Read more
Tôi mở hội bản thân tôi –
Osho
Thượng đế không ở đâu, Cuộc sống ở đây bây giờ
Chương 7. Sự tồn tại là kỷ
niệm
Powered by RedCircle
Thưa thầy kính yêu của
chúng tôi,
Một hôm Thạch Đầu bảo đại
chúng: Ngày mai cắt cỏ ở trước điện Phật.
Sáng hôm sau, đại chúng
mỗi người cầm liềm, cầm cuốc đến trước chùa làm cỏ. Chỉ riêng Đan Hà lấy thau
múc nước gội đầu, đến quỳ gối trước Hòa thượng. Thạch Đầu thấy thế cười, liền cạo
tóc cho Đan Hà. Cạo xong, Thạch Đầu lại vì Đan Hà nói giới luật. Đan Hà bịt tai
ra đi.
Đan Hà trở lại Giang Tây
yết kiến Mã Tổ. Chưa lễ ra mắt, Sư đi thẳng về tăng đường trèo lên cổ tượng Văn
Thù ngồi. Đại chúng kinh ngạc chạy báo cho Mã Tổ hay. Mã Tổ đích thân vào tăng
đường trông thấy bèn nói:
- Con ta, Thiên Nhiên.
Đan Hà bèn bước xuống đất
lễ bái, thưa:
- Cảm tạ thầy ban cho
pháp hiệu.
Mã Tổ hỏi:
- Từ đâu đến?
Đan Hà thưa:
- Từ Thạch Đầu đến.
- Đường Thạch Đầu trơn,
ngươi có té chăng?
- Nếu có trượt té thì chẳng
đến đây.
Các
bạn,
Câu hỏi thứ nhất...
Dường như không bao giờ
có bất kì tôn giáo hướng Thượng đế nào là lỗi thời hơn nó ngày nay; vậy mà khá
lạ kì, Ki tô giáo ít nhất dường như là nở hoa. Người Ki tô giáo lại được sinh
ra, Jesus kì dị, và người Ki tô giáo chính thống lan tràn.
Chúng ta có đang thấy hiện
tượng mà thầy đã mô tả khi cái gì đó sắp chết không? Thầy đã so sánh nó với chiếc
nến sắp tắt, có sự bột phát năng lượng cuối cùng, chung cuộc trước khi nó xì tắt
ngấm.
Đó
đích xác là điều đã xảy ra. Không chỉ Ki tô giáo sắp ra khỏi sự tồn tại, mọi
tôn giáo như vậy đã lạc hậu. Họ đang sống cuộc sống hậu chết.
Bất
kì cái gì họ đã từng dạy cho nhân loại đều đã được thấy là tội. Thượng đế của họ
là hư cấu, dối trá. Tất cả họ đã từng bảo mọi người phải thực, và họ đang dạy dối
trá về cõi trời và địa ngục và Thượng đế. Họ đã làm cho toàn thể nhân loại
thành đạo đức giả.
Khổ
mà bạn thấy khắp thế gian được tạo ra bởi các tôn giáo của bạn. Một khi bạn làm
cho con người cảm thấy mặc cảm, người đó không thể tận hưởng cuộc sống, người
đó không thể hân hoan trong sự tồn tại. Bạn đã chặt rễ của người đó, chính rễ
nuôi dưỡng niềm vui của bạn, phúc lạc của bạn.
Mọi
tôn giáo đã từng chống lại nhân loại. Họ nhất định đi vào tuyệt chủng. Họ càng
biến mất càng sớm khỏi trái đất càng tốt. Con người cần hát cùng chim, cần múa
cùng cây. Con người cần vươn lên những chiều cao của Phật Gautam.
Các
tôn giáo đã không giúp cho tiến hoá nào của tâm thức; ngược lại chúng là chướng
ngại lớn nhất. Tôn giáo đã trở thành kinh doanh trong tay các tu sĩ. Và chắc chắn
tính tôn giáo đích thực chẳng liên quan gì tới kinh doanh. Nó có cái gì đó liên
quan tới việc nở hoa của bạn, nó có cái gì đó liên quan tới việc khai tâm của bạn
vào vĩnh hằng, vào chân lí, vào cái đẹp, vào cái thiện.
Tính
tôn giáo không có cách nào để làm cho nhân loại thành nô lệ - nhưng đó là điều
các tôn giáo đã làm. Mọi người bị làm thành nô lệ, bị áp bức, bóc lột, và mọi
người bị đầu độc bởi tôn giáo, bị ép buộc là phi tự nhiên. Và khoảnh khắc bạn
ép buộc ai đó là phi tự nhiên, bạn đang phạm phải tội ác lớn nhất chống lại sự
tồn tại.
Mọi
tôn giáo, hướng Thượng đế hay không hướng Thượng đế, đã từng dạy con người từ bỏ
sự sống. Họ là phản sự sống, họ chống lại mọi thứ mà có thể làm cho bạn là con
người toàn thể. Không chỉ về thể chất, không chỉ về tâm lí, mà cả về tâm linh nữa.
Họ đã từng chặt bạn thành các mảnh, và họ đã từng cố trong nhiều thế kỉ, một
cách nhất quán, để áp đặt ý tưởng về từ bỏ. Đây không phải là cách tiếp cận
đúng tới sự tồn tại.
Khoảnh
khắc bạn bắt đầu từ bỏ, bạn bắt đầu co lại. Thay vì trưởng thành, thay vì trở
thành bao la hơn và vô hạn, bạn bắt đầu co lại trong bản thân bạn. Bạn làm mất
đi mọi quan tâm trong sự tồn tại, trong yêu, vì bạn được bảo phải hành hạ bản
thân bạn. Từ bỏ khỏi thế giới là cái tên khác cho tự hành hạ. Và người đang
hành hạ bản thân mình - làm sao bạn có thể mong đợi người đó nhảy múa? Làm sao
bạn có thể mong đợi người đó cực lạc? Người đó đang tự tử chậm.
Các
tôn giáo hướng Thượng đế, và các tôn giáo không hướng Thượng đế - cả hai đang sắp
biến mất.
Tôn
giáo là vấn đề cá nhân; nó chẳng liên quan gì tới tính tập thể. Nó không phải
là hiện tượng xã hội, nó là rất riêng tư, tuyệt đối riêng tư, chuyện bên trong
nhất của bạn. Ngay cả yêu cũng không có tính riêng tư nhiều như vậy, vì ít nhất
hai người được tham gia vào trong nó. Trong thiền, không ai được tham gia vào -
duy nhất bạn hiện hữu. Nó là tuyệt đối cá nhân.
Tôi
dạy bạn là các cá nhân.
Không
bao giờ thuộc về bất kì tổ chức nào, không bao giờ thuộc về bất kì kinh sách
linh thiêng nào, nhà thờ, đền chùa. Không bao giờ thuộc về bất kì tu viện nào.
Toàn thể sự tồn tại là sẵn có cho bạn - hân hoan trong nó đi, mở hội nó đi.
Không
tôn giáo nào dạy mở hội; họ dạy vô dục! Tôi tuyệt đối chống vô dục và ủng hộ tất
cả cho mở hội. Tôi đang làm mọi nỗ lực để mang cách tiếp cận mới hướng tới sự sống
mà nhân loại quá khứ đã bỏ lỡ - tự do mới, bầu trời mới để giang đôi cánh của bạn.
Mọi tôn giáo đã từng chặt cánh của bạn, cho bạn vào trong lồng và làm bạn tin rằng
đây là mọi thứ cuộc sống là vậy. Có lí do cho họ làm điều này. Chừng nào bạn
chưa lấy đi tính cá nhân của mọi người và phá huỷ cánh của họ và tự do của họ
và chặt rễ nuôi dưỡng của họ, bạn không thể làm họ thành nô lệ. Không thể tạo
ra quân đội và chiến tranh; không thể làm cho hàng triệu người khổ trong nghèo
nàn - họ chắc đã nổi dậy từ lâu rồi. Nhưng tôn giáo đang giữ họ bị nén lại bởi
sợ Thượng đế, bởi sợ trừng phạt trong địa ngục, và bởi tham rằng nếu bạn đi
theo những lời răn của họ bạn sẽ được thưởng vô cùng.
Tôi
đã kể cho bạn về con người này Salman Rushdie. Cách mà Ayatollah Khomeini và những
người lãnh đạo tôn giáo khác của Iran đã hành xử... bình thường mọi người nghĩ
rằng đây là dạng rất kì lạ của người tôn giáo. Tôi muốn bảo bạn điều này không
phải vậy - đây là điều các tôn giáo đã từng làm trong nhiều thế kỉ.
Bản
thân Mohammed đã mang kiếm cả đời ông ấy, giết mọi người, và ông ấy đã cho cái
tên Islam, cho tôn giáo của ông ấy, điều có nghĩa là hoà bình! Và trên chiếc kiếm
của ông ấy được viết dòng chữ bằng vàng, "An bình là thông điệp của
ta" - trên chiếc kiếm!
Ayatollah
Khomeini đích xác hành xử như mọi người lãnh đạo tôn giáo. Đó là hành vi tuyệt
đối phi tôn giáo nhưng Ayatollah Khomeini không là người duy nhất chịu trách
nhiệm cho điều đó, ông ta đơn giản là đại diện của toàn thể lịch sử quá khứ của
các tôn giáo: giết, sát hại, tàn sát... đánh nhau về những điều kì lạ.
Người
Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo và người Do Thái, cả ba tôn giáo này đã từng
đánh nhau về một ý tưởng kì lạ mà có thể được dùng chung rất dễ dàng, rằng Jerusalem
là thành phố linh thiêng. Cho nên cái gì sai? Cả ba tôn giáo có thể tận hưởng
đi tới Jerusalem. Nhưng họ đã từng đánh nhau. Người Do Thái đã từng đòi,
"Nó là thành phố thiêng của chúng tôi." Và người Ki tô giáo tất nhiên
đã nói, "Nó là thành phố linh thiêng vì Jesus đã bị đóng đinh ở đây."
Và người Do Thái nói nó là thành phố linh thiêng của họ vì đền thờ Do Thái cổ đại
vẫn tồn tại ở Jerusalem và vẫn có bức tường lớn nơi người Do Thái kêu khóc - đó
là lời nguyện của họ, ngay trước bức tường cổ đại. Bạn sẽ thấy hàng trăm người
Do Thái mọi ngày đứng trước bức tường hay quì xuống trước bức tường. Nó là
thành phố linh thiêng của họ.
Và
thế rồi tới người Mô ha mét giáo và với hư cấu kì lạ họ đã làm cho nó thành
thành phố linh thiêng của họ. Hư cấu là ở chỗ Mohammed đã đi lên cõi trời vẫn
đang ngồi trên con ngựa của ông ấy, và ngay trên đường lên cõi trời ông ấy đã dừng
lại ở Jerusalem. Bây giờ, tôi không thể quan niệm được làm sao Jerusalem tới
trên đường lên cõi trời. Nó không tồn tại đâu đó trong mây...
Cho
nên đá trên đó ông ấy đã nghỉ lại trong vài phút trở nên được thăng lên cõi trời
là tảng đá thiêng, và vì tảng đá thiêng là ở trong Jerusalem, người Mô ha mét
giáo đã từng đòi, "Nó là thành phố linh thiêng của chúng tôi." Và ba
tôn giáo này đã từng đánh nhau và giết nhau trong hàng trăm và hàng nghìn năm.
Tôi không thể hiểu được tại sao tất cả họ không thể có chung thành phố linh
thiêng này - tất cả họ có thể đến và tôn thờ. Nhưng chính lời đòi hỏi rằng nó
là "của chúng tôi", là tuyệt đối phi tôn giáo.
Người
tôn giáo không có tính sở hữu. Những người này không phải là người tôn giáo, họ
thuộc về chỉ các tổ chức giả tôn giáo. Và họ đang làm mọi thứ sai nhân danh Thượng
đế. Điều đó cho sự thừa nhận cho hành động vô đạo đức của họ.
Án
tử hình của Ayatollah Khomeini cho bốn người đã tuyệt đối là vô đạo, tuyệt đối
phi tâm linh. Và thế rồi một ayatollah khác tới và tuyên bố rằng ông ta sẽ trao
2.6 triệu đô la cho người mang đầu của Salman Rushdie về Iran.
Tôi
đã hi vọng Salman Rushdie sẽ chứng tỏ là con người của chính trực - ông ấy đã
không vậy. Ông ấy đã bắt đầu sa ngã khỏi sự chính trực, khỏi tính cá nhân. Hôm
nay ông ấy đã yêu cầu Ayatollah Khomeini - "Tôi cảm thấy rằng tôi đã làm tổn
thương tình cảm tôn giáo của nhiều người thế..." Hôm qua, Ayatollah Khomeini
đã nói rằng nếu Rushdie hỏi xin tha thứ và sẵn sàng nhận ăn năn hối lỗi, thế
thì ông ta có thể cứu mạng mình. Bằng không thì không có cách nào.
Phát
biểu này không chính xác là nói lời xin lỗi, nhưng chỉ là việc thừa nhận rằng
ông ấy đã vô ý thức làm tổn thương tình cảm của hàng nghìn người Mô ha mét
giáo, và rằng ông ấy sẽ cẩn thận hơn trong tương lai. Nhưng ông ấy đã không nhận
biết rằng Ayatollah Khomeini không là người lành mạnh. Ông ta đã bác bỏ phát biểu
này, và lại nói trên đài phát thanh, "Rushdie đã không xin lỗi và bất kì
cái gì ông ấy đã nói, chúng tôi bác bỏ nó."
Bây
giờ Salman Rushdie đã bắt đầu sụp đổ. Ông ấy sẽ sớm phải xin lỗi, và sau khi
xin lỗi, Ayatollah Khomeini sẽ yêu cầu ông ấy làm ăn năn hối lỗi. "Đi tới
Kaaba và nhịn ăn trong một tháng..." Salman Rushdie đã lấy nước đi sai.
Đây là cách mọi người từ sợ đã bị giữ trong tù đày.
Tôi
đã hi vọng rằng con người của thông minh của Salman Rushdie sẽ thà chết còn hơn
xin lỗi. Ông ấy đã không phạm bất kì tội gì, và ông ấy đã không làm bất kì cái
gì sai. Tôi đã hi vọng rằng ông ấy sẽ đẩy Ayatollah Khomeini vào góc. Ông ấy
đáng phải hỏi ông ta, "Trên nền tảng nào mà ông nói rằng tôi đã phạm bất
kì cái gì chống lại Hồi giáo? Nói cho tôi đích xác lí do gì mà ông đang đòi hỏi
xin lỗi hay cho tôi án tử hình." Và điều đó chắc đã phơi bày Ayatollah
Khomeini vì không một ayatollahs này đã đưa ra lí do.
Rushdie
đơn giản phát biểu một sự kiện lịch sử, rằng vài dòng thơ mà Mohammed đã viết
trong phiên bản trước của Koran ông ấy đã bỏ về việc nói rằng ông ấy đã được cảm
hứng khởi bởi quỉ để viết những dòng thơ này. Bây giờ, đây là sự kiện lịch sử,
nó không phải là tưởng tượng của Salman Rushdie. Tại sao ông ấy phải hỏi xin
tha thứ?
Ông
ấy đáng phải đã nói, "Cho tôi lí do," và ông ấy đã dồn nhưng kẻ cuồng
tín này vào góc, vì họ không thể nói thực sự vấn đề là gì. Tôi muốn bạn hiểu điều
đó bởi vì điều đó sẽ cho bạn sáng suốt trong bản năng sát hại của mọi tôn giáo.
Điều này không tạo ra nghĩa nào vì nó là sự kiện đã được thiết lập chắc chắn,
được chấp nhận bởi các học giả người Mô ha mét giáo trong nhiều thế kỉ, đó là
vài vần thơ đã được bỏ đi. Và phát biểu của Mohammed được biết tới cho tất cả
những người đã từng nghiên cứu Koran và lịch sử Hồi giáo. Nếu bất kì ai có lỗi
đó là Mohammed, không phải Rushdie.
Cho
nên họ không thể thực sự nói đây là những vần thơ tạo ra rắc rối, vì thế thì
ngay lập tức câu hỏi nảy sinh rằng chúng là sự kiện lịch sử. Cho nên không ai
đã nói vấn đề là gì. Vấn đề là ở chỗ nếu Mohammed có thể bị ảnh hưởng bởi quỉ,
và ông ấy đã rút lại vài vần thơ do quỉ gây cảm hứng, điều đó làm rạn vỡ toàn
thể ý tưởng cuồng tín rằng Koran là không thể sai, rằng Mohammed là paigambar
duy nhất của Thượng đế, nhà tiên tri đích thực duy nhất. "Một Thượng đế, một
nhà tiên tri Mohammed, và một sách thiêng Koran" - đây là ba nguyên tắc cơ
bản của Mô ha mét giáo. Việc chấp nhận sự kiện rằng Mohammed có thể bị ảnh hưởng
bởi quỉ và có thể không nhận ra điều đó trong nhiều năm làm cho toàn thể Koran
thành đáng ngờ, làm cho nhà tiên tri Mohammed là có thể sai. Đây là lí do ẩn đằng
sau, được ngụ ý, và họ không thể nói tại sao họ giận thế.
Họ
giận vì nếu toàn thế giới biết rằng Mohammed có thể bị lừa bởi quỉ, thế thì ông
ấy không phải là nhà tiên tri hoàn hảo của Thượng đế - nói gì tới các vần thơ
khác trong Koran? Ai biết vần thơ nào được gây cảm hứng bởi quỉ, vần thơ nào được
gây cảm hứng bởi Thượng đế? Chỉ để tránh hàm ý này trở thành rõ ràng cho mọi
người, những người này đang phát điên.
Với
cùng lí do, Galileo đã bị triệu tới bởi giáo hoàng vì ông ấy đã viết rằng không
phải mặt trời quay quanh trái đất; ngược lại, chính trái đất quay quanh mặt trời.
Nhưng Kinh Thánh phát biểu cái nhìn thông thường. Cũng như chúng ta thấy mặt trời
mọc buổi sáng và đi quanh từ đông sang tây, lặn, cho nên dường như là mặt trời
đi quanh trái đất. Đây là cái nhìn thông thường, nhưng vấn đề mà Galileo đã hỏi
giáo hoàng là, "Tại sao ông sợ chân lí thế? Tôi đã làm thực nghiệm, đây là
công việc của toàn thể đời tôi. Và cho dù tôi rút lại câu này mà ông muốn tôi
rút lại, trái đất vẫn không thay đổi tiến trình của nó mà mặt trời cũng không
thay đổi, vì chúng không đọc sách của tôi. Trái đất sẽ tiếp tục quay vòng quanh
mặt trời. Nhưng tại sao ông sợ?" Galileo đã hỏi, và ông ấy đã dồn giáo
hoàng vào góc: "Hoặc ông chứng minh rằng tôi sai trên nền tảng khoa học...
vì nó không phải là vấn đề tôn giáo chút nào. Tôn giáo phải làm gì liệu mặt trời
quay quanh trái đất hay trái đất quay quanh mặt trời? Nó chẳng liên quan gì với
bất kì tính tâm linh nào, nó là khu vực khoa học. Nếu bất kì người nào có thể
chứng minh bất kì cái gì về mặt khoa học chống lại tôi, thế thì tất nhiên tôi sẽ
rút lại. Nhưng tại sao ông sợ?"
Bị
dồn vào chân tường theo cách này, giáo hoàng phải chấp nhận rằng vấn đề thực
là: "Chúng tôi không quan tâm liệu trái đất quay quanh, hay mặt trời quay
quanh. Mối quan tâm của chúng tôi là ở chỗ ngay cả một câu trong Kinh Thánh được
thấy là sai, toàn thể uy tín của Kinh Thánh mất. Thế thì nó không phải là công
việc của Thượng đế. Thượng đế là không thể sai được, Thượng đế không thể phạm
phải sai lầm như vậy. Ngài đã làm ra trái đất, ngài đã làm ra mặt trời, và ngài
không biết ai quay quanh.
"Vấn
đề là ở chỗ một câu bị chứng tỏ là sai sẽ tạo ra nghi ngờ về toàn thể sự đích
thực của Kinh Thánh, cho nên chúng tôi không thể cho phép ông tạo ra nghi ngờ
này trong tâm trí mọi người."
Galileo
đã rất già, gần trên giường chết. Ông ấy đã bị lôi khỏi giường chết tới toà án
của giáo hoàng. Ông ấy nói, "Tôi không muốn lâm vào rắc rối không cần thiết.
Tôi sắp chết. Cho nên tôi sẽ xoá bỏ câu này." Và ông ấy phải đã là con người
của phẩm chất khôi hài lớn. Ông ấy đã xoá bỏ câu này. Nhưng trong cước chú ông ấy
viết, "Mặc dầu tôi xoá bỏ câu này, sự kiện là ở chỗ trái đất quay quanh mặt
trời. Chúng không định nghe theo tôi, chúng không theo bất kì tôn giáo nào và
chúng không là người Ki tô giáo."
Chắc
chắn trái đất không là người Ki tô giáo, mặt trời cũng không là người Ki tô
giáo. Và chắc chắn bất kì ai đã viết ra Kinh Thánh không là toàn năng, không là
không thể sai.
Hàng
trăm sự kiện đã được tìm ra trong ba trăm năm này sau Galileo, điều đi ngược lại
Kinh Thánh, điều đi ngược lại Koran, điều đi ngược lại Vedas... điều đi ngược lại
mọi kinh sách tôn giáo trên thế giới. Và điều đó chứng tỏ rằng những cuốn sách
này đã không được viết bởi Thượng đế, hay được viết bởi đứa con duy nhất của
Thượng đế, Jesus Christ, hay bởi các nhà tiên tri như Mohammed hay Moses người
đại diện cho Thượng đế. Và họ là những sứ giả... Chắc chắn những thông điệp này
là tưởng tượng của họ.
Tất
cả những kinh sách linh thiêng này là đầy nghĩa bình thường, không có bất kì
truy hỏi khoa học nào, không có bất kì truy hỏi tâm linh nào.
Đọc
các kinh sách linh thiêng này là kì lạ thế. Chúng có vẻ rác rưởi tới mức ngay cả
báo chí dường như quan trọng hơn. Và nếu Thượng đế viết, hay sứ giả đặc biệt của
ngài viết những kinh này, chúng không thể có giá trị lành mạnh.
Toàn
thể hiểu biết của tôi là ở chỗ mọi nhà tiên tri và đấng cứu tinh và avataras và
tirthankaras này - những người sáng lập của mọi tôn giáo - về căn bản là người
hoang tưởng tự đại, những bản ngã lớn. Đây là bản ngã lớn nhất trên thế giới, rằng
bạn có quan hệ với Thượng đế theo cách không ai khác có quan hệ.
Đó
là lí do tại sao Jesus loại trừ ý tưởng rằng có người con trai khác, người anh
em khác của ông ấy, hay chị em khác. Thượng đế chỉ có một người con trai và đó
là Jesus Christ. Tại sao Mohammed đóng cửa - "Ta là nhà tiên tri cuối cùng
của Thượng đế; bây giờ sẽ không còn nhà tiên tri nào tới thêm nữa. Cho nên
Koran linh thiêng là thông điệp cuối cùng từ Thượng đế; không sửa chữa nào có
thể được làm trong nó." Nhưng bản thân ông ấy đã sửa nó, và bản thân ông ấy
đã chấp nhận rằng ông ấy được gợi hứng bởi quỉ.
Tôn
giáo đã từng đè nén chân lí, và bây giờ là lúc chân lí phải được tuyên bố, tự
do phải được tuyên bố, tính cá nhân phải được tuyên bố. Con người đã sống trong
cảnh nô lệ đủ lâu rồi. Đêm đã quá dài; bình minh mới được cần tới. Con người mới
được cần, nhân loại mới được cần, và nhân loại đó có nhu cầu cần mọi cái gọi là
tôn giáo biến mất khỏi trái đất.
Họ
đang trút hơi thở cuối cùng, cho nên câu hỏi của bạn là đích xác đúng. Cùng điều
đó là trường hợp với chiếc nến sắp tắt - và việc năng lượng cuối cùng, chung cuộc,
phun ra trước khi nó phì vào tắt ngấm.
Điều
này cũng xảy ra cho con người. Các bác sĩ trị liệu đã từng quan sát điều đó
trong nhiều thế kỉ rằng trước khi chết người ta trở nên hoàn toàn mạnh khoẻ; mọi
bệnh biến mất. Và họ đã có thể không hiểu - "Cái gì đang xảy ra? Người đó
sắp chết, điều logic sẽ là bệnh của người đó trở nên nguy hiểm hơn vì chúng sắp
giết chết người đó. Nhưng ở khoảnh khắc cuối mọi bệnh biến mất."
Nó
là việc phun ra năng lượng cuối cùng. Trước khi đi vào trong bóng tối, chiếc nến
loé lên. Và nhiều lần, các bác sĩ đã bị lừa bởi việc năng lượng loé lên; họ tưởng
họ đã chữa được cho người này. Và đến lúc họ về nhà, điện thoại reo nói rằng
người này chết. Và họ đã tưởng họ đã chữa được người này, vì mọi thứ trở nên
bình thường trước chết. Người này đang làm nỗ lực cuối cùng của mình - tất
nhiên vô ý thức - để vẫn còn sống. Người này lần đầu tiên là toàn bộ, cho nên
toàn thể năng lượng được tụ lại. Việc tụ năng lượng cho dáng vẻ giả tạo về mạnh
khoẻ dường như người này được chữa khỏi.
Mọi
tôn giáo này đang tụ lại toàn thể năng lượng của họ - việc loé sáng cuối cùng của
sự sống trước khi chúng biến mất mãi mãi với Thượng đế của họ, với các tu sĩ của
họ, với các sư của họ, với nhà thờ của họ, với kinh sách linh thiêng của họ.
Ngày đó sẽ là ngày vĩ đại nhất trong lịch sử con người. Con người sẽ trở thành
tự do.
Do
đó tôi nói rằng ngày để mở hội đang tới gần hơn. Sẵn sàng đi!
Vô
dục không còn là khoa học; chúng ta phải điền vào kẽ hở bằng mở hội. Từ bỏ
không còn là logic, hợp lí; chúng ta phải điền vào kẽ hở bằng hân hoan. Đó là
lí do cái gọi là người tôn giáo chống lại tôi, vì họ có thể thấy điều tôi đang
nói phá huỷ dối trá của họ và hư cấu của họ và an ủi của họ. Việc phá huỷ này họ
gọi là "làm tổn thương tình cảm tôn giáo của họ."
Mới
hôm nay một người đã yêu cầu chính phủ Ấn Độ, "Như các ông đã cấm sách của
Salman Rushdie', tại sao các ông không cấm sách của Rajneesh mà còn nguy hiểm
hơn nhiều?" Điều đó là đúng, chúng là nguy hiểm hơn nhiều. Rushdie đã
không làm bất kì cái gì, và bị quấy rầy không cần thiết. Nếu bạn muốn quấy rầy
tôi điều đó sẽ là tuyệt đối đúng, vì tôi đang nói những điều chống lại mọi tôn
giáo.
Nhưng
yêu cầu chính phủ cấm sách của tôi là chấp nhận thất bại. Tại sao bạn không thể
tranh cãi với tôi? Tại sao bạn không thể đem đối thoại vào trong sự tồn tại? Nếu
bạn nghĩ ý thức hệ tôn giáo của bạn là đúng, tôi sẵn sàng với bất kì thách thức
nào để thảo luận nó. Tại sao bạn sợ? Trong xã hội có văn hoá, trong quốc gia
dân chủ điều chống lại hiến pháp là tước đi tự do ngôn luận của bất kì người
nào. Tôi sẵn sàng đương đầu với bất kì người nào - người Hindu, người Mô ha mét
giáo, người Ki tô giáo, người Jaina, Phật tử. Dù họ là bất kì ai, tôi sẵn sàng
đương đầu với họ, nhưng vì họ không có cách nào trả lời các câu hỏi của tôi họ
lập tức lấy tiến trình yêu cầu chính phủ.
Chính
phủ Ấn Độ là thế tục, nó không có cách nào bảo vệ cho bất kì tôn giáo nào hay
tình cảm tôn giáo của bất kì người nào. Và yêu cầu chính phủ là man rợ, nó đơn
giản chỉ ra bạn là người nguyên thuỷ và bạn không biết cách cư xử theo cách văn
minh.
Nếu
Ayatollah Khomeini là người lành mạnh, văn minh, ông ấy chắc đã hỏi Rushdie,
"Ông có sẵn sàng cho tranh luận không?" Tuyên bố án tử hình... và những
kẻ tội phạm người Mô ha mét giáo, những kẻ giết người chuyên nghiệp đã đi vào
Anh từ các nước Mô ha mét giáo. Ngay cả Pakistan đã gửi người đi. Tôi bị choáng
vì người đàn bà mà bây giờ là tổng thống của Pakistan, bố bà ấy, Bhutto, đã bị
kết án tử hình chẳng có lí do chút nào. Ông ấy đã là người lỗi lạc nhất ở
Pakistan, người có ảnh hưởng nhất. Và vì ông ấy, người đã trong quyền lực - ông
ấy đã là tướng quân đội, nó đã là sự độc tài quân sự - sợ triệu tập bầu cử, cho
nên ông ấy đã khoan dung và nêu ra các cớ và trì hoãn. Nhưng bạn có thể trì
hoãn được bao lâu? Mọi người đã hỏi đi hỏi lại, "Tại sao bầu cử không xảy
ra?" và lí do đã là ở chỗ Bhutto còn sống. Ông ấy thường là tổng thống nước
này, và điều này bị tiếp quản bởi quân đội, bởi vũ lực. Bhutto phải bị chết trước
cuộc bầu cử.
Cho
nên họ đã buộc mọi loại tội tưởng tưởng mà ông ấy đã không phạm phải. Ông ấy là
người có giáo dục, và ông ấy không cuồng tín. Họ đã giết ông ấy. Không chống án
nào được ban cho ông ấy; ông ấy không thể chống án lên tổng thống xin khoan hồng.
Điều đó là ngược lại hiến pháp của Pakistan, ngược với luật pháp của Pakistan,
nhưng Tướng Zia, người đang nắm quyền, đã không là con người có bất kì ảnh hưởng
nào trong công chúng. Ông ấy đã tới quyền lực bằng vũ lực và bạo hành vì ông ấy
là tổng chỉ huy mọi lực lượng - hải quân, không quân và quân đội.
Điều
may mắn là vài ngày trước đó, Tướng Zia, cùng với bẩy mươi tư người thân cận nhất
từ mọi quân đội, đã bị tai nạn, tai nạn máy bay, và tất cả bẩy mươi nhăm người
đã chết.
Người
đàn bà này là kẻ thù của Tướng Zia và đã từng tranh đấu từ Anh, cố vào
Pakistan. Và Tướng Zia đã không cho phép bà ấy, vì mọi người có thông cảm với
bà ấy vì bố bà ấy đã bị giết một cách bất hợp pháp, vi hiến. Nhưng khi Zia chết
bà ấy lập tức xô về Pakistan và bà ấy đã được bầu. Bây giờ bà ấy là tổng thống
- một người đàn bà trẻ, có giáo dục tốt, nhưng bà ấy đang làm cùng điều ngu xuẩn
như Zia đã làm. Zia đã giết bố bà ấy mà không có bất kì lí do nào, đơn giản vì
ông ấy đã là người có ấn tượng nhất trong nước và Zia không thể đứng chống lại
ông ấy và thắng cuộc bầu cử. Đó là lí do.
Bây
giờ, tôi nghĩ rằng người đàn bà này sẽ hành xử - và bà ấy đã được giáo dục ở
Anh, cũng như bố bà ấy đã được giáo dục ở Anh - theo cách khác. Thứ nhất, bà ấy
là đàn bà, và có nhiều tim hơn bất kì đàn ông nào. Thứ hai, bố bà ấy đã bị giết.
Bà ấy phải cân nhắc chính ham muốn giết người. Và bây giờ bà ấy đã phái một tổ
sang Anh, những kẻ giết người chuyên nghiệp, để giết Rushdie và ba người khác,
những người đã được tham gia vào xuất bản cuốn sách.
Dường
như mọi người không học chút nào. Đó là lí do tại sao lịch sử liên tục lặp lại.
Việc lặp lại của lịch sử đơn giản chỉ ra rằng mọi người không học chút nào. Bằng
không, không có lí do cho lịch sử lặp lại - nếu bạn học, bạn chỉ phạm sai lầm một
lần, không hai lần. Đó là điều việc học ngụ ý: phạm nhiều sai lầm như bạn muốn,
nhưng chỉ phạm một sai lầm một lần. Phạm sai lầm là không xấu - đó là cách học
duy nhất; bạn phải phạm sai lầm. Nếu bạn không phạm sai lầm bạn không thể tìm
được cách ra khỏi bóng tối này đang bao quanh trái đất. Nhưng đừng phạm cùng
sai lầm, bằng không bạn sẽ ở trong vòng luẩn quẩn.
Phạm
cùng sai lầm lặp lại đơn giản chỉ ra bạn vô ý thức, bạn không hành xử một cách
có ý thức. Bây giờ, người đàn bà này, con gái của Bhutto, đang làm cùng điều
như Zia làm. Và người này, Rushdie, đã không làm bất kì cái gì sai.
Nhưng
ông ấy dường như là kẻ hèn. Và bởi vì những kẻ hèn này những người điên rồ này
đã ở trong quyền lực.
Tôi
sẵn sàng cho bất kì tranh luận nào với bất kì người nào, vì tôi biết toàn thể
niềm tin tôn giáo của họ là tuyệt đối không có nền tảng. Họ không thể chứng
minh được Thượng đế, họ không thể chứng minh được cõi trời, họ không thể chứng
minh được địa ngục. Họ không thể chứng minh rằng Thượng đế đã tạo ra thế giới,
vì không có nhân chứng. Làm sao bạn tìm ra nó? Ai nói cho bạn? Hiển nhiên không
thể có bất kì nhân chứng nào khi Thượng đế tạo ra thế giới. Nếu có nhân chứng,
thế giới đã có đó. Chính điều hợp lí bản chất là chấp nhận rằng không thể có bất
kì nhân chứng nào - vì không có thế giới. Nhân chứng sẽ tới từ đâu? Cho nên Thượng
đế không thể có nhân chứng; thế thì làm sao những người này đã đi tới biết? Từ
ai?
Toàn
thể ý tưởng của họ được dựa trên dối trá về Thượng đế. Và tôi bao giờ cũng đánh
vào chính nền móng, tôi không bận tâm về các cành và lá. Tôi chặt chính rễ. Và
họ không thể phòng thủ được, vì họ không có nền móng nào cho ngôi đền của họ.
Một
lần tôi đi tới thăm một ngôi đền mà là đền rất hiếm, gần Indore. Có một làng rất
nhỏ nơi có ngôi đền; nó là ngôi đền Jaina. Người Jaina có huyền thoại rằng ngôi
đền đã rơi từ cõi trời. Nó không có vẻ rất cõi trời...
Và
điều đó được cảm thấy bởi vì các thần - Jaina giáo không tin vào Thượng đế, nó
tin vào nhiều thần - và quỉ đánh nhau về ai sẽ sở hữu đền, và cuộc chiến diễn
ra ở trên mây. Cho nên họ trở nên dính líu nhiều và đánh nhau tới mức họ mất kiểm
soát ngôi đền và ngôi đền rơi xuống gần làng. Và lí do duy nhất họ có thể xoay xở
huyền thoại này ở chỗ ngôi đền không có móng. Bạn có thể để dây mảnh bên dưới
và bạn có thể đi quanh toàn thể ngôi đền. Dây đi qua phía bên kia. Thế thì hai
người có thể cầm dây và đi quanh toàn thể ngôi đền - nó là ngôi đền tròn, nó
không có móng chút nào.
Cho
nên điều này đã cho ý tưởng rằng nó phải đã rơi, vì làm sao bạn có thể làm ngôi
đền mà không có móng?
Nó
có thể được làm, không có mấy vấn đề trong nó. Nó là ngôi đền nhỏ, và chỉ tưởng
tượng của kiến trúc sư nào đó để làm cái gì đó tuyệt đối mới... ông ấy đã nâng
ngôi đền này lên mà không có móng nào.
Nhưng
khi tôi tới xem ngôi đền này - vài người bạn đã đi cùng tôi từ Indore, và họ tất
cả đều ngạc nhiên. Họ nói, "Có lẽ huyền thoại này là đúng."
Tôi
nói, "Các bạn ngốc! Không đền nào có bất kì móng nào. Không nhà thờ nào có
bất kì móng nào. Không hệ thống niềm tin nào có bất kì nền móng nào. Ngôi đền
này là bằng chứng!"
Nhân
loại yêu cầu cách tiếp cận khác toàn bộ. Chúng ta nên thảo luận. Tại sao có nhiều
sợ thế về thảo luận? Sợ là hợp lí - họ biết họ không thể thắng được. Mọi tôn
giáo của họ đang trượt ra khỏi tay họ; họ không thể thắng, họ đang chiến đấu cuộc
chiến thua. Nếu họ là con người của thông minh tốt hơn cả là họ đi ra khỏi các
đền và nhà thờ và tu viện và công bố sự độc lập của họ.
Toàn
thể nỗ lực của tôi là cho bạn tự do khỏi mọi xiềng xích, khỏi mọi nhà tù, để
cho bạn có thể mở hội sự sống.
Phát
biểu của Friedrich Nietzsche, "Thượng đế chết; do đó con người tự
do"... nhưng tự do với cái gì? Điều đó ông ấy không có ý tưởng. Đó là lí
do tại sao ông ấy đã phát điên. Thượng đế đã chết - đó là an ủi. Bây giờ an ủi
mất rồi và có chân không. Nếu bạn bỏ chân không, toàn thể nhân loại sẽ điên.
Những
nhà trí thức lớn ở phương Tây đã tự tử hay phát điên. Thực ra điều đó đã trở
thành gần như một tiêu chí: nếu bạn không phát điên hoặc bạn không tự tử bạn
không mấy là nhà trí thức! Những nhà trí thức lớn nhất đã phát điên, đã chịu tự
tử, vì họ không thể tìm ra cách sống mà không có Thượng đế. Không có cõi trời
và địa ngục, làm sao sống? Họ đột nhiên thấy tương lai của họ hoàn toàn đen tối,
chết. Sống để chết sao...? Không có Thượng đế họ mất mọi lí do để sống.
Và
toàn thể nỗ lực của tôi là ở chỗ trước khi Thượng đế của bạn bị lấy đi - và đằng
nào thì nó cũng sẽ bị lấy đi, vì nó không có nền móng trong chân lí - bạn phải
học nghệ thuật sống. Bạn phải học nghệ thuật mở hội để cho bạn không bao giờ chịu
đựng chân không, cái tạo ra không lành mạnh và mọi loại rối loạn thần kinh, rối
loạn tâm thần.
Ngay
cả người sáng lập của phân tâm học, Sigmund Freud, vì ông ấy không tin Thượng đế...
Ông ấy nói Thượng đế là sự đông cứng vào người cha - và phân tích của ông ấy là
đúng, đúng về mặt trí tuệ. Đó là lí do tại sao bạn gọi Thượng đế là
"Cha" và đó là lí do tại sao bạn gọi ngay cả linh mục Cơ đốc giáo là
"cha" - người không có vợ, không có con! Loại cha gì vậy...? Ít nhất
Thượng đế chỉ có một đứa con trai, cái gì đó để ba hoa. Nhưng các linh mục Cơ đốc
giáo này - trừ phi họ có con bất hợp pháp - không thể đòi hỏi được gọi là cha.
Điều đó rất kì lạ - loại cha gì vậy...?
Sigmund
Freud là đúng rằng trẻ em lớn lên với ý tưởng rằng bố là an ninh của nó. Bố mạnh
mẽ thế với trẻ nhỏ, dường như là có mọi quyền lực, bố có thể làm bất kì cái gì.
Nhưng khi nó lớn lên nó thấy rằng bố không có mọi quyền lực. An ninh của nó bắt
đầu biến mất, nó bắt đầu cảm thấy bất an ninh, bất an toàn.
Phân
tích của Sigmund Freud là ở chỗ nỗi sợ việc mất đi an ninh và an toàn đã là
nguyên nhân của việc tạo ra Cha Thượng đế xa xôi trên trời, người không bao giờ
chết, người bao giờ cũng có đó để bảo vệ bạn; ông ấy từ bi... Jesus nói,
"Thượng đế là yêu." Ngài sẽ rất yêu thương và rất từ bi, cho nên bạn
không cần lo nghĩ về bất kì cái gì. Và mọi điều bạn phải làm là tin vào Thượng
đế.
Nhưng
một khi Thượng đế này không được thấy là chết, như Nietzsche đã thấy - rằng
chúng ta đang mang cái xác, Thượng đế là chết... Ông ấy đã không nhận biết rằng
bản thân ông ấy sẽ lâm vào rắc rối, vì bản chất riêng của ông ấy là của tâm lí
kẹt cứng vào người bố. Bây giờ ông ấy đã tìm thấy người bố - ngay cả người bố tối
thượng - là chết. Những người bố nhất thời liên tục chết đi, điều đó là được.
"Bố" bao giờ cũng chết, không có gì mấy trong điều đó. Nhưng Thượng đế
vĩnh hằng... thấy ông ấy chết là cú choáng tới mức mặc dầu Friedrich Nietzsche
đã viết điều đó, sau khi viết điều đó ông ấy lập tức phát điên.
Khoảnh
khắc ông ấy kết luận Zarathustra đã nói vậy, nơi ông ấy phát biểu câu này rằng
"Thượng đế chết và con người là tự do," ông ấy bắt đầu cư xử kì lạ.
Và chung cuộc, bạn ông ấy, và đặc biệt chị ông ấy người chăm sóc ông ấy, đã phải
đưa ông ấy vào nhà thương điên.
Ông
ấy đã không thể tìm được phương án. "Thượng đế chết và con người tự
do" - nhưng tự do vì cái gì? Cái đó ông ấy không nói chút nào trong toàn
thể cuốn sách. Và chỉ là tự do là không đủ. Tự do khỏi cái gì đó là không đủ, bạn
phải là tự do vì cái gì đó. Cho nên có hai mặt của tự do - khỏi và vì. Bạn có
thể tự do khỏi Thượng đế, nhưng nếu bạn không có tự do vì cái gì bạn sẽ phát
điên. An ủi đó đã từng rất cổ đại và bắt rễ rất sâu; nó sẽ giết bạn. Bạn không
thể sống trong bất an ninh, bạn cần phương án ngay lập tức - tự do vì.
Tự
do vì mở hội, tự do vì thiền, tự do vì hân hoan, tự do vì nhảy múa - vì Thượng
đế chết rồi. Bây giờ không có ai trên bạn và bạn là tự do tối thượng khỏi bất
kì sự nô lệ tâm linh nào. Bây giờ bạn có thể múa mà không có bất kì mặc cảm
nào. Bạn có thể yêu mà không có bất kì mặc cảm nào. Bạn có thể sống thừa thãi
như có thể. Không có người nào chi phối bạn, và không có người nào gửi lời răn
cho bạn, và không có người nào làm bạn sợ lửa địa ngục, và không có người nào
khơi gợi tham của bạn về vui thú cõi trời.
Sigmund
Freud đã phân tích từ góc độ khác, phân tâm học. Nhưng ông ấy đã thấy bản thân
mình trong cùng rắc rối như Nietzsche. Ông ấy không bao giờ phát điên, nhưng gần
chạm tới đường biên. Vì Thượng đế không còn đó, chết trở thành điều duy nhất mà
bạn đang đi tới. Ông ấy trở nên sợ chết nhiều thế - Thượng đế đã là an ninh,
ngài sẽ có đó để đòn chào bạn sau chết. Bây giờ không còn ai, bây giờ một khi bạn
đi vào đường hầm của chết không có cách nào ra. Ông ấy trở nên sợ nhiều tới mức
ngay cả từ 'chết' đã bị cấm. Ông ấy có hàng trăm đệ tử, ông ấy đã tạo ra toàn
thể phong trào phân tâm. Điều bị cấm trong sự hiện diện của ông ấy là nhắc tới
từ 'chết', vì nó là kinh hoàng tới mức khoảnh khắc ai đó nhắc tới chết, ông ấy
sẽ rơi vào trong cơn ngất xỉu và bắt đầu sùi bọt mép từ mồm.
Và
đây là nhà phân tâm vĩ đại của bạn. Nhưng ông ấy đã chịu đựng từ cùng vấn đề.
Thượng đế đã là an ninh. Ông ấy đã phân tâm mọi người và thấy rằng không có Thượng
đế, nó chỉ là bịa đặt của tâm trí ốm bệnh. Đúng về mặt logic... nhưng về bản
thân ông ấy thì sao?
Bạn
sẽ ngạc nhiên mà biết rằng Sigmund Freud đã sáng lập ra phân tâm học nhưng bản
thân ông ấy không bao giờ được phân tâm, vì ông ấy đã từ chối. Ông ấy được các
đệ tử của mình hỏi đi hỏi lại, người đã trở thành các nhà phân tâm nổi tiếng. Họ
nói, "Sẽ là tốt nếu bản thân thầy được phân tâm. Bây giờ chúng tôi sẵn
sàng, thầy đã chuẩn bị cho chúng tôi cho nên chúng tôi biết toàn thể kĩ thuật.
Và chúng tôi muốn nhìn vào trong mơ của thầy. Nó sẽ là kho báu mênh mông để tìm
ra mơ của người đã sáng lập ra việc phân tích mơ."
Ông
ấy đã từ chối. Và lí do ông ấy đã từ chỗi là ông ấy sợ vì ông ấy đã sôi lên với
cùng các ham muốn bị đè nén như bạn đang sôi lên. Đó sẽ là đe doạ lớn cho toàn
thể phong trào của ông ấy nếu mọi người đi tới biết mơ của ông ấy. Chúng sẽ là
dục, tội, như của bất kì người nào - có khi nhiều hơn. Tại sao ông ấy sợ? Ông ấy
biết mơ của ông ấy.
Và
điều đó chỉ ra rằng người này đã không giỏi về tâm lí, mặc dầu ông ấy đã là người
sáng lập ra phân tâm học.
Và
điều này tiếp diễn mãi. Bản thân các nhà phân tâm là nhóm người mong manh cao
nhất trở thành điên. Và họ làm phân tâm lẫn nhau. Nhưng điều đó không đem tới
lành mạnh, điều đó chỉ đem tới điên bình thường.
Toàn
thể nhân loại là điên bình thường - vài người trở thành điên bất thường; họ đi
ra ngoài biên giới của ý thức chung. Nhưng khác biệt giữa điên của bạn và cái gọi
là lành mạnh chỉ ở mức độ. Có lẽ bạn là chín mươi chín độ và người khác đã đi tới
một trăm lẻ một - quá đường đó. Và mọi điều phân tâm học làm là đem người đó trở
lại chín mươi chín độ điên. Một trăm và một trăm linh một độ là nguy hiểm.
Toàn
thể phân tâm học và mọi loại trường phái khác đã phát triển - tâm lí học phân
tích, hay tâm lí học tổng hợp, Assagioli, Carl Gustav Jung, Adler, và thế rồi
có hàng dài những người đang phát minh ra cách trị liệu riêng của họ - họ là
người ốm như bất kì ai. Các tu sĩ là dốt nát như bất kì ai, các nhà phân tâm là
nguy hiểm hơn bạn - vì họ biết không có Thượng đế. Các triết gia, những người
khổng lồ trí tuệ là nguy hiểm hơn những người trì trệ. Người trì trệ không lo
nghĩ chút nào; họ không biết rằng Thượng đế chết. Họ chưa nghe nói điều đó.
Nhưng
sớm hay muộn họ sẽ nghe thấy điều đó. Bạn có thể giữ bí mật điều đó được bao
lâu? Các tu sĩ đã từng giữ nó là bí mật quá lâu, và giờ bản thân họ đang trở
nên nhận biết rằng không có Thượng đế như họ thường tin. Cho nên họ đang phát
minh ra các Thượng đế mới - loé sáng năng lượng cuối cùng trước khi chiếc nến tắt
và trời trở thành tối.
Nỗ
lực của tôi không phải là giảng bài tôn giáo bình thường. Nỗ lực của tôi là,
trước khi chiếc nến này tắt đi bạn phải có ánh sáng bên trong của bạn sẵn sàng,
để cho bạn không rơi vào trong bóng tối, để cho bạn không phát điên. Tôi muốn bạn
bỏ Thượng đế một cách có ý thức, bỏ một cách có ý thức mọi dối trá và hư cấu
nhân danh tôn giáo, và bắt đầu phía kia. Đầu tiên, tự do khỏi, và thế rồi phía
kia, tự do vì - tự do vì mở hội, tự do vì hân hoan.
Bây
giờ không còn ích gì mà từ bỏ. Không ai sẽ thưởng cho bạn; đừng hành hạ bản
thân bạn một cách không cần thiết. Toàn thể bầu trời là mở lần đầu tiên; chỉ
giang đôi cánh và tận hưởng tự do này.
Rất
ít người có năng lực tận hưởng tự do này, vì họ không biết cách nhảy múa. Họ đã
trở nên bị què. Họ không biết cách hát, họ không biết cách yêu. Mọi người nói với
nhau, "Anh (Em) yêu em (anh)" - nhưng cứ hỏi họ, "Bạn ngụ ý
gì?" Họ sẽ nhún vai và họ sẽ nói, "Tôi không biết... nhưng yêu là
gì?"
Yêu
của họ chỉ là hư cấu.
Bạn
không thể yêu được bất kì người nào chừng nào bạn chưa biết bản thân bạn. Bạn
không có đó - ai sẽ yêu? Bạn không thể yêu bất kì người nào chừng nào yêu chưa
bắt đầu như trận lụt và bắt đầu tràn ngập bạn. Trước hết bạn phải có yêu, thế
thì bạn có thể chia sẻ.
Nhưng
bạn có yêu không? Nó là sản phẩm phụ của thiền. Chỉ những người đã thiền sâu biết
yêu là gì, và thế thì không có vấn đề "đổ" vào yêu. Thế thì việc vươn
lên trong yêu tới, bạn đi ngày càng cao hơn, yêu của bạn trở thành tôn giáo,
yêu của bạn trở thành chính sự tồn tại của bạn.
Tôi
dạy bạn yêu, không từ bỏ.
Tôi
dạy bạn mở hội, không vô dục.
Tôi
dạy bạn là tự nhiên, là có tính tồn tại.
Thế
thì bạn sẽ thấy bản thân bạn rất sáng tạo trong chiều nào đó này khác, và bạn sẽ
không chịu đựng từ chân không.
Mở
hội phải rót đầy chân không của bạn, bằng không, toàn thể nhân loại sẽ chịu khổ
tồi tệ. Những tôn giáo này là chết. Sớm hay muộn mọi người sẽ nhận ra sự kiện
này và thế thì sẽ có chân không mênh mông mà Thượng đế thường lấp vào. Điều đó
đã là dối trá, nhưng nó đã là an ủi lớn rằng có ai đó đang chăm nom cho bạn,
người là an ninh của bạn. Ngay cả trong chết bạn không cần bị lo nghĩ - bên
ngoài chết là thiên đường.
Nhưng
bây giờ không có thiên đường, không có Thượng đế. Không ai đợi bạn bên ngoài chết.
Bạn sẽ đi một mình.
Bạn
phải học cách là một mình.
Bạn
phải học cách hân hoan là một mình. Bạn phải học cách nhảy múa - một mình;
không có nhu cầu về khán giả. Và thậm chí không có nhu cầu về đối tác. Bạn có
thể nhảy múa một mình như cách hoa hồng múa trong gió, trong ánh mặt trời,
trong mưa. Bạn có nghĩ hoa hồng đang đợi khán giả hay đối tác không?
Thiền
cho bạn sáng suốt sâu trong tính một mình của bạn. Và nhớ khác biệt: một mình
không phải là đơn độc. Nếu bạn không học tính một mình bạn sẽ cảm thấy bản thân
bạn rất đơn độc. Thượng đế không còn nữa, mọi an ủi mất rồi, không có thiên đường
sau chết... đột nhiên bạn cảm thấy ngẫu nhiên, không được cần bởi sự tồn tại,
không được cần bởi bất kì Thượng đế nào. Bạn không có bất kì chủ định nào, bạn
không có bất kì nghĩa nào. Đột nhiên toàn thể nhân cách của bạn mà đã được hỗ
trợ bởi dối trá, sụp đổ.
Đây
là điều mang lại loạn thần kinh, suy sụp.
Chừng
nào bạn chưa học thiền bạn không thể thay đổi được suy sụp của bạn thành đột
phá. Toàn thể giả kim thuật của thiền là để thay đổi suy sụp thành đột phá, để
dạy bạn tự do vì.
Tự
do từ đơn giản là xoá đi mảnh đất, tạo ra phòng nhảy múa, loại bỏ mọi Thượng đế
và đền chùa những kẻ làm lộn xộn toàn thể không gian.
Bạn
không thể múa trong nhà thờ, nơi mà ở mọi chỗ bạn đều thấy khắp xung quanh toàn
Jesus bị đóng đinh với mặt dài - và bạn có thể mở hội tình huống này không?
Một
cậu bé lần đầu tiên được thấy đang làm bài tập về nhà. Bố mẹ cậu ngạc nhiên, vì
cậu chưa bao giờ làm điều đó.
Họ
hỏi, "Có chuyện gì vậy? Bố mẹ đã bảo con làm bài tập về nhà và con không
bao giờ nghe - cái gì đã xảy ra?"
Nó
nói, "Trường mới..."
Họ
đã đổi trường cũ cho nó vì họ đã đổi hàng xóm, cho nên nó phải vào trường mới.
Trường mới là trường nhà tu kín, và cậu bé nói với bố mẹ nó, "Trong trường
này họ có một người Do Thái tên là Jesus, bị đóng đinh ở mọi nơi - và con là
người Do thái khác duy nhất trong cả trường! Cho nên con phải làm bài tập về
nhà và mọi thứ, họ nó thế. Con làm nó ngay lập tức, vì con không muốn bị đóng
đinh!"
Nó
rất nhạy cảm và rất hợp lí. Nó là người Do Thái thứ hai duy nhất... Số của nó
là số hai - số một đã bị đóng đinh. Có thể nó đã không làm bài tập về nhà hay
cái gì đó...
Bạn
không thể nhảy múa khi Jesus bị đóng đinh. Khi mọi Thượng đế của bạn đang theo
dõi bạn, bạn không thể yêu. Nó là việc yêu trong đám đông các Thượng đế, những
người sẽ trỏ Thánh Ngón tay của họ vào bạn: "Ngươi đang phạm tội!"
Bạn
phải ném đi tất cả những Thượng đế này. Họ toàn là do con người làm ra, cho nên
không có nhu cầu lo nghĩ; họ là bịa đặt của chúng ta. Chúng ta đã bịa ra những
dối trá hay để an ủi bản thân chúng ta, cho nên chúng ta tuyệt đối có khả năng
ném chúng đi; không ai có thể ngăn cản bạn.
Nhưng
bạn phải học, bên cạnh điều đó. Khi bạn đang dọn nền, bắt đầu hát một điệu. Bắt
đầu chuyển động chân bạn; thoát ra khỏi việc què quặt hàng thế kỉ. Không chỉ
Jesus bị đóng đinh - tất cả những người tin vào Jesus đang sống trong cuộc sống
bị đóng đinh, què quặt. Tất nhiên Jesus không thể nhảy múa!
Điều
đó chắc đã là phép màu thực, nếu như ông ấy đã nhảy múa trên cây chữ thập. Ông ấy
thậm chí không thể cười - điều đó chắc đã là phép màu thực. Nhưng ông ấy buồn tới
mức có lẽ ông ấy có ý nghĩ thứ hai...
Và
ông ấy đã kêu với Thượng đế, với giận dữ, "Ngài đã bỏ rơi tôi sao?"
Vì ông ấy đã chờ đợi trong sáu giờ, và không một đám mây trắng nào. Toàn thể bầu
trời vẫn xanh, như ông ấy có thể thấy. Không có dấu hiện của việc Thượng đế tới.
Ít
nhất ngài có thể đã phái những thánh nào đó - nếu ngài không tới thế thì người
phục vụ sẽ làm. Nhưng ai đó phải đã ở đó chứ! Sáu giờ ông ấy đã ở trên cây chữ
thập, chờ đợi và chờ đợi, và nhìn khắp xung quanh, và chung cuộc thấy ra,
"Dường như mình đã sống trong an ủi giả." Ông ấy đã chết trong buồn
bã.
Nỗi
buồn đó lan toả mọi nhà thờ. Và nỗi buồn đó đã trở nên ăn sâu khắp thế giới.
Không chỉ trong những người Ki tô giáo - vì Ki tô giáo là tôn giáo lớn nhất
trên thế giới; nửa trái đất là người Ki tô giáo - các tôn giáo khác đã từng bị ảnh
hưởng mênh mông, không có việc biết của họ, bởi Ki tô giáo.
Chẳng
hạn một người như Mahatma Gandhi. Tôi đã nhìn rất cẩn thận và tôi đã thấy rằng
chín mươi phần trăm ông ấy là người Ki tô giáo, chín phần trăm ông ấy là người
Jaina, một phần trăm ông ấy là người Hindu - và ông ấy được sinh ra là người
Hindu. Cái gì đã xảy ra? Trong cuộc đời của mình, ba lần ông ấy đã trên bờ của
việc cải đạo sang Ki tô giáo. Vợ ông ấy đã làm ồn ào tới mức ông ấy đã dừng lại.
Ông ấy nói, "Được, đợi đấy..." Chính vợ ông ấy đã ngăn cản ông ấy khỏi
trở thành người Ki tô giáo. Nhiều bà vợ đang làm những việc lớn! Bà ấy sẽ bắt đầu
đấm ngực và khóc, "Chúng ta là người Hindu, và anh đang làm gì?" Và
bà ấy sẽ làm ra cảnh tượng tới mức hàng xóm sẽ tụ tập lại và họ sẽ nói,
"Điều này là không tốt. Chị ấy phải đấy - sao ông trở thành người Ki tô
giáo?"
Nhưng
ông ấy đã bị ảnh hưởng, và điều đó đang xảy ra khắp nơi. Bạn có thể thấy cách
Ki tô giáo đang gây ảnh hưởng - vì họ phục vụ người nghèo, mọi tôn giáo bắt đầu
phục vụ người nghèo. Bằng không họ sẽ không có vẻ tôn giáo thế như người Ki tô
giáo. Người Ki tô giáo đang chăm nom trẻ mồ côi, cho nên người Hindus phải mở
trại mồ côi, bằng không tôn giáo của họ sẽ có vẻ không quan tâm chút xíu về người
khổ. Cho nên họ mở bệnh viện, điều họ chưa bao giờ làm trong quá khứ. Họ đã từng
trong sự tồn tại hàng nghìn năm trước Christ và họ chưa bao giờ làm bệnh viện,
họ chưa bao giờ phục vụ người nghèo. Họ đã nói với người nghèo, "Anh khổ từ
hành động xấu của anh trong kiếp quá khứ, cho nên không có gì để được làm. Anh
cứ kết thúc nó đi! Xoá sạch nó đi."
Nhưng
Ki tô giáo đã từng có ảnh hưởng mênh mông. Nó đã đầu độc gần toàn thể nhân loại,
đã làm cho họ buồn và khổ.
Cho
nên một khi bạn bắt đầu cảm thấy chân không, sự lành mạnh của bạn lâm nguy. Trước
khi chân không tới, tôi muốn bạn học cách rót đầy nó bằng bài ca hay và hoa và
cực lạc, và sự say sưa thiêng liêng và lễ hội.
Nghệ
thuật sống duy nhất là biến đổi nó thành mở hội.
Câu
hỏi thứ hai tôi đã trả lời. Nó là:
Có
phải vì Thượng đế mà xã hội đã tạo ra nhà thương điên?
Tất
nhiên! Không có Thượng đế không có nhu cầu về nhà thương điên. Những người không
tin tôn giáo, người không có bất kì Thượng đế nào không bao giờ phát điên. Con
vật không bao giờ phát điên - tôi ngụ ý con vật nơi hoang dã. Con vật trong vườn
bách thú tất nhiên phát điên, vì chúng đang sống giữa những con người điên.
Trong vườn bách thú chúng bắt đầu bị ảnh hưởng bởi con người; chỉ trong vườn
bách thú chúng bắt đầu hành xử một cách phi tự nhiên. Chỉ trong vườn bách thú
người ta mới thấy rằng con vật biến thành đồng dục vì chúng không thể tìm được
con cái.
Vườn
bách thú phải được nghiên cứu rất cẩn thận - các tu viện là những vườn bách thú
nơi bạn không thể tìm thấy đàn bà; các nữ tu viện là vườn bách thú nơi bạn
không thể tìm thấy đàn ông. Thế thì đàn bà biến thành đồng dục nữ, và đàn ông
biến thành đồng dục nam.
Mọi
suy đồi bạn có thể thấy trong vườn bách thú. Trong vườn bách thú, con vật phát
điên - nhưng chỉ trong vườn bách thú. Dường như là tính điên của con người có
tính lây nhiễm. Nhưng ở chỗ hoang dã, trong rừng, không con vật nào đã từng được
thấy là điên - hoàn toàn thông minh, hoàn toàn nhạy cảm, tỉnh táo, tỉnh táo đầy
đủ. Vì chúng không có bất kì Thượng đế nào, chúng không cần bất kì nhà thương
điên nào.
Thượng
đế tạo ra mặc cảm. Mặc cảm tạo ra hành vi phi tự nhiên. Hành vi phi tự nhiên dẫn
bạn vào nhà thương điên. Đó là phương cách rất tinh ranh. Các tu sĩ và nhà phân
tâm đang trong mưu đồ sâu mà có lẽ không biết điều đó. Tu sĩ tạo ra điên, và
nhà phân tâm cố cứu chữa họ. Và trở lại họ đi nhà thờ!
Mọi
người đang chuyển giữa nhà thờ và tràng kỉ của nhà phân tâm, và họ không hiểu
âm mưu bí mật này.
Câu hỏi thứ ba:
Liệu có thể là từ 'Thượng
đế' trong thời cổ đại, trước tu sĩ, đã được dùng bởi mọi người để giải thích điều
không giải thích được, sự tồn tại thiêng liêng, bản chất của hiện hữu, Phật?
Trước
tu sĩ không có Thượng đế - thậm chí không có từ này. Thượng đế và tu sĩ tới đồng
thời. Thực ra tu sĩ sẽ được cần tới trước; thế rồi ông ta mang Thượng đế vào.
Thượng đế không thể tồn tại mà không có tu sĩ.
Đã
không có Thượng đế trước khi có tu sĩ. Mọi người đã chỉ là những người không
theo tôn giáo; họ yêu sự sống, họ hân hoan trong sự sống. Họ không có ý tưởng
gì về cõi trời hay địa ngục. Trái đất này đã là đủ, sự sống này đã là quá nhiều;
họ đã sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Thực ra họ không có ý tưởng gì về lịch
đại và thời gian, vì họ không có đồng hồ và không có lịch. Họ đã không có ý tưởng
khi nào năm hết và khi nào năm bắt đầu. Họ không có ý tưởng có bao nhiêu ngày
trong tuần, bao nhiêu ngày trong tháng, bao nhiêu ngày trong năm. Tất cả những
điều này tới rất muộn.
Nếu
bạn đã đi tới những người thực, người nguyên bản trên trái đất, họ đã là những
người hạnh phúc nhất đã từng. Họ đơn giản sống - không sợ, không tham. Họ đã
yêu tự nhiên. Mọi thứ đã là điều huyền bí, kì diệu. Lại mặt trời mọc, và họ nhảy
múa; lại trăng tròn, và cả đêm họ đã nhảy múa để từ bỏ. Họ không có Thượng đế
và họ không có nhà thương điên; họ không có tu sĩ và không có nhà phân tâm. Họ
đã không nghe nói về phật, vậy mà họ tất cả đã là chư phật. Nhưng là chư phật rất
tự nhiên, không triết lí hoá về nó, cho nên họ không bao giờ dùng các từ như
"không diễn đạt được, không giải thích được, sự tồn tại thiêng liêng, bản
chất của hiện hữu, phật..." Mọi điều vô nghĩa này tới sau!
Khi
các tu sĩ tới họ nắm quyền trong tay và tuyên bố, "Chúng tôi đại diện cho
Thượng đế..." Phải mất chút thời gian lâu hơn để các tu sĩ bịa ra Thượng đế
và dần dần, dần dần hoàn thiện nó. Và họ vẫn đang hoàn thiện và cố lừa nhân loại
ngay cả trong tương lai. Đó là điều Paul Tillich đã làm - cố hoàn thiện hình ảnh
của Thượng đế. Nếu Thượng đế đã không là người nào đó ở xa xăm kia, ở cõi bên
kia, có lẽ chúng ta phải đổi chỗ của ngài.
Điều
đó chỉ ra rằng nó là ý tưởng của chúng ta rằng ngài có đó: "Chúng ta phải
thay đổi ý tưởng của chúng ta. Ý tưởng kia đã thất bại; nó đã có tác dụng đủ
lâu rồi. Giờ để Thượng đế vào chiều sâu. Không xa xăm ở kia, nhưng xa xăm ở
kia." Nhưng nó bao giờ cũng là xa xăm, vì họ không thể đặt nó ở cận kề được.
Ở cận kề bạn sẽ thấy đây không phải là Thượng đế. Cho nên nó phải ở xa xăm -
cái nào cũng được, phía bên này hay phía bên kia. Nhưng xa xăm phải có đó giữa
bạn và ngài, khoảng cách không thể được bắc cầu để cho bạn không bao giờ có thể
tới gặp ngài và chụp ảnh gần gũi.
Không
ảnh chụp nào tồn tại vì không ai đã bao giờ ở gần Thượng đế để chụp ảnh.
Các
tu sĩ đã từng cố cải tiến hình ảnh này để cho nó lại hấp dẫn với các thế hệ mới
hơn, nhưng bây giờ họ không thể xoay xở được điều đó. Một khi việc Thượng đế chết
được công bố, bạn có thể liên tục cho ngài việc thở nhân tạo, nhưng mọi người đều
biết ngài đang thở nhân tạo. Chỉ tắt công tắc và anh chàng này đi đời.
Chút
ít lưu ý tiểu sử trước lời kinh...
Khi
là thanh niên, Đan Hà ban đầu học đạo Khổng.
Khổng
Tử dường như là người khổng lồ trong việc tạo ra rối rắm! Ông ấy đã làm rối
toàn thể Trung Quốc trong nhiều thế kỉ.
Ông
ấy không có Thượng đế, nhưng ông ấy thay thế Thượng đế bằng đạo đức, và ông ấy
làm nhiều thuyết giảng đạo đức tới mức mọi người phải sống trong không gian chật
cứng, gần như bị tù. Và ông ấy đã trở thành ảnh hưởng lớn trên Trung Quốc.
Ông
ấy là nhà trí thức lớn, không hoài nghi, nhưng ông ấy không bao giờ nhìn ra
ngoài trí tuệ. Cho nên bất kì cái gì ông ấy nói chỉ là hợp lí hoá, tạo ra những
xã hội tiện lợi hơn. Xã giao, đạo đức, hành vi, tất cả dựa trên việc tạo ra xã
hội tốt hơn. Chính vì Khổng Tử mà Trung Quốc dễ dàng trở thành nước cộng sản, mặc
dầu Khổng Tử đã sống hai mươi nhăm thế kỉ trước, người đương đại của Phật
Gautam và Lão Tử và Socrates.
Việc
cải đổi của Trung Quốc sang chủ nghĩa cộng sản là kì lạ, vì nó đã là nước nghèo,
nó đã không có giai cấp tư sản để bóc lột. Nó vẫn là nước phong kiến với các chủ
đất; nó đã là xã hội nông nghiệp. Nó đã chưa đi tới công nghệ.
Marx
đã sai trong tiên đoán của ông ấy. Ông ấy là thất bại lớn nhất như nhà tiên
tri. Ông ấy không bao giờ nói rằng nước Nga sẽ trở thành nước cộng sản, hay
Trung Quốc sẽ trở thành nước cộng sản, không. Ông ấy không thể quan niệm được,
vì các nước này thậm chí đã không là tư bản; chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể tới,
theo ông ấy, sau khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển tới cực đỉnh của nó và xã hội
bị hoàn toàn chia rẽ giữa vô sản, người không có gì, và tư sản, người có - sự
phân biệt rõ ràng. Một cách tự nhiên người có sẽ là thiểu số và người không có
sẽ có đa số vô cùng lớn.
Trong
Cương lĩnh Cộng sản dòng cuối cùng là: "Vô sản toàn thế giới liên hợp lại.
Bạn không có gì để mất ngoài xiềng xích." Khi bạn không có gì để mất, cách
mạng là có thể. Nhưng nếu bạn có cái gì đó để mất, bạn không thể trở thành một
phần của cách mạng; có nguy hiểm, bạn có thể chẳng được cái gì. Và cái bạn có,
có thể mất đi - cái đó cũng có thể bị lấy đi.
Trung
Quốc và Nga cả hai đã không bao giờ được quan niệm tới. Thậm chí không một khoảnh
khắc nào điều đó đã tới trong tâm trí của Karl Marx rằng họ sẽ trở thành những
nước cộng sản đầu tiên - những nước bao la, cả hai cùng nhau đã chiếm gần nửa
thế giới.
Trung
Quốc đã trở thành cộng sản vì Khổng Tử, vì Khổng Tử đã tuyệt đối là người thiên
về vật chất. Không Thượng đế, không cõi trời, không địa ngục; bạn tới từ hư
không và bạn đi tới hư không. Không có sự sống trước sinh, và không có sự sống
sau chết. Cho nên mọi điều bạn có được là bẩy mươi năm, tám mươi năm, chín mươi
năm, có lẽ một trăm năm. Làm nhiều nhất từ nó đi. Cho nên toàn thể giáo huấn của
ông ấy là đạo đức vật chất. Vì bạn không một mình, bạn đang sống trong xã hội,
bạn phải chăm nom rằng bạn không xâm lấn người khác.
Toàn
thể ý tưởng của ông ấy là đạo đức, không tôn giáo. Ông ấy xoay xở đặt nền móng
cho tâm trí người Trung Quốc, và Karl Marx lập tức có được nền tảng làm sẵn đầy
đủ: vật chất, vô thần, tin chỉ vào trong cuộc sống này, không có hiện hữu vĩnh
hằng, không sự sống vĩnh hằng. Đó đã là lí do Trung Quốc dễ dàng trở thành nước
cộng sản. Khổng Tử đã làm gần một nửa công việc.
Nhưng
ông ấy đã là một thầy giáo nổi tiếng, cho nên mọi người thường đi tới học giả lớn
đó. Ngay cả các hoàng đế cũng thường cho con họ tới học cách là đạo đức hoàn
toàn. Điều đó sẽ cho bạn bản ngã - ông ấy đã tạo ra bản ngã. Ông ấy đã tin vào
việc làm mạnh bản ngã của bạn, làm tao nhã bản ngã của bạn; cho nó danh giá,
hình ảnh mà sẽ là được kính trọng trong xã hội. Nhưng ông ấy chẳng có gì về
tính tôn giáo trong ông ấy.
Cho
nên khi anh thanh niên này, Đan Hà Thiên Nhiên, đầu tiên học về Khổng giáo...
anh ta đã đi tới đó trong việc tìm kiếm cái gì đó bản chất, không phải là hành
vi bên ngoài. Một hôm ông ấy đang trên đường vào thành - bị thất vọng với Khổng
Tử; mọi điều ông này đã nói là về hành vi xã hội. Ông này đã là nhà tâm lí hành
vi đầu tiên.
Một
hôm ông ấy trên đường vào thành thì gặp một Thiền khách, hỏi ông ấy đang đi
đâu.
Đan
Hà đáp, "Đi thi làm quan."
Đó
đã là nghề danh giá, được kính trọng nhất, và là học trò của Khổng Tử, ông ấy sẽ
được chấp nhận cho bất kì chức vụ cao nào. Chính việc giới thiệu này, rằng ông ấy
đã từng ở cùng Khổng Tử, là đủ lí do rằng ông ấy là người đúng.
Thiền
khách nói, "Thầy Mã Tổ đang hoằng pháp ở Giang Tây. Đó là nơi chọn chư phật
- nhân giả nên đến đó. Thay vì thi làm quan, ít nhất thử thi làm phật đi. Mã Tổ
ở rất gần cạnh, nơi chư phật đang nở hoa. Nhân giả có thể thi làm quan bất kì
lúc nào - nhưng Mã Tổ có thể không có sẵn. Thầy lớn thế ở gần thế, đang hoằng
pháp ở Giang Tây. Nhân giả nên đến đó."
Đột
nhiên, ham muốn ẩn kín mà đã đưa ông ấy tới Khổng Tử - và Khổng Tử đã thay đổi
hoàn toàn việc tìm kiếm chân lí của ông ấy. Ông ta thường nói, "Chỉ có một
hành vi - hành vi tốt, hành vi xấu - không có chân lí để được tìm. Đừng phí thời
gian của ông." Thế là ông ta áp đảo anh thanh niên, thuyết phục anh ta rằng
điều tốt nhất là, "Anh thông minh, anh đi thi làm quan đi. Và với giới thiệu
của ta anh sẽ lập tức được chấp nhận."
Đột
nhiên một hạt mầm ẩn kín nổi lên bề mặt. Vì Thiền khách này... Thiền khách đơn
giản ngụ ý người đã trở thành phật nhưng không là thầy. Người đó biết chân lí
nhưng người đó không có cách nào truyền đạt nó. Người đó là nhà huyền bí theo
quyền riêng của mình nhưng người đó không là thầy; người đó không đủ khả năng
nói để xoay xở đưa điều không thể diễn đạt được vào phương cách nào đó để được
truyền cho bạn. Người đó không biết cách truyền chiếc đèn. Cho nên người đó...
kiểu nhà huyền bí đó đơn giản được gọi, trong Thiền, là "Thiền
khách." Người đó đã trải nghiệm như bất kì vị phật nào, nhưng bởi vì người
đó không là thầy, người đó biết chân lí nhưng người đó không có cách nào hướng
dẫn người khác tới nó. Nhưng nhân cách của người đó sẽ chói sáng, mắt người đó
sẽ có phẩm chất khác, cử chỉ của người đó sẽ có duyên dáng khác.
Cho
nên khi Thiền khách này gặp anh thanh niên và nói với Đan Hà, "Thầy Mã Tổ
đang hoằng pháp ở Giang Tây; đó là chỗ để chọn phật - ông phải đi tới đó,"
không chút ngần ngại, không suy nghĩ lại rằng anh ta đang đi thi làm quan và đột
nhiên anh ta đã chuyển sang con đường khác ngay, Đan Hà đi tới Giang Tây. Anh
ta thậm chí không trả lời người này, "Tôi đi đây."
Việc
tìm kiếm sâu thế phải đã từng được ẩn kín, và bị đẩy sâu trong vô thức bởi Khổng
Tử. Nó đột nhiên nổi lên bề mặt. Nhìn thấy người này là đủ, rằng con đường là
hướng tới Mã Tổ. Nếu người này, người không phải là thầy, có hào quang huyền bí
quanh người đó, có năng lượng, có sức hấp dẫn, thế thì Mã Tổ còn thế nào? Không
nói bất kì cái gì với người này,
Đan
Hà tìm tới Giang Tây. Khi anh ta ra mắt Mã Tổ, thầy kéo đầu Đan Hà lại mình và
nhìn vào anh ta - vào mắt anh ta - diện đối diện, trong một lúc lâu. Thế rồi Mã
Tổ nói, "Nam Nhạc Thạch Đầu ở núi Hành Nhạc là thầy của ngươi."
Ông
ấy đã nhìn vào mắt anh thanh niên này - loại tiềm năng gì đây? Ai sẽ là thầy
đúng cho anh ta? Ta có nên nhận anh ta không? Nó sẽ nhanh hơn với ta hay với Thạch
Đầu?
Và
bạn có thể thấy thế giới không ganh đua của Thiền. Ông ấy đã thấy trong mắt anh
thanh niên này rằng Thạch Đầu sẽ là thầy phù hợp cho anh ta hơn là ông ấy. Cho
nên ông ấy đã bảo anh ta, "Nam Nhạc Thạch Đầu ở núi Hành Nhạc sẽ là thầy của
ngươi."
Nhìn
Mã Tổ, anh ta có thể thấy sự khác biệt giữa Thiền khách và Thiền sư. Thiền
khách là ngọn lửa nhỏ; Thiền sư là toàn thể khu rừng bốc cháy.
Và
khi Mã Tổ nhìn vào trong mắt anh ta, anh ta cũng đã nhìn vào trong mắt Mã Tổ.
Anh ta có thể thấy từ bi, tình yêu lớn. Chính từ từ bi và yêu mà ông ấy bảo anh
ta, "Đi sang Thạch Đầu đi. Điều đó sẽ nhanh hơn; ở đây sẽ mất chút thời
gian lâu hơn. Tại sao phí thời gian?" Và anh ta đã bị ấn tượng bởi Mã Tổ tới
mức anh ta lập tức theo lời khuyên của ông ấy.
Thế
là Đan hà đi sang núi Hành Nhạc. Khi anh ta gặp Thạch Đầu, Thạch Đầu nói với
Đan Hà, "Đi và làm việc ở nhà bếp giã gạo."
Điều
đó gần như bao giờ cũng xảy ra trong các Thiền viện khi có người mới tới, thầy,
ngay cả khi người đó vào phòng - cách người đó đi, cách người đó ngồi - thầy
đang chứng kiến cái gì là đúng cho anh ta ngay lúc bắt đầu. Anh ta phải được huấn
luyện theo tiềm năng của anh ta. Không Thiền sư nào đã bao giờ áp đặt bản thân
mình lên bất kì người nào. Cho nên Thạch Đầu nói với anh ta, nhìn vào anh ta,
ông ấy cảm thấy rằng anh ta cần học trước hết, việc chờ đợi. Ông ấy nói,
"Đi và làm việc trong bếp giã gạo."
Đan
Hà lễ tạ và vào phòng cư sĩ. Anh ta làm việc trong bếp ba năm.
Anh
ta không bao giờ đi lại để hỏi Thạch Đầu, "Tôi phải giã gạo trong bao
lâu?"
Thiền
sư tạo ra sự tin cậy mênh mông thế.
Nó
không phải là niềm tin - niềm tin là trong lí thuyết, thượng đế học.
Tin
cậy là sự thân thiết cá nhân, cảm giác rằng "thầy hiểu mình; thế là đủ.
Bây giờ bất kì khi nào thời gian chín muồi thầy sẽ gọi mình."
Mọi
người đã chờ đợi không chỉ ba năm mà ba mươi năm, giã gạo.
Có
lần chuyện xảy ra...
Một
người đã giã gạo trong ba mươi năm, và thầy đã bảo người đó, "Chừng nào ta
chưa gọi ông, ông không được tới. Và ông không dự các thảo luận học thuật trong
thiền viện, ông không đọc kinh sách. Ông đơn giản giã gạo từ sáng tới đêm. Có
mười nghìn sư, và ông phải chăm nom về gạo."
Cho
nên trong ba mươi năm người này hoàn toàn quên nghĩ - vì cần gì nghĩ khi bạn chỉ
giã gạo mọi ngày trong ba mươi năm? Gần như nửa đời người đó đã trôi qua trong
giã gạo. Và nó là quá trình đơn giản thế bạn không cần bất kì tâm trí nào, bạn
không cần bất kì suy nghĩ nào. Và ông ấy đã bị cấm không được đi tới các bài
nói, không được đi tới buổi giảng, không được đi tới các thảo luận của các sư,
được bảo không đọc kinh sách. Ông ấy đã bị ngăn cản hoàn toàn từ bất kì cái gì
có thể tạo ra tâm trí. Ông ấy đã được cho nhiệm vụ đơn giản mà sẽ không tạo ra
tâm trí. Bất kì cái gì tâm trí ông ấy đã có sẽ bị phá đi.
Và
những người này đã là con người của sức mạnh lớn lao, của chính trực. Chỉ đợi
trong ba mươi năm, không có bất kì phàn nàn nào, thậm chí không gặp lại thầy...
và vì thầy đã nói, "Đây là điều duy nhất ông phải làm." Ông ấy đã thậm
chí không nói với bất kì sư nào khác. Mọi người đã hoàn toàn quên mất về ông ấy.
Ông
ấy sống trong một chiếc lều nhỏ bên cạnh bếp. Buổi sáng ông ấy sẽ vào bếp; muộn
trong đêm ông ấy sẽ về lều, đi ngủ. Đây là quá trình đơn giản. Trong thời gian
ba mươi năm đã không có tâm trí.
Và
một sự vụ xảy ra. Thầy đã già, và thấy rằng cái chết của mình đang tới gần, thầy
thông báo cho mười nghìn sư - trừ người chỉ giã gạo - "Nếu bất kì ai muốn
là người kế tục của ta, người đó phải tới ban đêm và viết lên cửa của ta điều bản
chất, chính bản chất của Thiền."
Đã
có các học giả lớn, và toàn thể thiền viện biết ai là người uyên bác nhất; có lẽ
người đó sẽ được chọn. Người uyên thâm đó, khi thầy đã đi ngủ, lẻn tới rất im lặng
để cho không ai thấy ai đã viết nó. Ông ta thậm chí sợ; ông ta biết thầy. Bạn
không thể lừa được thầy, điều đó là chắc chắn. Và bản thân ông ta biết rằng ông
ta chẳng biết gì về Thiền khi có liên quan tới kinh nghiệm, mặc dầu ông ta có
thể đưa ra các phát biểu học thuật. Nhưng ông thầy già đó đã không bị lừa bởi sự
am tường.
Và
ông ta đã làm phát biểu hay; ông ta đã viết nó trên cửa, rất im lặng để cho thầy
không thức dậy: "Thiền không là gì ngoài việc thoát ra ngoài tâm trí, và
cõi bên kia mở cánh cửa của nó." Nhưng ông ta không kí vào nó, sợ, và rất
thận trọng - "Nếu thầy thấy nó là đúng, mình sẽ đứng lên và nói mình đã viết
nó. Nếu thầy thấy nó sai, mình sẽ đơn giản ngồi im." Ông thầy già đó thường
đánh các đệ tử.
Đến
sáng, khi thầy mở cửa và thấy câu này, thầy nói, "Thằng ngốc nào đã viết
cái này?" Và không có câu trả lời từ mười nghìn sư.
Cho
nên thầy xoá nó đi, và nói, "Đừng phá cửa phòng ta! Trừ phi các ông biết...
Ta có thể chết mà không có người kế tục, nhưng ta sẽ không có bất kì học giả
nào là người kế tục của ta."
Tất
nhiên câu này là hoàn toàn tốt, bạn không thể cải tiến được nó: "Thiền là
đi ra ngoài tâm trí." Nó không thể được cô đọng rõ ràng và chính xác hơn.
Nhưng các thầy có cách tìm riêng của họ...
Hai
sư đơn giản đi qua chỗ sư giã gạo. Mọi người thậm chí đã không biết tới tên ông
ấy, họ đơn giản gọi ông ấy là sư giã gạo. Họ không coi ông ấy ngay cả là sư;
ông ấy chưa bao giờ nói cho bất kì người nào rằng ông ấy đã được khai tâm, và
không ai đã bao giờ bận tâm về ông ấy, tên ông ấy là gì. Ông ấy không bao giờ tới
các bài nói, ông ấy không bao giờ tới hành thiền, ông ấy không bao giờ tới các
thảo luận học thuật. Và toàn thể khuôn viên đang xôn xao với đủ loại thảo luận
triết lí; khi nào kinh được đọc, kinh từ Phật Gautam được đọc, ông ấy không bao
giờ tới. Loại người gì thế này...? Chỉ làm một việc... mọi người đã quên hoàn
toàn bao nhiêu năm ông ấy đã làm điều đó.
Hai
người đi ngang qua, vừa thảo luận, "Câu này hoàn toàn đúng, nhưng ông già
này rất kì lạ... Ông ấy đã xoay xở thế nào để thấy rằng đó là phát biểu học thức
mà không có tính tồn tại, không có kinh nghiệm?"
Lần
đầu tiên sư giã gạo cười. Trong ba mươi năm đó đã là diễn đạt đầu tiên. Hai sư
kia nhìn ông ấy, và họ nói, "Sao ông cười? Và chúng tôi chưa bao giờ thấy
ông cười..."
Ông
ấy nói, "Tôi cười vì bất kì ai đã viết ra điều đó phải là kẻ ngốc!"
Họ
nói, "Đích xác - đây là lời của thầy! Ông có thể viết ra cái gì đó tốt hơn
không?"
Ông
ấy nói, "Tôi không biết viết. Tôi đã quên rồi. Trong ba mươi năm này chút
ít tôi biết về viết, tôi đã quên rồi. Và đằng nào thì ai muốn là người kế tục?"
Họ
choáng, "Người này thật kì lạ. Ba mươi năm hoàn toàn im lặng, và đột nhiên
bùng nổ..."
Nửa
đêm thầy tới sư giã gạo và thầy nói, "Ông có thể hoàn thiện nó được
không?" Sư giã gạo nói, "Không có tâm trí; làm sao người ta đi ra
ngoài nó được? Và không có cõi bên kia - mọi thứ là ở đây và bây giờ. Người ta
không phải đi đâu cả, thậm chí không đi ra ngoài tâm trí. Tâm trí là hư cấu, và
mọi người đã tạo ra hư cấu khác của việc đi ra ngoài tâm trí. Nhưng tôi xin lỗi.
Tôi không muốn là người kế tục của thầy. Tôi hài lòng thế. Thầy là người vĩ đại
thế, thầy đã cho tôi việc làm có tính thiền thế..."
Thầy
nói, "Ông sẽ phải chấp nhận là người kế tục của ta vì không có ai khác ta
có thể tin cậy. Tất cả họ được chồng chất với am tường và mọi loại tri thức.
Ông là người đúng, và ta đã từng chờ đợi trong ba mươi năm này: có lẽ ông sẽ là
người kế tục. Việc chờ đợi này đã chứng tỏ cho ta một cách tuyệt đối rằng ông
phải đã trải nghiệm cái gì đó mà giữ cho ông được định tâm, không có bất kì lo
nghĩ nào, không căng thẳng. Ông thậm chí đã không thốt ra một lời cho bất kì
người nào; ông chỉ làm việc của ông và đi ngủ. Nhưng một điều: những học giả
này và những người tham vọng sẽ tạo ra rắc rối cho ông. Cho nên ta đã mang áo
cà sa, thiền trượng và mũ của ta" - đây là những thứ mà người kế tục nhận
từ thầy. "Cho nên nhận lấy áo cà sa này, thiền trượng này và mũ này."
Thầy để nó lên đầu sư giã gạo, và bảo ông ấy trốn khỏi thiền viện nhanh nhất có
thể được.
"Cứ
đi sâu vào trong núi. Những người cần sẽ tới ông. Nhưng cảnh giác! Nếu bất kì
ai thấy điều đó từ thiền viện này họ sẽ giết ông. Họ sẽ không chấp nhận sư giã
gạo là thầy của họ."
Thế
là anh chàng nghèo cầm áo cà sa, thiền trượng, và trốn đi. Nhưng trong khi ông ấy
trốn khỏi cổng, người gác cổng thấy ông ấy cùng áo cà sa và mũ và thiền trượng
của thầy. Thế là anh ta lập tức thông báo cho mọi sư tham vọng, người đang cố, đang
làm việc để cải tiến, "Bây giờ dừng lại đi! Người này đã được chọn."
Họ
nói, "Người này là ai?"
Họ
nói, "Ông có nhớ người đã tới đây từ ba mươi năm trước và không bao giờ
nói trong ba mươi năm không?
Người
giã gạo! Tôi đã thấy ông ấy đí khỏi cửa với thiền trượng của thầy và mũ trên đầu,
và áo cà sa ông ấy mang trong tay và chạy!"
Thế
là, nhiều người tham vọng cầm gươm và chạy xô theo con đường người gác đã bảo họ.
Và họ sớm tìm ra người giã gạo đáng thương kia, bao vây ông ấy bằng gươm, và bảo
ông ấy, "Đưa áo cà sa đây. Ông không biết một lời về Thiền."
Người
nghèo cười. Ông ấy nói, "Các ông nghĩ có lời mà người ta phải biết trước
khi người đó biết Thiền sao?"
Họ
choáng. Điều đó là đúng, nhưng dầu vậy tham vọng của họ... và họ không thể chấp
nhận được ông ấy. Nhưng ông ấy nói, "Không có vấn đề gì. Cho gươm và bao
đi, không cần phải lo nghĩ. Đây là mũ" - ông ấy ném chiếc mũ xuống đất.
"Và đây là áo cà sa, và đây là thiền trượng. Nếu các ông có thể lấy nó, lấy
nó đi."
Nhưng
mặc dù họ tham vọng, họ có nhạy cảm nào đó, sống cùng thầy lâu thế. Làm sao họ
có thể lấy nó được? Nếu thầy đã trao nó cho ông ấy, thế thì lấy nó sẽ là tuyệt
đối sai. Và họ biết rằng họ đã không biết, và anh chàng này dường như biết.
Không thành vấn đề là anh ta là người giã gạo.
Thế
là họ chạm chân ông ấy và nói, "Chúng tôi sai. Chúng tôi tham vọng. Xin
ông quay về."
Ông
ấy nói, "Nhưng tôi không muốn là người kế tục. Tôi đã từ chối, nhưng ông
già này khăng khăng thế. Các ông làm ơn đem tất cả những thứ này đi. Bất kì ai
muốn là người kế tục, người đó có thể làm. Ta sẽ đi vào núi."
Họ
nói, "Không, ông phải quay về."
Ông
ấy đã trở thành người kế tục.
Thiền
là con đường rất kì lạ. Không am tường nào được cần, không tri thức nào được cần.
Cái được cần là im lặng mênh mông, và chờ đợi, quan sát... bất kì khi nào thời
gian chín muồi, sự tồn tại rót mọi huyền bí của nó vào trong bạn.
Cho
nên ba mươi năm ông ấy đã làm việc trong bếp.
Bây
giờ lời kinh:
Thưa thầy kính yêu của
chúng tôi,
Một hôm Thạch Đầu bảo đại
chúng: Ngày mai cắt cỏ ở trước điện Phật.
Sáng hôm sau, đại chúng
mỗi người cầm liềm, cầm cuốc đến trước chùa làm cỏ. Chỉ riêng Đan Hà lấy thau
múc nước gội đầu, đến quỳ gối trước Hòa thượng. Thạch Đầu thấy thế cười, liền cạo
tóc cho Đan Hà. Cạo xong, Thạch Đầu lại vì Đan Hà nói giới luật. Đan Hà bịt tai
ra đi.
- ra dấu cử chỉ rằng
"Tôi không cần bất kì tri thức nào, tôi biết nó rồi. Đừng rót đầy tai tôi
bằng điều vô nghĩa. Đừng rót đầy tai tôi bằng lời. Tôi đã đi tới trải nghiệm vô
lời." Cử chỉ đó chỉ ra rằng Đan Hà đã đạt tới.
Đan Hà trở lại Giang Tây
yết kiến Mã Tổ. Chưa lễ ra mắt, Sư đi thẳng về tăng đường - vì chính Mã Tổ đã
phái ông ấy tới Thạch Đầu; giờ ông ấy đã hoàn thành việc này. Ông ấy đã có đầu
được cạo sau khi ông ấy đã hoàn thành việc này. Bình thường, khi người ta trở
thành sư đầu được cạo đi. Nhưng bởi vì ông ấy được bảo lập tức đi xuống bếp và
làm việc ở đó... Trong ba năm đó chỉ chờ đợi và chờ đợi và nhận biết, ông ấy đã
nhận ra chính bản tính của mình. Chính bản tính đó là phật, cho nên bây giờ là
đúng lúc để được khai tâm. Trước điều đó, nó sẽ là khai tâm hình thức. Bây giờ
nó sẽ là khai tâm đích thực. Và đó là lí do tại sao, khi ông ấy cúi lạy trước
thầy, Thạch Đầu đã cười - "Anh chàng này thực sự láu lỉnh! Anh ta thậm chí
đã không cạo đầu trong ba năm. Anh ta đợi cho tới khoảnh khắc khi anh ta thực sự
xứng đáng với khai tâm."
Ông
ấy đã cạo đầu cho anh ta, và như mọi thầy làm sau khi cạo đầu - đó là quá trình
khai tâm - ông ấy cho anh ta vài giới luật. Nhưng khi ông ấy làm như vậy - cho
giới luật - Đan Hà bịt tai ra đi, biểu lộ tuyệt đối cho Thạch Đầu rằng "Thầy
không phải dạy tôi bất kì cái gì. Thầy đã đặt tôi vào phương cách và tôi đã đi
tới không gian nơi không giáo huấn nào được cần."
Đan
Hà trở lại Giang Tây yết kiến Mã Tổ, vì ông ấy đã là thầy nguyên gốc của anh
ta, người đã nhìn vào mắt anh ta, và đã hướng anh ta tới chỗ đúng nơi anh ta có
thể trở thành phật nhanh chóng. Anh ta cần biểu lộ lòng biết ơn của mình, để chỉ
ra điều anh ta đã đạt tới và được sự thừa nhận.
Chưa
lễ ra mắt, Đan Hà đi thẳng về tăng đường trèo lên cổ tượng Văn Thù ngồi.
Văn
Thù là một trong những đệ tử chứng ngộ rất quan trọng của Phật Gautam. Anh ta
đã chọn tượng Văn Thù - phải có các tượng khác, tượng Xá Lợi Tử, tượng Ma ha ca
diếp, tượng Maudgalyan, các đệ tử khác người đã trở nên chứng ngộ khi Phật
Gautam còn sống. Cho nên họ là các lực nguyên thuỷ. Anh ta đã chọn Văn Thù bởi
lí do đặc biệt, vì... Tôi đã kể cho bạn một chút ít về Văn Thù.
Văn
Thù bao giờ cũng ngồi dưới cây, cùng một cây. Ông ấy không bao giờ hỏi câu hỏi
nào với Phật Gautam, không bao giờ đọc bất kì kinh sách nào. Mọi ngày ông ấy sẽ
tới bất kì khi nào Phật Gautam nói, buổi sáng, buổi tối. Ông ấy sẽ ngồi dưới
cây với mắt nhắm. Và mọi người đã ngạc nhiên tại sao ông ấy chẳng hỏi gì.
Một
hôm, đột nhiên vào buổi sáng khi Phật tới... Văn Thù đang ngồi dưới cây. Đột
nhiên, hoa từ cây bắt đầu rơi lên Văn Thù. Cây này phải đã từng nở hoa với hàng
trăm hoa, và chúng trút xuống như mưa. Và Phật bảo toàn thể mười nghìn đệ tử
nhìn vào điều đang xảy ra. Mọi người nhìn - họ không thể tin được vào mắt mình.
Tại sao mọi hoa này đột nhiên rơi lên đầu, lên thân, lên lòng Văn Thù? Ông ấy
đã gần như bị hoa che phủ.
Phật
Gautam tuyên bố: "Văn Thù đã trở nên chứng ngộ. Ngay cả cây cũng đang cho
ông ấy việc thừa nhận. Sự tồn tại đang mở hội."
Và
Văn Thù đã đạt tới mà không hỏi một câu hỏi, không nhận câu trả lời - chỉ chờ đợi
một cách im lặng. Tự nhiên đã mở hội. Một trong những tham vọng của tự nhiên đã
được hoàn thành: một người lại đã trở thành phật, đã đạt tới tâm thức tối thượng.
Đan
Hà chắc chắn chọn bức tượng của Văn Thù và đã ngồi lên cổ nó:
Đại
chúng kinh ngạc chạy báo cho Mã Tổ hay. Mã Tổ đích thân vào tăng đường trông thấy
bèn nói:
-
Con ta, Thiên Nhiên.
Trong
tiếng Trung Quốc, tennen nghĩa là thiên nhiên. Đó là chính phẩm chất của Văn
Thù. Ông ấy đã trở nên hoà hợp với thiên nhiên. Chỉ ngồi với cây đó, ông ấy đã
trở nên gần như là một với nó. Cho nên khi ông ấy trở nên chứng ngộ, cây không
thể cưỡng được cám dỗ trút xuống mọi hoa - không một hoa nào còn lại trên cây.
Mọi hoa đã trút xuống.
Cho
nên chứng ngộ của Văn Thù được gọi là chứng ngộ tự phát, thiên nhiên, không
phương pháp, không phương cách. Tennen nghĩa là thiên nhiên, và khi Mã Tổ thấy
ông ấy ngồi trên tượng của Văn Thù... và mọi đệ tử của Mã Tổ đã sững sờ, họ
không thể tin được cách người này đã hành xử. Nhưng Mã Tổ có thể thấy: người
này đã thay đổi. Đó đã không là cùng người có đôi mắt mà ông ấy đã nhìn vào.
Ông ấy đơn giản nói, "Con ta, Thiên Nhiên." Con ta chỉ là thiên
nhiên, phật thiên nhiên.
Đan
Hà bèn bước xuống đất lễ bái, thưa:"Cảm tạ thầy ban cho pháp hiệu."
Anh
ta đã chấp nhận từ đó 'thiên nhiên' là pháp hiệu của mình, tên sannyas của anh
ta. Kể từ đó anh ta bắt đầu gọi bản thân mình là Đan Hà Thiên Nhiên. Đan Hà,
người thiên nhiên.
Mã
Tổ hỏi: "Từ đâu đến?"
Đan
Hà thưa: "Từ Thạch Đầu đến."
Mã
Tổ nói, "Đường Thạch Đầu trơn, ngươi có té chăng?
Đan
Hà nói, "Nếu có trượt té thì chẳng đến đây." Tôi sẽ đợi. Tôi đã không
ngã, tôi đã vươn lên trên.
Đó
là lí do tại sao ông ấy đã ngồi trên cổ Văn Thù - khi tuyên bố, "Tôi là
Văn Thù khác và tôi đã không ngã, bằng không tôi chắc không ở đây. Tôi sẽ không
tới để phơi mặt tôi cho thầy lần nữa mà không trở thành phật."
Người
này, Đan Hà Thiên Nhiên, đã trở thành thầy theo quyền riêng của ông ấy. Nhưng
toàn thể giáo huấn của ông ấy là chỉ là thiên nhiên.
Đó
là toàn thể giáo huấn của tôi: chỉ là tự nhiên. Tự nhiên là pháp, tự nhiên là Đạo,
tự nhiên là Thiền. Và khoảnh khắc bạn là tự nhiên, hoa sẽ trút lên bạn. Khoảnh
khắc bạn sẽ là tự nhiên, không chỉ bạn mở hội và nhảy múa, toàn thể sự tồn tại
quanh bạn sẽ nhảy múa và mở hội.
Bạch
Ẩn đã viết:
Hát
và múa của ông
không
là gì ngoài tiếng của pháp.
Mở
hội của bạn, hát và múa của bạn, không là gì ngoài chính sự tự nhiên của bạn.
Và tự nhiên này đã bị làm què quặt bởi cái gọi là tôn giáo - Thượng đế của bạn,
tu sĩ của bạn, những nhà thượng đế học của bạn.
Thiền
là việc nổi dậy chống lại mọi tôn giáo. Nó tất cả ủng hộ cho tính tôn giáo chứ
không cho tôn giáo. Tính tôn giáo là hiện tượng khác toàn bộ so với tôn giáo.
Tôn giáo là học thuyết, tín điều, giáo phái, và tổ chức. Tính tôn giáo đơn giản
là phẩm chất nở hoa tự nhiên trong bạn. Bạn chỉ phải đi sâu xuống trong bản
thân bạn để tìm hạt mầm của phật tồn tại ở chính trung tâm con người bạn.
Mọi
thiền của chúng ta đều chỉ liên quan tới một điều: làm sao đưa bạn tới hạt mầm
này nơi vị phật được ẩn kín, cũng như hoa bị ẩn kín trong hạt mầm. Và một khi bạn
đã đạt tới trung tâm, hạt mầm bắt đầu phát triển.
Thế
thì, việc trở thành phật không phải là hiện tượng xa xôi. Bạn đã bắt đầu trở thành
phật, bạn đã bắt đầu trên con đường đem tới biến đổi. Ngay bây giờ tất cả các bạn
đều là bồ tát, chư phật về bản chất, trong hạt mầm. Nếu bạn có thể tìm ra trung
tâm của bạn, bạn đã tìm thấy chính trung tâm của sự tồn tại.
Chỉ
tìm nó, và ngay lập tức cái gì đó bắt đầu lớn lên trong bạn - vị phật to lớn đột
nhiên nổi lên bề mặt. Bạn biến mất. Bạn hoàn toàn mất đi trong đại dương, cũng
như giọt sương. Bạn không còn nữa, chỉ sự sống hiện hữu - nhảy múa, mở hội.
Câu hỏi của Maneesha:
Thưa thầy kính yêu của
chúng tôi,
Nietzsche gợi ý rằng con
người chỉ tìm chân lí vì ông ấy giả định trước rằng chân lí là việc an ủi, việc
chữa chạy. Nhưng, ông ấy nói, có lẽ chân lí "tồn tại chỉ cho những hồn mà
đồng thời mạnh mẽ và vô hại, và đầy niềm vui và an bình... cũng như sẽ không
hoài nghi gì sẽ chỉ là những hồn như thế này có năng lực tìm kiếm chân
lí."
Thầy có đồng ý với ông ấy
không?
Maneesha,
tôi tuyệt đối đồng ý, vì điều ông ấy nó là tuyệt đối đúng. Nhưng nó không phù hợp
với môi của Friedrich Nietzsche. Nó sẽ hoàn toàn đúng nếu một Phật Gautam nói
điều đó.
Bạn
phải hiểu sự khác biệt này. Friedrich Nietzsche chỉ là nhà trí thức; ông ấy đã
đi tới kết luận này như một kết luận logic. Ông ấy đã loạng choạng vớ được gần
như điều đúng, nhưng đó là loạng choạng trong bóng tôi. Vị phật không loạng choạng
trong bóng tối, ông ấy sống trong chói sáng mênh mông.
Cho
nên điều ông ấy nói là đúng, nhưng người đang nói không là người đúng. Tôi đồng
ý với phát biểu này, tôi không đồng ý với Friedrich Nietzsche.
Điều
đó sẽ hơi chút khó cho bạn: phân biệt này là rất tinh tế. Phát biểu của ông ấy
là đúng, nhưng nó không phải là kinh nghiệm của ông ấy. Bản thân ông ấy đã
không phải là con người của vui vẻ - rất buồn. Ông ấy đã không phải là người có
thể nhảy múa hay hát; điều đó ở xa bên dưới ông ấy. Ông ấy là triết gia nghiêm
chỉnh. Triết gia không nhảy múa. Họ nhìn vào người múa như người ngu -
"Anh đang làm gì vậy?"
Nhưng
cho dù không có kinh nghiệm rõ ràng, Nietzsche là hiện tượng hiếm hoi. Chư phật
bao giờ cũng nói điều đó, nhưng một người không chứng ngộ đã loạng choạng một
cách vô ý thức với được chân lí mà không phải là kinh nghiệm của ông ấy nhưng
chỉ là kết luận logic.
Điều
hoàn toàn đúng là những người tìm kiếm chân lí, đa số họ đang tìm chân lí vì họ
giả định trước rằng chân lí sẽ là việc an ủi, cách chữa lành. Họ là những người
ốm. An ủi cũ của họ đã mất rồi: Thượng đế chết. Bây giờ họ đang tìm chân lí
thay vào chỗ của Thượng đế, để cho họ có thể lại được an ủi.
Lời
cầu nguyện là chết, cho nên họ đang tìm tới thiền. Có lẽ thiền có thể là cái
thay thế. Nhưng đây là những người sẽ không tìm thấy nó.
Ông
ấy nói chân lí "chỉ tồn tại cho các hồn là đồng thời mạnh mẽ và vô hạn, và
đầy niềm vui và an bình." Ông ấy đã không đầy niềm vui hay đầy an bình;
ông ấy là một trong những người căng thẳng nhất, những người đã từng bước đi
trên trái đất. Và chung cuộc ông ấy phải được cho vào trong nhà thương điên. Lo
âu của ông ấy trở nên nghiêm trọng tới mức giữ ông ấy ở nhà là nguy hiểm; ông ấy
phải được đưa vào nhà thương điên.
Nhưng
điều ông ấy đã nói là hoàn toàn đúng. Chỉ người của an bình, im lặng, vui vẻ,
người có năng lực hát và múa, người có năng lực mở hội, là người có năng lực
tìm và thấy chân lí.
Tôi
đang cố theo mọi cách có thể để làm cho bạn không nghiêm chỉnh, không căng thẳng.
Cười, múa, hát, mở hội, vì đây là những người sẽ tìm thấy sức mạnh mênh mông nảy
sinh trong bản thân họ mà đang ngủ. Đây là những người sẽ có sức mạnh nhưng sẽ
không làm hại bất kì ai bằng sức mạnh của họ. Sức mạnh của họ sẽ là phúc lành
cho thế giới. Nó sẽ không là sức mạnh phá huỷ, nó sẽ là sức mạnh sáng tạo. Những
người này sẽ là người sáng tạo.
Và
đây sẽ là những người biết. Đây sẽ là những người đã biến mất trong niềm vui,
trong múa, và không còn nữa. Chỉ tâm thức, tâm thức thuần khiết còn lại. Tâm thức
thuần khiết đó chúng ta đã gọi là tâm thức được thức tỉnh, tâm thức được chứng
ngộ; chúng ta đã gọi nó là samadhi hay satori... Phật Gautam chỉ là cái tên, đại
diện cho việc nở hoa tối thượng này.
Giờ
là lúc dành cho không nghiêm chỉnh!
Thời
gian dành cho Sardar Gurudayal Singh...
Martha
Grumble và Mildred Mousebreath, hai bà nội trợ trung tuần, đang chia sẻ kín đáo
qua cốc cà phê.
"Tôi
không biết phải làm gì với chồng tôi thêm nữa," Martha khụt khịt.
"Anh ấy không bao giờ về nhà mãi tới ba giờ sáng."
"Ồ
bà bạn thân ơi!" Mildred thở dài. "Chồng tôi thường giống thế - nhưng
giờ không thêm nữa đâu!"
"Thật
thế à?" Martha hỏi. "Cái gì đã làm anh ấy thay đổi?"
"Điều
làm anh ấy thay đổi, bà bạn thân ơi," Mildred nói, vừa mỉm cười, "là ở
chỗ mọi lần anh ấy lẻn vào nhà qua cửa lúc ba giờ sáng, tôi sẽ gọi dịu dàng,
'Anh đấy à, Raymond?'"
"Có
tất cả thế thôi sao?" Martha hỏi.
"Đúng
rồi!" Mildred giải thích.
"Nhưng
tôi không hiểu," Martha nói. "Sao điều đó dừng anh ấy lại được?"
"Đơn
giản," Mildred giải thích. "Vì tên anh ấy là Sidney."
Jack
Jerk ở ngoài muộn một đêm và về nhà lúc ba giờ sáng. Anh ta bước vào phòng ngủ
và thấy vợ mình Jill Jerk vẫn nằm thức, trần truồng, trong giường.
"Anh
đã ở chỗ chết tiệt nào mãi tới ba giờ sáng thế này?" Jill la lối, bực bội.
Bỏ
qua cô ấy, Jack cởi áo khoác và mở cửa phòng kho buồng ngủ. Sửng sốt, anh ta thấy
một người đàn ông trần truồng luồn cúi trên sàn.
"Thằng
chết tiệt này là ai?" Jack quát lên.
Jill
ngồi dậy trong giường và kêu lên, "Đừng thay đổi chủ đề!"
Đó
là một sáng có mặt trời trên bãi biển Cape Catastrophe, và Prunella Polygon, một
cô gái có vẻ giản dị, đang đi dạo và mơ ngày. Cô ấy loạng choạng và vấp chân
vào một cái chai nằm trên cát, và gần ngất xỉu khi nắp chai văng ra và,
"Người đàn ông ẻo lả!" - một thần nhảy vọt ra.
Thần
vươn vai và ngáp và rồi nhìn Prunella và công bố, "A! Ta mắc nợ cô mãi
mãi, thưa quí bà trẻ. Cô đã giải phóng cho ta khỏi nhà tù một nghìn năm. Hỏi
xin bất kì cái gì, và ta sẽ hoàn thanh ham muốn của cô."
Prunella
Polygon không thể tin được vận may của mình và không ngần ngại.
"Tôi
muốn có một thân hình như Sophia Loren," cô ấy nói, "và nụ cười như
Raquel Welch, và tóc như Bridgette Bardot và đầu vú như Samantha Fox. Và mắt
như Elizabeth Taylor và mông như Marilyn Monroe."
Thần
nhìn trân trân vào Prunella và nói, "Cưng ơi, xin cho tôi vào lại trong
chai đi."
Nivedano...
(Tiếng
trống)
(Nói
lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Im
lặng...
Nhắm
mắt lại... và cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng.
Đây
là khoảnh khắc đúng để quay vào trong.
Thu
mọi năng lượng của bạn... và với toàn bộ tâm thức, xô về trung tâm con người của
bạn. Trung tâm của con người của bạn chỉ ở bên dưới rốn 6 cm, bên trong thân thể
bạn.
Mọi
điều bạn cần là sự khẩn thiết, dường như nó sẽ là khoảnh khắc cuối cùng của đời
bạn. Với sự khẩn thiết và mãnh liệt lớn, xô về trung tâm.
Mỗi
lúc một nhanh hơn...
Mỗi
lúc một sâu hơn...
Khi
bạn tới gần trung tâm của bạn, im lặng lớn giáng lên bạn như làn mưa nhẹ.
Bạn
có thể cảm thấy nó.
Bạn
có thể cảm thấy cái mát mẻ của nó.
Sâu
thêm chút nữa, gần thêm chút nữa tới trung tâm... và an bình vô cùng nảy sinh
trong bạn, tràn ngập bạn.
Khi
bạn tới gần hơn, đột nhiên nảy sinh chói sáng: toàn thể con người bạn trở thành
ánh sáng.
Bây
giờ bước vào trong chính trung tâm.
Và
bạn bắt đầu cảm thấy say sưa với điều thiêng liêng.
Đây
là điều được gọi là cực lạc.
Từ
cực lạc này là tất cả mở hội.
Được
định tâm trong chính con người bạn, bạn không còn nữa. Bạn đã đi tới hạt mầm -
bồ tát đã tan biến trong vị phật.
Mặt
của Phật Gautam là mặt nguyên bản của mọi con người. Phẩm chất duy nhất Phật
Gautam có là việc chứng kiến.
Chứng
kiến rằng bạn không là thân thể.
Chứng
kiến rằng bạn không là tâm trí.
Và
cuối cùng, chứng kiến rằng bạn chỉ là nhân chứng. Nhân chứng thuần khiết này -
sakshin - là tự do tối thượng của bạn. Nó là chứng ngộ của bạn, nó là giải
thoát của bạn.
Nó
là đi vào trong điệu vũ vĩnh hằng của sự sống.
Chính
bởi vì điều này tôi nói đi nói lại, tôi mở hội. Với tôi, sự sống là mở hội. Sự
tồn tại là mở hội.
Chứng
kiến điệu vũ vĩnh hằng đang xảy ra bên trong bạn. Điệu vũ này phải trở thành
chính hương vị của bạn, chính hương thơm của bạn. Và hoa vô hình đang trút lên
bạn.
Bạn
không thể mở hội một mình, sự tồn tại tham gia từ mọi chiều. Tự nhiên hân hoan
khi bất kì người nào đi tới chính trung tâm của hiện hữu. Một phần của tự nhiên
đã trở nên được thức tỉnh.
Để
làm cho việc chứng kiến này sâu hơn,
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Thảnh
thơi...
Ở
trong buông bỏ.
Đây
là an bình, niềm vui, im lặng, sức mạnh vô hại, đó là tính sáng tạo.
Đây
là điều Nietzsche đã loạng choạng vớ được trong bóng tối và việc mù của ông ấy.
Nhưng bạn đang đi với mắt mở tới chính nhịp tim đập của vũ trụ.
Toàn
thể vũ trụ ngoại trừ cái gọi là tôn giáo đang trong mở hội mênh mông mọi khoảnh
khắc - trong chim, trong cây, trong sông, trong đại dương, trong núi, trong
sao. Khắp xung quanh bạn không có gì ngoài mở hội.
Bạn
phải tham gia vào trong nó.
Ném
đi mọi rào chắn.
Chúng
là hư cấu duy nhất, và thực tại có sức mạnh mênh mông.
Việc
chứng kiến sẽ làm việc này. Việc chứng kiến là cái tên khác cho thiền.
Tại
khoảnh khắc này, Thính phòng Phật Gautam đang trở thành đại dương tâm thức. Mười
nghìn chư phật đang tan chảy như băng trong đại dương - không sóng, không gợn
sóng, tuyệt đối im lặng.
Nhớ,
chứng ngộ có ba bước.
Bước
thứ nhất là ở chỗ phật mà bạn trải nghiệm bên trong bạn đi theo đằng sau bạn
như cái bóng. Nó là chính bản tính của bạn, pháp của bạn. Nó là thiên nhiên.
Bước
thứ hai, sau khi trải nghiệm vị phật đằng sau bạn, hơi ấm của ông ấy, yêu của
ông ấy, chân lí của ông ấy, từ bi của ông ấy, say sưa thiêng liêng của ông ấy...
bạn dần dần trở thành cái bóng của ông ấy. Ông ấy tới trước bạn - đó là bước thứ
hai.
Và
cái bóng của bạn bắt đầu biến mất, dần dần. Khi bạn tan chảy trong phật - đó là
bước thứ ba và cuối cùng - bạn không còn nữa.
Duy
nhất phật hiện hữu - bạn không còn nữa.
Duy
nhất nhận biết chứng ngộ hiện hữu - bạn không còn nữa.
Duy
nhất sự sống đang mở hội.
Điệu
vũ vô cùng của niềm vui...
Bài
ca không lời trong nó, âm nhạc không âm thanh.
Vĩnh
hằng trong tay bạn.
Bạn
trở thành một với toàn thể càn khôn.
Tôi
mở hội bản thân tôi. Tôi hi vọng bạn sớm có khả năng nói cùng điều: "Tôi mở
hội bản thân tôi."
Trước
khi Nivedano gọi bạn, thu lấy mọi kinh nghiệm này. Bạn phải mang chúng tới cuộc
sống hàng ngày của bạn. Sự duyên dáng, cái đẹp, chân lí, sự chân thực, sự mãnh
liệt của việc sống - và việc chứng kiến phải là chính hơi thở của bạn, nhịp tim
đập của bạn.
Và
thuyết phục vị phật - ông ấy là bản tính của bạn; bạn chưa bao giờ yêu cầu điều
đó, bạn chưa bao giờ đón chào điều đó. Đó là lí do tại sao nó đã từng ở đó ẩn
trong chính trung tâm của con người bạn.
Giúp
nó đi cùng với bạn.
Nó
nhất định tới. Nó đã tới hàng nghìn lần, tới hàng nghìn chư phật. Nó là quyền tập
ấm của mọi sinh linh.
Chỉ
mời ông ấy tới cùng bạn và ông ấy sẽ biến đổi toàn thể đời bạn - trong mọi cử
chỉ, trong mọi lời nói, trong mọi im lặng bạn sẽ thấy sự hiện diện của ông ấy,
ánh sáng của ông ấy.
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Quay
lại... nhưng tới như vị phật, đầy niềm vui. Thanh thản lớn, im lặng thuần khiết...
và ngồi xuống trong vài khoảnh khắc chỉ để hồi tưởng, để nhắc nhở bản thân bạn
về con đường vàng mà bạn đã đi theo vào bên trong, và không gian im lặng, an
bình mà bạn đã bắt gặp.
Bạn
đã thấy mặt nguyên bản của bạn, mặt của phật.
Cảm
thấy sự hiện diện của vị phật đằng sau bạn - hơi ấm, cái mát mẻ, cùng nhau; sức
mạnh và sự khiêm nhường cùng nhau. Im lặng này - vô ngã hoàn toàn và vậy mà
chân giá trị vô cùng.
Đây
là điều làm cho người ta mở hội sự sống.
Không
thể có bất kì cái gì nhiều hơn sự tồn tại đã vậy.
Chỉ
tham gia vào trong điệu múa này.
Mở
hội việc từ bỏ của bạn, và mọi khổ và mọi bí mật của sự tồn tại và sự sống sẽ
được mở ra cho bạn.
Đó
là lời hứa của tôi.
Đó
là lời hứa của mọi chư phật, quá khứ, hiện tại, tương lai.
Được
chứ, Maneesha?
Vâng,
thưa Thầy kính yêu.
Kết thúc quyển 'Tôi mở hội bản thân tôi' - Osho - Quay về Mục lục
..............................
0 Đánh giá