SỐNG THIỀN - Trăng đã là một trong những vấn đề vĩ đại nhất của thơ Thiền

SỐNG THIỀN - Trăng đã là một trong những vấn đề vĩ đại nhất của thơ Thiền

Price:

Read more



Osho kính yêu,
Một hôm Ngưỡng Sơn đang ngắm trăng cùng với Thiện Đạo và hỏi ông ấy,
"Cái tròn của trăng đi đâu khi nó trở thành lưỡi liềm khuyết, sắc?"
Thiện Đạo nói, "Khi nó sắc, cái tròn vẫn có đó."
Maneesha, sự tồn tại có thể được tiếp cận tới chỉ theo hai cách: cách của triết lí và cách của thơ ca. Thơ ca chung cuộc kết thúc trong huyền môn. Triết lí đơn giản cứ đi mãi, không đi tới bất kì kết luận nào.
Thiền là thơ ca thuần khiết.
Nó nói sự tồn tại dưới dạng thơ ca.
Đối thoại nhỏ này sẽ cho bạn biết thơ ca của bản thân bạn. Mọi cái gọi là tôn giáo đều không có tính thơ ca - rất văn xuôi, rất logic, rất hợp lí; luận cứ của họ dành cho tâm trí.
Thơ ca là luận cứ cho trái tim. Nhưng người cố hiểu Thiền như cách triết lí khác sẽ bỏ lỡ nó, sẽ bỏ lỡ chính cuộc sống của cách tiếp cận Thiền.
Đối thoại nhỏ này chứa sáng suốt, kinh nghiệm và việc nhận ra lớn lao.
Một hôm Ngưỡng Sơn đang ngắm trăng cùng với Thiện Đạo và hỏi ông ấy,
"Cái tròn của trăng đi đâu khi nó trở thành lưỡi liềm khuyết, sắc?"
Thiện Đạo nói, "Khi nó sắc, cái tròn vẫn có đó."
Khi nó tròn, nó vẫn sắc.
Không cái gì đi bất kì đâu. Đôi khi nó là biểu lộ, đôi khi nó là không biểu lộ, nhưng nó bao giờ cũng ở đây - cũng như trăng. Vào đêm trăng tròn bạn thấy cái tròn của nó, và thế rồi dần dần, dần dần cái tròn đó không còn tròn nữa. Cái gì đó bắt đầu biến mất khỏi cái nhìn của bạn, mà không biến mất trong bản thân trăng.
Một ngày tới toàn thể trăng biến mất. Và vào ngày đầu tiên của trăng nó chỉ là một cung nhỏ, nó chỉ hiện ra trong vài phút và thế rồi nó mất đi. Nhưng trăng như thế bao giờ cũng có đó. Đôi khi chỉ một phần của nó được phản xạ bởi mặt trời - bạn thấy nó. Đôi khi toàn thể nó được phản xạ bởi mặt trời - bạn thấy nó. Nhưng khi có liên quan tới trăng, dù mặt trời có phản xạ hay không, nó bao giờ cũng có đó.
Nghĩ về chiếc gương mà xem. Bạn đứng trước gương - nếu gương biến mất bạn có nghĩ bạn biến mất không? Và bạn phải đã thấy nhà gương, nơi có nhiều loại gương. Trong một số gương bạn hiện ra rất cao, đánh bại cả tre; trong một số gương khác bạn hiện ra rất lùn, nhưng rất béo. Điều gương nói không phải là chân lí.
Chân lí ở trong bạn, không bị phản xạ.
Bạn không cần gương nào để tìm thấy nó. Bạn không cần đèn nào để đi vào bên trong vì bên trong bạn, không có tối không có sáng. Nó là cái gì đó như lúc tranh tối tranh sáng, khi mặt trời đã lặn và đêm còn chưa tới - kẽ hở. Trong kẽ hở đó, có ánh sáng không tới từ mặt trời.
Khoảnh khắc này ở Ấn Độ đã được gọi là sandhya. Từ này bắt nguồn từ một gốc, sandhi, đường biên. Từ ngày sang đêm, có kẽ hở khi ngày biến mất và đêm bắt đầu - sự gián đoạn. Bình thường sandhya ngụ ý buổi tối. Nhưng các nhà huyền bí đã dùng sandhya để ngụ ý thiền. Họ đã dùng nó như một chỉ báo về bước nhảy lượng tử, khi bạn chuyển từ tâm trí sang vô trí.
Giai thoại này nói rằng trăng vẫn còn là bản thân nó, dù điều đó được biết hay không biết. Và bạn là trăng. Chính tự do của bạn là biết bản thân bạn hay vẫn còn dốt nát. Không ai có thể ép buộc bạn được chứng ngộ, và không ai có thể ép buộc bạn vẫn còn không chứng ngộ. Nó chỉ là tâm trạng của bạn. Chỉ một khoảnh khắc nhỏ của im lặng trong quan sát... và bùng nổ.
Trăng đã là một trong những vấn đề vĩ đại nhất của thơ Thiền, bởi lẽ đơn giản rằng nó biết mất và dầu vậy nó có đó trong tính toàn bộ của nó. Theo cách nào đó, nó trở thành biểu diễn biểu tượng của bạn.
Takuan viết:
Trăng không có ý
quăng bóng vào bất kì đâu,
Ao cũng không có ý cho trăng ở trọ:
Nước của Hirosawa yên lặng làm sao!
Hirosawa là hồ nơi Takuan sống. Điều ông ấy nói là ở chỗ sự tồn tại có phẩm chất vô ham muốn. Dầu vậy mọi thứ xảy ra, nhưng nó không có động cơ.
Trăng không có ý quăng bóng vào bất kì đâu mặc dù cái bóng sẽ quăng ra cả nghìn chỗ: trong sông, trong ao, trong hồ, trong đại dương. Nhưng việc xảy ra này không phải là ý định, không là ham muốn. Mặt khác, Ao cũng không có ý cho trăng ở trọ. Ao im lặng cũng không có ham muốn phản xạ trăng. Nước của Hirosawa yên lặng làm sao!

Có cuộc sống mà chúng ta nhận biết tới, cuộc sống của ham muốn, khao khát, tham, thèm khát, quyền lực. Cuộc sống, nói tóm lại, của động cơ; cuộc sống của mục đích, của thành đạt. Có cuộc sống khác nơi Thiền mở cánh cửa cho bạn, cuộc sống không có động cơ. Mọi thứ xảy ra - sao bận tâm? Thậm chí ham muốn chứng ngộ đang ngăn trở nó.
Điều đó sẽ xảy ra. Chỉ trở thành hồ Hirosawa im lặng. Khi không động cơ nào có đó, tâm thức của bạn không bị mây che. Không câu hỏi nào nảy sinh, không câu trả lời nào được cần.
Bạn đơn giản hiện hữu, sự tồn tại thuần khiết.
Thiền sư khác, Moan, đã viết:
Rõ ràng, rõ ràng - rõ ràng nhất!
Tôi chạy chân trần sang đông và tây.
Bây giờ, sáng rõ hơn trăng,
tám mươi tư nghìn cổng pháp!
Một cách huyền thoại, Phật giáo tin rằng pháp, bản tính của sự tồn tại, có tám mươi tư nghìn cổng. Đó chỉ là biểu tượng. Nó ngụ ý có nhiều cổng như có chừng ấy sinh linh. Bạn không phải đi vào qua cổng của bất kì người nào khác. Bạn đang mang cổng của bạn bên trong bạn.
Moan nói:
Rõ ràng, rõ ràng - rõ ràng nhất! Tôi chạy chân trần sang đông và tây - một cách không cần thiết. Bây giờ, sáng rõ hơn trăng, tám mươi tư nghìn cổng pháp! Mọi cổng đột nhiên mở, cũng như trăng sáng rõ.
Betsugen viết:
Trong tối
mà mắt dò đất và trời,
trong mơ
mà người khổ tìm hiện tại, quá khứ.
Đủ rồi! Trăng núi rót đầy cửa sổ.
Sự đơn độc rơi qua
khu vườn được bao bọc bởi tiếng dế kêu.
Đây không phải là những bài thơ thường. Đây là những phát biểu về cái gì đó mà không thể được nói nhưng dầu vậy vẫn phải được nói. Bạn có thể hát nó nhưng bạn không thể nói nó, bạn có thể nhảy múa nó nhưng bạn không thể nói nó. Nó ở trong cử chỉ của tôi nhưng không trong lời của tôi. Bạn có thể thấy nó nhưng tôi không thể trưng nó ra cho bạn.
Keppo viết:
Việc tìm Ngài lấy đi sức mạnh của tôi.
Một đêm tôi uốn cong ngón trỏ -
trăng chưa bao giờ như vậy!
Việc tìm Ngài lấy đi sức mạnh của tôi. Tôi đã tìm nhiều thế - tôi mệt mỏi, nó đã lấy đi mọi sức mạnh của tôi. Nhưng một đêm nó xảy ra và nó xảy ra trong một tình huống kì lạ:
Một đêm tôi uốn cong ngón trỏ -
trăng chưa bao giờ như vậy!
Ngón tay cong của tôi trỏ tới trăng, tới bản thân tôi. Trăng là biểu tượng - biểu tượng về cái vĩnh hằng của bạn, về cái đẹp của bạn, về phúc lạc của bạn.
Và Buson viết:
Trăng như thế -
Kẻ cắp dừng để hát.
Kẻ cắp bao giờ cũng sợ. Anh ta di chuyển rất thận trọng. Nhưng Trăng như thế! Kẻ cắp dừng để hát. Kẻ cắp quên mất rằng mình là kẻ cắp, và anh ta trở thành người hát.
Mọi khoảnh khắc đều sẵn sàng mở cánh cửa của nó. Nếu bạn sẵn lòng thảnh thơi trong không làm, nếu bạn sẵn lòng thảnh thơi trong vô nỗ lực, nếu bạn sẵn sàng gạt tâm trí sang bên và chỉ hiện hữu, bạn cũng sẽ bùng nổ trong bài ca.

Tình yêu là điều phải có cho sự phát triển tâm linh
Tình yêu là điều phải có cho sự phát triển tâm linh. Và hơn nữa, tình yêu hoạt động như tấm gương. Rất khó biết được bản thân mình chừng nào bạn còn chưa nhìn vào khuôn mặt của mình trong con mắt của ai đó yêu bạn. Cũng như bạn phải nhìn vào gương để thấy khuôn mặt vật lí của mình, bạn phải nhìn vào tấm gương của tình yêu để thấy khuôn mặt tâm linh của mình. Tình yêu là tấm gương tâm linh. Nó nuôi dưỡng bạn, nó tích hợp bạn, nó làm cho bạn sẵn sàng cho cuộc hành trình nội tâm, nó nhắc nhở bạn về khuôn mặt nguyên thuỷ của mình.
Trong những khoảnh khắc của tình yêu sâu sắc có những thoáng nhìn về khuôn mặt nguyên thuỷ, mặc dầu những thoáng nhìn đó tới như sự phản xạ. Cũng như vào những đêm trăng tròn bạn thấy trăng được phản xạ trong hồ, trong hồ tĩnh lặng, thì tình yêu cũng hoạt động như cái hồ. Trăng được phản xạ trong hồ là bắt đầu của việc tìm kiếm trăng thực. Nếu bạn chưa bao giờ thấy trăng được phản xạ trong hồ, bạn có thể chưa bao giờ đi tìm trăng thật cả. Bạn sẽ cứ đi đi lại lại vào hồ để tìm trăng bởi vì ban đầu bạn nghĩ đấy là chỗ có trăng thực, đâu đó sâu dưới đáy hồ. Bạn sẽ đào mãi và bạn sẽ tới với đôi bàn tay trắng; bạn sẽ chẳng tìm thấy trăng ở đó.
Thế rồi một hôm sẽ bừng lên trong bạn rằng có thể trăng này chỉ là phản xạ thôi. Đó là sáng suốt lớn lao - thế thì bạn có thể nhìn lên trời. Thế thì mặt trăng ở đâu nếu đây là phản xạ? Nếu nó là phản xạ bạn phải nhìn vào hướng đối diện. Phản xạ có đó, sâu trong hồ - trăng thực phải ở đâu đó trên hồ. Lần đầu tiên bạn nhìn lên và cuộc hành trình đã bắt đầu.
Tình yêu cho bạn những thoáng nhìn về thiền, phản xạ của trăng trong hồ - mặc dầu chúng là phản xạ, không thật. Cho nên tình yêu không bao giờ có thể thoả mãn được bạn. Thực tế, tình yêu sẽ làm cho bạn ngày một bất mãn hơn, không bằng lòng hơn. Tình yêu sẽ làm cho bạn ngày một nhận biết hơn về cái là có thể, nhưng nó sẽ không chuyển giao hàng hoá. Nó sẽ làm bạn thất vọng - và chỉ trong thất vọng sâu sắc mới có khả năng quay lưng trở về với bản thể riêng của bạn. Chỉ những người yêu nhau mới biết tới niềm vui của thiền. Những người chưa bao giờ yêu và chưa bao giờ bị thất vọng trong tình yêu, những người chưa bao giờ lao vào cái hồ của tình yêu để tìm trăng và chưa bao giờ bị thất vọng, sẽ chẳng bao giờ nhìn lên trăng thực trên trời. Họ sẽ chẳng bao giờ trở nên nhận biết về nó.
Người mà yêu nhất định trở nên mang tính tôn giáo chẳng chóng thì chầy. Nhưng người không yêu - chính khách, chẳng hạn, người không thể yêu bất kì người nào, người chỉ yêu quyền lực - sẽ chẳng bao giờ trở nên mang tính tôn giáo. Hay người bị ám ảnh bởi tiền - người chỉ yêu tiền, người chỉ biết một tình yêu, tình yêu tiền - sẽ chẳng bao giờ trở nên mang tính tôn giáo cả. Sẽ rất khó cho người đó bởi nhiều lí do thế. Tiền có thể được sở hữu; bạn có thể có tiền và bạn có thể sở hữu nó. Dễ dàng sở hữu tiền, khó mà sở hữu được người mình yêu - không thể được, thực tế vậy. Bạn sẽ cố gắng sở hữu, nhưng làm sao bạn có thể sở hữu được người sống? Người sống sẽ chống lại theo đủ mọi cách, sẽ tranh đấu đến cùng. Chẳng ai muốn mất tự do của mình cả.
Tình yêu không có giá trị được như tự do. Tình yêu có giá trị lớn, nhưng không lớn hơn tự do. Cho nên người ta thích có tình yêu nhưng người ta không thích bị cầm tù bởi tình yêu. Do đó, chẳng chóng thì chầy bạn trở nên thất vọng. Bạn cố gắng sở hữu, và bạn càng cố sở hữu nhiều thì tình yêu lại càng trở thành không thể được và người khác bắt đầu rời xa khỏi bạn. Bạn càng ít sở hữu, bạn càng cảm thấy gần với người khác hơn. Nếu bạn không sở hữu chút nào, nếu có tự do tuôn chảy giữa những người yêu nhau, thì có tình yêu lớn.
Thứ nhất, nỗ lực sở hữu con người nhất định thất bại. Trong thất vọng đó bạn sẽ bị ném trở lại chính bản thân mình. Thứ hai, nếu bạn đã biết không sở hữu con người, nếu bạn đã biết rằng tự do có giá trị cao hơn tình yêu, giá trị cao hơn rất nhiều so với tình yêu, thế thì chẳng chóng thì chầy bạn sẽ thấy rằng tự do đem bạn về bản thân mình, tự do sẽ trở thành nhận biết của bạn, thiền của bạn.
Tự do là khía cạnh khác của thiền. Hoặc bắt đầu từ tự do và bạn sẽ trở nên nhận biết, hoặc bắt đầu từ nhận biết và bạn sẽ trở nên tự do. Chúng đi cùng nhau. Tình yêu là một loại tù túng tinh tế - họ đi cùng nhau - nhưng đấy là kinh nghiệm bản chất, rất bản chất cho sự trưởng thành.
Có một định nghĩa hay về cái thực qua tình yêu trong cuốn sách hay của Margery William Con thỏ nhung.
"Cái thực là cái gì?" một hôm con thỏ hỏi. "Điều đó có nghĩa là cái đó cứ lẩn quẩn bên trong bạn phải không, và cái cán ló ra?"
"Cái thực không phải là cách bạn đã được tạo ra," Ngựa còm nói. "Đó là cái xảy ra cho bạn. Khi đứa trẻ yêu bạn trong một thời gian dài, không chỉ chơi cùng, mà thực sự yêu bạn, thế thì bạn trở thành cái thực."
"Điều đó có đau không?" Thỏ hỏi.
"Cũng thỉnh thoảng," Ngựa còm nói, vì nó bao giờ cũng nói thật. "Khi bạn là thật, bạn không bận tâm tới việc bị đau."
"Nó có xảy ra ngay lập tức giống như bị thương không," nó hỏi, "hay chút xíu một?"
"Nó không xảy ra cùng một lúc," Ngựa còm nói. "Bạn trở thành. Phải mất thời gian lâu. Đó là lí do tại sao nó lại không thường xảy ra cho những người nhụt ý chí dễ dàng, hay có góc cạnh sắc hay người phải gìn giữ cẩn thận. Nói chung, vào lúc bạn là Thực, thì phần lớn tóc bạn đã rụng hết rồi, và mắt bạn lần lượt ra đi và bạn bị chùng lỏng các khớp và rất tiều tuỵ. Nhưng những điều này không thành vấn đề chút nào, bởi vì một khi bạn là Thực, bạn không thể xấu được, ngoại trừ những người không hiểu... Một khi bạn là Thực, bạn không thể trở thành không thực lần nữa được. Điều đó kéo dài mãi."
Tình yêu làm bạn thành cái thực; bằng không bạn vẫn còn chỉ là người mơ, giấc mơ không có thực chất trong nó. Tình yêu cho bạn điều bản chất, tình yêu cho bạn tính toàn vẹn, tình yêu làm bạn được định tâm. Nhưng đó mới chỉ là một nửa của cuộc hành trình; nửa kia phải được hoàn chỉnh trong thiền, trong nhận biết. Nhưng tình yêu chuẩn bị bạn cho nửa kia. Tình yêu là nửa bắt đầu và nhận biết là nửa kết thúc. Giữa hai điều này bạn đạt tới Thượng đế. Giữa tình yêu và nhận biết, giữa đôi bờ này, dòng sông của hiện hữu tuôn chảy.
Đừng né tránh tình yêu. Đi qua nó, với mọi nỗi đau của nó. Vâng, nó đau đấy, nhưng nếu bạn đang trong tình yêu thì cũng chẳng thành vấn đề. Thực tế, tất cả những cái gây đau lại làm mạnh thêm cho bạn. Đôi khi nó thực sự gây đau lắm, đau kinh khủng, nhưng tất cả những vết thương đó là cần thiết để khêu gợi bạn, để thách thức bạn, để làm cho bạn bớt ngủ đi. Tất cả những tình huống nguy hiểm đó là cần thiết để làm cho bạn tỉnh táo. Tình yêu chuẩn bị mảnh đất, và trong mảnh đất của tình yêu hạt mầm của thiền có thể mọc lên - và chỉ trong đất của tình yêu thôi.
Cho nên những người trốn khỏi thế giới này vì sợ sẽ không bao giờ đạt tới thiền được. Họ có thể ngồi trong các hang động Himalaya trong nhiều kiếp cùng nhau, họ sẽ vẫn không đạt tới thiền. Điều đó là không thể được - họ không kiếm được nó. Trước hết người ta phải kiếm được nó trong thế giới này; trước hết họ phải chuẩn bị mảnh đất. Và chỉ duy nhất tình yêu mới chuẩn bị cho mảnh đất này.
Do đó mới có nhấn mạnh của tôi vào việc không từ bỏ thế giới. Sống trong nó, nhận lấy thách thức của nó, chấp nhận nguy hiểm của nó, nỗi đau của nó, các vết thương. Đi qua nó. Đừng né tránh nó, đừng cố tìm lối tắt bởi vì không có lối tắt đâu. Đó là cuộc vật lộn, đó là gian nan, đó là nhiệm vụ vất vả, nhưng đó là cách người ta lên tới đỉnh.
Và niềm vui sẽ nhiều hơn, nhiều hơn nhiều nếu bạn được thả lên đỉnh núi bằng máy bay trực thăng, bởi vì bạn sẽ đạt tới đó mà không tiếp đất; bạn sẽ không có khả năng thích thú nó. Nghĩ tới khác biệt... Bạn cố gắng vất vả để đạt tới đỉnh Everest. Nó nguy hiểm thế - mọi khả năng chết trên đường, mọi khả năng không bao giờ đạt tới đỉnh; mạo hiểm, nguy hiểm. Cái chết đang chờ bạn tại từng bước, biết bao nhiêu cạm bẫy và biết bao nhiêu khả năng bị thất bại chứ không thành công. Trong một trăm khả năng chỉ có một khả năng bạn có thể đạt tới. Nhưng bạn càng tới gần đỉnh hơn, niềm vui càng vươn cao hơn trong bạn. Tâm linh bạn bay vút lên cao. Bạn được nó, nó không phải là cho không. Và bạn càng trả nhiều cho nó, bạn sẽ càng thích thú nhiều với nó. Thế rồi tưởng tượng - bạn có thể được thả xuống từ máy bay trực thăng từ trên đỉnh. Bạn sẽ đứng trên đỉnh và bạn sẽ trông ngu si, xuẩn ngốc - bạn đang làm gì ở đây? Trong vòng năm phút bạn sẽ được kết thúc, bạn sẽ nói, "Vậy là mình đã thấy nó! Chẳng có gì nhiều ở đây cả!"
Hành trình tạo ra mục đích. Mục đích không phải ở đấy tại cuối hành trình, hành trình tạo ra nó tại từng bước. Hành trình là mục đích. Hành trình và mục đích là không tách rời, chúng không phải là hai điều. Mục đích và phương tiện không phải là hai điều. Mục đích lan toả trên khắp con đường; mọi phương tiện đều chứa mục đích trong chúng.
Cho nên đừng bỏ lỡ bất kì cơ hội nào của việc sống, của việc được sống động, của việc có trách nhiệm, của việc cam kết, của việc tham dự. Đừng là kẻ hèn nhát. Đối diện với cuộc sống, đương đầu với nó. Và thế rồi dần dần cái gì đó bên trong bạn sẽ kết tinh lại.
Vâng, điều đó cần thời gian. Ngựa còm nói đúng: "Nói chung, vào lúc bạn là thực, thì phần lớn tóc bạn đã rụng hết rồi, và mắt bạn lần lượt ra đi và bạn bị chùng lỏng các khớp và rất tiều tuỵ. Nhưng những điều này không thành vấn đề chút nào, bởi vì một khi bạn là thực, bạn không thể xấu được, ngoại trừ những người không hiểu... Một khi bạn là thực, bạn không thể trở thành không thực lần nữa được. Điều đó kéo dài mãi." Điều đó là vĩnh viễn.
Nhưng người ta phải học cách kiếm lấy nó. Để tôi nhắc lại điều đó: trong cuộc sống bạn không thể có được cái gì cho không cả. Và nếu bạn được nó, nó thành vô dụng. Bạn phải trả giá, và bạn càng trả nhiều cho nó thì bạn sẽ càng thoát ra khỏi nó nhiều. Nếu bạn có thể mạo hiểm toàn thể cuộc sống của mình trong tình yêu, thành đạt của bạn sẽ lớn. Tình yêu sẽ ném bạn trở lại với chính mình; nó sẽ cho bạn vài suy nghĩ về thiền. Những thoáng nhìn đầu tiên về thiền xảy ra trong tình yêu. Và thế rồi một ham muốn lớn nảy sinh trong bạn để đạt tới những thoáng nhìn đó, không chỉ như những thoáng nhìn mà như trạng thái, để cho bạn có thể sống trong những trạng thái đó mãi mãi và mãi mãi. Tình yêu cho bạn mùi vị của thiền.
Kinh nghiệm cực thích khi yêu là kinh nghiệm đầu tiên về samadhi, về cực lạc. Nó sẽ làm cho bạn khao khát hơn. Bây giờ bạn sẽ biết cái gì là có thể và bạn không thể được thoả mãn với cái trần tục. Điều linh thiêng đã thấm nhuần vào bạn, điều thiêng liêng đã đạt tới tim bạn. Thượng đế đã chạm vào tim bạn, bạn đã cảm thấy cái chạm đó. Bây giờ bạn muốn sống trong khoảnh khắc đó mãi mãi, bạn muốn khoảnh khắc đó trở thành toàn thể cuộc sống của bạn. Nó có trở thành thế đấy - và chừng nào nó còn chưa trở thành vậy thì con người vẫn còn không được mãn nguyện.
Tình yêu một mặt cho bạn niềm vui lớn và mặt khác cho bạn niềm khao khát về niềm vui vĩnh hằng.

Con người là sự tiến hoá. Không chỉ có chuyện con người tiến hoá, con người là chính phương tiện của bản thân việc tiến hoá: con người là sự tiến hoá. Một trách nhiệm vô cùng, và cái gì đó cũng được vui mừng nữa, bởi vì đó là vinh quanh của con người. Vật chất là cái bắt đầu, Thượng đế là cái kết thúc - vật chất là điểm alpha, Thượng đế là điểm omega. Con người là chiếc cầu - vật chất đi qua con người và được biến đổi thành Thượng đế. Thượng đế không phải là vật và Thượng đế không chờ đợi ở đâu cả. Thượng đế đang tiến hoá qua bạn; Thượng đế đang trở thành qua bạn. Bạn đang biến đổi vật chất thành Thượng đế. Bạn là thực nghiệm lớn nhất mà thực tại đã làm ra. Nghĩ về niềm vinh quang của nó, và nghĩ về trách nhiệm nữa.
Nhiều điều phụ thuộc vào con người, nhưng nếu bạn nghĩ rằng bạn đã ở đó bởi vì bạn có hình dạng con người, thế thì bạn sẽ bị tâm trí bạn dẫn sai đường. Bạn chỉ có hình dạng thôi; bạn chỉ mới là khả năng. Cái thực sắp xảy ra, và bạn phải cho phép nó xảy ra. Bạn phải mở hướng tới nó.
Đó là điều yoga tất cả là gì: cách giúp bạn đi lên hướng tới điểm omega nơi toàn thể năng lượng của bạn được xả ra, được biến đổi - toàn thể vật chất được chuyển hoá thành điều thiêng liêng. Yoga đã ánh xạ toàn thể cuộc hành trình, toàn thể cuộc hành hương của con người - từ dục tới samadhi, từ trung tâm thấp nhất, muladhar, tới trung tâm cao nhất, chính đỉnh cao, cực đỉnh của tiến hoá: sahasrar.
Những điều này phải được hiểu trước khi chúng ta có thể đi vào trong lời kinh của ngày hôm nay. Yoga phân chia con người thành bẩy tầng, bẩy bước, bẩy trung tâm. Trung tâm thứ nhất là muladhar, trung tâm dục, trung tâm mặt trời; và trung tâm cuối cùng, trung tâm thứ bẩy, là sahasrar, trung tâm Thượng đế, điểm omega.
Trung tâm dục về bản chất là đi xuống. Nó là kết nối của bạn với vật chất, điều yoga gọi là prakriti - tự nhiên. Trung tâm dục là quan hệ của bạn với tự nhiên, thế giới mà bạn đã bỏ lại đằng sau, quá khứ. Nếu bạn cứ giới hạn bản thân bạn vào trung tâm dục, bạn không thể tiến hoá được. Bạn sẽ vẫn còn ở chỗ bạn đang ở. Bạn sẽ vẫn còn trong tiếp xúc với quá khứ của bạn, nhưng bạn sẽ không được kết nối với tương lai. Bạn bị mắc kẹt ở đó; con người bị mắc kẹt ở trung tâm dục.
Mọi người nghĩ họ hiểu mọi thứ về dục. Chẳng có gì mấy được biết, ít nhất không được biết cho những người tưởng họ biết - các nhà tâm lí học. Họ tưởng họ biết, nhưng điều cơ sở bị thiếu: tri thức rằng dục có thể trở thành chuyển động đi lên, rằng không nhất thiết nó chỉ phải đi xuống. Nó đi xuống bởi vì cơ chế chuyển xuống tồn tại trong con người - đã tồn tại trong con người. Nó tồn tại trong con vật nữa; nó tồn tại trong cây cối nữa. Không có gì có ý nghĩa mấy về điều đó rằng nó tồn tại trong con người. Ý nghĩa của con người là ở chỗ cái gì đó nhiều hơn tồn tại trong con người mà chưa tồn tại trong cây cỏ, trong chim chóc, trong con vật. Chúng nhất định chuyển xuống; chúng không có cầu thang bên trong chúng.
Đó là điều chúng ta ngụ ý bởi bẩy trung tâm: cầu thang của tiến hoá. Nó tồn tại trong bạn. Bạn có thể rơi lên - nếu bạn chọn. Nếu bạn không chọn, bạn sẽ tiếp tục rơi xuống.
Cho nên bây giờ, với con người, tiến hoá sẽ là ý thức. Mãi cho tới giờ bạn đã được giúp đỡ. Tự nhiên đã mang bạn tới điểm này; từ giờ trở đi, bạn sẽ phải nhận trách nhiệm riêng của bạn. Bạn sẽ phải trở nên có trách nhiệm. Con người đã trưởng thành, con người đã tới tuổi; bây giờ tự nhiên không còn có thể chăm sóc bạn được. Cho nên nếu bạn không di chuyển một cách có ý thức, nếu bạn không làm nỗ lực có ý thức để tiến hoá, nếu bạn không chấp nhận trách nhiệm; bạn sẽ vẫn còn bị kẹt.
Cho nên nhiều người cảm thấy việc mắc kẹt, nhưng họ không biết nó mắc ở đâu. Hàng nghìn người tới tôi và họ bảo tôi họ đang cảm thấy bị mắc kẹt. Họ biết cái gì đó là có thể, nhưng họ không biết nó là gì. Họ biết rằng họ phải di chuyển, nhưng họ không biết cách di chuyển, chuyển đi đâu. Họ biết rằng họ đã ở tại chỗ mà họ đã ở đủ lâu rồi và họ muốn bùng nổ sang chiều hướng mới, nhưng họ bị kẹt.
Việc mắc kẹt này đang tới từ muladhar, từ trung tâm dục, trung tâm mặt trời.
Mãi cho tới giờ đã không có vấn đề cho bạn. Tự nhiên đã giúp; tự nhiên đã làm mẹ bạn mãi cho tới giờ. Nhưng bạn không còn là đứa trẻ, không còn là đứa bé, và tự nhiên không thể cứ nuôi bạn bằng bầu vú của nó. Bây giờ người mẹ nói, "Bỏ vú ra; sống theo cách riêng của con đi." Người mẹ đã nói thế từ lâu trước đây rồi. Những người đã hiểu nó, họ đã nhận trách nhiệm và đã trở thành những siddhas, chư phật, những người đã đạt tới.
Bây giờ con đường sẽ là quyết định của bạn. Bây giờ bạn phải đi theo cách riêng của bạn. Khả năng này tồn tại trong trung tâm muladhar: nó có thể mở lên. Cho nên điều đầu tiên cần được hiểu ngày nay là: không nghĩ rằng bạn hiểu dục trong tính toàn bộ của nó. Bạn không hiểu nó. Tôi đã nghe một giai thoại:
Một người, đi cùng con trai tới lớp học, nói với thầy giáo rằng đứa con trai của người đó muốn biết mọi điều về chim và ong.
"Ông có ám chỉ tới các hướng dẫn dục sơ cấp không?" thầy giáo hỏi.
"Chết tiệt, không," người bố đáp. "Trẻ con biết tuốt về dục rồi. Nó muốn biết về chim và ong."
Nhưng tôi muốn nói với bạn chẳng ai biết tuốt về dục. Chừng nào Thượng đế còn chưa được nhận ra, bạn không thể biết tuốt về dục được, bởi vì Thượng đế là khả năng chung cuộc về năng lượng dục - biến đổi tối thượng của năng lượng dục. Chừng nào bạn còn chưa biết bạn là ai, bạn sẽ không có khả năng biết dục thực sự là gì trong tính toàn bộ của nó. Bạn sẽ không có khả năng để hiểu thấu nó. Chỉ một phần của nó là được biết, phần mặt trời.
Ngay cả phần mặt trăng cũng còn chưa được biết tới. Tâm lí học cho năng lượng nữ tính còn phải tiến hoá. Freud và Jung và Adler và những người khác, bất kì điều gì họ đã làm đều ít nhiều được định tâm quanh đàn ông. Đàn bà vẫn còn là lãnh thổ chưa được vẽ bản đồ. Trung tâm mặt trăng, ngay cả trung tâm mặt trăng, vẫn còn chưa là sự kiện được biết tới.
Vài người đã có vài thoáng nhìn. Chẳng hạn, Jung có vài thoáng nhìn. Freud vẫn còn hướng mặt trời hoàn toàn. Jung đã đi được chút ít hướng tới mặt trăng; tất nhiên, rất lưỡng lự bởi vì toàn thể huấn luyện của tâm trí là khoa học, và đi tới mặt trăng là đi vào trong một thế giới khác hoàn toàn với khoa học. Nó là đi vào trong thế giới của thần thoại, nó là đi vào trong thế giới của thơ ca, tưởng tượng. Nó là đi vào trong thế giới của phi lí trí, phi logic.
Để tôi nói cho bạn đôi điều. Freud là hướng mặt trời; Jung đang nghiêng chút ít hướng tới mặt trăng. Đó là lí do tại sao Freud rất giận với đệ tử Jung của mình. Và những người theo Freud bị Jung làm cho rất bực bội; dường như là ông này đã phản bội lại thầy mình.
Người hướng mặt trời bao giờ cũng cảm thấy rằng người hướng mặt trăng là nguy hiểm. Người hướng mặt trời đi trên siêu xa lộ rõ ràng của lí trí, và người hướng mặt trăng bắt đầu đi trong mê cung. Người đó bắt đầu đi vào trong nơi hoang vu, nơi chẳng cái gì là rõ ràng - mọi thứ đều sống động, nhưng không cái gì rõ ràng.
Và nỗi sợ lớn nhất cho đàn ông là đàn bà. Bằng cách nào đó đàn ông nghi ngờ rằng cái chết đang đi tới từ đàn bà - bởi vì cuộc sống cũng đã đi tới từ cô ấy. Mọi người đều được sinh ra từ đàn bà. Khi cuộc sống đã tới từ đàn bà, thế thì bằng cách nào đó cái chết cũng sẽ xảy ra qua cô ấy. Bởi vì cái kết thúc bao giờ cũng tới để gặp gỡ cái bắt đầu. Chỉ thế thì vòng tròng mới được hoàn chỉnh.
Ở Ấn Độ, trong huyền thoại Ấn Độ, chúng ta đã nhận ra điều đó. Bạn phải đã thấy bức tranh hay tượng của Mẹ Kali, người là biểu tượng hoá cho tâm trí nữ tính, và bà ấy nhảy múa trên xác của chồng mình, Shiva. Bà ấy đã nhảy múa khủng khiếp tới mức Shiva chết, và bà ấy vẫn cứ nhảy múa. Tâm trí nữ tính đã giết chết tâm trí nam tính; đó là nghĩa của thần thoại này.
Và tại sao bà ấy được vẽ mầu đen? Đó là lí do tại sao bà ấy được gọi là Kali; kali nghĩa là "đen." Và tại sao nguy hiểm thế? Trong một tay bà ấy đang cầm cái đầu mới bị chặt với máu còn rỉ ra từ nó. Gần như việc nhân cách hoá cho cái chết. Và bà ấy đang nhảy múa một cách điên dại - và trên ngực của chồng bà ấy, và chồng chết và bà ấy cứ nhảy múa trong cực lạc lớn lao. Tại sao bà ấy lại đen? Bởi vì cái chết bao giờ cũng được nghĩ là đen, như đêm tối đen kịt.
Và tại sao bà ấy đã giết chồng mình? Mặt trăng bao giờ cũng giết mặt trời. Một khi trăng lên trong bản thể bạn, logic chết. Thế thì logic không thể còn lại được, thế thì lí trí không thể còn lại được. Bây giờ bạn đã đạt tới chiều hướng khác toàn bộ.
Bạn chưa bao giờ mong đợi logic từ nhà thơ. Bạn chưa bao giờ mong đợi logic từ hoạ sĩ, từ vũ công, từ nhạc sĩ. Họ đi trong thế giới tối toàn bộ, họ đi trong bóng tối.
Lí trí bao giờ cũng sợ, và đàn ông bao giờ cũng sợ vì đàn ông là hướng lí trí. Bạn không quan sát điều đó sao, rằng đàn ông bao giờ cũng cảm thấy khó hiểu đàn bà và tâm trí của đàn bà? Và cùng điều đó là cảm giác của đàn bà - họ không thể hiểu được đàn ông. Lỗ hổng tồn tại, dường như họ không phải là một phần của một nhân loại, dường như họ là khác. Để tôi kể cho bạn một giai thoại:
Một người Italy tranh cãi với một người Do Thái: "Dân Do Thái các anh tự kiêu thế. Đây là tuyên truyền quá mức cứ nói rằng các anh là dân tộc thông minh nhất trên thế giới. Cực kì vô nghĩa! Ở Italy, khai quật đã được tiến hành, và trong một số địa tầng đất cổ đại ít nhất cũng hai nghìn năm, người ta tìm thấy dây điện, điều chứng tỏ rằng các tổ tiên Roman của chúng tôi vào thời đó đã có điện tín."
Người Do Thái trả lời: "Ở Israel, khai quật đã được thực hiện ở mọi chỗ trên đất có tuổi bốn nghìn năm và chả tìm thấy gì cả, điều có nghĩa là chúng tôi đã có không dây trước khi các ông có điện tín."
Đây là cách logic vận hành. Đó là việc chẻ sợi tóc, nhưng nó có thể tiếp diễn mãi. Ngay cả trong yêu đàn ông vẫn còn hợp lí, biện luận. Đàn ông bao giờ cũng cố chứng minh cái gì đó.
Quan sát. Đàn bà coi là đương nhiên là mọi thứ được chứng minh, và đàn ông cứ cố gắng chứng minh cái gì đó - bao giờ cũng phòng thủ. Ở đâu đó sâu trong tính dục của họ là căn nguyên của nó. Khi đàn ông và đàn bà làm tình, đàn bà không cần chứng minh cái gì. Cô ấy có thể chỉ thụ động, nhưng đàn ông phải chứng minh tính đàn ông của mình. Từ chính nỗ lực đó để chứng minh tính đàn ông của mình, đàn ông liên tục phòng thủ và bao giờ cũng cố chứng minh cái gì đó này khác.
Toàn thể triết học không là gì ngoài việc tìm chứng minh cho Thượng đế. Khoa học không là gì ngoài việc tìm chứng minh cho các lí thuyết. Đàn bà chưa bao giờ quan tâm tới triết học. Họ coi cuộc sống là đương nhiên có đó; họ chấp nhận nó. Họ không phòng thủ theo bất kì cách nào, dường như chúng đã chứng minh rồi. Bản thể của họ dường như là tuần hoàn hơn, vòng tròn dường như là đầy đủ. Điều đó có thể là nguyên nhân cho thân thể họ tròn trĩnh thế. Nó có hình dạng tròn. Đàn ông có góc cạnh, và bao giờ cũng sẵn sàng đấu tranh và tranh luận. Ngay cả trong khoảnh khắc của yêu. Tôi mới đọc về Somerset Maugham.
Khi Somerset Maugham, nhà văn, đã gần chín mươi, ông ấy bị bệnh cúm. Một hôm một quí bà ngưỡng mộ gọi điện tới và hỏi liệu bà ấy có thể gửi trái cây và hoa tới không.
"Trái cây thì quá trễ," Maugham đáp, "còn hoa thì quá sớm."
Một cử chỉ tình yêu đơn giản thế... Logic đi vào ngay lập tức.

Một người đàn bà rất nổi tiếng, một vũ công, một nghệ sĩ, và một trong những người đẹp nhất, đã hỏi Bernard Shaw, "Anh có muốn lấy em không?" Bernard nói, "Để làm gì?"
Người đàn bà nói, "Em bao giờ cũng nghĩ rằng sắc đẹp của em - thân thể em, mặt em, mắt em - và thông minh của anh, cả hai sẽ làm ra đứa con đẹp. Nó sẽ là món quà đẹp cho thế giới."
Bernard Shaw cười và nói, "Đợi đã. Có thể chỉ là điều ngược lại: nó có thể có thông minh của cô, điều ngụ ý chẳng có gì; và nó có thể có sắc đẹp của tôi, điều gần như là xấu. Đứa con có thể theo cách khác chứ."

Tâm trí nam bao giờ cũng cắt ra từng mảnh.
Jung tường trình trong tự truyện của ông ấy rằng ông ấy đang ngồi cùng Freud, và hôm đó đột nhiên ông ấy cảm thấy đầy ách trong dạ dầy mình, và ông ấy cảm thấy dường như cái gì đó sắp xảy ra, và đột nhiên có một loại tiếng nổ trong tủ. Cả hai trở nên cảnh giác. Điều gì đã xảy ra? Jung nói, "Nó có cái gì đó liên quan tới năng lượng của tôi" Freud cười và chế giễu và nói, "Vô nghĩa, làm sao có thể có cái gì liên quan tới năng lượng của ông được?" Jung nói, "Đợi đã, trong vòng một phút nó sẽ lại tới nữa" - bởi vì ông ấy lại cảm thấy dạ dầy chướng lên. Và trong vòng một phút - đích xác trong một phút - có tiếng nổ khác.
Bây giờ đây là tâm trí nữ tính. Và Jung viết trong tự truyện của ông ấy, "Kể từ ngày đó, Freud không bao giờ tin cậy tôi." Điều này là nguy hiểm bởi vì nó là phi logic. Và Jung bắt đầu nghĩ về một lí thuyết mới mà ông ấy gọi là "đồng bộ."
Lí thuyết làm cơ sở cho mọi nỗ lực khoa học là "nhân quả" - mọi thứ đều được nối với nguyên nhân và hậu quả. Bất kì cái gì xảy ra đều có nguyên nhân, và nếu bạn có thể tạo ra nguyên nhân, hậu quả sẽ theo sau. Nếu bạn đun nước nóng lên nó sẽ bay hơi. Đun nóng là nguyên nhân: đem nước tới một trăm độ và nó sẽ bay hơi. Bay hơi là hậu quả. Đây là cơ sở khoa học.
Jung nói có một nguyên lí khác, đó là "đồng bộ." Khó giải thích nó bởi vì mọi giải thích đều từ tâm trí khoa học, nhưng bạn có thể thử cảm thấy điều ông ấy ngụ ý. Để hai đồng hồ tương tự nhau tới mức chúng được đồng bộ với nhau: khi kim của đồng hồ này chỉ mười hai, đồng hồ kia điểm chuông mười hai giờ. Đồng hồ này đơn giản chạy, chỉ thời gian; đồng hồ kia điểm chuông - mười một, mười hai, một, hai. Bất kì ai nghe nó đều sẽ ngạc nhiên vì đồng hồ thứ nhất không phải là nguyên nhân cho việc điểm chuông của đồng hồ thứ hai. Chúng không có cách nào quan hệ cả. Đấy chỉ là người làm, thợ làm đồng hồ đã đồng bộ hoá chúng theo cách mà cái gì đó xảy ra trong cái này và đồng thời cái gì đó khác xảy ra trong cái kia. Chúng không được kết nối bởi bất kì nguyên nhân và hậu quả nào.
Jung nói bên cạnh nhân quả có nguyên lí khác. Người làm ra thế giới, nếu có người nào, ông ấy đã làm ra thế giới theo cách mà nhiều điều xảy ra mà không phải là nguyên nhân và hậu quả. Bạn thấy người đàn bà và đột nhiên tình yêu nở hoa. Bây giờ điều này được giải thích bằng nhân quả hay bằng đồng bộ? Jung dường như là chính xác hơn và gần với chân lí hơn. Người đàn bà đã không là nguyên nhân cho tình yêu trong bạn, bạn đã không là nguyên nhân cho tình yêu trong người đàn bà, nhưng đàn ông và đàn bà, hay năng lượng của mặt trời và mặt trăng, đã được làm ra theo cách mà khi chúng tới gần, tình yêu nở hoa. Nó là tính đồng bộ.
Nhưng Freud trở nên sợ. Họ chưa bao giờ ở gần nhau lần nữa. Freud đã chọn Jung là người kế tục mình, nhưng hôm đó ông ấy đã đổi ý. Thế rồi họ rời ra, ngày càng xa hơn.
Đàn ông không thể hiểu được đàn bà, đàn bà không thể hiểu được đàn ông. Điều đó gần giống như mặt trời và mặt trăng: khi mặt trời có đó, mặt trăng biến mất. Khi mặt trời đi xuống mặt trăng xuất hiện. Chúng chưa bao giờ gặp gỡ. Chúng chưa bao giờ tới mặt đối mặt. Trí tuệ của bạn, lí trí của bạn, biến mất khi trực giác của bạn bắt đầu vận hành. Đàn bà nhiều tính trực giác hơn. Họ không có suy luận về cái gì đó, nhưng họ có thể có linh cảm, và linh cảm của họ gần như bao giờ cũng đúng.
Nhiều đàn ông đã tới tôi và nói với tôi, "Điều này thực là lạ. Nếu chúng tôi có chuyện gì đó và chúng tôi không kể với vợ, bằng cách nào đó này khác cô ấy đi tới biết. Nhưng chúng tôi không bao giờ có khả năng biết liệu vợ có chuyện gì hay không."
Có một hoàn cảnh giữa Sheela và Chinmaya. Chinmaya có chuyện, và họ cả hai cùng tới tôi. Và Chinmaya nói, "Điều này thực là lạ. Bất kì khi nào tôi có chuyện, ngay lập tức Sheela tới - dù cô ấy ở bất kì chỗ nào, cô ấy lập tức quay lại đi tới phòng tôi. Bằng không thì cô ấy chẳng bao giờ tới - cô ấy đang làm việc ở văn phòng hay làm cái gì đó. Nhưng bất kì khi nào tôi quan tâm tới một người đàn bà và tôi đưa bất kì người đàn bà nào vào phòng tôi - cho dù chỉ là nói chuyện, và Sheela tới. Và điều này đã xảy ra biết bao nhiêu lần." Và tôi hỏi, "Nó có bao giờ xảy ra theo cách khác không?" Anh ta nói, "Không bao giờ."
Đàn bà sống theo linh cảm. Cô ấy không thể suy luận được nó ra. Cô ấy đơn giản cảm thấy nó, và cảm thấy nó sâu sắc tới mức nó gần như là đúng cho cô ấy. Đó là lí do tại sao chồng không bao giờ có thể đánh bại được bất kì đàn bà nào trong biện luận. Họ không nghe biện luận của bạn. Họ cứ khăng khăng, "Điều này là vậy." Và bạn cũng biết rằng điều này là vậy, nhưng bạn cứ bảo vệ. Bạn càng bảo vệ, họ càng biết điều này là vậy. Chuyện xảy ra, có một vụ kiện ở toà:
Ngày xử án đầu tiên tới, và người bị kiện mất điềm tĩnh khi mười hai đàn bà được chọn làm ban hội thẩm.
"Tôi có phải bị xét xử bởi hội thẩm quí bà không?" anh ta hỏi luật sư. "Cứ giữ yên tĩnh đi," luật sư nói.
"Giữ yên tĩnh chả là gì cả!" người bị kiện kêu lên. "Nếu tôi không thể lừa được vợ tôi, làm sao tôi có thể hi vọng lừa được mười hai đàn bà? Cho tôi thành có tội đi cho rồi."
Điều đó là không thể được. Họ có cách khác để biết, cách tách rời để biết: cách thức mặt trăng để biết.
Tâm lí học nữ tính vẫn còn phải được phát triển, và chừng nào tâm lí học mặt trăng còn chưa được phát triển, tâm lí học sẽ không có trạng thái của khoa học. Nó sẽ vẫn còn là định kiến; nó sẽ vẫn còn là định kiến nam tính. Nó sẽ không nói cái gì đó về con người như vậy.
Tâm lí học Freud là tâm lí học mặt trời; tâm lí học Jung nghiêng chút ít về mặt trăng. Và có một người, Roberto Assagioli, tâm lí học của ông ấy là sự tổng hợp giữa mặt trời và mặt trăng, mới là bắt đầu của nó. Ông ấy gọi tâm lí học của ông ấy là "tâm lí học tổng hợp." Freud gọi tâm lí học của ông ấy là "phân tâm học." Phân tích tới từ mặt trời; tổng hợp tới từ mặt trăng. Quan sát xem, bất kì khi nào có ánh sáng, mọi sự là tách rời. Thế thì cây này ở đây, cây kia ở kia, nhưng mọi sự là tách rời. Và thế rồi tới bóng tối của đêm và mọi thứ biến mất - việc tách rời. Mọi thứ trở thành một. Đêm tối, và mọi phân chia biến mất.
Tâm lí học mặt trăng sẽ là tổng hợp; tâm lí học mặt trời là phân tích, cắt mảnh, tranh cãi, chứng minh. Nhưng có một khả năng của tâm lí học cao hơn. Tôi muốn cho bạn vài hướng dẫn, điều tôi gọi là "tâm lí học của chư phật." Freud là mặt trời, Jung là mặt trăng, Assagioli mặt trời cộng với mặt trăng. Vị phật là mặt trời cộng với mặt trăng cộng với cõi bên kia, và về sau tôi sẽ giải thích cho bạn điều tôi ngụ ý bởi "cõi bên kia." Và thế thì cõi bên kia đó cũng có thể được nhìn vào, qua nhiều cách.

0 Đánh giá

Ads Belove Post