chắc vẫn còn sống. Không một sư nào tới bảo ta, 'Thầy đang nói điều
vô nghĩa gì vậy! Giết mèo...' và điều đó chắc đã là đủ. Nhưng tất cả họ vẫn còn
im lặng, họ không thể cho bất kì đáp ứng nào."
Thiền đã tạo ra một thế giới rất
đặc biệt - không xã giao và lịch sự và đạo đức giả. Lâm Tế đánh thầy đơn giản
biểu lộ chân lí khi ông ấy cảm thấy nó: "Điều tuyệt đối vô nghĩa đi giết
con mèo đáng thương, không cần vậy. Chính ý tưởng này là sai và thầy cần cú tát
đau vì điều đó. Không bao giờ làm điều như vậy lần nữa."
Bất kì chỗ nào khác trên thế giới
đệ tử như vậy chắc đã bị đuổi ra. Nhưng trong Thiền đệ tử này được ca ngợi:
"Ông đã ở đâu? Ông đáng phải ở đây. Ông có thể đã cứu được con mèo, ông có
thể đã ngăn cản ta giết con mèo đáng thương, con mèo đẹp, một cách không cần
thiết. Nó là con mèo của ta, và ta sẽ nhớ nó."
Nếu bạn liên tục nghe theo cái
gì đó mà bạn cảm thấy trong tâm thức và nhận biết của bạn là vô nghĩa và ngu xuẩn,
bạn phải làm cái gì đó để dừng nó lại; bằng không bản thân bạn rơi vào loại phụ.
Loại phụ nghĩa là bạn đang rơi khỏi chân lí vào trong thế giới dối trá; bạn
đang rơi khỏi im lặng vào trong thế giới của ngôn ngữ, xã hội, xã giao xã hội.
"Lần nữa, ông đã không thấy
thầy lời nói của thầy La Sơn sao? "Cổng huyền bí không có học thuyết."
Học thuyết được tạo ra bởi các triết gia; học thuyết được tạo ra bởi những người
không biết. Đó là hiện tượng rất lạ: những người biết cảm thấy vết thương của
việc không biết. Nó gây đau. Họ muốn cái gì đó che đậy lên nó, cho nên họ tạo
ra học thuyết - học thuyết Ki tô giáo, học thuyết Hindu, học thuyết Jaina. Những
học thuyết đó giúp họ quên đi dốt nát của họ. Họ không trở nên trí huệ, họ
không trở nên chứng ngộ, nhưng với thời gian nó là phương cách giúp họ quên rằng
họ ốm yếu, rằng họ dốt nát.
Nhưng nó là nguy hiểm. Bao giờ
cũng tốt khi biết rằng bạn ốm vì thế thì trị liệu nào đó là có thể. Che giấu dốt
nát của bạn là nguy hiểm vì điều đó sẽ giữ cho bạn dốt mãi mãi. Bạn càng che giấu
nó, nó càng phát triển như ung thư bên trong bạn. Dốt nát đích xác là ung thư của
linh hồn. Đừng che giấu nó; nếu nó có đó, nhận ra nó để cho nó có thể bị loại bỏ,
nó có thể được mổ.
Phật Gautam hay nói đi nói lại,
"Ta không phải là triết gia, ta là thầy chữa." Bạn có thể thấy tại
sao ông ấy nhấn mạnh rằng ông ấy không ở đây đơn giản để che đậy các vết thương
của bạn, để cho bạn khái niệm giả rằng bạn biết; ông ấy ở đây để chữa lành bạn.
Việc chữa lành cần thừa nhận rằng bạn là dốt. Chỉ để nhận ra bản thân mình rằng,
"Mình là dốt và mọi tri thức của mình là vay mượn," là việc bắt đầu lớn.
Cổng huyền bí không có học thuyết,
không thiết lập nguyên lí tổng quát. Tôi đã được hỏi trong cả đời mình các
nguyên tắc tổng quát của tôi là gì - vì mọi tôn giáo đều có sách giáo lí vấn
đáp, học thuyết, nguyên lí, kỉ luật được thiết lập riêng của họ. Tôi đã gặp khó
khăn giải thích cho mọi người rằng tôi không có bất kì nguyên tắc tổng quát
nào, tôi không thể có được - và bất kì người nào có đều là sai, vì cuộc sống
liên tục thay đổi. Bạn không thể có các nguyên tắc cố định đã thiết lập; chúng
sẽ trở thành định kiến của bạn, và trong cuộc sống đang thay đổi định kiến của
bạn bao giờ cũng tạo ra khoảnh cách giữa bạn và cái thực. Bạn sẽ hành động từ định
kiến của bạn, và hành động của bạn sẽ không phù hợp vì nó sẽ không đáp ứng cho
thực tại.
Một chuyện Thiền nhỏ khác... Có
hai ngôi chùa cổ, rất đối kháng với nhau. Sự thù nghịch của họ đã rất cổ đại,
truyền thống, và các sư của hai chùa không nói cùng thuật ngữ. Cả hai sư đều có
các chú tiểu là đệ tử của họ như người giúp họ trong thờ cúng, đem các thứ về từ
chợ, hay làm các việc vặt khác mà các sư già kia không thể làm được. Cả hai đã
nhấn mạnh cho các tiểu, "Không hỏi cái gì, không nói, thậm chí không chào
nếu con gặp tiểu của chùa kia trên đường."
Nhưng trẻ con là trẻ con! Chúng
rất tò mò, và thực ra các sư già đã làm cho chúng tò mò hơn. Chúng cũng cảm thấy
một mình với những người già này, chúng muốn thân thiện với nhau - rồi một hôm,
chung cuộc, một cậu bé dám làm quen. Nó đứng ở ngã tư đường, đợi cậu bé kia tới,
và nó hỏi, "Bạn đi đâu đấy?"
Cậu bé kia nói, rất triết lí,
"Bất kì chỗ nào gió đưa tớ tới."
Cậu bé thứ nhất ngẩn người ra.
Nó nghĩ, "Thầy mình đúng, những người kia rất kì lạ. Điều đó là sai của
mình rồi; mình muốn thân thiện, và câu trả lời của nó làm mình cụt hứng. Đó
không phải là câu trả lời thân thiện - và mình không thể tìm ra cái gì khác để
nói với người đang nói, 'Bất kì chỗ nào gió đưa tớ tới."
Nó về bảo với thầy, "Con
xin lỗi thầy, nhưng vì tò mò, con đã hỏi bạn kia chỉ một câu hỏi đơn giản, 'Bạn
đi đâu đấy?', và nó nói, 'Bất kì chỗ nào gió đưa tớ tới '. Thầy đúng. Con xin lỗi.
Nhưng con cảm thấy rất xấu hổ là con không thể trả lời được nó, vì con không thể
tìm ra trong khoảnh khắc đó cái gì là câu trả lời thích hợp cho điều này."
Thầy nói, "Ta đã cảnh báo
con nhưng con không chịu nghe lời! Giờ thì nhớ lấy, ngày mai đứng ở cùng chỗ
đó, và nó sẽ tới vì nó đi ra chợ. Lại hỏi nó, 'Bạn đi đâu đấy?', và nếu nó nói,
' Bất kì chỗ nào gió đưa tớ tới,' hỏi ngay nó, 'Thế nếu gió không thổi, bạn có
đi bất kì chỗ nào hay không?'"
Cậu bé lẩm nhẩm lại điều đó, diễn
tập nó, chuẩn bị cho bản thân mình, trở thành hoàn hảo trước buổi sáng, và đi tới
chỗ đó từ trước cả tiếng. Nó đứng đó lẩm nhẩm trong tâm trí. Đó là vấn đề danh
dự của nó.
Cậu bé kia tới, và nó nói,
"Bạn đi đâu đấy?"
Cậu bé kia nói, "Bất kì chỗ
nào chân đưa tớ tới." Giờ toàn thể việc chuẩn bị thành vô dụng, vì câu trả
lời là không thích hợp. Nó đâm lúng túng chả biết làm gì.
Nó về khóc với thầy. Nó nói,
"Những người kia rất không nhất quán. Nó đổi câu trả lời. Hôm nay nó nói,
'Bất kì chỗ nào chân đưa tớ tới.'"
Thầy nói, "Đừng lo nghĩ.
Chuẩn bị cho câu trả lời tiếp đi. Ngày mai khi nó nói 'Bất kì chỗ nào chân đưa
tớ tới' bảo nó, 'Nến bạn sinh ra bị què, tập tễnh, bạn sẽ đi bất kì chỗ nào hay
không?' Cứ thách đố nó. Đó là vấn đề không chỉ danh dự của con; bây giờ đó là vấn
đề danh dự của chùa chúng ta, của dòng truyền thừa chúng ta, của truyền thống của
chúng ta."
Và cậu bé này thử. Nó không thể
ngủ được cả đêm; nhiều lần trong mơ nó thấy cậu bé kia. Đến sáng nó dậy sẵn
sàng, đi tới chỗ đó... Cậu bé kia tới và nó hỏi, "Bạn đi đâu đấy?"
Và cậu bé kia nói, "Kiếm
chút rau ngoài chợ!"
Cuộc sống là vậy. Bạn không thể
đáp ứng với cuộc sống bằng nguyên tắc, học thuyết đã thiết lập. Bạn phải tỉnh
táo và ý thức và đáp ứng cho khoảnh khắc. Bạn phải không được chuẩn bị sẵn. Cuộc
sống không phải là kì thi trong trường phổ thông hay cao đẳng hay đại học. Nó
thậm chí không một khoảnh khắc nào như cũ.
Sáng nay, Đại Huệ nói, Đừng nhớ
điều ta đã nói cho ông hôm qua, vì hôm nay ta sẽ không nói điều đó.
Và ông ấy là đúng: sáng nay trời
mưa nhiều thế, và bây giờ toàn thể bầu trời đã thay đổi. Không có dấu hiệu của
bất kì mưa nào.
Cuộc sống thường xuyên thay đổi;
do đó những người muốn trong hoà điệu, trong đồng bộ, trong sự thống nhất hữu
cơ với sự tồn tại, không thể mang các nguyên tắc cố định, các nguyên tắc chung,
các học thuyết, triết lí được thiết lập. Họ chỉ có thể có bản thể tỉnh táo và
có ý thức. Thế thì bất kì cái gì là tình huống, họ sẽ đáp ứng tương ứng - không
tương ứng với bất kì nguyên tắc nào, nhưng tương ứng với tình huống mà họ đương
đầu.
Có câu chuyện trong cuộc sống của
người sáng lập Hassid giáo, Baal Shem Tov. Một người đàn bà tới ông ấy và nói,
"Tôi không có con. Thầy của ông đã ban phúc lành cho mẹ tôi, và vì phúc
lành của ông ấy tôi đã được sinh ra; bằng không mẹ tôi chắc đã không có
con."
Thế là Baal Shem đã ban phúc
cho cô ấy, nhưng phúc lành này không có tác dụng. Người đàn bà này chờ đợi và
chờ đợi. Nhiều năm trôi qua và cô ấy tới giận dữ nói, "Ông được coi là thầy
lớn, còn lớn hơn cả thầy riêng của ông, nhưng ân huệ của ông đã không có tác dụng."
Baal Shem nói, "Ta có nói
rằng nó sẽ có tác dụng không? Ta có cho cô bất kì lời hứa nào không?"
Nhưng người đàn bà khăng khăng:
"Thế thì tại sao phúc lành của thầy ông có tác dụng?"
Baal Shem nói, "Mẹ cô đã
không hỏi xin đứa con... ta đã hiện diện. Thầy ta đã ban phúc lành cho mọi người:
bất kì ai tới, thầy đều ban phúc lành; điều đó không đặc biệt cho mẹ cô. Nếu cô
được sinh ra, điều đó chỉ là ngẫu nhiên. Ngay chỗ đầu tiên mẹ cô đã không hỏi
và cô đã hỏi - điều đó tạo ra mọi khác biệt. Mẹ cô đơn giản yêu thầy, và thầy từ
tình yêu của mình đã ban phúc lành cho mọi người.
"Nhưng tình huống là khác.
Thứ nhất, mẹ cô đã không hỏi xin bất kì cái gì đặc biệt - cô là ngẫu nhiên, cô
không phải là sản phẩm phụ của phúc lành. Thứ hai, cô đã hỏi - và bất kì khi nào
người ta ham muốn, người ta trở thành không có khả năng nhận được phúc lành. Thứ
ba, thầy ta thường ban phúc lành cho mọi người; đó là thói quen của thầy. Ta
không ban phúc lành cho mọi người; đó không phải là thói quen của ta. Thầy ta
là bản thân thầy, ta là bản thân ta.
"Cô đã hỏi, và ta đơn giản
nghĩ, "Cơ hội là năm mươi-năm mươi. Nếu ta ban phúc lành cho người đàn bà
này, cơ hội là năm mươi-năm mươi rằng cô ấy có thể có con - tại sao bỏ lỡ? Nếu
cô ấy có con, phúc lành của ta đã có tác dụng và sẽ có phép màu. Nếu phúc lành
của ta không có tác dụng, ta biết cách thoát ra khỏi nó; ta có thể chứng minh rằng
cô ấy là ngẫu nhiên - không ai được tạo ra bởi phúc lành.'"
Người ta phải sống cuộc sống mà
không có bất kì định kiến nào và không có bất kì học thuyết nào, không có bất
kì tôn giáo nào, không có bất kì triết lí nào. Chỉ thế thì người ta mới có thể
sống trong hồn nhiên, trong thuần khiết, trong tự phát.
Phát biểu của thầy La Sơn phải
được ghi nhớ: "Cổng huyền bí không có học thuyết, không thiết lập nguyên
lí tổng quát. Nếu ông muốn tìm nó, nhìn trước âm thanh."
Tôi đã nói với bạn rằng Kinh
Thánh nói, "Lúc ban đầu đã có lời, và Thượng đế có cùng lời, và Thượng đế
là lời." Bây giờ, theo Thiền điều đó là rác rưởi - vì lời cần nghĩa; đó là
khác biệt giữa âm thanh và lời. Khi bạn nghe thác đổ, bạn không nói thác đổ
đang nói lời; bạn nói, "Có âm thanh của nước chảy." Âm thanh là vô
nghĩa. Chắc chắn không thể có lời lúc bắt đầu vì không có người nào để cho nó
nghĩa. Tốt hơn cả là nói có âm thanh.
Đó là quan điểm của Hindu giáo.
Họ nói, "Lúc ban đầu là Omkar...." chỉ là âm thanh, nó không là lời.
Do đó trong tiếng Phạn bảng chữ không có chữ cái cho Om, chỉ là kí hiệu. Nó
không phải là một phần của bảng chữ cái; nó ở bên lề. Lúc ban đầu là Om... chỉ
là âm thanh.
Nhưng Thiền còn đi xa hơn. Thầy
La Sơn đang nói, "Nếu ông muốn tìm nó, nhìn trước âm thanh" - vì âm
thanh cần ít nhất hai thứ để va chạm. Đó là lí do tại sao tiếng vỗ tay của một
bàn tay không thể được nghe thấy: không thể có bất kì âm thanh nào. Nếu bạn muốn
biết điều tối thượng, nhìn trước âm thanh. Cái gì ở trước âm thanh? Trước âm
thanh là im lặng...
Bây giờ các bạn có thể thấy ba
phát biểu: có im lặng lúc ban đầu; có âm thanh lúc ban đầu; có lời lúc ban đầu
- và bạn có thể thấy khác biệt. Lời là nông cạn nhất; âm thanh có chút ít tốt
hơn; nhưng im lặng là hoàn hảo - và nếu bạn không nói nó, thế thì nó thậm chí
còn hoàn hảo hơn.
Nếu bạn đơn giản vẫn còn im lặng,
không nói "im lặng"... nếu bạn được hỏi cái gì có lúc bắt đầu và bạn
vẫn còn im lặng, không trả lời, điều đó đích xác là đúng. Bằng không im lặng,
âm thanh, lời... và bạn liên tục rơi vào trong loại phụ.
Vẫn còn trong loại chính, vẫn
còn trong cái nền tảng, vẫn còn trong điều tối thượng. Và điều tối thượng là ở
bên ngoài âm thanh.
Tất cả các ông là đệ tử của Phật,
tâm trí thực không bị cố định, và trí huệ thực không bị giới hạn. Cho dù ta để
hai môi này liên tục nói - từ giờ tới tận cùng của thời gian - không nghỉ, ông
vẫn không thể phụ thuộc vào sức mạnh của người khác: Đây là vấn đề trong đó từng
và mọi người là đầy đủ theo quyền riêng của mình.
Bạn không phải tuỳ thuộc vào bất
kì người nào khác; bạn chứa chân lí riêng của bạn. Bạn là tuyệt đối độc lập và
không có cách nào làm rối loạn nó. Bạn có thể quên nó nhưng bạn không thể mất
nó.
Nó không thể được tăng lên cũng
không bị giảm đi dù chút ít nhỏ nhất. Tổ nói - tổ bao giờ cũng trỏ tới Bồ đề đạt
ma; ông ấy là tổ thứ nhất ở Trung Quốc - Giữ nó và ông mất nó... Trong chính việc
giữ bạn chỉ ra rằng nó tách rời khỏi bạn. Chính việc giữ của bạn chỉ ra việc hiểu
lầm của bạn, dốt nát của bạn.
Giữ nó và ông mất nó, và nhất định
đi vào con đường sai.
Bỏ nó và một cách tự nhiên bản
chất của nó không có việc đi hay ở.
Buông bỏ nó và nó có đó. Nó bao
giờ cũng có đó. Chân lí là chính bản chất của bạn, cho nên không cần níu bám
nó. Bạn là nó, bạn không thể là khác được.
Chỉ có đức tín trong chân lí
này của một tâm trí: nó không thể được hiểu thấu, nó không thể bị bác bỏ. Thế
thì ông sẽ phải từ bỏ thân thể ông và mạng sống của ông ngay đó. Khoảnh khắc bạn
hiểu rằng điều bản chất của bạn là vĩnh hằng, bạn sẽ bỏ ý tưởng về thân thể
tôi, tâm trí tôi, mạng sống của tôi. Khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết về cái
vĩnh hằng trong bạn, bạn sẽ không giới hạn nó vào của tôi và cái của tôi. Nó
không là của tôi không là của bạn; nó đơn giản hiện hữu. Tất cả chúng ta là một
phần của sự thống nhất hữu cơ.
Nếu ông không thể từ bỏ chúng,
đó là vì sự do dự riêng của ông - vào ngày cuối cùng của đời ông, đừng trách
ta. Đại Huệ đang nhắc nhở bạn trong phát biểu cuối cùng của ông ấy rằng nếu bạn
không làm mất bản ngã của bạn, nếu bạn không làm mất sự đồng nhất của bạn với
thân thể và tâm trí, nếu bạn không trở thành thiền thuần khiết, thế thì "đừng
trách ta vào lúc chết của ông." Thế thì bạn sẽ thấy thân thể ra đi, tâm
trí ra đi... và bạn bao giờ cũng còn bị giới hạn vào thân thể và vào tâm trí,
và bạn không bao giờ nhìn ra bên ngoài.
Khi thân thể và tâm trí ra đi,
mọi người rơi vào vô thức. Cú choáng này khủng khiếp tới mức họ không thể vẫn
còn có ý thức. Chỉ thiền nhân mới có thể vẫn còn có ý thức vì ông ấy biết. Ngay
cả trước cái chết, nhiều lần khi ông ấy ở trong thiền thân thể nằm đó, tâm trí ở
đó... và ông ấy ở xa bên trên. Ông ấy là hiện tượng khác toàn bộ.
Con người của thiền chết đi một
cách có ý thức; do đó ông ấy không chết. Ông ấy chết đi một cách vui vẻ vì với
ông ấy chết tới như tự do, như tự do khỏi sự lệ thuộc vào thân-tâm... dường như
đột nhiên mọi bức tường đã sụp đổ và bạn đã trở thành toàn thể bầu trời.
Phát biểu cuối cùng của Đại Huệ
là hay thế và thi vị thế:
Thời tiết là nóng và các ông đã
đứng lâu rồi.
Đại Huệ hét lên và đi xuống khỏi
chỗ ngồi.
Trong Thiền, tiếng hét của thầy
có ý nghĩa mà đã không được hiểu ở bất kì chỗ nào khác. Thậm chí đã từng có những
thầy không nói chút nào: họ sẽ đơn giản đi xuống khỏi bục, nhìn quanh khán giả,
hét to một tiếng, và quay lại lần nữa. Tiếng hét của họ sẽ dường như bất thần
sư tử đã tới và gầm lên.
Nghĩ bản thân bạn bắt gặp sư tử,
và tiếng gầm... Tâm trí bạn sẽ dừng lại, hơi thở của bạn sẽ dừng lại, tim bạn sẽ
mất nhịp đập.
Tiếng hét của các Thiền sư đơn
giản là cách cho bạn một kinh nghiệm về im lặng. Ông ấy đã thử nhiều cách, qua
nhiều khía cạnh, giải thích cho bạn - và chung cuộc ông ấy cho bạn chút ít
hương vị. Ông ấy cho bạn tiếng hét. Đột nhiên tiếng hét... Một cách tự nhiên mọi
người trở nên im lặng - cái gì đã xảy ra?
Và thầy mất đi...
Để bạn trong im lặng...
Cho bạn hương vị mà ông ấy đã từng
giải thích suốt dọc đường.
Nirvano có một chiếc gậy giấu đằng
sau cô ấy; cô ấy muốn tôi đánh Niskriya đáng thương. Tôi nói, "Niskriya là
người Đức và anh ấy sẽ không hiểu điều đó. Thay vì trở nên im lặng, anh ấy sẽ đứng
lên tranh đấu - và làm rối loạn công việc của Niskriya đáng thương là không
đúng."
Tôi phải thuyết phục cô ấy bỏ
chiếc gậy; nó không được cần ở đây. Tôi có thể điều khiển mà không có tiếng
hét. Bất kì khi nào tôi trở nên im lặng ở giữa câu khi đang nói, bạn trở nên im
lặng.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
Kết thúc quyển 'Thiền sư lớn Đại Huệ' - Tập 2
Quay về Mục lục Tập 2 - Xem Mục lục Tập 1 - Quay về Mục lục Toàn tập
Quay về Mục lục Tập 2 - Xem Mục lục Tập 1 - Quay về Mục lục Toàn tập
0 Đánh giá